Trang Chủ BIỆN GIÁO MỘT SỐ VẤN ĐỀ NAN GIẢI TRONG KINH THÁNH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NAN GIẢI TRONG KINH THÁNH

442
0
SHARE

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NAN GIẢI TRONG KINH THÁNH

Việc thảo luận về tất cả các vấn đề hiển nhiên trong Kinh Thánh nằm ngoài phạm vi của sách này. Có thể tham khảo một số công trình giải quyết hầu hết những sự khó hiểu, đặc biệt là những vấn đề khó hiểu thường được nêu lên để chống lại học thuyết về sự vô ngộ của Kinh Thánh. Một trong những cuốn sách đáng lưu ý nhất là Bách khoa Toàn thư về những vấn đề khó hiểu trong Kinh Thánh của Gleason Archer. Đề cập đến những vấn đề khó hiểu cũng được tìm thấy trong nhiều bài bình luận từ những người nghiên cứu. Một cái nhìn ngắn gọn về một số ví dụ và các câu trả lời được đưa ra sau đây cũng rất hữu ích.

 

Những Vấn Đề Về Lịch Sử

Một số vấn đề khó hiểu thuộc lịch sử nảy sinh từ thông tin bên ngoài Kinh Thánh, và những vấn đề khó hiểu khác bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội bộ được khẳng đinh. Những cáo buộc từ bên ngoài Kinh Thánh thường xuất phát từ những người theo học thuyết chống lại các sự kiện siêu nhiên. Ví dụ, giả sử về sự tiến hóa của con người và nền văn hóa, một số tác giả khẳng định rằng năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh (Ngũ Kinh) không thể có từ thời Môi-se vì khi đó hầu hết mọi người đều mù chữ và Môi-se không biết viết. Nhưng sau đó Bộ luật Hammurabi được phát hiện, và vì nó được viết vào khoảng năm 1728 trước Công nguyên, nên những phản đối về quyền tác giả của Môi-se đối với bộ Ngũ kinh đã bị bãi bỏ.

Những phản đối tương tự về độ tin cậy tính lịch sử của Kinh Thánh đã được nghiên cứu khảo cổ học đánh bại. Theo nhà khảo cổ học William F. Albright, “Cho đến gần đây, đó là kiểu cách giữa các nhà sử học Kinh Thánh khi luận giải các chuỗi sự kiện về chế độ tộc trưởng trong sách Sáng thế ký như thể những câu chuyện đó là tác phẩm của những nhà viết sử Israel hoặc những câu chuyện hư cấu bằng trí tưởng tượng… Những khám phá khảo cổ học kể từ năm 1925 đã thay đổi tất cả điều này. Ngoài một số người bảo thủ trong số các học giả lớn tuổi, hiếm có nhà sử học Kinh Thánh nào không bị ấn tượng bởi sự tích lũy nhanh chóng các thông tin, dữ liệu hỗ trợ cho truyền thống tộc trưởng trong sách Sáng thế ký.”

Sự tồn tại của người Hê-tít, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh, đã được luận giải với thái độ nghi ngờ lớn cho đến khi thủ đô của họ được khai quật vào năm 1906 tại một nơi cách Ankara chín mươi dặm. Quy mô của thành Ni-ni-ve, “một thành rất lớn, đi mất ba ngày đường” (Giô-na 3:3) đã bị Voltaire chế giễu như một lỗi sai về địa lý. Nhưng khảo cổ học sau đó đã xác nhận đây là thông tin đúng trong Kinh Thánh.

Những lời phản đối lặp đi lặp lại, thường thường dựa trên những giả định sai lầm đã bị lật tẩy bởi những bằng chứng rõ ràng của ngành khảo cổ học. Một trong những nhà khảo cổ học được kính trọng nhất trong nửa cuối thế kỷ hai mươi, là học giả người Do Thái Nelson Glueck, đã quả quyết tuyên bố những phát hiện của ông liên quan đến độ tin cậy lịch sử của Kinh Thánh: “Thực tế là không có khám phá khảo cổ nào đã từng phủ nhận các dữ liệu trong Kinh Thánh. Nhưng chúng đưa ra các chứng cớ rõ ràng cho những thông tin từ Kinh Thánh.” Một số vấn đề của lịch sử cần thêm thông tin. Tuy nhiên không có bằng chứng nào chống lại sự vô ngộ của Kinh Thánh.

Cũng có thể giải thích hợp lý khi tất cả thông tin được nhận biết liên quan đến những mâu thuẫn lịch sử được cho là trong Kinh Thánh. Sự khác biệt trong các lời giải trình của Phúc Âm về cùng một sự việc là nguồn gốc của các vấn đề đối với một số người. Một trong những mối quan tâm phổ biến nhất là sự chối Chúa của Phi-e-rơ và tiếng gà gáy. Theo lời kể của Mác, “đêm nay, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần” (14:30,72) trong khi Ma-thi-ơ và Lu-ca chỉ tường thuật rằng trước khi gà gáy, thì Phi-e-rơ sẽ chối Chúa ba lần (Ma-thi-ơ 26:34, 74-75; Lu-ca 22:34, 60–61).

Tuy nhiên, không có mâu thuẫn nào tồn tại ở đây. Ma-thi-ơ và Lu-ca không nói tiếng gà  gáy một lần ngược lại với Mác là hai lần. Họ chỉ đơn giản là đề cập đến tiếng gà gáy. Khi chúng ta nhớ rằng “gà gáy” là một thành ngữ chỉ về buổi sáng sớm, các giải trình này có thể được hài hòa một cách dễ dàng. Theo Mác 13:35, “chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai” là bốn canh giờ trong đêm của người La Mã. Nhưng tiếng gà gáy có thể sớm hơn, từ nửa đêm trở đi. Ma-thi-ơ và Lu-ca đã cho chúng ta điểm chính về lời tiên đoán của Chúa Giê-su rằng Phi-e-rơ sẽ chối Chúa ba lần trước sáng sớm, được báo hiệu bằng tiếng gà gáy. Mặt khác, Mác thuật lại những lời Chúa Giê-su nói chi tiết hơn. Vì vậy, cả hai lời tường thuật đều đúng.

Một vấn đề tương tự thường được nêu ra liên quan đến số lượng các thiên sứ tại ngôi mộ của Chúa Giê-su. Các nhà phê bình chỉ ra rằng Ma-thi-ơ và Mác chỉ đề cập đến một thiên sứ tại mộ Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 28:2-5: Mác 16:5), trong khi Lu-ca và Giăng đề cập đến hai thiên sứ (Lu-ca 24:4; Giăng 20:12). Một lần nữa, không có mâu thuẫn nào ở đây, bởi vì sự hiện diện của hai thiên sứ chắc chắn không mâu thuẫn với thực tế là một thiên sứ đã có mặt. Hai giải trình có thể dễ dàng được coi là bổ sung cho nhau.

Các vấn đề về sự thay đổi trong các giải trình, chẳng hạn như những vấn đề vừa nêu ra, nói chung có thể được giải quyết nếu chúng ta ghi nhớ nguyên tắc rằng sự khác biệt có thể có nhưng mà không mâu thuẫn. Người viết có thể đã được Đức Thánh Linh hướng dẫn để đưa ra một điểm nhấn khác hoặc một phần khác của câu chuyện.

Vấn đề cũng có thể được giải quyết khi chúng ta nhận ra rằng hai sự trình bày có thể không nói về điều gì đó theo cùng một nghĩa.

Một ví dụ cho điều này liên quan đến việc liệu Giăng Báp-tít có phải là Ê-li hay không. Khi được hỏi liệu ông có phải là Ê-li không, Giăng Báp-tít trả lời: “Tôi không phải” (Giăng 1:21). Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã tuyên bố rõ ràng rằng Giăng Báp-tít là Ê-li (Ma-thi-ơ 11:14). Tình huống khó xử này được giải quyết khi chúng ta nhận ra rằng Chúa Giê-su không ám chỉ Giăng Báp-tít và Ê-li theo cùng một ý nghĩa. Người Do Thái, nhớ rằng Ê-li đã được đem lên trời trong một cỗ xe ngựa lửa trong khi còn sống (2 Các vua 2:11), họ mong đợi cùng một Ê-li đó sẽ trở lại để ứng nghiệm lời tiên tri của Ma-la-chi (Ma-la-chi 4:5). Giăng không phải là Ê-li theo nghĩa này, và vì vậy Giăng đã đúng khi trả lời là không phải. Một phương diện khác, liên quan đến sự ra đời của Giăng, thiên sứ đã tuyên bố rằng Giăng sẽ đến “trong linh hồn và quyền năng của Ê-li” để ứng nghiệm lời tiên đoán của Ma-la-chi. Hầu biết rằng Giăng đã ứng nghiệm một cách khái quát lời tiên đoán của Ma-la-chi về Ê-li như là một người báo trước về ngày Chúa đến, nên Chúa Giê-su có thể xác định Giăng là Ê-li.

Khi đối mặt với sự khác biệt rõ ràng, chúng ta cũng phải hỏi xem Kinh Thánh đang nói về cùng một sự kiện hay một sự kiện tương tự nhưng cách nhìn khác nhau. Vì các môn đồ vẫn đặt câu hỏi rằng họ có thể kiếm đủ thức ăn ở đâu để cho bốn ngàn người ăn (Ma-thi-ơ 15:32-33) sau khi họ đã chứng kiến ​​phép lạ cho năm ngàn người ăn, nên nhiều nhà phê bình coi câu chuyện của bốn ngàn người là không có gì khác hơn là một “sự lặp lại”, hoặc sự nhắc lại của báo cáo trước đó về việc cho năm nghìn người ăn (14:15-21), mà theo họ, dẫn đến một sự mâu thuẫn rõ ràng. Tuy nhiên, không có gì ngăn cản việc hiểu rằng Ma-thi-ơ đang tường thuật hai sự việc có phần giống nhau, nhưng lại khác nhau. Trong báo cáo đầu tiên, có năm cái bánh và hai con cá, và năm ngàn người được cho ăn. Trong khi báo cáo thứ hai, thì có bảy cái bánh và một vài con cá nhỏ, và bốn ngàn người được cho ăn. Mối quan tâm của các môn đồ là thức ăn sẽ đến từ đâu sau khi Chúa Giê-su cho năm nghìn người ăn một cách kỳ diệu. Họ vẫn cảm thấy khó khăn để hiểu về các việc quyền năng của Chúa Giê-su.

Cũng cần phải nhận ra rằng những trước giả Kinh Thánh thường sử dụng các phương pháp tính toán khác với các phương pháp được sử dụng ngày nay. Điều này đặc biệt đúng đối với ngày tháng. Có một số bằng chứng cho thấy năm mới lần đầu tiên được tính là bắt đầu từ mùa thu và sau đó được đổi thành mùa xuân. Tuy nhiên, năm mới của Do Thái giáo thì bắt đầu với Lễ vượt qua vào mùa xuân. Chúng ta cũng làm điều tương tự khi sử dụng năm tài chính trong thu chi hiện nay.

Người cổ đại cũng sử dụng các phương pháp khác nhau để tính niên hiệu trị vì của các vị vua. Theo một hệ thống, bất kỳ khoảng thời gian nào của năm dương lịch đều được coi là triều đại của một năm. Ví dụ, sử dụng lịch của chúng ta, nếu một vị vua lên ngôi vào tháng 12 của một năm, thì vị vua ấy đã hoàn thành năm đầu tiên của mình vào cuối tháng 12 và bắt đầu năm thứ hai vào ngày 1 tháng một. Theo một hệ thống khác, thì năm cai trị đầu tiên sẽ được tính bắt đầu từ tháng Giêng mà không kể đến tháng nào của năm trước nhà vua đã trị vì.

Các nhà ghi chép cổ đại của vùng Cận Đông cũng không lập danh sách theo thứ tự niên đại về những người cai trị của họ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ đơn giản liệt kê các triều đại của từng vị vua liên tiếp mà không đồng bộ hóa chúng với nhau. Các triều đại của một số vua Y-sơ-ra-ên chồng chéo lên nhau. Khi những quan điểm cốt lõi này được công nhận, các vấn đề khó hiểu về niên đại được cho là sẽ biến mất.

Các trước giả Kinh Thánh đôi khi di chuyển các trình tự thời gian trong việc ghi  các sự kiện lịch sử; họ thực hiện mục đích này nhằm phát triển các chủ đề cụ thể. Tuy nhiên, thực tế niên đại là mối quan tâm thứ yếu đối với họ nhưng không có nghĩa là họ không quan tâm đến tính chính xác. Như Craig Blomberg nói, “Một phân tích cẩn thận cho thấy rằng không có hai sách Phúc âm nào mâu thuẫn với nhau về niên đại cả.” Hơn nữa, tính chính xác của Kinh Thánh ngày càng được các học giả gần đây kiểm chứng.

Những vấn đề khó hiểu khác trong Kinh Thánh là do sai sót của những người sao chép. Như đã thảo luận ở phần sau, các bản chép tay từ các bản Kinh Thánh hiện tại của chúng ta được dịch ra rất gần với các tác phẩm gốc, nhưng chúng vẫn là bản sao. Không có máy in ấn và các phương tiện sao chép hiện đại khác. Các thầy thông giáo đã sao chép Kinh Thánh nhiều lần bằng tay. Trừ khi chúng ta đặt ra khả năng tuyệt vời của những người sao chép tương tự như nguồn cảm hứng của các trước giả, con người không thể tạo ra dù chỉ một bản sao hoàn hảo. Ngay cả với các kỹ thuật về chương trình kiểm tra lỗi chính tả của máy tính và các công cụ hỗ trợ khác, bao gồm cả những người hiệu đính lành nghề, thì các lỗi vẫn có thể xảy ra. Người ta chỉ nghĩ đến việc đọc các tài liệu viết tay, nhưng một số tài liệu đã bị sờn và bị ố vàng do sử dụng, và việc sao chép chúng một cách hoàn hảo là bất khả thi.

Việc xem xét cẩn thận các bản sao đầu tiên của Kinh Thánh cho thấy bằng chứng về những sai lầm điển hình đã mắc phải khi sao chép một tài liệu. Việc bỏ sót các chữ cái hoặc từ cần thiết (lối viết lược bớt âm tiết trùng nhau) có thể dễ dàng xảy ra. Các từ bị bỏ sót khi mắt người sao chép trượt xuống từ dòng này sang dòng khác. Việc chuyển đổi vị trí của các từ cũng có thể dễ dàng xảy ra, như  trong 2 Sa-mu-ên 8:17, “Xa-đốc, con trai A-hi-túp, và A-hi-mê-léc, con trai A-bia-tha, làm thầy tế lễ” trong đó A-hi-mê-léc được cho là con trai của A-bia-tha trong khi 1 Sa-mu-ên 22:20 nói ngược lại, “một trong các con trai của A-hi-mê-léc, cháu của A-hi-túp, tên là A-bia-tha.” A-bia-tha ở câu này là con trai của A-hi-mê-léc.

Chính hình thức viết bằng tay làm tăng thêm sự khó hiểu trong việc tạo ra các bản sao hoàn hảo. Ví dụ, một số chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Do Thái có bề ngoài khá giống nhau. Trong chữ viết tay, có thể dễ nhầm lẫn một số chữ cái này, cũng giống như chữ “r” và “n” đôi khi rất khó phân biệt trong chữ viết tay của một số nhà văn viết tiếng Anh. Mặc dù các con số được viết bằng chữ trong văn bản tiếng Do Thái, nhưng có bằng chứng về hệ thống các dấu hiệu bằng con số ban đầu trong thời kỳ Cựu Ước. Các nét dọc được sử dụng để biểu thị các chữ số và các nét ngang để biểu thị hàng chục, được viết một nét bên trên chữ kia để cho bội số của mười. Trong một hệ thập phân như vậy, có thể dễ dàng thấy những sai lầm vô ý có thể được thực hiện như thế nào ngay cả khi chúng ta có thể  bỏ đi hoặc thêm một số không vào một số lớn. Sau đó, thì các chữ cái trong bảng chữ cái cũng được sử dụng cho các con số, do đó khiến các con số có thể bị sao chép một cách sai trật vì chữ cái này bị nhầm lẫn với chữ cái khác trong một tài liệu bị ố vàng hay hư hỏng.

Một ví dụ rõ ràng được tìm thấy trong các con số được ghi trong 2 Các Vua 24:8 và 2 Sử Ký 36:9. Theo lời kể của các vua, Giê-hô-gia-kin trở thành vua khi mới mười tám tuổi và trị vì ba tháng trước khi bị lưu đày. Tuy nhiên, câu này trong sách Sử ký nói rằng ông ta chỉ mới tám tuổi khi ông ta bắt đầu trị vì, và ông ta đã trị vì ba tháng mười ngày. Đây rõ ràng là một mâu thuẫn do lỗi của người sao chép. Vì số mười tám được viết bằng tiếng Do Thái là “tám” và “mười”; có vẻ như rõ ràng là “mười” đã bị đặt sai vị trí. Chính xác là nó đã được kết hợp với tám trong số mười tám trong sách Các vua—tạo ra số mười tám—nhưng nó đã bị bỏ qua trong sách Sử ký. Trên thực tế, một số bản viết tay tiếng Hy Lạp và tiếng Sy-ri của 2 Sử ký 36:9 ghi lại rằng Giê-rô-bô-am mới là vị vua lên ngôi khi mười tám tuổi, như trong 2 Các Vua 24:8.

Trong một số trường hợp, việc sao chép được thực hiện bởi người ghi chép bằng cách là có người khác đọc to bản văn gốc. Vấn đề là một số từ nghe giống nhau khi phát âm bằng lời nói, nhưng có cách viết và nghĩa khác nhau trong tiếng Do Thái và tiếng Hy Lạp và điều này có thể dễ dàng giải thích vì một số lỗi khi sao chép.

Hầu hết các sự khác biệt được nói đến trong Kinh Thánh thì liên quan đến những cái tên, ngày tháng hoặc con số. Đây là những điều dễ dẫn đến sự mâu thuẫn nhất vì chúng không thể được xác định từ bối cảnh. Đó là, “tên, ngày tháng và con số cụ thể là những mục không thể được dự đoán về mặt ngữ pháp trong một câu, hoặc được ghi nhớ bởi lý do của trật tự từ.” Ví dụ, nếu chúng ta đang sao chép một câu có tên thị trưởng của một thành phố, chúng ta có thể dễ dàng viết “Joe” thành “John” nếu chúng ta không biết về ông ta một cách cá riêng tư. Cả hai đều phù hợp với câu. Mặt khác, nếu chúng ta đang sao chép một câu về nữ hoàng, chúng ta sẽ không viết “Joe” hoặc “John” bởi vì chúng ta sẽ cảm nhận được ngay điều gì đó phi lô-gíc và sẽ kiểm tra lại những gì chúng ta đang viết. Điều này cũng đúng với các con số và ngày tháng. Chúng ta có thể dễ dàng viết năm 1046 thay vì 1064 cho một sự kiện mà bản thân chúng ta không hề biết đến. Nhiều sai sót trong việc truyền tải các tài liệu Cựu Ước nằm trong những lĩnh vực này vì không có ý nghĩa cụ thể đối với người sao chép. Mặc dù vậy, so với hầu hết các tác phẩm cổ đại có độ dài đáng kể khác, thì Kinh Thánh chứa đựng tương đối ít lỗi liên quan, ngay cả trong những lĩnh vực này.

admin
sách tham khảo UNDERSTANDING CHRISTIAN THEOLOGY

SHARE
Bài trướcGióp đã hiểu
Bài sauLet Me Stay

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên