Trang Chủ BIỆN GIÁO Life Sentences- March 2020 (41-the end)

Life Sentences- March 2020 (41-the end)

895
0
SHARE

Bài 41 (Tuong Vi translates)

 

ĐA-NI-ÊN

Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.

Rô-ma 8:37

Khi đề cập đến Đa-ni-ên giữa vòng những người đọc Kinh Thánh, chúng ta có thể nghe những phản hồi khác nhau. Một số sinh viên nghiên cứu các sách tiên tri sẽ nói, “Đa-ni-ên là một người thông giải được Thần cảm.” Các doanh nhân nói, “ông ấy là một nhà quản trị hiệu quả.” Một mục sư trẻ tuổi nói, “một thanh niên mẫu mực,” và các chiến sĩ cầu nguyện nói về ông, “đừng quên rằng ông ấy là một người cầu thay trung tín.”

Tất cả các phát biểu trên đều đúng, nhưng Đa-ni-ên còn có một đặc điểm quan trọng nhất: ông là một người chinh phục. Sự thực là Đa-ni-ên còn hơn cả một người chinh phục, ông thuộc loại người hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời và trở nên người chiến thắng. George Washington Carver đã nói rằng sự thành công không chỉ được đo lường ở chỗ vạch kết thúc mà còn là bằng cách nào họ đã vượt qua bao nhiêu trở ngại để đi đến đó. Đa-ni-ên đã đối diện và chiến thắng nhiều kẻ thù, vượt qua những trở ngại để tồn tại và tiếp tục phục vụ Chúa và tuyển dân trong một quốc gia ngoại giáo. G. Campell Morgan đã nói, “Câu chuyện của Đa-ni-ên rất hấp dẫn, bởi vì nó cho thấy những điều người kính sợ Chúa thực hiện được giữa bối cảnh không tin kính.”1  

Đa-ni-ên là một thiếu niên khi được đưa tới đế quốc Ba-by-lôn rộng lớn  vào năm 605 trước Công nguyên, và chàng trai này đã phục vụ thành công ít nhất là sáu mươi năm trải qua bốn triều đại. Trong khi Giê-rê-mi đang giúp đỡ những người Do Thái đáng thương còn sót lại ở Giu-đa  và Ê-xê-chi-ên khích lệ những người lưu vong ở Ba-by-lôn, thì Đa-ni-ên được đem tới trung tâm quyền lực chính trị của một đế quốc ngoại giáo để bày tỏ một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật của Israel. Đa-ni-ên đã hầu việc Đức Chúa Trời thông qua đời sống và lời chứng của mình với những người hư mất. Ông đưa ra lời khuyên cho các vua Ba-by-lôn, viết sách để dạy cho các thế hệ. Ông đã trung tín trong các mục vụ được giao, và nhận được sự tôn trọng, yêu mến từ Chúa.

Chúng ta cũng nên nhìn vào đời sống của mình thông qua các bài học từ cuộc đời Đa-ni-ên và khám phá phương cách mà ông đã trở nên người chiến thắng nhờ đức tin nơi Đức Chúa Trời.

CHÚNG TA ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG KẺ THÙ

Không dễ dàng để Đa-ni-ên và ba người bạn của ông được đế quốc Ba-by-lôn tuyển lựa để đào tạo thành những người phục vụ cho Ba-by-lôn. Kẻ thù đã chọn bốn thanh niên này là những người ưu tú nhất của dân tộc Do Thái. Họ là những thanh niên khôn ngoan, khỏe mạnh, đẹp trai. Họ có đủ những yếu tố để trở thành những người lãnh đạo tiềm năng. Kinh Thánh mô tả về họ, “Vua truyền cho Át-bê-na, là người làm đầu các hoạn quan mình, lấy trong con cái Y-sơ-ra-ên, trong dòng vua, và trong hàng quan sang, mà đem đến  mấy kẻ trai trẻ không có tật nguyền, mặt mày xinh tốt, tập mọi sự khôn ngoan, biết cách trí, đủ sự thông hiểu khoa học, có thể đứng chầu trong cung vua, và dạy cho học thức và tiếng của người Canh-đê.” (Đa-ni-ên 1:3-4). Hoàng đế Nê-bu-cát-nết-sa muốn họ được huấn luyện để phục vụ cho vương triều của ông. Điều này dẫn đến thế lực thù nghịch đầu tiên mà Đa-ni-ên và các bạn ông phải chiến thắng – thế giới ngoại giáo với những hình tượng, lừa dối, bạo lực và đầy kiên hãnh.

Nếu muốn, Đa-ni-ên và các bạn của mình có thể che giấu niềm tin để thỏa hiệp với kẻ thù, mà theo quan điểm của con người là bước đi khôn ngoan. Tuy nhiên trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, thỏa hiệp trong hoàn cảnh này là phạm tội. Những người Do Thái hoài nghi có thể hỏi, “Chúng tôi là tuyển dân, đi theo lời Chúa. Tại sao Ngài cho phép kẻ thù đánh bại chúng tôi? Có lẽ các thần tượng của Ba-by-lôn quyền năng hơn Đức Chúa Trời?” Những người đàn ông Do Thái xa quê hương và chịu ảnh hưởng của văn hóa đương thời có thể nói, “Khi sống ở Ba-by-lôn, hãy hành động như người Ba-by-lôn” theo kiểu nhập gia tùy tục. Những thanh niên khác (số đông) thỏa hiệp với cung cách sống mới – tiếp nhận đồ ăn vua ban. Kinh Thánh ghi lại: “mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ trai trẻ khác đã ăn đồ ngon vua ăn” (Đa-ni-ên 1:15). Trong khi Đa-ni-ên và các bạn ông không giống như vậy. Tại sao? Họ có thể gia nhập với số đông ấy, hoặc có thể thỏa hiệp tiếp nhận nguồn thực phẩm đã bị ô uế bởi hình tượng hay thuận phục quyền lực của Ba-by-lôn trong khi có thể bí mật giữ vững niềm tin nơi Đức Chúa Trời hằng sống?

Các viên quan cận thần của Nê-bu-cát-nết-sa cung cấp thức ăn ngon để khích lệ những thanh niên Do Thái này tuân thủ các qui định của vương triều Ba-by-lôn. Những thanh niên này được ban cho các tên mới có liên hệ đến các thần tượng của người Ba-by-lôn. Chế độ ăn uống của họ cũng khác biệt với tuyển dân – là điều mà Đa-ni-ên và ba người bạn của ông không chấp nhận. Các thực phẩm của người Ba-by-lôn có thể đến từ các loài thú vật không thanh sạch, hoặc đã được dâng cho các hình tượng. Nếu có ai trong vòng tuyển dân ăn loại thức ăn đó thì đã phạm tội không vâng lời Đức Chúa Trời và xem như thỏa hiệp với hình tượng. Nhưng nếu Đa-ni-ên và các thanh niên này không ăn họ sẽ gặp rắc rối từ luật pháp của người Canh-đê.

“Vả, Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt mình phải tự làm ô uế.  Đức Chúa Trời khiến Đa-ni-ên được ơn và thương xót trước mặt người làm đầu hoạn quan.  Người làm đầu hoạn quan bảo Đa-ni-ên rằng: Ta sợ vua, là chủ ta, đã chỉ định đồ ăn đồ uống của các ngươi. Lẽ nào vua sẽ thấy mặt mày các ngươi tiều tụy hơn những kẻ trai trẻ khác đồng tuổi với các ngươi, và các ngươi nộp đầu ta cho vua sao?  Đa-ni-ên bèn nói với Ham-mên-xa mà người làm đầu hoạn quan đã khiến coi sóc Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria, rằng:  Tôi xin ông hãy thử những kẻ tôi tớ ông trong mười ngày, cho chúng tôi chỉ ăn rau uống nước.  Sau đó, sẽ nhìn nét mặt chúng tôi với nét mặt những kẻ trai trẻ ăn đồ ăn ngon của vua; rồi ông sẽ làm cho những kẻ tôi tớ ông theo như điều ông đã thấy.
 Ham-mên-xa nhậm lời họ xin, và thử họ trong mười ngày.  Mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ trai trẻ khác đã ăn đồ ngon vua ăn.  Vậy, Ham-mên-xa cất phần đồ ăn ngon và rượu của họ, và cho họ ăn rau” (Đa-ni-ên 1:8-16). Qua câu chuyện này chúng ta thấy Lời Chúa dạy trong Ma-thi-ơ 6:33 đã vận hành ngay trong Cựu Ước và còn mãi đến hôm nay.

Còn nhiều vấn đề tiếp theo. Các bạn trẻ Hê-bơ-rơ phải giải quyết các khó khăn trong cung vua. Họ cần sự khôn ngoan để xử lý các vấn đề xảy ra với vua Ba-by-lôn và các cố vấn của nhà vua. Các nhà cai trị phương Đông thường tự hào, độc tài. Họ nắm trong tay quyền lực của sự sống và cái chết đối với tất cả các đối tượng mà họ cai trị. Họ thường nóng tính và bốc đồng, và họ trông đợi các cố vấn của mình có thể giải thích những giấc mơ, giải thích những điều huyền nhiệm và đưa ra câu trả lời chính xác ngay lập tức. Còn xa hơn thế Nê-bu-cát-nết-sa cũng yêu cầu họ tường thuật lại giấc mơ mà ông đã quên và giải thích giấc mơ đó. Điều này làm bó tay các cố vấn, thuật sĩ người Ba-by-lôn. Nhưng với Đa-ni-ên là một cơ hội tốt. Trong Đa-ni-ên có Thần linh và ánh sáng của Đức Chúa Trời để giúp ông có thể nhìn thấu điều mà con người không biết. Sau khi cầu xin Đức Chúa Trời tỏ bày những điều bí mật trong lòng vua Nê-bu-cát-nết-sa, Đa-ni-ên đến trước mặt vua trả lời rằng: “Sự kín nhiệm mà vua đã đòi, thì những bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không có thể tỏ cho vua được.  Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm; và đã cho vua Nê-bu-cát-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt. Vậy, chiêm bao của vua và các sự hiện thấy của đầu vua đã thấy trên giường mình là như vầy: …” (Đa-ni-ên 2:27-28). Sau đó Đa-niên đã thuật lại điều vua thấy về pho tượng lớn và giải nghĩa nó ra. Sự giải thích này làm hài lòng vua. Đa-ni-ên đã vạch trần sự ngu ngốc và bất tài của các nhà chiêm tinh ngoại giáo là những người có trong biên chế của nhà vua. “Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống, lạy Đa-ni-ên, và truyền dâng lễ vật cùng đồ thơm cho người.  Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì ngươi đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy.  Vua bèn tôn Đa-ni-ên lên sang trọng và ban cho người nhiều lễ vật trọng. Vua lập người cai trị cả tỉnh Ba-by-lôn, và làm đầu các quan cai những bác sĩ của Ba-by-lôn.  Đa-ni-ên cầu xin vua, thì vua lập Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô cùng cai trị tỉnh Ba-by-lôn, còn Đa-ni-ên thì chầu nơi cửa vua” (Đa-niên 2:46-49).

Nhưng sự kiện này dẫn đến một vấn đề khác: các cố vấn mưu sĩ của vua ganh tị, ghét Đa-ni-ên vì cớ sự chính trực, khôn ngoan thông sáng của ông, và họ tìm cách trả thù.  Tôi có một người bạn bị mất việc bởi vì anh ấy đã làm việc rất tích cực chăm chỉ, và đồng thời cũng chỉ ra những sự lười biếng gian dối của những người cùng làm việc chung. Những người này họp lại, dựng chuyện và nói dối với quản đốc để đuổi việc người bạn tôi. “Không có gì là mới dưới ánh mặt trời.” Các cố vấn của Nê-bu-cát-nết-sa cũng đã làm điều này với Đa-ni-ên, nhưng Đức Chúa Trời minh oan cho ông.

Là Cơ đốc nhân, chúng ta phải chiến đấu với thế gian, xác thịt và ma quỉ. Hãy nhớ lời sứ đồ Phao-lô viết, “Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” (Ê-phê-sô 6:12).  Chúng ta phải sống và làm việc với những con người. Ma quỉ có thể sử dụng những con người này để vu cáo và tấn công chúng ta trên nhiều lĩnh vực. Giô-sép khi còn trẻ đã ở trong trận tuyến này, Đa-vít cũng như vậy. Hội thánh đầu tiên đối diện với những điều này, và ngay cả Chúa Giê-su cũng đã có một môn đồ phục vụ cho ma quỉ.

Phao-lô bảo đảm cho tín nhân trong Rô-ma 8:37, “trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.” Mọi sự mà vị sứ đồ đã đề cập là: “hoạn nạn, khốn cùng, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo (Rô-ma 8:35). Chúng ta không chỉ chiến thắng tất cả những điều này, nhưng chúng ta cũng chiến thắng ma quỉ là kẻ sử dụng con người và những sự kiện xảy ra để nghịch lại Đấng Christ. Bởi đức tin Cơ đốc nhân đánh bại Satan và những liên minh của nó – và đó là một chiến thắng thực sự, một chiến thắng được Đấng Christ giành lấy và giao lại cho chúng ta.

CÁC NGUỒN LỰC MÀ CHÚNG TA SỬ DỤNG

Tâm điểm của các vấn đề nằm ở trong lòng, và một tấm lòng bị phân tâm sẽ kéo theo hậu quả là tấm lòng đó bị đánh bại. Vì vậy nguồn lực đầu tiên cho sự chiến thắng là một tấm lòng hoàn toàn dành trọn cho Chúa. “Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống” (Đa-ni-ên 1:8) đó là khởi điểm. Ba bạn người Hê-bơ-rơ của Đa-ni-ên là những thanh niên ưu tú, được dạy dỗ trong gia đình tin kính, họ biết điều này: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết. Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra.” (Châm ngôn 4:23). Bản dịch Kinh Thánh New Living Translation dịch câu này là: “Trên hết mọi điều phải giữ gìn tấm lòng của bạn, bởi vì nó sẽ ảnh hưởng đến tất cả những gì bạn làm.”

Trong Phúc Âm Mác 7:20, Chúa Giê-su dạy, “Hễ sự gì từ người ra, đó là sự làm dơ dáy người!” Vì vậy tấm lòng con người cần phải được ân sủng của Chúa làm cho thay đổi và trở nên tinh sạch. Trước giả Thi thiên viết, “Chúa muốn sự chân thật nơi bề trong; Chúa sẽ làm cho tôi được biết sự khôn ngoan trong nơi bí mật của lòng tôi…. Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch. Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng.” (Thi. 51:6, 10). Đa-vít đã có một lời cầu nguyện đúng đắn.

Tấm lòng của Đa-ni-ên phù hợp với tấm lòng của Chúa – ông là một người cầu nguyện. “Cứ một ngày ba lần, Đa-ni-ên quì gối xuống, cầu nguyện, xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời mình, như vẫn làm khi trước.” (Đa. 6:10). Điều này là nghịch lại với qui định của vua Ba-by-lôn. Vào thời điểm đó mọi người tại Ba-by-lôn không được cầu nguyện với bất kỳ một thần linh nào khác ngoại trừ vua. Thế nhưng mỗi ngày ba lần, Đa-ni-ên mở cửa sổ hướng về Giê-ru-sa-lem cầu nguyện với Đức Chúa Trời của mình bất chấp lệnh vua. Đa-ni-ên cầu xin sự khôn ngoan thiên thượng để có thể biết được và giải thích giấc mơ mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã quên (Đa. 2). Và Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu xin này. Lời cầu nguyện xưng tội của Đa-ni-ên được ghi lại trong chương 9, cùng với lời cầu nguyện của E-xơ-ra chương 9, Nê-hê-mi chương 9  là gương mẫu của những tấm lòng ăn năn và hạ mình trước mặt Chúa. Lời cầu thay của Đa-ni-ên cho tuyển dân được xếp hạng chung với lời cầu nguyện của Nô-ê và Gióp (Ê-xê-chi-ên 14:14, 20). Sứ đồ Phao-lô truyền dạy chúng ta phải mặc lấy mọi khí giới của Chúa và, “nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18)

Tuy nhiên Đa-ni-ên cũng tùy thuộc vào Lời của Đức Chúa Trời. Chúa đã ban cho ông Lời của Ngài cách trực tiếp. Và ông viết lời đó ra để chúng ta có thể học được. Đa-ni-ên cũng đọc và hiểu những gì Giê-rê-mi đã viết (Đa-ni-ên 9:1-2; Giê-rê-mi 25:11-12), và điều này trợ giúp ông đứng ra bênh vực cho tuyển dân. Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện phải luôn song hành với nhau (Giăng 15:7; Công. 6:4; Ê-phê-sô 6:17-18). Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn và bảo vệ chúng ta trong thế giới tối tăm (Ê-phê-sô 6:17; Hê-bơ-rơ 4:12). Đức Thánh Linh có thể hướng dẫn chúng ta sử dụng Lời để giành chiến thắng. Đa-ni-ên đã vâng theo lẽ thật của Chúa trong đời sống và mục vụ (Đa-ni-ên 6:4-5). Đức Chúa Trời tôn trọng tính cách này của Đa-ni-ên.

Nhưng tất cả những nguồn lực thuộc linh này sẽ không hiệu quả, nếu Đa-ni-ên không phải là người có đức tin. Khi Đa-ni-ên cầu nguyện, ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ trả lời, và quả thật Chúa đã trả lời. Khi Đa-ni-ên đọc sách Giê-rê-mi, ông tin cậy Chúa soi sáng tâm trí ông và thực hiện Lời Ngài hứa. Và Chúa đã làm điều đó. Đa-ni-ên tín thác vào Đức Chúa Trời để Ngài hướng dẫn ông. Đức tin vào Chúa thì không cần phải sử dụng đến kế hoạch khôn ngoan theo ý riêng. Đa-ni-ên cầu xin Chúa trực tiếp hướng dẫn ông. Ông trả lại những âm mưu của kẻ thù (những kẻ tìm cách ném ông vào hang sư tử) cho chúng. “Theo lệnh vua, những kẻ đã kiện Đa-ni-ên ấy cùng con cái và vợ họ đều bị điệu đến quăng vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, thì những sư tử đã vồ lấy và xé xương hết thảy” (Đa. 6:24). Khi Đa-ni-ên được đem lên khỏi hang, “và người ta không thấy một vết tích nào trên người, bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời mình” (Đa-ni-ên 6:23). Kẻ thù bị bẽ mặt, đức tin của Đa-ni-ên nơi Chúa được tưởng thưởng xứng đáng (Châm. 3:5-6)

NHỮNG PHƯỚC HẠNH MÀ CHÚNG TA NHẬN ĐƯỢC

Phước hạnh thứ nhất dành cho Đa-ni-ên và cũng cho tất cả chúng ta là đặc ân dâng vinh hiển về Đức Chúa Trời. Sự chinh phục của vua Nê-bu-cát-nết-sa trên quốc gia Israel dường như được một số người thừa nhận rằng các hình tượng của Ba-by-lôn có quyền năng hơn Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật của tuyển dân. Nhưng Đa-ni-ên đã làm đảo lộn nhận thức đó. Các cố vấn, thuật sĩ của Ba-by-lôn không thể thuật lại giấc mơ của vua thì làm sao có thể giải nghĩa được ý nghĩa của nó? Nhưng Đa-ni-ên thì khác, nhờ sự khôn ngoan thiên thượng, ông biết được giấc mơ của vua Nê-bu-cát-nết-sa và giải nghĩa nó ra (Đa-ni-ên 2). Điều này khiến cho vua tôn trọng Đa-ni-ên, nhà vua tuyên bố, “Quả thật, Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì Đa-ni-ên đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy” (Đa-ni-ên 2:47). Sau đó khi các bạn hữu của Đa-ni-ên được giải cứu kỳ diệu thoát khỏi lò lửa hực, vua tiếp tục công bố, “Đáng ngợi khen Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô! Ngài đã sai thiên sứ Ngài và giải cứu các tôi tớ Ngài nhờ cậy Ngài, họ đã trái mạng vua, và liều bỏ thân thể mình, hầu để không hầu việc và không thờ phượng thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời mình” (Đa. 3:28).

Trong chương bốn Đa-ni-ên giải thích về một “cây cao lạ thường” mà vua Nê-bu-cát-nết-sa nhìn thấy trong giấc mơ. Và lời giải thích này trở thành hiện thực ngay sau đó. Nê-bu-cát-nết-sa phải sống như súc vật trong bảy năm, và rồi được phục hồi trở về với ngai vàng của mình. Kinh Thánh ghi lại: “Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia….Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chân thật, các đường lối Ngài đều công bình; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống” (Đa. 4:34, 37).  Đây là một lời chứng tốt xuất phát từ một vua ngoại bang. Trong chương 6 của sách Đa-ni-ên, khi vua Đa-ri-út biết rằng Đa-ni-ên bình an vô sự trong hang sư tử, sự nhận thức của nhà vua đã thay đổi, “Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng ở khắp trên đất rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên!  Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp miền nước ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên; vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy diệt, và quyền Ngài sẽ còn đến cuối cùng.  Ngài cứu rỗi và giải thoát, làm những dấu lạ sự lạ ở trên trời dưới đất, đã cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư tử.” (Đa. 6:25-27).

Chúng ta không thể có được vị trí cao trọng như Đa-ni-ên trong vương triều của Ba-by-lôn, nhưng chúng ta có thể sống, làm việc, làm chứng về quyền năng của Đức Chúa Trời cho các bậc cầm quyền trên chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đang trợ giúp chúng ta trên mọi lĩnh vực và điều này dâng vinh hiển về cho Ngài. Chúa Giê-su đã dạy trong Ma-thi-ơ 5:16, “Sự sáng các người hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.”

Đa-ni-ên không chỉ dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời, ông còn là một người được Chúa yêu mến. Thiên sứ Gáp-ri-ên từ thiên đàng xuống và truyền bảo Đa-ni-ên, “ngươi được yêu quí lắm” (Đa. 9:23). Cụm từ này được lặp lại trong Đa.10:11, 19. Và tất cả các tín nhân ngày nay có thể vui hưởng tình yêu đặc biệt từ Đức Chúa Trời nếu họ làm theo những gì Đa-ni-ên đã làm: cầu nguyện, suy ngẫm Lời Chúa, kính yêu Chúa hết lòng và vâng phục Ngài. Chúa Giê-su dạy, “Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến ta; người nào yêu mến ta sẽ được Cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết ta…. Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người” (Giăng 14:21, 23). Sách Giu-đe câu 21 tóm tắt lời dạy của Chúa cứu thế, “hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời.” Câu Kinh văn truyền tải sự sống mà tôi dành cho Đa-ni-ên là, “Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô-ma 3:31) nhắc nhở mỗi chúng ta có thể trở thành người chiến thắng nhờ vào Đấng đã yêu thương chúng ta.

Là một tôi tớ trung tín của Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên có niềm vui khi giúp đỡ người khác. Ông chia sẻ đặc ân của mình với ba bạn hữu và nhìn thấy họ được thăng tiến trong vương triều của Ba-by-lôn (Đa. 2:49). Thông qua ân tứ giải thích các giấc mơ, Đa-ni-ên giúp cho các vua ngoại bang hiểu biết và nhìn thấy được kế hoạch của Đức Chúa Trời, mặc dù tâm trí họ vẫn còn những hạn chế nhất định với thông điệp của Đa-ni-ên. Đời sống và nhân cách của Đa-ni-ên trở thành niềm khích lệ và làm gương tốt cho tuyển dân Chúa trải qua nhiều thế kỷ. Cái nhìn sâu sắc của Đa-ni-ên về tương lai giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản văn Kinh Thánh. Học biết về sách Đa-ni-ên là bước chuẩn bị tốt để hiểu rõ sách Khải huyền.

Giê-rê-mi giúp đỡ cho những người Do-Thái đáng thương còn ở lại Giu-đa, và Ê-xê-chi-ên dạy cho những người lưu đày ở Ba-by-lôn. Và rồi Đa-ni-ên mở ra một cánh cửa cho tuyển dân bị lưu đày trở về lại Giu-đa khi thời hạn phu tù kết thúc. Ông hiểu thời khóa biểu và đồng hồ của Đức Chúa Trời khi suy ngẫm Giê-rê-mi 25:11-12, “Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.  Đức Giê-hô-va phán: Khi bảy mươi năm ấy sẽ mãn, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và dân người, vì cớ tội ác chúng nó. Ta sẽ phạt xứ người Canh-đê và biến thành một nơi hoang vu đời đời.” Chúng ta đọc thấy trong chương 9 của sách Đa-ni-ên, “Đa-ni-ên, bởi các sách biết rằng số năm mà lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng đấng tiên tri Giê-rê-mi, để cho trọn sự hoang vu thành Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm.  Ta để mặt hướng về Chúa là Đức Chúa Trời, lấy sự khấn nguyện, nài xin, với sự kiêng ăn, mặc bao gai, đội tro mà tìm” (Đa-ni-ên 9:2-3). Đa-ni-ên đã cầu nguyện và tâu với vua Si-ru về kế hoạch của Đức Chúa Trời. Kết quả là vua Si-ru đã ban chiếu chỉ cho pép dân Do thái được rời khỏi Ba-by-lôn trở về quê hương (Đa. 1:21; 2 Sử ký 36:22-23; E-xơ-ra 1:1-4). Trong số những gì còn sót lại đó đã xuất hiện một quốc gia được khôi phục và một ngôi đền được xây dựng lại, và từ khởi đầu nhỏ bé đó đã xuất hiện các tiên tri, Lời được viết và cuối cùng là Đấng cứu thế ra đời.

Cảm tạ Đức Chúa Trời.
Cảm ơn Đa-ni-ên, người được Chúa yêu!

Bài 42

Ê-XƠ-TÊ

Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh

1 Cô-rin-tô 1:27

 

Đức Chúa Trời luôn luôn có những tôi tớ sẵn sàng chăm sóc cho tuyển dân của Ngài.

Sau khi đế quốc Ba-by-lôn đánh bại Giu-đa, Giê-rê-mi thi hành mục vụ cho những người Do Thái đáng thương còn ở lại quê hương. Ê-xê-chi-ên phục vụ cho những người bị lưu đày sang Ba-by-lôn. E-xơ-ra, Nê-hê-mi, A-ghê và Xa-cha-ri thi hành mục vụ cho 50 000 người Do Thái trở về quê hương. Còn một số người Do Thái không trở về vùng đất thánh thì sao? Vua Si-ru đã cho phép họ trở về, nhưng tại sao họ vẫn còn ở lại trong vùng đất bị lưu đày? Đây là một câu hỏi không dễ dàng để trả lời.

Đa-ni-ên và các bạn hữu đang ở trong tuổi vị thành niên khi bị lưu đày sang Ba-by-lôn. Vì vậy sau bảy mươi năm phu tù họ cũng đã là những người lớn tuổi. Liệu những người ở vào lứa tuổi này có còn muốn trở về quê hương hay không?  Nhưng ít nhất hai thế hệ của tuyển dân – có thể là ba thế hệ đã được sinh ra trong khoảng thời gian bảy mươi năm phu tù. Vì vậy những người trẻ tuổi có thể đã trở về xây dựng lại quốc gia và đền thờ. Có lẽ những người trẻ tuổi khác quyết định ở lại cho đến khi ông bà hay cha mẹ họ qua đời trên phần đất của dân ngoại bang (Hãy để tôi chôn cha tôi trước đã – là điều ưu tiên của một số người trẻ), rồi sau đó sẽ trở về vùng đất thánh. Chúng ta không biết có bao nhiêu người ở lại. Tuy nhiên nhiều người đã ở lại vì những mối dây ràng buộc – có thể liên quan đến công việc làm ăn hoặc đơn giản là họ không muốn về.

Giữa vòng những người ở lại đó có Mạc-đô-chê và một cô gái xinh đẹp mồ côi là cháu họ mà ông nuôi dưỡng được gọi là Ê-xơ-tê. Tên Ê-xơ-tê có nghĩa là một ngôi sao. Kinh Thánh cho biết Mạc-đô-chê ngồi chầu nơi cổng vua (2:21), nên chúng ta có thể xem như ông là một viên chức nhỏ trong triều đình. Chúng ta không nên đứng ở vị trí phán xét tại sao Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê không trở về quê hương. Bởi vì Đức Chúa Trời chắc chắn có một kế hoạch tốt đẹp cho họ theo đúng thời điểm của Ngài. Những nhân vật trong sách Ê-xơ-tê có thể chia làm hai nhóm: những người có đặc quyền và những người không có. Từ quan điểm này, thì rõ ràng những người dân bản địa của đế quốc mà vua A-suê-ru cai trị là nhóm người quan trọng, còn tuyển dân Israel ở lại là những người không quan trọng. Nhưng không bao lâu nữa, tình hình đó sẽ được đảo ngược.

SỰ HỢP LẠI CỦA NHÓM NGƯỜI CÓ ĐẶC QUYỀN (Ê-xơ-tê 1)

Sách Ê-xơ-tê bắt đầu với một bữa tiệc do hoàng đế A-suê-ru thết đãi. Nhà vua “cai trị trên một trăm hai mươi bảy tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-bi,  khi vua ngự ngôi vương quốc tại Su-sơ, kinh đô người,  nhằm năm thứ ba đời trị vì mình, người bày ra một bữa tiệc yến cho hết thảy quan trưởng và thần bộc mình. Đạo binh nước Phe-rơ-sơ và Mê-đi, các bực sang trọng cùng các quan cai của hàng tỉnh đều ở trước mặt người.  Trong nhiều ngày, tức trong một trăm tám mươi ngày, người bày tỏ sự giàu có sang trọng của nước và sự oai nghi rực rỡ của người” (1:1-4). Đa-ni-ên đã tiên đoán rằng người Ba-by-lôn sẽ hiệp nhất thành công các đế quốc của người Medes và Persians (Đa-ni-ên 2:31-39; 7:5; 8:19-20). Điều này xảy ra khi Darius người Mede đại diện cho vua Cyrus tiến vào thành phố Babylon vào năm 539 trước Công nguyên, giết vua Belshazzar  và tiếp quản vương quốc của người Babylon (Đa-ni-ên 5). Đế quốc Persians cai trị 300 năm rồi sau đó bị người Hy-lạp đánh bại (Đa-ni-ên 8:21). Ước chừng mười lăm triệu người Do Thái sống ở vùng đất của đế quốc Persians – đế quốc này trải dài từ sông Nile của Ai-cập đến Ấn Độ. Vua Darius, con trai của Xerxes vào năm 538 trước Công nguyên đã ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái trở về xứ Palestine, kết thúc bảy mươi năm phu tù (Đa-ni-ên 9; E-xơ-ra 1; Giê-rê-mi 25:11-12; 29:10)

Chúng ta trở lại với bữa tiệc hoành tráng kéo dài nhiều ngày trong Ê-xơ-tê 1. Nơi đây tập hợp những khách VIP của hoàng đế A-suê-ru. Những người này duy trì quyền lực chính trị của họ thông qua các mưu đồ và sự dua nịnh cá nhân. A-suê-ru đã triệu tập họ từ 127 tỉnh của đế quốc rộng lớn để thảo luận về các kế hoạch của nhà vua và chuẩn bị tuyên chiến với Hy-lạp. Nhà vua muốn các khách mời phải ấn tượng về quyền lực, sự giàu có của vương quốc mà ông cai trị và tất cả bọn họ đều đồng ý với các kế hoạch của ông. Không may là sau đó đế quốc Persians bị đánh bại trong cuộc chiến.

“Trong nhiều ngày, tức trong một trăm tám mươi ngày, vua A-suê-ru bày tỏ sự giàu có sang trọng của nước và sự oai nghi rực rỡ của người.  Khi các ngày đó đã qua rồi, vua bày đãi hết thảy dân sự đương có ở tại kinh đô Su-sơ, hoặc lớn hay nhỏ, một cuộc tiệc yến bảy ngày, tại nơi hành lang của thượng uyển  ….Vườn của vua.

 

Người ta uống rượu tùy theo lịnh truyền chẳng ai ép phải uống; vì vua đã truyền các thần tể cung điện hãy làm tùy ý của mỗi người muốn. … Qua ngày thứ bảy, vua uống rượu hứng lòng rồi, bèn truyền cho Mê-hu-man, Bít-tha, Hạt-bô-na, Biếc-tha, A-bác-tha, Xê-thạt và Cạt-cách, tức bảy hoạn quan hầu chực vua A-suê-ru,  dẫn hoàng hậu Vả-thi đến trước mặt vua, đội mão triều hoàng hậu, đặng tỏ ra phết lịch sự của bà cho dân sự và cho các quan trưởng xem thấy; vì tướng mạo bà rất tốt đẹp.  Nhưng hoàng hậu Vả-thi không khứng đến theo mạng của vua truyền bởi các hoạn quan. Vua bèn nổi giận dữ, phát nóng nả trong lòng.” (Ê-xơ-tê 1:4-12)

Nhà vua bối rối vì hoàng hậu Vả-thi không đến (bà bất tuân lệnh vua). Lẽ ra hoàng hậu phải có mặt để nhà vua giới thiệu với các quan khách vẻ đẹp của bà.

Các khách VIP đã ăn cao lương mỹ vị, uống các loại rượu ngon cả tuần lễ, và nhiều người trong số họ đã say. Nhà vua cũng sẽ không ngoại lệ. Trong bối cảnh đó, không có người phụ nữ đoan trang nào lại muốn xuất hiện để khoe ra vẻ đẹp của mình.

Me-mu-can là một quan trưởng của vua tâu lên:  “Nếu đẹp ý vua, khá giáng chiếu chỉ, chép vào trong sách luật pháp của nước Phe-rơ-sơ và Mê-đi, chẳng hề thay đổi đặng, rằng Vả-thi sẽ chẳng còn vào đến trước mặt vua A-suê-ru nữa; vua khá ban vị hoàng hậu của Vả-thi cho một người khác tốt hơn nàng.  Khi chiếu chỉ của vua làm đã được truyền khắp trong nước vua, vì nước thật rộng lớn, thì các người vợ tất phải tôn kính chồng mình, từ người sang trọng cho đến kẻ nhỏ hèn.  Lời nầy đẹp ý vua và các quan trưởng; vua bèn làm theo lời của Me-mu-can đã luận bàn.” (1:19-21)

Hậu quả cho sự bất tuân của Vả-thi là bà bị phế truất khỏi vị trí hoàng hậu đương triều. Đoạn Kinh văn trên đây không giải thích nhà vua đã lên kế hoạch thực thi chiếu chỉ như thế nào, nhưng sắc lệnh ít nhất đã giúp ông thoát khỏi một tình huống xấu hổ. Nhà vua phát động chiến tranh sau đó và trở về trong sự thất bại. Nhưng tất cả hoạt động này – ăn uống tiệc tùng linh đình, phế truất ngôi hoàng hậu, ban hành sắc lệnh và thua cuộc trong chiến tranh – là một phần trong kế hoạch của Đức Chúa Trời để giải cứu tuyển dân khỏi sự hủy diệt. Nếu các đường lối của Chúa có vẻ như phức tạp khó hiểu, hãy nhớ lại sự hiện thấy về cái xe trong Ê-xê-chi-ên chương một. “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Rô-ma 11:33). Chúng ta không cần phải giải thích ý muốn của Đức Chúa Trời hay hiểu được nó, nhưng chúng ta phải vâng phục theo ý muốn Ngài.

MỘT NGƯỜI KHÔNG CÓ QUYỀN LỰC TRỞ THÀNH NGƯỜI CÓ QUYỀN LỰC (Ê-xơ-tê 2).

Khi vua A-suê-ru trở về sau những yến tiệc linh đình, không có hoàng hậu nào chào đón và chăm sóc các tổn thương của ông. Dĩ nhiên ông có toàn quyền lựa chọn một người nữ nào đó trong hoàng tộc hay bất kỳ một phụ nữ nào trong vương quốc để làm hoàng hậu. Một cuộc thi tuyển lựa hoàng hậu được các cố vấn của nhà vua tổ chức khắp đế quốc rộng lớn, những người chiến thắng vòng sơ tuyển sẽ được đưa về tại kinh đô Susa để hoàng đế trực tiếp chọn hoàng hậu. Ê-xơ-tê, một thiếu nữ người Do Thái xuất hiện trong bối cảnh này. Ê-xơ-tê không phải là người tình nguyện để được đưa vào cung vua. Cô gái này được chọn từ một ủy ban đặc biệt của nhà vua, và cô không thể từ chối. Nếu từ chối là vô hình trung chống lại sắc lệnh của vua, và sẽ gặp nguy hiểm.

Ê-xơ-tê là một cô gái mồ côi, được Mạc-đô-chê nuôi dưỡng. Mạc đô-chê “bảo dưỡng Ê-xơ-tê con gái của cậu mình, vì nàng không có cha mẹ. Người thiếu nữ ấy là tốt tươi hình dạng, đẹp đẽ dung nhan. Vậy, khi cha mẹ nàng đã qua đời rồi, Mạc-đô-chê nhận nàng làm con gái mình” (Ê-xơ-tê 2:7). Cả hai người Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê đều là những người không có đặc ân, là người không quan trọng trong thể chế của vua A-suê-ru. Sau khi Ê-xơ-tê được chọn dự thi sơ tuyển các cô gái xinh đẹp khắp đế quốc, cả hai người đều nghĩ rằng cô sẽ trở về nhà ngay khi các sự xét tuyển sơ bộ kết thúc, nhưng họ đã sai. Đức Chúa Trời đã chọn Ê-xơ-tê làm một người tôi tớ đặc biệt để giải cứu tuyển dân khỏi sự chết. Sẽ không có ai trong vòng tuyển dân Israel có thể thành người quan trọng trong vương triều của vua A-suê-ru, trừ khi người đó trở thành hoàng hậu. Đức Chúa Trời đã chọn một thiếu nữ yếu đuối – một người không có thế lực để đánh bại những người mạnh sức đầy quyền lực và mang vinh hiển về cho danh Ngài.

Danh của Đức Chúa Trời không được đề cập trong sách Ê-xơ-tê. Nhưng sự hiện diện và quyền tể trị kiểm soát, sự quan phòng của Ngài hiện diện ở đó từ đầu đến cuối. Nhà thần học Augustus Hopkins Strong gọi sự quan phòng của Chúa là “con mắt của Ngài ở khắp mọi nơi.”

Đức Chúa Trời toàn năng là Đức Chúa Trời của hoàn vũ. Vì vậy không có điều gì xảy ra trên cõi tạo vật là tình cờ. “Đất và muôn vật trên đất. Thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 24:1). “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời. Nước Ngài cai trị trên muôn vật” (Thi. 103:19)

Ê-xơ-tê không nói cho bất cứ ai biết rằng cô là một người Do Thái. Điều này có nghĩa Ê-xơ-tê ăn uống và sinh hoạt giống như một người ngoại bang bản xứ. Đây không phải là một trường hợp phù hợp với luật pháp của người Do Thái, nhưng Chúa vẫn làm việc bên trong và xuyên qua Ê-xơ-tê. Đức Chúa Trời chúc phước cho Đa-ni-ên và Ê-xê-chi-ên bởi vì hai người này vâng lời Chúa trong vấn đề ăn uống liên quan đến thực phẩm sạch và không sạch theo luật pháp tuyển dân, nhưng Ngài cũng chúc phước cho Ê-xơ-tê mặc dù cô không vâng lời Chúa trong nguyên tắc ăn uống của luật Do Thái. Nếu các quan chức đương triều biết Ê-xơ-tê là một người Do Thái, thì có thể họ đã đuổi cô ấy ra khỏi đất nước của họ. Trong hoàn cảnh đó Ê-xơ-tê phải giữ yên lặng, không bày tỏ nguồn gốc dân tộc của mình. Và Mạc-đô-chê cũng vậy. Ông là một viên chức nhỏ phục vụ trong vương triều của A-suê-ru, mặc dù có công trạng thông báo cho vua biết việc phản bội của hai viên hoạn quan (Ê-xơ-tê 2:21-23). Hai viên quan này bị xử tử treo trên cây mộc hình ngay sau đó, nhưng Mạc đô-chê không được khen thưởng gì (trái lại Ha-man được thăng cấp, ông ta trở nên đầu của các quan trưởng). Không thành vấn đề. Mạc-đô-chê sẽ được công nhận sau đó vì vai trò của ông trong việc đồng công với Ê-xơ-tê để giải cứu tuyển dân khỏi bị tiêu diệt.

Sau khi Ê-xơ-tê được hoàng đế A-suê-ru trao vương miện hoàng hậu, Ha-man giận dữ với Mạc đô-chê vì người Do Thái này không cúi lạy mình như những viên chức khác. Lòng căm giận khiến cho Ha-man tìm cách tiêu diệt Mạc-đô-chê và cả dân tộc Giu-đa. Vì lúc này Mạc-đô-chê đã công khai danh tính của mình là một người Do Thái. Ha-man âm thầm lên một kế hoạch tiêu diệt cả tuyển dân.

Trong Ê-xơ-tê chương bốn, chúng ta đọc, “Bấy giờ bà Ê-xơ-tê gọi Ha-thác, một hoạn quan của vua, mà vua đã đặt hầu chực Ê-xơ-tê, rồi biểu người đi đến Mạc-đô-chê hỏi cho biết có việc gì, và nhân sao đã có vậy.  Ha-thác bèn đi ra đến Mạc-đô-chê tại nơi phố thành ở trước cửa vua” (câu 5-6). Mạc-đô-chê trình bày cho Ha-thác mưu đồ của Ha-man là tuyệt diệt mọi người Do Thái. Ha-thác thông báo lại những điều này với Ê-xơ-tê. “Bấy giờ bà Ê-xơ-tê nói với Ha-thác, và sai người nói lại với Mạc-đô-chê rằng:  Các thần bộc và dân chúng các tỉnh của vua đều biết rằng hễ ai, bất luận nam hay nữ, vào cùng vua tại nội viện, mà không được lịnh vời thì ai đó theo luật đã định tất phải bị xử tử đi, miễn là được vua giơ cây phủ việt vàng ra, thì mới sống; nhưng đã ba mươi ngày rày tôi không được vời vào cung vua.
 Người ta thuật lại cho Mạc-đô-chê các lời của bà Ê-xơ-tê.  Mạc-đô-chê biểu đáp lại cùng bà Ê-xơ-tê rằng: Chớ thầm tưởng rằng ở trong cung vua, ngươi sẽ được thoát khỏi phải hơn mọi người Giu-đa khác;  vì nếu ngươi làm thinh trong lúc nầy đây, dân Giu-đa hẳn sẽ được tiếp trợ và giải cứu bởi cách khác, còn ngươi và nhà cha ngươi đều sẽ bị hư mất; song nào ai biết rằng chẳng phải vì cớ cơ hội hiện lúc nầy mà ngươi được vị hoàng hậu sao?” (4:10-14). Mạc-đô-chê đã nhắc Ê-xơ-tê phải nắm lấy cơ hội đặc biệt này. Còn nếu không Đức Chúa Trời có thể giải cứu tuyển dân bằng một phương cách khác.

Bài học ở đây là, chúng ta phải biết hợp tác và nắm lấy cơ hội từ Chúa. Đừng bao giờ can thiệp vào sự tể trị thần thượng của Đức Chúa Trời. Ngài có thời điểm và lý do để hành động. Và chúng ta phải học tập bước đi bởi đức tin. Đức tin vào Đức Chúa Trời thì không sống theo kế hoạch riêng. Trước giả Thi thiên viết, “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa; Xin giải cứu tôi khỏi tay kẻ thù nghịch, và khỏi tay kẻ bắt bớ tôi.” (Thi thiên 31:15)

MỘT NGƯỜI HÈN HẠ NGHĨ RẰNG ANH TA LÀ NGƯỜI QUAN TRỌNG (Ê-xơ-tê 3-6)

Ha-man được giới thiệu vào đầu chương ba của sách Ê-xơ-tê, người này được vua A-suê-ru thăng cấp, nhưng không có bất kỳ lời giải thích nào về lý do của chuyện này. Mạc-đô-chê đã cứu mạng vua thoát khỏi một âm mưu phản nghịch, nhưng không nhận được gì, còn Ha-man được thăng chức. Có thể Ha-man đã thăng tiến trên con đường của mình nhờ vào sự ưu ái của nhà vua và khéo léo ảnh hưởng đến vua trong công tác bổ nhiệm nhân sự, nhưng tất nhiên Chúa cũng  đang làm việc để chuẩn bị cho Ha-man một hình phạt sau đó. “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau. Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã.” (Châm ngôn 16:18)

Mạc đô-chê từ chối quì lạy tôn vinh Ha-man như lạy một vị thần. “Mạc-đô-chê không cúi xuống, cũng không lạy Ha-man” (3:2). Cúi xuống lịch sự trước một người khác không bị cấm đối với người Do Thái. Áp-ra-ham đã sấp mình xuống trước mặt các dân họ Hếch (Sáng thế ký 23:7); Gia-cốp và gia đình ông đã sấp mình xuống đất trước mặt Ê-sau (Sáng. 33), và Đa-vít đã sấp mình xuống trước mặt Sau-lơ (1 Sa-mu-ên 24:8). Để được hài lòng vua và muốn được thăng chức các viên quan tại cổng vua đều quì xuống trước mặt Ha-man. Nhưng Mạc-đô-chê không làm theo họ. Những người Do Thái có tri thức đều biết rằng Ha-man là một người A-ma-léc, và dân A-ma-léc là kẻ thù muôn đời của tuyển dân (Xuất. 17:8-16; Phục. 25:17-19; 1 Sa-mu-ên 15). Ngày nào Mạc-đô-chê còn phớt lờ Ha-man, thì sự thù ghét giận dữ của Ha-man với Mạc đô-chê càng gia tăng. Vì căm thù Mạc-đô-chê là một người Do Thái, nên Ha-man không những chỉ muốn giết chết một mình Mạc-đô-chê mà ông ta còn lên một kế hoạch gian ác nhằm tiêu diệt toàn bộ người Do Thái trên khắp đất nước. “Ha-man tâu với vua A-suê-ru rằng: Có một dân tộc tản mác, rải rác ra giữa các dân tộc trong những tỉnh của nước vua: luật pháp của chúng nó khác hơn luật pháp của các dân khác; lại chúng nó cũng không tuân theo luật pháp của vua; dung chúng nó chẳng tiện cho vua.  Nếu điều đó vừa ý vua, khá giáng chiếu chỉ truyền tuyệt diệt chúng nó đi; rồi tôi sẽ cân mười ngàn ta lâng bạc phó vào tay những quan đốc tư để đem vào kho vua.” Nếu vua A-suê-ru cho phép Ha-man tiêu diệt tất cả người Do Thái (mặc dù Ha-man không xác định được có bao nhiêu người Do Thái trong khắp đất nước), ông ta có thể tịch thu tài sản của họ và kết thúc cuộc tàn sát với số tiền thu được lớn hơn nhiều so với số tiền mà ông đã đóng góp vào kho của vua – và Mạc-đô-chê cùng tuyển dân sẽ biến mất khỏi đế quốc (3:8-9). Tuy nhiên, “trong lòng loài người có nhiều mưu kế; Song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được” (Châm ngôn 19:21).

Ha-man chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch của mình, ông lựa chọn một ngày phù hợp để tiến hành kế hoạch đen tối. Nhưng Ha-man không biết rằng: “Người ta bẻ thăm trong vạt áo; Song sự nhứt định do nơi Đức Giê-hô-va mà đến” (Châm. 16:33)

Câu chuyện diễn tiến đầy kịch tính. Vua A-suê-ru phê chuẩn kế hoạch của Ha-man, cho phép ông đứng ra chuẩn bị tàn sát người Do-Thái. Nhưng gió đã đổi chiều! Trong chương bốn và năm của sách Ê-xơ-tê chúng ta đọc thấy hoàng hậu Ê-xơ-tê được ơn trước mặt vua. Với sự trợ giúp của Mạc-đô-chê, hoàng hậu chuẩn bị phản công mưu đồ đen tối của Ha-man.

Trong chương sáu tiếp theo, công trạng của Mạc-đô-chê trước đây trong việc trình tấu lên vua âm mưu làm phản của hai hoạn quan vốn không được ghi nhận, thì bây giờ A-suê-ru hiểu ra câu chuyện trong một đêm không ngủ được, vua bèn bày tỏ sự khen thưởng và tôn trọng Mạc-đô-chê vì đã có công cứu mình khỏi chết. “Vua nói với Ha-man rằng: Hãy mau mau đem áo triều và ngựa, y như lời ngươi nói, mà mặc cho Mạc-đô-chê, người Giu-đa, đương ngồi tại nơi cửa vua; chớ bỏ qua gì hết về mọi điều ngươi đã nói.  Ha-man bèn lấy áo triều và ngựa, mặc cho Mạc-đô-chê, rồi dẫn người cỡi ngựa dạo qua các đường phố của thành nội, mà hô lên trước mặt người rằng: Người mà vua muốn tôn trọng được đãi như vậy!” (6:10-11). Như vậy Đức Chúa Trời đã khiến cho Mạc-đô-chê vốn là một viên chức nhỏ không quan trọng trước đây trở nên một quan chức được nhà vua tôn trọng bội phần. Lúc này thì Ha-man bắt đầu run rẫy.

Trong Ê-xơ-tê chương bảy, “vua và Ha-man đến dự tiệc rượu với hoàng hậu Ê-xơ-tê” (7:1).  Ha-man không biết rằng đây sẽ là bữa tiệc cuối cùng của mình. Và điều gì đến cũng đã đến, Ê-xơ-tê vạch ra âm mưu đen tối của Ha-man với vua.

Thật dễ dàng để ghét và coi thường Ha-man vì sự kiêu ngạo và ác ý của ông, nhưng tôi sợ có một chút Ha-man trong tất cả chúng ta, và một số người bị tính cách của Ha-man điều khiển. Môi-se đã nhìn thấy tính cách của Ha-man trong Pha-ra-ôn. Đa-vít nhìn thấy điều này trong Sau-lơ. Chúa Giê-su nhìn thấy nó trong các môn đồ. Các môn đồ thường xuyên tranh luận: “ai trong chúng ta là người lớn nhất?” Gia-cơ và Giăng muốn gọi lửa từ thiên đàng xuống để thiêu đốt ngôi làng của người Sa-ma-ri. Sứ đồ Giăng phải xử lý một vấn đề nổi lên với Đi-ô-trép là kẻ ưng đứng đầu Hội thánh (3 Giăng 9). Và ngày hôm nay dường như có một Đi-ô-trép trong mỗi hội thánh.

NHỮNG NGƯỜI YẾU THẾ GIÀNH CHIẾN THẮNG (Ê-xơ-tê 7-10)

Ê-xơ-tê mạo hiểm, đánh cược cả mạng sống của mình để cứu tuyển dân thoát khỏi âm mưu hiểm độc của Ha-man. Trong chương bốn chúng ta đọc, “Bấy giờ bà Ê-xơ-tê nói với Ha-thác, và sai người nói lại với Mạc-đô-chê rằng:  Các thần bộc và dân chúng các tỉnh của vua đều biết rằng hễ ai, bất luận nam hay nữ, vào cùng vua tại nội viện, mà không được lịnh vời thì ai đó theo luật đã định tất phải bị xử tử đi, miễn là được vua giơ cây phủ việt vàng ra, thì mới sống” (câu 10-11). Hoàng hậu quyết định xuất hiện trước mặt vua, mặc dù không có lịnh vời. Bà thông báo cho Mạc-đô-chê biết quyết định của mình: “Hãy đi nhóm hiệp các người Giu-đa ở tại Su-sơ, rồi hãy vì tôi kiêng cữ ăn trong ba ngày và đêm, chớ ăn hay uống gì hết; tôi và các nàng hầu tôi cũng sẽ kiêng cữ ăn nữa; như vậy, tôi sẽ vào cùng vua, là việc trái luật pháp; nếu tôi phải chết thì tôi chết” (câu 16). Đây là một hành động dũng cảm của Ê-xơ-tê. Tinh thần hy sinh này giống như lời mà Chúa Giê-su dạy trong Tân ước, “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại” (Ma-thi-ơ 16:25). Vua A-suê-ru cũng giống như các nhà cai trị độc tài ở phương Đông là mẫu người không ai có thể đoán trước được các sắc lệnh của ông. Nếu nhà vua đã phế truất ngôi vị hoàng hậu của Vả-thi vì không vâng phục ông, thì ông cũng có thể làm gì đó với Ê-xơ-tê vì bà đã buộc tội quan chức cao cấp đương triều là kẻ giết người?

Trong chương bảy, Kinh Thánh ghi lại: “Ngày thứ hai, trong khi dự tiệc rượu, vua cũng nói với bà Ê-xơ-tê rằng: Hỡi hoàng hậu Ê-xơ-tê, ngươi muốn xin sự gì, tất sẽ ban cho ngươi; muốn cầu gì, dầu cho đến phân nửa nước, tất cũng ban cho.  Hoàng hậu Ê-xơ-tê thưa lại rằng: Ôi vua! Nếu tôi được ơn trước mặt vua, và nếu vua vừa ý, xin vua hãy nhậm lời cầu khẩn tôi mà ban mạng sống cho tôi, và theo sự nài xin tôi mà ban cho tôi dân tộc tôi.  Vì tôi và dân tộc tôi đã bị bán để hủy diệt, giết chết, và làm cho hư mất đi. Vả, nếu chúng tôi bị bán để làm nô lệ, tất tôi đã nín lặng, mặc dầu kẻ thù nghịch chẳng bồi thường sự thiệt hại cho vua lại được.  Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê rằng: Kẻ dám toan lòng làm như vậy là ai, và nó ở đâu?  Bà Ê-xơ-tê thưa: Kẻ cừu thù, ấy là Ha-man độc ác kia. Ha-man bèn lấy làm khiếp vía trước mặt vua và hoàng hậu.  Vua nổi thạnh nộ, đứng dậy khỏi bữa tiệc, đi ra nơi ngự viên” (câu 2-6). Nhà vua cần có thời gian để suy nghĩ khi ông đứng dậy khỏi bữa tiệc và đi ra vườn. Trong một thời gian khá nhanh, vua phải đưa ra quyết định sau lời giải bày của hoàng hậu. Trước đó ông không biết rằng hoàng hậu mà ông sủng ái là một người Do Thái, vì vậy ông đã phê chuẩn kế hoạch của Ha-man là tiêu diệt toàn bộ người Do Thái. Một người Do Thái khác tên là Mạc-đô-chê đã cứu mạng vua. Và Mạc-đô-chê cũng sẽ bị giết chết cùng với hoàng hậu nếu âm mưu của Ha-man được thực hiện.
Vua A-suê-ru trở nên giận dữ sau khi nghe lời tấu trình của hoàng hậu về kế hoạch của Ha-man. Lúc này ông đã đưa ra một quyết định đúng để bênh vực hoàng hậu và tuyển dân. Nhà vua ra lệnh treo Ha-man lên cây mộc hình. Đây chính là cây mộc hình mà chính Ha-man đã chuẩn bị để xử tử Mạc-đô-chê. Đúng là “gậy ông đập lại lưng ông.” Đồng thời vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Giu-đa, rằng: “Nầy ta đã ban cho bà Ê-xơ-tê nhà của Ha-man, còn hắn, người ta đã xử treo mộc hình, bởi vì hắn đã tra tay ra làm hại người Giu-đa.  Vậy, hai ngươi cũng hãy nhân danh vua mà viết về dân Giu-đa điều gì vừa ý hai ngươi, rồi lấy chiếc nhẫn của vua mà ấn dấu. Vì một tờ chiếu chỉ nào viết nhân danh vua và ấn dấu với chiếc nhẫn của vua không thể bãi được.” (Ê-xơ-tê 8:7-8) Mạc-đô-chê viết chiếu chỉ nhân danh vua A-suê-ru và ấn dấu bằng chiếc nhẫn vua; Chiếu chỉ ấy tỏ rằng, “vua ban phép cho dân Giu-đa ở trong các tỉnh các thành của nước A-suê-ru hiệp lại nội trong một ngày, là ngày mười ba tháng mười hai tức tháng A-đa, đặng binh vực sanh mạng mình, tuyệt diệt, đánh giết, và làm cho hư mất quyền năng của dân cừu địch toan hãm hiếp mình, vợ và con cái mình, cùng cho phép đoạt lấy tài sản của chúng nó.” (Nhà vua không thể bãi bỏ luật cũ, nhưng ông có thể ban hành một sắc lệnh mới thay thế nó). Như vậy gió đã đổi chiều! Người Do Thái là một dân tộc đứng trước nguy cơ bị Ha-man tiêu diệt, bây giờ họ có thể đứng lên bảo vệ mình, đánh giết kẻ thù nghịch và nhận lấy tài sản của chúng. Lời này được ứng nghiệm: “Người công bình được cứu khỏi hoạn nạn; Rồi kẻ hung ác sa vào đó thế cho người.” (Châm ngôn 11:8).

Kẻ thù nghịch Ha-man không những bị tiêu diệt, mà mười đứa con của ông cũng bị giết chết cùng với những kẻ thù nghịch khác (9:6-7). Mạc-đô-chê từ một người không quan trọng trở thành người vĩ đại trong mắt của mọi người. Vua A-suê-ru thăng chức cho ông trở thành tể tướng đương triều. Nhiều người trong khắp đế quốc “nhập bọn với dân Giu-đa; bởi vì chúng nó bắt sợ hãi dân Giu-đa lắm” (8:17).

“Những dân Giu-đa khác ở trong các tỉnh của vua, bèn hiệp lại binh vực cho sanh mạng mình, hãm đánh kẻ thù nghịch mình, giết bảy mươi lăm ngàn người ghen ghét mình, nhưng họ không tra tay vào hóa tài.  Việc ấy xảy ra nhằm ngày mười ba của tháng A-đa; còn ngày mười bốn tháng ấy, chúng an nghỉ, lập thành một ngày tiệc yến vui vẻ.” (9:16-17)

Lễ vượt qua của tuyển dân nhắc họ nhớ lại sự giải cứu ra khỏi Ai-cập. Kỳ lễ Hanukkah đánh dấu cho chiến thắng của Judas Maccabaeus trên người Syrian, và khôi phục đền thờ. Và Lễ Purim kỷ niệm sự đánh bại Ha-man và bảo tồn tuyển dân giữa một đất nước ngoại bang. Trong kỳ lễ Purim, sách Ê-xơ-tê   được đọc trong nhà hội, và mỗi khi tên Ha-man được xướng lên, những người người tham dự sẽ hô vang: Nguyện danh của nó bị xóa sạch.

“Mạc-đô-chê ghi chép các điều nầy, và gởi thơ cho hết thảy dân Giu-đa ở trong các tỉnh của vua A-suê-ru, hoặc gần hay xa,  để khiến cho họ hằng năm giữ ngày mười bốn và mười lăm của tháng A-đa,  vì trong ngày và tháng ấy dân Giu-đa đã thoát khỏi kẻ thù nghịch mình và được bình an, sự đau đớn đổi ra mừng rỡ, và ngày buồn thảm hóa ra ngày lễ; lại bảo họ lập thành ngày tiệc yến và vui mừng, gởi cho lẫn nhau những lễ vật, và bố thí cho người nghèo khổ” (9:20-22).

Tuyển dân Israel nhiều lần bị kẻ thù tấn công, và câu chuyện ở đây cho thấy Đức Chúa Trời giải cứu dân sự Ngài thêm lần nữa. Đế quốc Ai-cập bắt tuyển dân làm phu tù, và tìm cách dìm chết các bé trai Do Thái được sinh ra. Tuy nhiên điều ngược lại đã xảy ra: đạo quân của Pha-ra-ôn bị dìm chết trong dòng nước, và tuyển dân được tự do thoát khỏi cảnh phu tù. Trong thời kỳ các quan xét, tuyển dân bị kẻ thù tấn công và xâm lược bảy lần, nhưng Đức Chúa Trời vẫn bảo vệ dân sự. Trong thời hiện đại, các dân tộc bắt chước Nê-bu-cát-nết-sa cố gắng tiêu diệt các thanh niên ưu tú Do Thái trong lò lửa hực (Đa-ni-ên 3), nhưng Israel vẫn luôn được Chúa bảo tồn. Lời hứa trong giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham, “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước” (Sáng thế ký 12:3) không bao giờ thay đổi.

Đức Chúa Trời có thể sử dụng một người nữ – không cần đến một đạo quân để giải cứu tuyển dân khỏi sự hủy diệt của kẻ thù. C. H. Spurgeon đã nói, “Đôi khi những điều kỳ diệu có thể xảy ra, mà không cần một phép lạ vật lý nào.”  Danh Đức Chúa Trời được che giấu trong sách Ê-xơ-tê, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy bàn tay của Ngài trong từng trang sách. Nhiều người Do thái còn ở lại kinh đô Su-sơ có thể đã lãng quên các lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài ban phước cho đức tin và lòng can đảm của Ê-xơ-tê cùng với người cha nuôi Mạc đô-chê. Đức Chúa Trời trả lời sự cầu nguyện của những người cầu nguyện cùng với Ê-xơ-tê. “Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh” (1 Cô-rin-tô 1:27). Chúng ta cứ tiếp tục tín thác vào lời hứa của Ngài. Những người mạnh sức dường như có vẻ đang chiếm ưu thế, nhưng theo thời điểm của Chúa họ sẽ bị đánh bại. Những người yếu sức có thể trở nên mạnh mẽ vô địch khi họ bước theo Đức Chúa Trời của mình.

 

Bài 43

E-XƠ-RA

Vì E-xơ-ra đã định chí tra xét luật pháp của Đức Giê-hô-va, giữ làm theo, và dạy cho dân Y-sơ-ra-ên biết những luật pháp và giới mạng.

E-xơ-ra 7:10

E-xơ-ra là một học giả hàn lâm, đồng thời ông cũng là một nhà lãnh đạo lớn của tuyển dân Israel. Người Do-thái gọi ông là “Môi-se thứ hai” với hàm ý tôn trọng đặc biệt. Truyền thống Do thái nói rằng E-xơ-ra đã tập hợp các bản văn Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ và tổ chức nhà hội đầu tiên sau khi tuyển dân trở về quê hương kết thúc thời kỳ bị lưu đày. Một số người cho rằng người lãnh đạo thật sự không đến từ những tháp ngà học thuật hàn lâm nhưng là từ những chiến hào. Tuy nhiên E-xơ-ra đã chứng minh lời phát biểu này không đúng. Ông đã bày tỏ rằng sự thông thái và chức vụ lãnh đạo nối kết với nhau như hai người bạn. Mẫu người lãnh đạo đó cần một tâm trí uyên bác và “cơ bắp” rắn chắc.

E-xơ-ra được sinh ra trong thời gian tuyển dân bị phu tù ở Ba-tư. Khi trưởng thành ông trở nên một giáo sư hàng đầu của Israel. Trong E-xơ-ra 7:11, E-xơ-ra được giới thiệu là, “thầy tế lễ và văn sĩ, thạo biết những điều răn luật lệ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho Y-sơ-ra-ên.” Đức Chúa Trời đã dùng ông lãnh đạo tuyển dân trở về quê hương và khôi phục đất nước đổ nát. Từ chương một đến chương sáu của sách, E-xơ-ra ghi chép lại cuộc hồi hương của khoảng 50 000 người lưu vong trở về vào năm 538 trước Công nguyên dưới sự lãnh đạo của Joshua và Zerubbabel. Và phần còn lại của sách chúng ta thấy làm thế nào mà E-xơ-ra có thể dẫn dắt 2000 người Do Thái trở về Giê-ru-sa-lem hỗ trợ tái thiết quốc gia và hồi sinh các di sản thuộc linh. Mối quan tâm hàng đầu của E-xơ-ra là khôi phục các mục vụ trong đền thờ và làm mới lại giao ước của Đức Chúa Trời với tuyển dân. E-xơ ra tổ chức lại hệ thống các thầy tế lễ, người ca hát, người Lê-vi và những người phục vụ khác trong đền thờ. Ông cũng đem về theo một số lượng lớn vàng và bạc được nhà vua và những người Do Thái khác dâng hiến, và dĩ nhiên ông mang theo các cuộn sách Kinh văn là Lời của Đức Chúa Trời vốn là tài sản quí báu nhất của tuyển dân.

Điều gì khiến cho một người lãnh đạo được quần chúng đi theo? Chúng ta có bắt chước các khuôn mẫu lãnh đạo của thế giới và cầu nguyện cho họ sẽ làm việc trong đường lối Chúa? Chắc chắc là không. Chúa Giê-su đã dạy về lãnh đạo trong Ma-thi-ơ 20:25-28, “Các ngươi biết rằng các vua dân ngoại thì ép dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế mà trị dân.  Trong các ngươi thì không như vậy; trái lại, trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi; còn kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi các ngươi.  Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” Chúng ta có thể học tập có chọn lọc các nguyên tắc xử lý kinh doanh từ những người lãnh đạo của thế giới. Nhưng khi nói về lãnh đạo thuộc linh để ảnh hưởng tích cực lên người khác, chúng ta phải theo các nguyên tắc của Chúa Giê-su. Ở đây chúng ta có thể thấy các yếu tố liên quan sau đây làm cho E-xơ-ra trở nên một người lãnh đạo mạnh mẽ và thành công.      

LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Khi nghiên cứu đời sống của những người lãnh đạo ưu tú trong Kinh Thánh, chúng ta khám phá rằng họ đã hết lòng sốt sắng đi theo Lời của Chúa. Môi-se đã truyền lại Lời Đức Chúa Trời cho tuyển dân và thế hệ mới chuẩn bị vào đất hứa trong Phục truyền luật lệ ký. Đức Chúa Trời phán dạy Giô-suê bí quyết của sự thành công:  “Quyển sách luật pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (Giô-suê 1:8). Tình yêu của Đa-vít dành cho Lời Chúa được bày tỏ trong các Thi thiên. Chúng ta không biết chắc trước giả của Thi thiên 119 là ai, nhưng mỗi câu trong đó nhấn mạnh đến phước hạnh cho những ai vâng theo Lời Chúa.

Sứ đồ Phao-lô truyền bảo Ti-mô-thê rằng hiểu biết và vâng theo Lời Chúa là phương cách của Đức Chúa Trời cho chúng ta khám phá và phát triển các ân tứ lãnh đạo. “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, Nguyên bổn rằng: Cả Kinh-thánh đều chịu Đức Chúa Trời hà hơi vào

có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình,  hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” (2 Ti-mô-thê 3:16-17)

Những sách vở khác có thể dạy làm thế nào để kiếm sống, nhưng Kinh Thánh dạy chúng ta làm thế nào để tạo ra một cuộc sống đáng sống khi phục vụ Chúa và dân sự của Ngài.

E-xơ-ra đã “dâng hiến chính mình” để học biết Lời Chúa. Động từ “dâng hiến” ở đây có nghĩa là cương quyết và thiết lập. Nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời là trọng tâm trong cuộc sống của chính  E-xơ-ra. Điều này không phải là một hành động thỉnh thoảng ông thực hiện hay chỉ làm những khi nào thấy hứng thú. Những Cơ đốc nhân mà ưu tiên cho việc nghiên cứu Lời Chúa sẽ được Chúa sử dụng để hoàn thành mục đích Ngài. Nhưng nếu chỉ nghiên cứu Lời Chúa thì chưa đủ. Chúng ta cần phải giống như E-xơ-ra: vâng theo Lời Chúa. Sự vâng lời là yếu tố cần thiết cho sự nắm bắt, hiểu biết lẽ thật. Chúa Giê-su dạy, “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (Giăng 7:17)

Cùng với việc học biết và vâng theo Lời Chúa, chúng ta cũng phải chia sẻ Lời ấy mỗi khi có cơ hội. “Dạy” không đòi hỏi phải có một ngôi trường cố định. Chúng ta có thể dạy, hay chia sẻ Lời Chúa trong bất kỳ không gian và thời gian nào. Chúng ta là những kênh dẫn nước sống đến cho người khác, chứ không phải là những hồ chứa nước.  Chúa Giê-su phán rằng: “Vì cớ ấy, mọi thầy thông giáo đã học thông đạo (đã học biết) về Lời Chúa, thì trở nên môn đồ (vâng phục Lời) của vương quốc thiên đàng giống như một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.” (Bản dịch NASB, Ma-thi-ơ 13:52). E-xơ-ra đã trung tín trong tất cả các việc này.

SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Khi E-xơ-ra tiếp cận vua để trình bày về việc tuyển dân Israel chuẩn bị trở về vùng đất quê hương, ông theo đuổi một ý tưởng nổi bật: Đức Chúa Trời toàn năng phải được vinh hiển trước các uy quyền cai trị của người ngoại bang. Vì lý do đó, E-xơ-ra không cầu xin vua cho quân lính đi theo để bảo vệ tuyển dân trên hành trình trở về, nhưng thay vào đó ông học tập tin cậy nơi sự bảo vệ của Đức Chúa Trời.  “Tại đó, gần bên sông A-ha-va, ta truyền kiêng cữ ăn, để chúng ta hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta, và cầu xin Ngài chỉ cho biết đường chính đáng chúng ta, con cái chúng ta, và tài sản mình phải đi.  Vả lại, ta lấy làm thẹn, chẳng dám xin vua một đạo quân và lính kỵ binh vực chúng ta khỏi kẻ thù nghịch trong lúc đi đường; vì chúng ta có nói với vua rằng: Tay của Đức Chúa Trời chúng tôi phù trợ mọi kẻ nào tìm kiếm Ngài; nhưng quyền năng và thạnh nộ Ngài kháng cự những kẻ nào lìa bỏ Ngài.  Ấy vậy, chúng ta kiêng cữ ăn và cầu xin Ngài điều ấy; Ngài bèn nhậm lời chúng ta.” (E-xơ-ra 8:21-23). Đức tin mạnh mẽ của E-xơ-ra đến từ Lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17). Ông biết rằng Chúa luôn thành tín, Ngài không bao giờ quên lời hứa của Ngài. Vua Artaxerxes có thể là vua của các vua trên đất vào lúc đó (E-xơ-ra 7:12), nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Vua của các từng trời, là Đấng cai trị cả hoàn vũ, bao gồm các từng trời và trái đất (E-xơ-ra 7:12, 21, 23) và Ngài ban cho các vua trên đất quyền cai trị theo ý Ngài (E-xơ-ra 1:2).

Mỗi khi đối diện với các thách thức, các vấn đề hay có một cơ hội để hầu việc Chúa, chúng ta phải xin Chúa giúp đỡ để qui tất cả vinh hiển về cho Ngài. Xin Chúa hướng dẫn để chúng ta biết cách thực hiện các mục vụ như thế nào, tại sao phải làm mục vụ đó. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ở với dân sự Ngài là một phước hạnh đặc biệt của tuyển dân. Phao-lô viết, “Y-sơ-ra-ên, là dân được những sự làm con nuôi, sự vinh hiển, lời giao ước, luật pháp, sự thờ phượng và lời hứa” (Rô-ma 9:4). Trong thời gian lang thang ở đồng vắng, đám mây vinh hiển đã dẫn dắt tuyển dân trên mỗi bước đi, khi họ cắm trại đám mây che phủ trên đền tạm. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ở ngay trung tâm của trại quân! Nếu Israel đi theo bất kỳ tuyến đường nào khác hoặc cắm trại ở nơi khác không theo hướng dẫn của Chúa sẽ là hành động nổi loạn chống lại Ngài.

Vì vậy, chúng ta là dân sự của Chúa ngày nay phải nhớ, “hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1 Cô-rin-tô 10:31)

 

CÁNH TAY CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Giống như sứ đồ Phao-lô, E-xơ-ra quân bình giữa Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện (Công vụ 6:4), và khi ông cầu nguyện thì tay của Đức Giê-hô-va phù trợ ông. Các trưng dẫn sau đây cho thấy cánh tay của Đức Chúa Trời làm việc trong sách E-xơ-ra:

7:6 Vì tay của Đức Giê-hô-va phù trợ E-xơ-ra, nên vua ban cho người mọi điều người xin.

7:9 Nhờ tay nhân lành của Đức Chúa Trời phù trợ, E-xơ-ra đến Giê-ru-sa-lem ngày mồng một tháng thứ năm.

7:28 Vì tay của Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi phù trợ E-xơ-ra, và ông chiêu tập các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên đặng đồng đi với mình.

8:18 Vì nhờ tay Đức Chúa Trời phù trợ, Ngài cung ứng những người có kỹ năng để thực hiện các mục vụ đặc biệt trong đền thờ.

8:22 Tay của Đức Chúa Trời chúng tôi phù trợ mọi kẻ nào tìm kiếm Ngài; nhưng quyền năng và thạnh nộ Ngài kháng cự những kẻ nào lìa bỏ Ngài.

E-xơ-ra là một người cầu nguyện, và khi ông cầu nguyện thì Chúa hành động. Trước khi tuyển dân Israel khởi sự cuộc hành trình dài về lại quê hương, họ đã kiêng ăn, cầu nguyện tìm kiếm Chúa (E-xơ-ra 21-23). Khi về đến nơi, E-xơ-ra khám phá rằng có một số người nam của tuyển dân đã lấy những phụ nữ ngoại bang làm vợ. Điều này phải được xử lý. E-xơ-ra kiêng ăn và cầu nguyện cho vấn nạn này (E-xơ-ra 9), và Đức Chúa Trời hướng dẫn ông và các trưởng lão giải quyết vấn đề theo giới răn của Chúa (E-xơ-ra 10). Lời cầu nguyện của E-xơ-ra trong chương thứ chín của sách có thể so sánh với lời cầu nguyện của Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 9) và Nê-hê-mi (Nê-hê-mi 9). Cả ba người này đều hạ mình xuống và xưng tội trước mặt Chúa trên căn bản lời hứa của Ngài trong 2 Sử ký 7:14, “nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ.”

Là một con người nghiên cứu Lời Chúa, E-xơ-ra cũng là con người của đức tin. Và bởi vì đức tin và lòng khao khát của ông là dâng vinh hiển về Đức Chúa Trời, ông có thể kêu cầu và trông đợi sự trả lời từ Chúa.

 

KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA TRỜI

E-xơ-ra thất vọng biết bao khi về đến Giê-ru-sa-lem, ông khám phá rằng một số người Do Thái đã cưới vợ ngoại bang. Điều này trái nghịch với luật pháp của Chúa. “Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, cháu của Ê-lam bèn nói cùng E-xơ-ra rằng: Chúng ta phạm tội với Đức Chúa Trời chúng ta mà cưới những người nữ ngoại thuộc các dân tộc của xứ” (E-xơ-ra 10:2).  Giải pháp duy nhất vào lúc này là thú nhận tội lỗi và tái khẳng định sự vâng phục của tuyển dân đối với giao ước của Chúa. “E-xơ-ra nói rằng: Các ngươi đã phạm tội, cưới vợ ngoại bang, và thêm nhiều lên tội lỗi của Y-sơ-ra-ên. Nhưng bây giờ, khá xưng tội lỗi mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, và làm điều đẹp ý Ngài: hãy phân cách khỏi các dân tộc của xứ và khỏi những người vợ ngoại bang. Cả hội chúng bèn đáp lớn tiếng rằng: Phải, điều ông đã nói, chúng tôi phải làm theo.” (E-xơ-ra 10:10-12). Vì thế E-xơ-ra đứng ra giải quyết vấn đề này.

Thầy tế lễ E-xơ-ra không chỉ dâng hiến chính mình để học biết Lời Chúa, ông còn vâng theo Lời Chúa, truyền dạy lại Lời ấy cho dân sự.  Ông thực hành áp dụng Lời Chúa cho chính mình và người khác. Ông có tấm lòng kính sợ Chúa, và biết rằng sự vâng theo Lời Chúa là chìa khóa dẫn đến các phước hạnh. Khi Phao-lô liệt kê các tội lỗi của người Do Thái và ngoại bang trong Rô-ma 3:9-20, ông nhấn mạnh, “chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời ở trước mặt chúng nó.” (3:18). Đây là loại tội lỗi khiến cho con người dễ vi phạm hơn các tội khác. Khi kính sợ Đức Chúa Trời,  chúng ta không còn sợ bất cứ một chủ thể nào, vì Ngài ở về phía chúng ta. Ngược lại, khi con người không kính sợ Đức Chúa Trời thì họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn.

Bởi vì E-xơ-ra cống hiến chính mình cho Lời của Chúa, nên Lời đó chuẩn bị cho ông những mục vụ tốt đẹp mà Chúa ủy thác. Lời Đức Chúa Trời làm cho ông trở thành một người lãnh đạo, giáo sư và khiến ông có đức tin để tin cậy Đức Chúa Trời trong những tình huống khó khăn. Ông phục vụ Chúa vì sự vinh hiển của Ngài – không vì các tư lợi cá nhân. Khi ông cầu nguyện, cánh tay của Chúa phù trợ ở trên ông và dân sự. Kết quả là Đức Chúa Trời được vinh hiển trong tất cả những gì ông làm.

E-xơ-ra mời gọi chúng ta ghi danh vào Trường học của Đức Chúa Trời về thuật lãnh đạo. Không có Trường nào tốt hơn.

 

Bài 44

NÊ-HÊ-MI

“Tôi sai sứ giả đến nói cùng chúng rằng: Ta mắc làm công việc lớn, xuống không đặng.” Nê-hê-mi 6:3
Nê-hê-mi không phải là một thầy tế lễ hàn lâm giống như E-xơ-ra. Ông cũng không phải là một tiên tri tài năng như Ê-xê-chi-ên hay Đa-ni-ên. Ngày hôm nay chúng ta có thể gọi ông là một “giáo dân” bình thường trong cộng đồng hội thánh. Là một viên quan nhỏ dâng rượu cho vua (quan tửu chánh) Artaxerxes Longmanus, ông có trách nhiệm trong công việc và vui hưởng sự thân mật với nhà vua. Nê-hê-mi phải bảo đảm các thức ăn và đồ uống của vua thật sự an toàn, và ông cũng có trách nhiệm liên quan đến việc quản lý cung điện. Ông là con người chính trực và có độ tin cậy cao. Nê-hê-mi được xem là một trong những người có năng lực được vua sử dụng. Ở rất gần nhà vua, Nê-hê-mi có thể sử dụng ảnh hưởng của mình để trục lợi cá nhân, nhưng ông không làm như thế. Là người của Đức Chúa Trời, ông lánh xa các mưu đồ chính trị thường thấy ở các cung điện và sống để phục vụ Đức Chúa Trời của mình.

Đức Chúa Trời kêu gọi Nê-hê-mi rời bỏ nếp sống dễ chịu trong cung để trở về quê hương xây dựng lại các tường thành và các cổng của Giê-ru-sa-lem. Sách của Nê-hê-mi là một cẩm nang huấn luyện cho những người lãnh đạo tin kính. Trong năm mươi hai ngày, Nê-hê-mi và những người bạn đồng công đã vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành các bức tường và làm mới giao ước của Chúa với dân sự.

Một trong những điều khiến Nê-hê-mi tiếp tục mục vụ của mình là nhận ra rằng cá nhân ông đã tham gia vào một công trình lớn. Hầu hết mọi người nghĩ rằng việc ông trở thành quan tửu chánh cho nhà vua là một công việc lớn hơn nhiều so với việc xây lắp các viên đá vào tường thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng Nê-hê-mi đã có một suy nghĩ khác biệt. Ông đi theo ý muốn của Chúa.

Nếu không nhận lãnh trách nhiệm từ sự ủy thác của Chúa như là một cơ hội để làm vinh hiển danh Ngài, cuối cùng chúng ta sẽ nản lòng và bỏ cuộc. Bất kỳ công việc nào Chúa giao cho chúng ta làm, thì đó là một công việc lớn. Cho dù công việc đó có thể là giữ nhà, chăm sóc trẻ, vận hành máy móc, lái xe tải hay xây dựng lại một thành phố bị chiến tranh tàn phá. Khi nhận thức rõ ràng điều này, chúng ta sẽ kiên định trong công việc của mình. Phao-lô viết cho những Cơ đốc nhân đang ở địa vị tôi tớ phục vụ chủ nhân, “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 3:23).

Từ “lớn” được sử dụng ít nhất hai mươi lần trong sách Nê-hê-mi, và nó là chìa khóa để chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào để xác định là chúng ta đang làm “những việc lớn” cho Đức Chúa Trời? Chúng ta cần lập một bảng kiểm tra theo những câu hỏi sau đây trong sự thành thật với chính mình:

CHÚNG TA CÓ MỘT GÁNH NẶNG LỚN?

Nê-hê-mi không được chọn để đi đến thành phố đổ nát Giê-ru-sa-lem; ông tình nguyện để làm việc này. Nê-hê-mi tường thuật, “khi tôi đương ở tại kinh đô Su-sơ,  có một người trong anh em tôi tên là Ha-na-ni với vài người Giu-đa đến, tôi hỏi thăm chúng về dân Giu-đa đã được thoát khỏi, tức những kẻ đã bị bắt làm phu tù còn sót lại, và hỏi luôn về những việc Giê-ru-sa-lem.” (1:1-2). Có thể Nê-hê-mi đã đọc sách tiên tri Giê-rê-mi trước đó, “Hỡi Giê-ru-sa-lem, ai sẽ thương xót ngươi được sao? Ai sẽ than tiếc ngươi? Ai sẽ xây lại mà hỏi thăm ngươi?” (Giê-rê-mi 15:5). Ha-na-ni đưa ra một câu trả lời khiến cho Nê-hê-mi ngỡ ngàng: “Những kẻ bị bắt làm phu tù còn sót ở lại trong tỉnh, bị tai nạn và sỉ nhục lắm; còn vách thành của Giê-ru-sa-lem thì hư nát và các cửa nó đã bị lửa cháy” (1:3).

Tuyển dân đang ở trong một vấn nạn nghiêm trọng. Họ  xấu hổ trước các dân ngoại bang khi thành thánh bị hư nát, các cửa thành bị thiêu rụi. Giê-hô-va Đức Chúa Trời không được vinh hiển trong tình trạng này. Còn đâu nữa thành phố của Vua lớn? Tin xấu này ảnh hưởng đến quan tửu chánh của nhà vua? Điều này làm tấm lòng của Nê-hê-mi tan vỡ. Kinh Thánh ghi lại: “Khi Nê-hê-mi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày; cữ ăn và cầu nguyện Đức Chúa của các từng trời…” (1:4). Nê-hê-mi đã có một sự chọn lựa, ông quyết định đứng về phía tuyển dân, khóc than cho sự đổ nát của thành thánh và chuẩn bị cho những hành động tiếp theo. Nê-hê-mi có thể tiếp tục hưởng thụ nếp sống dễ chịu trong cung vua, và gởi tiền hay các nhu yếu phẩm về Giê-ru-sa-lem để trợ giúp tuyển dân. Ông có thể lý luận: từ kinh đô Su-sơ về Giê-ru-sa-lem xa quá, cả hàng ngàn dặm đường, tôi không thể làm được gì. Nhưng không như vậy, Nê-hê-mi là một người có gánh nặng cho nhà của Chúa.

Khi Đức Chúa Trời muốn ban phước và làm chúng ta trở nên một nguồn phước cho người khác, Ngài thường đặt một gánh nặng bên trong chúng ta. Tôi cho rằng Nê-hê-mi đã suy nghĩ về tình trạng của Giê-ru-sa-lem và cầu nguyện cho thành thánh nhiều lần trước khi ông dò hỏi các tin tức về nó. Mặc dù đang hưởng thụ cuộc sống thoải mái trong cung điện của vua Persian, nhưng tấm lòng của ông hòa hiệp với những người Do Thái tin kính khác, “có lòng hướng về đường dẫn đến Si-ôn!” (Thi thiên 84:5). D. L. Moody đã nói về Nê-hê-mi, “nếu bạn có thể khoan một cái lỗ trên đầu ông, bạn sẽ tìm thấy dấu ấn Giê-ru-sa-lem trên não của ông. Nếu bạn có thể nhìn vào tấm lòng của ông, bạn sẽ tìm thấy Giê-ru-sa-lem ở đó.” Nê-hê-mi là một người gương mẫu trong Cựu Ước được Tân Ước mô tả, “ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất” (Cô-lô-se 3:2). Ông đứng chung với sứ đồ Phao-lô trong trải nghiệm, “Tôi buồn bực lắm, lòng tôi hằng đau đớn.  Bởi tôi ước ao có thể chính mình bị dứt bỏ, lìa khỏi Đấng Christ, vì anh em bà con tôi theo phần xác,  tức là dân Y-sơ-ra-ên, là dân được những sự làm con nuôi, sự vinh hiển, lời giao ước, luật pháp, sự thờ phượng và lời hứa” (Rô-ma 9:2-3)

Chúng ta có sẵn sàng làm việc cho Đức Chúa Trời vì gánh nặng Ngài đặt vào lòng chúng ta? Chúng ta sẵn sàng vâng lời Chúa và nhìn thấy gánh nặng đó được biến đổi thành nguồn phước?

CHÚNG TA NHÌN THẤY NHỮNG VIỆC LỚN?

Nê-hê-mi ngồi xuống và khóc, và rồi ông quì xuống cầu nguyện (Nê-hê-mi 1:4-11). Những gánh nặng và trận chiến được hoán đổi thành nguồn phước xuyên qua đức tin trong sự cầu nguyện. Khi Nê-hê-mi nhìn thấy tình cảnh của tuyển dân, ông không thấy đó là một thảm họa – ông nhìn thấy đó một cơ hội. Những điều đang xảy ra là những tin tức xấu cho tuyển dân, nhưng họ sẽ không cứ ở mãi trong tình trạng đó. Người Israel có một giao ước vĩnh cửu với Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ hoàn thành lời hứa của Ngài trên họ (Nê-hê-mi 1:8-9; Phục truyền. 30:1-5). Nhờ vào sự nhơn từ lớn lao của Chúa (Nê-hê-mi 9:25, 35) những dân sót trở về sẽ trở thành những công nhân xây dựng và những chiến binh. Các bức tường và cổng của Giê-ru-sa-lem sẽ được phục hồi.

Từ ngữ mô tả cho kinh nghiệm này của Nê-hê-mi là “khải tượng.” Nê-hê-mi không phải là người ở trên mây sống với những giấc mơ hão huyền. Ông là một con người của đức tin và khải tượng. Là người mà “nhìn thấy những điều không thấy được, chọn lựa điều bất tử, và làm điều bất khả thi.” (nói theo cách của Vance Havner). Ông đánh giá vấn đề theo lăng kính và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời – không phải bằng cái nhìn yếu đuối của con người. Khi nhìn thấy những khả năng và cơ hội được mở ra trong những tình huống khó khăn, chúng ta đang đứng trong đức tin cùng với Nê-hê-mi, Môi-se, Giô-suê, Đa-vít, Phao-lô và cả một đạo quân hùng hậu là những anh hùng đức tin trong lịch sử hội thánh đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời để góp phần thay đổi thế giới này.

TÔI CÓ TIN CẬY VÀO MỘT ĐỨC CHÚA TRỜI VĨ ĐẠI?
Nê-hê-mi là một người cầu nguyện2 và ông cầu nguyện với một Đức Chúa Trời vĩ đại. “Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa của các từng trời, tức Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh, hay giữ lời giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài!” (Nê-hê-mi 1:5). Có mười hai lời thảnh cầu trong sách của Nê-hê-mi, bao gồm lời cầu nguyện xưng tội và ăn năn trong chương chín đề cập đến sự thương xót (lòng nhơn từ) lớn lao của Chúa (câu 19, 27. Nê-hê-mi và những người lãnh đạo khác đã gọi Đức Chúa Trời là: “Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi…” (câu 32). Lưu ý rằng những lời cầu nguyện trong chương chín của các sách E-xơ-ra, Nê-hê-mi và Đa-ni-ên là những lời cầu nguyện xưng tội và khẩn xin sự thương xót của Chúa trên dân sự Ngài rất xứng đáng cho chúng ta áp dụng ngày hôm nay.

Điều đầu tiên trong lời cầu nguyện của Nê-hê-mi, ông xưng nhận tội lỗi của mình và tuyển dân. Sau đó ông nhắc Đức Chúa Trời nhớ lại giao ước của Ngài với Israel. Ông biết rằng ông không chỉ cầu xin sự trợ giúp từ Đức Chúa Trời (Nê-hê-mi 1:11). Ông khép lại lời cầu nguyện xin Chúa ban cho ông thành công trong việc trình bày với nhà vua, vì ông muốn xin nghỉ phép để ông có thể đi đến Giê-ru-sa-lem. Sau đó ông đã chờ đợi bốn tháng trước khi tấu trình lên nhà vua. Khi tin cậy vào một Đức Chúa Trời vĩ đại, chúng ta có thể yên lặng chờ đợi sự hướng dẫn của Ngài và không bối rối. Vì là một viên quan tửu chánh, nên Nê-hê-mi sẽ gặp vua vào mỗi bữa ăn. Nhưng vào thời điểm ấy nhà vua có lẽ không ở trong kinh đô Su-sa, nên Nê-hê-mi phải chờ đợi vua trở về. Ông không thất vọng hay dao động đức tin vào Đức Chúa Trời của mình. Vì “kỳ mạng tôi ở trong tay Chúa” (Thi thiên 31:15)

Không ai được biểu lộ nỗi buồn hay sầu khổ trong hiện diện với vua Persian; việc đó có thể phải trả giá cho sinh mạng của họ. Nhưng nỗi u buồn của Nê-hê-mi về tình cảnh của Giê-ru-sa-lem đã phản ánh trên khuôn mặt ông, và rồi nhà vua đã hỏi về điều đó. Nê-hê-mi đã “cầu nguyện cùng Đức Chúa của các từng trời, rồi tâu với vua rằng…” (2:4-5). Ông đã nhanh chóng thưa chuyện với Chúa trước (lời cầu nguyện ngắn gọn), rồi sau đó trình bày với vua. Và Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của Nê-hê-mi. Dân sự của Chúa phải bước đi trong ánh sáng của lẽ thật và có thể dâng lời cầu nguyện vào bất cứ thời điểm nào – đặc biệt là trước những tình huống quan trọng. Hãy nhớ rằng bốn tháng cầu nguyện riêng tư của Nê-hê-mi chuẩn bị cho lời cầu nguyện ngắn gọn này được bắn ra như một mũi tên.

Là một người lãnh đạo khôn ngoan, Nê-hê-mi và những người đồng công luôn cảnh giác trước các sự tấn công từ phía kẻ thù. “Khi San-ba-lát, Tô-bi-gia, những người A-rạp, dân Am-môn, và dân Ách-đốt hay rằng việc tu bổ vách thành Giê-ru-sa-lem tấn tới, và các nơi hư lủng hầu lấp lành, thì chúng nó lấy làm giận dữ,  bèn lập mưu với nhau hết thảy đặng đến hãm đánh Giê-ru-sa-lem và làm cho nó bị rối loạn.Nhưng chúng tôi cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời chúng tôi, và lập kẻ ngày và đêm canh giữ họ” (Nê-hê-mi 4:7-9). Đôi khi chúng ta phải cầu nguyện với đôi mắt mở ra! (Mác 13:33; 14:38; Ê-phê-sô 6:18; Cô-lô-se 4:2-14)

TÔI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG NAN ĐỀ VÀ SỰ NGĂN TRỞ LỚN?

Bất kỳ ai muốn hoàn thành một mục vụ nào đó chon Đức Chúa Trời sẽ phải vượt qua các nan đề và những trở ngại. Một ai đó đã định nghĩa “nan đề” là “những điều khó chịu mà bạn nhìn thấy khi bạn rời mắt khỏi mục tiêu.” Nê-hê-mi đã tập chú đôi mắt của ông vào mục tiêu: xây dựng lại các tường thành và cổng Giê-ru-sa-lem để danh Chúa được vinh hiển và thành thánh được vững chắc. Ông biết cách làm thế nào đối mặt với những trở lực, tin cậy sự trợ giúp từ Đức Chúa Trời và vượt qua chúng.

Thử thách đầu tiên của ông là vượt qua sự thờ ơ của mọi người. Nê-bu-cát-nết-sa đã hủy diệt Giê-ru-sa-lem vào năm 586 trước Công nguyên, và những người Do Thái lưu đày đầu tiên trở về vào năm 538. Họ hoàn thành việc xây dựng đền thờ vào năm 516 và sau đó sửa chữa lại thành phố để có thể ở được. Nê-hê-mi trở về Giê-ru-sa-lem vào năm 444, điều đó có nghĩa là cư dân đã sống bên trong thành mà không có cổng và tường gần như trong 150 năm! Họ đã quen với tình cảnh này, và nếu có ai đề nghị một dự án xây dựng, họ sẽ không phản hồi tích cực. Nhưng Đức Chúa Trời đã sử dụng Nê-hê-mi đặt gánh nặng của ông vào lòng tuyển dân và họ đồng ý chung tay xây dựng lại tường thành (Nê-hê-mi 2:11-20).

Bất cứ khi nào dân sự của Chúa khởi sự hầu việc Ngài, kẻ thù sẽ tấn công và cố gắng ngăn trở công việc. “San-ba-lát, người Hô-rôn, Tô-bi-gia, kẻ tôi tớ Am-môn, và Ghê-sam, người A-rạp, được hay việc đó, bèn nhạo báng và khinh bỉ chúng tôi. Chúng nó nói rằng: Các ngươi làm chi đó? Các ngươi có ý phản nghịch vua sao?  Tôi bèn đáp với chúng nó rằng: Đức Chúa của các từng trời sẽ ban cho chúng ta sự hanh thông; vì vậy, chúng ta, là tôi tớ Ngài, sẽ chỗi dậy và xây sửa lại; nhưng các ngươi không có phần, hoặc phép, hoặc kỷ niệm trong Giê-ru-sa-lem.” (Nê-hê-mi 2:19-20). Và khi tiến trình công việc không bị đình trệ, kẻ thù lại chế giễu và cười nhạo về  điều đó (Nê-hê-mi 4:1-3). Những người Israel cầu nguyện và tiếp tục phần việc của mình, đây là một khuôn mẫu tốt để chúng ta bước theo. Nhưng ba kẻ đối nghịch là San-ba-lát, Tô-bi-gia, Ghê-sam không dễ dàng dừng lại, vì họ kêu gọi các đồng minh đe dọa tấn công Giê-ru-sa-lem. Nê-hê-mi kêu gọi trang bị vũ khí cho người Israel trong khi làm việc tái thiết tường thành. Mọi người cầu nguyện và quân thù thối lui. C. H. Supergeon đã từng nói, “nỗi sợ hãi có thể đánh thức nhưng không bao giờ được phép làm suy yếu chúng ta.”

Nếu kẻ thù không thể ngăn cản chúng ta bằng cách tấn công từ bên ngoài, chúng sẽ tấn công từ bên trong. Đầu tiên một số công nhân sẽ cảm thấy thất vọng và đưa ra quyết định sai lầm: “Người Giu-đa nói: Còn nhiều đồ hư nát, và sức lực của kẻ khiêng gánh đã yếu mỏi; chúng ta không thể xây cất vách thành được” (Nê-hê-mi 4:10). Sau đó những người Do Thái nghèo hơn đã kêu cứu. Tình hình kinh tế khó khăn và một số người Do Thái giàu có đã khai thác đồng bào của mình bằng cách cho vay tiền với lãi suất rất cao. Cây trồng đã không sai trái và nạn đói đang đến. Những người Do Thái nghèo hơn kêu cứu và Nê-hê-mi phải đứng ra giải quyết vấn đề này (Nê-hê-mi 5)

Nếu kẻ thù không tấn công cách trực diện, chúng sẽ tấn công nhiều phía khác. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời ban cho dân sự Ngài những người lãnh đạo tốt để nhìn thấy vấn đề, và kẻ thù luôn luôn tấn công những người lãnh đạo. San-ba-lát và Ghê-sem tìm cách làm hại Nê-hê-mi sau khi các vách thành đã được xây sửa xong, nhưng Nê-hê-mi biết âm mưu của chúng (Nê-hê-mi 6:1-4). Khi ấy kẻ thù phao vu tin đồn rằng sinh mạng của Nê-hê-mi đang ở trong sự nguy hiểm  và họ đề nghị ông gặp họ tại đền thờ để họ có thể bảo vệ ông, nhưng Nê-hê-mi trả lời: “một người như tôi đây sẽ chạy trốn ư?” (Nê-hê-mi 6:10). Trong tình huống này Nê-hê-mi chứng tỏ ông là một người chăn tốt, không phải là một kẻ chăn thuê (Giăng 10:12-13)

Vấn đề tồi tệ nhật bên trong những người nam của tuyển dân là họ lấy vợ ngoại bang (trong đó có các thầy tế lễ và người Lê-vi). Điều này vi phạm luật của Chúa (Nê-hê-mi 13; E-xơ-ra 9-10). Giải quyết vấn đề này cần kiên nhẫn và thời gian. Chỉ những người lãnh đạo đúng đắn theo Lời Chúa mới có thể giải quyết vấn đề này. Hãy nhớ rằng, nếu không có nan đề, sẽ không có sự phát triển. Không ma sát, sẽ không không chuyển động. Sa-tan sẽ không bao giờ tấn công một xác chết.

TÔI CÓ DÁM HY SINH?

Những kẻ chăn thuê làm việc cho các lợi ích cá nhân, và sau đó chạy trốn thay vì đối mặt với kẻ thù để bảo vệ đàn chiên. Nhưng những người lãnh đạo tốt hy sinh và trả giá cho dân sự của Đức Chúa Trời. Tinh thần làm việc của Nê-hê-mi được mô tả: “Chúng tôi làm công việc là như vậy; phân nửa họ cầm cây giáo từ lúc rạng đông cho đến khi sao mọc.  Trong lúc ấy, tôi cũng nói với dân sự rằng: Mỗi người hãy cùng tôi tớ mình ngủ đêm tại trong Giê-ru-sa-lem, để ban đêm chúng phòng giữ, và ban ngày làm công việc.  Nào tôi, nào anh em tôi, nào các người đầy tớ tôi, nào những lính canh theo tôi, chẳng có ai cởi áo mình ra, mỗi người đều đeo binh khí nơi bên hữu mình.” (4:21-23). Ông không có bất kỳ đặc quyền điều hành nào. Sự thanh liêm và chính trực của Nê-hê-mi còn được thể hiện khi ông được lập làm tổng trấn trong xứ Giu-đa, ông đã không giống như những quan chức đương thời – là những người chỉ biết trục lợi cá nhân. Ông đã có cách hành xử khác biệt (Nê-hê-mi 5:14-19). Ông là một viên quan gương mẫu trong cung.

Trong một buổi nhóm cầu nguyện đêm khuya vào những năm 1950, tôi đã nghe một thánh đồ cầu nguyện, “Lạy Chúa, điều duy nhất chúng con biết về sự hy sinh là sẵn sàng chết vì Phúc âm mà không cần quan tâm là có ai biết chuyện đó không.” Người này đã có một lời cầu nguyện đúng. Người anh trai và chị dâu của ông đã bị những kẻ thù của Cơ đốc giáo giết vào năm 1934 tại Trung Hoa. Theo khuynh hướng tự nhiên, nếu thỉnh thoảng cống hiến, chúng ta sẽ nói cho mọi người biết về điều đó, nhưng Nê-hê-mi thì không, ông biết Đức Chúa Trời “chấm điểm” cho mỗi người.  Những người lãnh đạo chân thật không đòi hỏi người khác phải tôn cao mình. Họ lấy chính mình làm gương mẫu cho hành động hy sinh và không cần nói cho ai biết về điều đó.

Chúa Giê-su đã nêu một tấm gương mẫu mực cho tất cả các nhà lãnh đạo, khi Ngài từ bỏ chính mình và chết trên thập tự giá. Đám đông tại đồi Calvary nhìn thấy sự khổ nạn của Chúa Giê-su và thách thức Ngài, “Hãy xuống khỏi thập tự giá đi thì chúng ta sẽ tin.” Chúa Cứu thế đáp lại trong tinh thần của Nê-hê-mi 6:3, “Ta mắc làm công việc lớn, xuống không đặng.”

Sách của Nê-hê-mi khởi đầu với những khó khăn lớn (1:3), nhưng đóng lại trong sự vui mừng lớn, bởi vì Đức Chúa Trời đã ban năng lực để Israel hoàn thành công việc của họ trong năm mươi hai ngày. “Trong ngày đó, chúng dâng những của lễ trọng thể và vui vẻ; vì Đức Chúa Trời đã khiến cho chúng vui mừng khấp khởi; các người đàn bà và con trẻ cũng vui mừng nữa; sự vui mừng của thành Giê-ru-sa-lem vang ra rất xa” (12:43). Tất cả những điều này khởi phát từ một người có gánh nặng để làm một điều gì đó cho Giê-ru-sa-lem.

Một người nam có thể làm được điều gì? Hãy đọc sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi.

Một người nữ có thể làm được điều gì? Hãy đọc về Đê-bô-ra, Ê-xơ-tê, Ru-tơ.

Một đứa trẻ có thể làm được gì? Hãy đọc 2 Các vua 5:1-6 và Giăng 6:8-13

Trong những ngày sắp tới bạn có một gánh nặng, hãy thưa với Chúa về nó. Đức Chúa Trời có thể biến đổi gánh nặng của bạn thành một nguồn phước trong đời sống bạn và người khác.

Phần 2

Nhìn vào đời sống của các nhân vật trong Tân Ước và câu văn (cụm từ) bày tỏ đời sống họ.

 

Phần Tiếp Nối.

Cựu Ước là sách của các dòng dõi A-đam (Sáng. 5:1), và kết thúc của nó là một ghi chú không được tốt, “ta đến lấy sự rủa sả mà đánh đất nầy.” (Ma-la-chi 4:6). Nhưng Tân ước là sách “Gia phổ Đức Chúa Jêsus Christ” (Ma-thi-ơ 1:1). Và cuối Tân ước chúng ta đọc thấy, “Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa.” (Khải. 22:3). Giê-su Christ là A-đam sau cùng đã được tôn lên làm Đầu của cõi sáng tạo mới, và tất cả những ai tin cậy Ngài sẽ trở thành một phần trong phép lạ này: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.” (2 Côr. 5:17). Và một ngày kia sẽ sống trong trời mới và đất mới theo lời hứa của Chúa (Khải. 21-22)

Khi đến với Tân ước để học tập từ các cụm từ bày tỏ đời sống của các nhân vật điển hình, chúng ta bắt đầu với Chúa Giê-su Christ. Bởi vì nếu không có Ngài sẽ không có giao ước mới. Nếu bạn có quan điểm sai lầm về Chúa Giê-su, bạn sẽ sai lầm trong các lẽ thật của Tân ước. Nếu bạn đúng đắn với Chúa Giê-su – có một mối liên kết cá nhân với Ngài, bạn sẽ nhận được sự tha tội, bạn thuộc về Ngài, và bạn sẽ kinh nghiệm sự sống dư dật mà Ngài đã hứa ban.

 

 

Bài 45

CHÚA GIÊ-SU CHRIST

“Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường.”

Lu-ca 3:22

Một đám đông phấn khích tập trung trên bờ sông Giô-đanh để lắng nghe một con người đặc biệt đến từ đồng vắng. Người này không làm bất kỳ một phép lạ nào, nhưng thông điệp của ông rao giảng có một một sức hút kỳ lạ đến mọi người, ngay cả những lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ cũng đến xem. Giữa Cựu Ước và Tân Ước có bốn trăm năm yên lặng. Và rồi Giăng Báp-tít xuất hiện, ông là nhà tiên tri cuối cùng và vĩ đại nhất của người Do Thái. Ông công bố vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần. Nó không phải là một vương quốc chính trị như nhiều người Do Thái đang trông mong. Nó là một vương quốc thuộc linh trong đó có sự tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời. Giăng đang báp-tem cho những ai ăn năn tội lỗi và tiếp nhận sứ điệp của ông. Chức vụ của ông nhấn mạnh, “phúc âm Chúa Giê-su Christ là Con Đức Chúa Trời” (Mác 1:1; Công vụ. 1:21-22; 10:37-38). Từ “phúc âm” có nghĩa là “tin tức tốt lành”. Và thực sự đó là một tin tốt. Vì Đấng Mê-si đã đến theo như các lời tiên tri đã được dự báo trong Cựu ước. Một kỷ nguyên mới đang đến.

Chúa Giê-su từ Na-xa-rét (nơi Ngài đã lớn lên trong gia đình của một người thợ mộc) đến sông Giô-đanh. Lúc đó Chúa ba mươi tuổi và là một người vô danh trong đế quốc rộng lớn. Chúa đến để chịu Giăng làm phép báp-tem chuẩn bị cho một chức vụ ba năm sắp tới. Khi Chúa Giê-su nhận báp-tem và ra khỏi nước, Đức Chúa Cha từ thiên đàng công bố: “Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường.”

Mác ghi nhận rằng “Ngài thấy các từng trời mở ra” (Mác 1:10). Và Đức Thánh Linh lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Ngài. Cảnh tượng đầy kịch tính này bày tỏ cho chúng ta biết Chúa Giê-su là ai, tại sao chúng ta phải tin cậy Ngài và nhận Ngài là Cứu Chúa của đời sống chúng ta.

GIÊ-SU LÀ CON CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Đức Cha công bố về Chúa Giê-su, “Ngươi là Con của Ta.” Điều này có nghĩa Chúa Giê-su Christ là một trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Khi các người lãnh đạo của Do Thái giáo đặt câu hỏi về Chúa Giê-su, Giăng Báp-tít trả lời: “Ta đã thấy và làm chứng về người này rằng, đây là Con Đức Chúa Trời.” Cảnh tượng đang ghi nhớ trong Lu-ca 3:22 bày tỏ chức vụ của Chúa Giê-su trong Đức Chúa Trời ba ngôi hiệp một: Đức Cha tuyên phán từ thiên đàng, Đức Con nhận lãnh báp-tem dưới sông Giô-đanh, và Đức Thánh linh ngự xuống từ thiên đàng trong hình chim bồ câu đậu trên Chúa Giê-su. Gần cuối của chức vụ, trước khi Chúa Giê-su lên thập tự giá, Đức Cha xác nhận một lần nữa về thân vị của Chúa Giê-su trên núi hóa hình, “Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường; hãy nghe lời Con đó!” (Ma-thi-ơ 17:5)

Tiên tri Ê-sai đã dự báo trước về Đấng Mê-si sẽ đến, “Nầy, đầy tớ ta đây, là kẻ ta nâng đỡ; là kẻ ta chọn lựa, là kẻ mà linh hồn ta lấy làm đẹp lòng. Ta đã đặt Thần ta trên người, người sẽ tỏ ra sự công bình cho các dân ngoại” (Ê-sai 42:1; Ma-thi-ơ 12:18-21). Trong câu này, Đức Cha phán dạy về Đức Con. Đức Cha đặt Đức Thánh Linh trên Đức Con. Đây là khải thị về Đức Chúa Trời ba Ngôi hiệp một. Ngay cả Satan và những quỉ sứ của nó cũng nhận biết Thần tính của Chúa Giê-su Christ (Ma-thi-ơ 4:3; 8:29), và Sau-lơ người Tạt-sơ cải đạo trở thành sứ đồ Phao-lô cũng dạn dĩ công bố trong các nhà hội rằng: “Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời.” (Công vụ. 9:20).

Khi Chúa Giê-su hỏi các môn đồ Ngài là ai. Phi-e-rơ thưa rằng, “Thầy là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:15-16). Và Chúa Giê-su không phủ nhận điều này. Sứ đồ Giăng viết, “Ví bằng có ai xưng Đức Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời ở trong người, và người ở trong Đức Chúa Trời” (1 Giăng 4:15). Giăng kết thúc lá thư thứ nhất của ông với một lời nhắc nhở: “Nhưng chúng ta biết Con Đức Chúa Trời đã đến, Ngài đã ban trí khôn cho chúng ta đặng chúng ta biết Đấng chân thật, và chúng ta ở trong Đấng chân thật, là ở trong Đức Chúa Giê-su Christ, Con của Ngài. Ấy chính Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời.  Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng!” (1 Giăng 5:20-21). Nếu bạn không thờ phượng Giê-su là Con Đức Chúa Trời, khi đó bạn không thờ phượng Đức Cha. Chúa Giê-su phán, “Ai không tôn kính Con, ấy là không tôn kính Cha, là Đấng đã sai Con đến.” (Giăng 5:23)

Đây chính là lý do Giăng viết sách Phúc âm, trong đó ông giới thiệu Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời và khích lệ con người tiếp nhận Ngài để nhận lãnh sự sống đời đời. “Đức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy.  Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (Giăng 20:30-31).

“Khi người Pha-ri-si nhóm nhau lại, thì Đức Chúa Jêsus hỏi họ rằng:  Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thể nào? Ngài là con ai?” (Ma-thi-ơ 22:41-42). Câu hỏi này vẫn còn là một câu hỏi quan trọng nhất của đời sống.

CHÚA GIÊ-SU LÀ CON YÊU DẤU

Lần đầu tiên chúng ta tìm thấy từ yêu trong Sáng thế ký 22:2, “Đức Chúa Trời phán rằng: Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sác, và đi đến xứ Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ chỉ cho.” Bây giờ chúng ta suy nghĩ đến Chúa Giê-su. Từ yêu được tìm thấy trong sách Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca. Trong khi Chúa Giê-su nhận phép báp-tem, Đức Cha phán, “Ngươi là Con yêu dấu của ta.” Sự nhấn mạnh trong Sáng thế ký là tình yêu của cha Áp-ra-ham dành cho Y-sác con trai mình. Và sự nhấn mạnh trong Tân ước là tình yêu thiên thượng của Đức Cha dành cho Đức Con. Đây là một chủ đề mà chúng ta cần chú ý. Khi đọc Phúc âm Giăng, suy ngẫm câu 16, chương 3 chúng ta khám phá tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho toàn thể nhân loại.

Điều quan trọng mà chúng ta cần thấy là mối quan hệ trong ba Ngôi Đức Chúa Trời là tình yêu. Giăng Báp-tít tuyên bố, “Cha yêu Con, và đã giao hết mọi vật trong tay Con” (Giăng 3:35). Và Chúa Giê-su tuyên phán với các lãnh đạo Do Thái giáo, “Cha yêu Con và tỏ cho mọi điều Cha làm” (Giăng 5:20). Sau đó Chúa cũng dạy, “Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình, để được lấy lại” (Giăng 10:17). Chúng ta thường nghĩ về sự chết của Chúa trên đồi Gô-gô-tha như một minh chứng Đức Chúa Trời yêu tội nhân – và điều này là thực (Rô-ma 5:8). Nhưng đồi Sọ cũng là bằng chứng nói rằng Con yêu Cha. Chúa Giê-su xác nhận, “Nhưng thế gian phải biết rằng ta yêu mến Cha, và làm theo điều Cha đã phán dặn” (Giăng 14:31)

Tuy nhiên còn có thêm lẽ thật ở đây. Chúa Giê-su yêu chính Ngài cũng giống như Cha yêu Con! Và Cha yêu chúng ta cũng giống như Ngài yêu Con. “Như Cha đã yêu thương ta thể nào, ta cũng yêu thương các ngươi thể ấy” (Giăng 15:9). Lời cầu nguyện của Cứu Chúa là: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để cho họ toàn vẹn hiệp làm một, và cho thế gian biết chính Cha đã sai Con đến, và Cha đã yêu thương họ cũng như Cha đã yêu thương Con” (17:23). Chúa Giê-su bày tỏ: “Con đã tỏ danh Cha ra cho họ, Con lại sẽ tỏ ra nữa, để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa” (17:26).

Cha yêu chúng ta cũng giống như Ngài yêu Con! Con yêu chúng ta cũng giống như Cha yêu Con! Cha đã ban ân điển vô điều kiện cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài. Phao-lô viết, “bởi sự thương yêu của Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ, theo ý tốt của Ngài,  để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!” (Ê-phê-sô 1:5-6). Chúng ta được chấp nhận trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời.

GIÊ-SU LÀ CON VÂNG PHỤC

Tình yêu thương và sự hài lòng của Cha tập chú vào Con của Ngài. Và bởi vì chúng ta ở trong Con, nên Ba Ngôi Đức Chúa Trời tập chú vào chúng ta. Đức Cha phán dạy qua tiên tri Ê-sai: “Nầy, tôi tớ ta đã chọn. Là người mà ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thánh Linh ta ngự trên người. Người sẽ rao giảng sự công bình cho dân ngoại” (Ma-thi-ơ 12:18; Ê-sai 42:1). Đức Cha phán với Con, “Ta đẹp lòng về ngươi.” Và Ngài cũng muốn nói như thế với chúng ta. Chúa Giê-su làm chứng về chính Ngài: “ta chẳng tìm ý muốn của ta, nhưng tìm ý muốn của Đấng đã sai ta” (Giăng 5:30). Và Ngài cũng nói, “Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Chúa Cứu thế phán, “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (Giăng 4:34).

Bước vào năm ba mươi tuổi, Chúa Giê-su chưa tuyên giảng sứ điệp Phúc âm hay làm một phép lạ nào, nhưng Đức Cha đẹp lòng về Ngài. Chúa Cứu thế trưởng thành theo một cách quân bình. “Đức Chúa Giê-su khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta. (Lu-ca 2:52). Khi đủ tuổi Ngài làm việc trong xưởng mộc với người cha phần xác Giô-sép (Ma-thi-ơ 13:55; Mác 6:3). Chúa Cứu thế vâng phục cha mẹ phần xác: “Ngài theo về thành Na-xa-rét và chịu lụy cha mẹ” (Lu-ca 2:51). Tại Na-xa-rét Cứu Chúa học và làm nghề thợ mộc với gia đình.

Khi một Cơ đốc nhân được hỏi làm thế nào để sống đẹp lòng Đức Chúa Trời, câu trả lời thường là cầu nguyện, dâng phần mười, suy ngẫm Kinh Thánh hàng ngày và thi hành các mục vụ khác. Nếu tất cả những công việc này dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời, khi đó chúng ta được Chúa đẹp lòng. Đức Chúa Trời cũng đẹp lòng khi con cái tôn kính cha mẹ và khi các công nhân hoàn thành công việc được giao cách tốt nhất. “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật.  Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa” (Ê-phê-sô 5:8-10). “Hỡi kẻ làm con, mọi sự hãy vâng phục cha mẹ mình, vì điều đó đẹp lòng Chúa” (Cô-lô-se 3:20)

Cha thiên thượng đẹp lòng với ba mươi năm đầu tiên trên đất của Con, và Ngài cũng đẹp lòng khi Con nhận báp-tem tại sông Giô-đanh. Tại sao? Bởi vì phép báp-tem là một hình ảnh về tương lai của Cứu Chúa phải chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại. Chúa Giê-su dạy, “Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình, để được lấy lại” (Giăng 10:17). Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, Chúa phán với các môn đồ, “Có một phép báp-têm mà ta phải chịu, ta đau đớn biết bao cho đến chừng nào phép ấy được hoàn thành!” (Lu-ca 12:50)

Sách Giáo lý chính thức của Giáo hội Công Giáo ghi: “Phép báp têm, dấu hiệu nguyên thủy và đầy đủ là sự trầm mình trong nước, biểu thị cách hiệu quả cho Ki-tô hữu đi vào mồ mã chết vì tội lỗi với Chúa Ki-tô và rồi sống một đời sống mới.”1 Martin Luther viết rằng phép báp-tem là biểu tượng của sự chết và sự phục sinh. Những ai nhận lãnh báp-tem phải hoàn toàn trầm mình trong nước.2 John Calvin, nhà Thần học của Giáo hội Cải chánh viết trong sách Các Chủng Viện Của Cơ Đốc Giáo, “từ báp-tem có nghĩa là trầm mình, và rõ ràng nó là nghi thức ngâm mình trong nước đã được thực hành trong các hội thánh đầu tiên.”3 Trong phần chú giải Kinh Thánh, John Wesley nhà sáng lập giáo hội Methodist đã chú thích Rô-ma 6:4, “chúng ta được chôn với Chúa Giê-su qua nghi thức trầm mình.”4 Trong thực tế, sự thực hành của Wesley là trầm mình các trẻ sơ sinh ba lần trong nước.

Có vẻ như hiển nhiên là Giăng đã chôn Chúa Giê-su trong nước tại sông Giô-đanh và rồi đem Ngài ra khỏi nước là bức tranh về sự chết, sự chôn và sự phục sinh của Chúa. Hành động này tượng trưng cho phép báp-têm đau khổ của Chúa chúng ta trên thập tự giá khi những “cơn sóng và nước lớn” của cơn thịnh nộ Dức Chúa Trời chống lại tội lỗi đổ trên Ngài (Thi thiên 42:7). Lưu ý thú vị là Giô-na cũng trích dẫn Thi thiên 42:7 khi ông bị chìm xuống biển trong bụng của một con cá lớn (Giô-na 2:4). Và Chúa Giê-su đã dạy, “Ngài đáp rằng: Dòng dõi hung ác gian dâm nầy xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng cho dấu lạ khác ngoài dấu lạ của đấng tiên tri Giô-na.  Vì Giô-na đã bị ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm, cũng một thể ấy, Con người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm.  Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng và ăn năn; mà đây nầy, có một người tôn trọng hơn Giô-na!” (Ma-thi-ơ 12:39-41). Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo đương thời dạy rằng Giê-su người Na-xa-rét đã chết, nhưng bài giảng của Phi-e-rơ trong ngày lễ Ngũ Tuần nhấn mạnh đến sự phục sinh của Chúa Giê-su Christ, và “dấu lạ của tiên tri Giô-na” là dấu lạ duy nhất mà Chúa Giê-su ban cho Israel.

Nhưng đó không phải là tất cả. Khi Giăng Báp-tít phản đối làm phép báp-tem cho Chúa Giê-su. Chúa Cứu thế trả lời: “Bây giờ cứ làm đi, vì chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công bình như vậy” (Ma-thi-ơ 3:15). Có phải đại từ “chúng ta” ở đây chỉ về Chúa Giê-su và Giăng? Tôi không nghĩ như vậy. Bởi vì một người thế hạ, tội lỗi như Giăng Báp-tít làm sao có thể hợp tác với Đức Chúa Trời để làm trọn mọi việc công bình? Tôi tin rằng từ “chúng ta” ở đây chỉ về Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Cha phát ngôn từ thiên đàng, Con nhận lãnh báp-tem và Đức Thánh Linh đậu xuống trên Chúa Giê-su trong hình chim bồ câu. Cả Ba Ngôi đều góp phần trong chương trình cứu chuộc vĩ đại. Cha thiên thượng hài lòng vì Con sẵn sàng chịu thống khổ và trả giá bằng sự chết để trở thành Cứu Chúa của thế gian. “Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình, để được lấy lại” (Giăng 10:17). Cứu Chúa đã vâng phục cho đến chết thậm chí chết trên cây thập tự (Phi-líp 2:8).

Thêm một điều nữa. Đức Thánh Linh ngự xuống trong hình chim bồ câu, và tên Giô-na có nghĩa là bồ câu. Bồ câu làm chúng ta nhớ đến Nô-ê và chiếc tàu (Sáng. 8:6-12), và Phi-e-rơ nối kết phép báp-tem với trận Đại hồng thủy và sự phục sinh của Christ (1 Phi-e-rơ 3:13-22). Hãy suy nghĩ đến những mối liên quan này.

GIÊ-SU LÀ CON CHIẾN THẮNG

Đức Thánh Linh đến trong hình chim bồ câu xác nhận Chúa Giê-su đã đến gặp Giăng Báp-tít (Giăng 1:32-34), và từ khi Chúa bước vào thế giới, thì Đức Thánh Linh làm vinh hiển Chúa Giê-su và bày tỏ Ngài cho những tấm lòng tìm kiếm nước trời. Chúa Giê-su dạy về Đức Thánh linh: “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16:14). J. Sidlow Baxter đã nói, “Bất cứ điều gì bắt đầu với Đức Thánh Linh, thì luôn luôn dẫn tới Christ.” Thật là một lẽ thật kỳ diệu! Đức Thánh Linh chỉ ra Chúa Giê-su hiện diện trong Lời và ban quyền năng để chúng ta làm chứng về Chúa Giê-su cho thế giới (Giăng 15:26-27). “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công vụ 1:8).

Chúa Giê-su bước đi và thi hành chức vụ trên đất trong quyền năng Đức Thánh Linh (Công vụ. 10:37-38), và chúng ta cũng phải như vậy. Tuy nhiên có nhiều tín hữu cho rằng vì Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời nên Ngài chỉ đơn giản vận dụng quyền năng siêu việt của Đấng Toàn năng.  Những người này cũng lý luận rằng bởi vì họ không có cùng thần tánh như Chúa Giê-su nên Đức Chúa Trời không thể trông đợi nhiều nơi họ. Thực ra đó là một lối suy nghĩ sai. Khi Cứu Chúa ở trên đất, Ngài tùy thuộc vào Đức Thánh Linh, vào sự cầu nguyện, vào Lời. Và những nguồn năng lực thuộc linh đó có sẵn cho chúng ta hôm nay. Khi Satan cám dỗ Chúa Giê-su trong đồng vắng, sự cám dỗ đầu tiên của nó là thách thức Chúa Giê-su sử dụng quyền năng siêu nhiên để phục vụ chính Ngài, và không sống bởi đức tin vào ý muốn của Cha thiên thượng (Ma-thi-ơ 4:1-4). Khi tìm kiếm vinh quang qui về Đấng Christ, Đức Thánh Linh sẽ vận hành trong chúng ta – chúng ta được ở trong Christ, ở trong Lời Chúa và trong sự cầu nguyện.

Bắt đầu với sự thụ thai kỳ diệu bởi quyền năng Đức Thánh Linh (Lu-ca 1:26-28), toàn bộ công tác của Cứu Chúa Trên đất được khai phóng và kiểm soát bởi Đức Thánh Linh.

Sau trải nghiệm vinh hiển tại sông Giô-đanh, Cứu Chúa được Thánh Linh dẫn dắt vào trong đồng vắng chạm trán với ma quỉ và đánh bại nó. (Trong Cựu ước những người Do Thái vượt qua sông Giô-đanh vào trong đồng vắng, rồi tiến về miền đất hứa.) Khi Đức Thánh Linh đưa Chúa Giê-su trở về Na-xa-rét là nơi Ngài công bố sứ điệp đầu tiên trong nhà hội và bị giáo đoàn từ chối (Lu-ca 4:14-30). Chức vụ rao giảng Phúc âm của Chúa cũng bao gồm chữa lành bệnh tật, đuổi quỉ, gọi kẻ chết sống lại, hay đào tạo các môn đồ. Tất cả các mục vụ này đều được thực hiện trong quyền năng Đức Thánh Linh. Đức Con qui vinh hiển về Đức Cha. Và Cha làm vinh hiển Con (Giăng 12:28; 13:31-32; 17:1). Mục vụ của Con được hoàn thành trong năng quyền Thánh Linh. Không có Ngôi nào tìm vinh hiển cho riêng mình.

Kết luận về bài học này khá rõ ràng: Nếu Con Đức Chúa Trời cần đến Đức Thánh Linh để hoàn thành ý chỉ Đức Chúa Trời, thì chúng ta ngày nay càng cần đến quyền năng Đức Thánh Linh là dường nào!  Con người có thể làm nhiều việc tốt đẹp nhưng không dâng vinh hiển cho Chúa Giê-su vì không nhờ cậy Đức Thánh Linh hướng dẫn và ban quyền năng. Các hội chúng ngày hôm nay có quá nhiều bất động sản, các thiết bị công nghệ tinh vi, nhiều kiến thức về quan hệ công chúng, tài năng của con người và…. Nhưng hội chúng để Đức Thánh Linh ra bên ngoài. Con Đức Chúa Trời đang ngự bên hữu Cha thiên thượng khao khát được trao quyền năng chiến thắng của Ngài cho thân thể Ngài trên đất, nhưng chúng ta thích sống theo một cách khác. “Anh em tham muốn mà chẳng được chi; anh em giết người và ghen ghét mà chẳng được việc gì hết; anh em có sự tranh cạnh và chiến đấu; anh em chẳng được chi, vì không cầu xin” (Gia-cơ 4:2). Có bao nhiêu lời cầu nguyện của các thánh đồ xin Cha tuôn đổ quyền năng Thánh Linh Ngài trên Hội Thánh? Đâu là chìa khóa cho nguồn năng lực vô biên của Hội Thánh đầu tiên? “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công vụ 4:31).

Oswald Chambers đã viết, “Có một điều mà chúng ta không thể bắt chước – không thể bắt chước sự đầy dẫy Đức Thánh Linh.”

Nhưng chúng ta có thể tiếp tục đánh lừa người khác và chính chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không thể đánh lừa Đức Chúa Trời.

Bài 46

Bài 46

XA-CHA-RI VÀ Ê-LI-SA-BÉT

Trong đời Hê-rốt, vua nước Giu-đê, có một thầy tế lễ, về ban A-bi-a, tên là Xa-cha-ri; vợ người là Ê-li-sa-bét, thuộc về chi phái A-rôn.  Cả hai đều là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn và lễ nghi của Chúa một cách không chỗ trách được.

Luc-ca 1:5-6

Nhà sử học Arnold Toynbee phát biểu trong ngày sinh nhật tám mươi tuổi của ông, “tôi vui mừng vì đang sống những ngày cuối đời ở nước Anh. Người Mỹ đang hướng tới những cái mới và mới hơn nữa mà có thể tôi không theo kịp. Sẽ buồn chán khi sống ở Mỹ trong lúc tuổi già.”

Wow, thưa giáo sư Toynbee, chúng tôi là những người già ở Mỹ không quá buồn chán. Chúng tôi vui mừng về đời sống ở Mỹ, đặc biệt là khi nói đến các thành tựu của công nghệ, y học, và những điều khác. Nhưng phải thừa nhận rằng đôi khi chúng tôi đau buồn vì xã hội tôn vinh người trẻ và có xu hướng phân loại người cao niên ra khỏi cuộc sống. Khi đọc Kinh Thánh chúng ta thấy rằng thế hệ trẻ của tuyển dân Israel dành một sự tôn kính và tìm kiếm lời tư vấn từ người lớn tuổi. Ước gì tại Mỹ cũng sẽ giống như thế.

Hãy lấy Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét minh họa cho điều chúng ta đang nói. Họ là những người được bác sĩ Lu-ca ghi, “cả hai đều cao tuổi” (Lu-ca 1:7). Người Lê-vi phục vụ Đức Chúa Trời từ năm hai mươi lăm tuổi cho đến năm mươi tuổi. Nhưng luật Do Thái không đề cập cụ thể đến tuổi của thầy tế lễ khi bắt đầu và kết thúc chức vụ. Và chúng ta cũng lưu ý là “tuổi già” trong Kinh Thánh có thể khác với tuổi già trong thời đại hôm nay. Không thành vấn đề, Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét là những thánh đồ cao niên. Nếu bạn chưa phải là những người cao tuổi, thì một ngày kia bạn cũng sẽ đi tới đó, vì vậy hãy suy nghĩ đến hai người đặc biệt ưu tú này.

CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ QUÁ GIÀ ĐẾN NỖI ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG THỂ SỬ DỤNG

Thiên sứ Gáp-ri-ên thu hẹp “khoảng cách thế hệ” khi viếng thăm người cao tuổi Xa-cha-ri ở Giê-ru-sa-lem rồi sau đó đến thăm trinh nữ Ma-ri trẻ tuổi ở Na-xa-rét. Thông điệp của Đức Chúa Trời đồng thời đến với người lớn tuổi và người trẻ tuổi. Giống như Áp-ra-ham và Sa-ra, thầy tế lễ Xa-cha-ri và vợ của ông đã vượt quá khả năng để có con, nhưng Chúa đã bỏ qua nan đề lớn tuổi của họ, thực hiện một phép lạ và ban cho họ một đứa con trai. Một đứa con trai kỳ diệu! Chúa Giê-su đã nói về Giăng Báp-tít là “trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít” (Ma-thi-ơ 11:11). Giăng Báp-tít là niềm vui mừng lớn cho cha mẹ khi trưởng thành (Lu-ca 1:14), nhưng cha mẹ của Giăng có thể đã qua đời trước khi nhìn thấy chức vụ công khai của con trai mình.

Trở lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy khi thụ thai chuẩn bị sanh Y-sác, Sa-ra đã tám mươi chín tuổi còn Áp-ra-ham chín mươi chín tuổi. Đây là một phép lạ. Khi Đức Chúa Trời chuẩn bị hoàn thành những điều kỳ diệu, Ngài thường bắt đầu với những điêù “bất khả thi” của con người. Đức Chúa Trời hỏi Áp-ra-ham, “Có điều chi khó quá cho Ta chăng?” (Sáng thế ký 18:14). Và thiên sứ Gáp-ri-ên truyền bảo Ma-ri, “không việc chi mà Đức Chúa Trời không làm được.” (Lu-ca 1:37). Những lời này luôn nhắc nhở chúng ta, bất luận tuổi tác của chúng ta như thế nào.

Dân sự Chúa thường có khuynh hướng cho rằng các thánh đồ cao tuổi không nên tham gia vào các mục vụ quan trọng và thường xuyên của hội thánh như hướng dẫn cầu nguyện, tổ chức tang lễ, nấu các bữa ăn….Một số mục sư còn thậm chí phớt lờ những thành viên lớn tuổi và quên rằng Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho các môn đồ phải chăm sóc hội chúng như một bầy chiên (Giăng 21:16-17). Trong hầu hết các nhà thờ, người cao tuổi được đưa vào một lớp học Trường chủ nhật chuyên biệt. Mặc dù họ được cung cấp chỗ đậu xe gần lối vào nhà thờ, nhưng không phải lúc nào họ cũng cảm thấy gần với tấm lòng của hội chúng. Họ mong muốn được hát một số bài thánh ca vĩ đại của đức tin, và khao khát lắng nghe loại bài giảng tôn cao Chúa Giê-su và ân sủng của Ngài. Rốt cuộc, đối với người cao niên, thời gian không còn nhiều, họ muốn tận dụng tối đa để có thể dâng vinh hiển về cho Chúa và vui hưởng Ngài.
Những người lớn tuổi không bao giờ quá già đến nỗi Chúa không thể sử dụng, cho dù những người trẻ tuổi có đánh giá cao họ hay không. Trong hội thánh thời các sứ đồ, những thánh đồ lớn tuổi dạy cho các thánh đồ trẻ tuổi hơn cách làm việc nhà và cư xử trong giáo đoàn (Tít 2:1-8). Những người lãnh đạo hội thánh được gọi là các trưởng lão bởi vì rõ ràng là họ lớn tuổi hơn. Những người trẻ tuổi phải tôn trọng họ, học từ họ sự khôn ngoan và những bài học kinh nghiệm xương máu. Ngày hôm nay nhiều tín hữu trẻ tuổi nghĩ rằng không có gì mới xảy ra trước năm 1980 và mái tóc màu xám hoặc hói đầu là dấu hiệu của sự lão hóa. Nếu những người lãnh đạo trẻ tuổi của hội thánh biết phối hợp với các thánh đồ cao tuổi thay vì thương hại hay chịu đựng họ, hội thánh sẽ khám phá một nguồn năng lượng lớn của quyền năng thuộc linh.

Một trong những mục vụ dành cho người cao tuổi là dạy cho thế hệ kế tiếp – những người trẻ hơn, những gì Đức Chúa Trời  đã làm trong quá khứ (Thi thiên 71:18), ngay cả khi thế hệ trẻ nghĩ rằng những gì thuộc về quá khứ không quan trọng. Giới trẻ học các bài học từ những người lớn tuổi trong một đường lối dễ dàng hoặc họ sẽ học các bài học đó qua những trải nghiệm khó khăn. Người cao niên “đến buổi già bạc, họ sẽ còn sanh bông trái. Được thạnh mậu và xanh tươi” (Thi thiên 92:14). Chúng ta biết chắc sự chăm sóc đặc biệt của Đức Chúa Trời dành cho con dân Ngài luôn kéo dài từ lúc họ ấu thơ cho đến cuối cuộc đời, “cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi” (Ê-sai 46:4). Người cao niên không phải yếu đuối hay hèn nhát, họ vẫn còn được Chúa sử dụng. Sẽ không có chuyện nghỉ hưu ở đây.

CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ QUÁ GIÀ ĐẾN NỖI KHÔNG THỂ CẦU NGUYỆN VÀ NHÌN THẤY ĐỨC CHÚA TRỜI HÀNH ĐỘNG

Trong ngữ cảnh của câu chuyện trên đây, Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét đã cầu nguyện xin Chúa ban cho họ có con. Nhưng câu trả lời chưa đến. Các cặp vợ chồng người Do Thái trông đợi Đức Chúa Trời ban cho họ con cái, đặc biệt là những thầy tế lễ khao khát có con trai để tiếp tục chức vụ tế lễ của họ. Đường lối của Chúa thì khác biệt với đường lối của con người (Ê-sai 55:8-9). Nhưng khi Ngài hành động để trả lời sự cầu nguyện, Ngài thường làm trỗi hơn những gì chúng ta cầu xin và suy tưởng.

Dâng hương tại bàn thờ trong nơi thánh là một kinh nghiệm tuyệt vời trong đời đối với thầy tế lễ,  và ngày đó có nhiều ý nghĩa cho Xa-cha-ri. Cánh tay của Đức Chúa Trời làm việc trong một đường lối đặc biệt. Ngài sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thông báo cho Xa-cha-ri rằng lời cầu nguyện của ông đã được nhậm và vợ ông sẽ hạ sinh một con trai. Đứa trẻ này sẽ được Đức Chúa Trời ban phước cách đặc biệt. Nó sẽ hầu việc Chúa trong vị trí của một tiên tri, và trở thành người dọn đường cho Đấng Mê-si sẽ đến! Đức Chúa Trời chuẩn bị hoàn thành lời hứa của Ngài, Ngài sẽ sai Đấng Cứu chuộc đến trần gian. Chức vụ của Giăng, con trai Xa-cha-ri là: “chính người lại sẽ lấy tâm thần quyền phép Ê-li mà đi trước mặt Chúa, để đem lòng cha trở về con cái, kẻ loạn nghịch đến sự khôn ngoan của người công bình, đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng” (Lu-ca 1:17).

Vợ tôi và tôi có nhiều lý do để tạ ơn Đức Chúa Trời về những thánh đồ cao tuổi đã thường cầu thay cho chúng tôi. Người tôi chưa bao giờ gặp là ông nội của tôi, ông ấy đã cầu nguyện xin Chúa cho dấy lên một thầy giảng Phúc âm trong mỗi thế hệ của gia đình chúng tôi. Và Chúa đã nhậm lời.

Tôi có thể đã chết vào năm hai tuổi, nhưng lời cầu nguyện của ông tôi đã cứu tôi thoát chết. Tôi cũng được cứu thoát khỏi một tai nạn xe hơi nghiêm trọng khi một người lái xe say rượu tông vào xe tôi với tốc độ 80 miles/1 giờ. Nhiều thánh đồ đã cầu thay cho chúng tôi trong khoảng thời gian trên năm mươi năm thi hành chức vụ của tôi. Và bây giờ vợ tôi và tôi cầu thay cho những thế hệ trẻ hơn – là những người đang phục vụ Chúa trên khắp các lĩnh vực. Và họ cũng cầu thay cho chúng tôi!

CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ QUÁ GIÀ ĐẾN NỖI THẤT BẠI TRONG MỤC VỤ

“Người Giu-đa đòi phép lạ” (1 Cô-rin-tô 1:22) và Xa-cha-ri cũng không ngoại lệ. Đức Chúa Trời nhân từ xử lý với sự nghi ngờ của Xa-cha-ri và cuối cùng mang sự bảo đảm đến. Chúng ta có thể đọc lại câu chuyện của Ghê-đê-ôn trong Các quan xét 6:36-40. Nhưng hãy nhớ rằng sự vô tín cũng là tội lỗi. Khi không tin vào Lời Chúa, chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối.

Một thầy tế lễ đầy dẫy Lời Chúa trong tâm trí sẽ có đức tin lớn? Trước khi đề cập đến Xa-cha-ri, hãy nhìn vào chính chúng ta. Có bao nhiêu lần Lời Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta biết về ý chỉ của Ngài, rồi sau đó chúng ta nhìn vào chính mình thay vì đặt đức tin nơi Chúa? Xa-cha-ri là một người cao tuổi và vợ của ông cũng đã vượt qua lứa tuổi có khả năng sinh sản. Cũng giống như Áp-ra-ham và Sa-ra trong sách Sáng thế ký, nghĩ đến việc có con khiến cho Sa-ra phải cười thầm (Sáng thế ký 18). Nhưng khi Đức Chúa Trời phán rằng việc đó phải xảy ra, thì nó sẽ xảy ra.

Tôi đã viết về nhiều người lãnh đạo trong Kinh Thánh gặp thất bại trong một số lĩnh vực của đời sống. Sức mạnh của Áp-ra-ham phát xuất từ đức tin của ông, nhưng khi đối mặt với nạn đói tại Ca-na-an, ông phải di chuyển xuống Ai-cập để tìm kiếm sự trợ giúp (Sáng thế ký 12:10-20) và rồi tại đó ông đã phạm lỗi lầm. Môi-se là một người khiêm hòa, nhưng ông đã đánh mất đi phẩm chất này khi dùng cây gậy đập vào hòn đá trong sa mạc – một hành động để Lời Chúa qua một bên. Và vì điều này ông mất đi đặc ân đặt chân vào vùng đất hứa với Israel (Dân số ký 20). Đa-vít là một người chính trực, nhưng đã đánh mất phẩm chất này khi ông nói dối về tội lỗi của mình và tìm cách che giấu nó (2 Sa-mu-ên 11-12). Phi-e-rơ được biết là một sứ đồ can đảm, nhưng đã sợ hãi trong thời khắc khó khăn và chối Thầy mình đến ba lần (Ma-thi-ơ 26:69-75).

Xa-cha-ri đã lớn lên trong bối cảnh chung quanh ông có những người nam và nữ học biết về Lời Đức Chúa Trời và sống theo Lời ấy, và chế độ ăn kiêng ổn định của ông theo lẽ thật chắc chắn tạo ra đức tin trong ông (Rô-ma 10:17). Nhưng khi trực diện với cơ hội chuẩn bị nhìn thấy một phép lạ, ông đã không tin thông báo đến từ Chúa, và vì vậy ông bị câm không nói được cho đến khi đứa con trai của ông được sinh ra. Đức tin làm chúng ta mở miệng ra ngợi khen Chúa (2 Cô-rin-tô 4:13), nhưng sự vô tín khiến chúng ta mở miệng ra đặt câu hỏi với Chúa. Trường hợp của Xa-cha-ri là miệng ông phải đóng lại khi ông không tin. Khi đã câm thì làm sao hát lời ngợi khen? Trong khi Ê-li-sa-bét, Ma-ri và những người bà con vui mừng ngợi khen Chúa về những sự kiện vinh diệu sắp diễn ra, Xa-cha-ri vẫn yên lặng, nhưng ông viết một bài ca tụng tôn vinh Chúa trong tấm lòng của mình, và đến một ngày nào đó ông sẽ công bố nó.

Tiến sĩ William Cullertson, một trong những cựu chủ tịch của Học Viện Kinh Thánh Moody ở Chicago, đã từng cầu nguyện, “Xin Chúa cho con có một kết thúc tốt.” Khi trưởng thành theo năm tháng bước đi với Chúa, tôi cũng thường cầu nguyện như vậy. Giới trẻ phạm tội là một điều không vui, nhưng khi những người lớn tuổi đã trải qua các kinh nghiệm tuyệt vời với Chúa mà phạm tội sẽ là một thảm kịch. Nó sẽ hủy hoại nhiều điều mà người đó có được trong quá khứ. F. B. Meyer, thầy giảng Tin Lành Anh Quốc có lần nói với một người bạn, “Tôi hy vọng Cha thiên thượng cứ tuôn chảy dòng sông sự sống trong tôi cho đến khi cuộc sống trên đất tôi kết thúc. Tôi không muốn nó bị tắt nghẽn giữa đường.”

Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con có một kết thúc tốt đẹp.

CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ QUÁ GIÀ ĐẾN NỖI KHÔNG THỂ LÀM MỘT ĐIỀU GÌ MỚI

Nếu có người nào đó bám chặt vào truyền thống, thì đó là người Do Thái chính thống, và điều này áp dụng ngay cả với việc đặt tên cho trẻ em. Tên của một đứa trẻ gợi nhớ đến một sự kiện nào đó trong quá khứ hoặc với một số hành động hay thuộc tính đặc biệt của Thiên Chúa, và mối liên kết này cực kỳ quan trọng đối với một số người sống trong một quốc gia thường xuyên gặp nguy hiểm. Đôi khi một vài kinh nghiệm của người mẹ trong thời gian mang thai sẽ xác định tên của đứa bé (như trong trường hợp tên các con trai của Gia-cốp). Theo truyền thống, việc đặt tên cho con trai đầu lòng sẽ theo tên của cha mình, vì nếu cha chết, con trai sẽ giữ tên cha và ký ức về cha trong gia đình (Lu-ca 1:57-66).

Những người bà con và láng giềng với Ê-li-sa-bét và Xa-cha-ri đều trông đợi tên đứa con được sinh ra cho gia đình này sẽ là Xa-cha-ri (Lu-ca 1:59). Nhưng họ rất ngạc nhiên sau khi biết rằng tên đứa bé là Giăng theo sự đồng thuận của cha mẹ nó. Đây là cái tên mà thiên sứ Gáp-ri-ên đã thông báo cho Xa-cha-ri trước đó. “Nhưng thiên sứ nói cùng người rằng: Hỡi Xa-cha-ri, đừng sợ, vì lời cầu nguyện ngươi đã được nhậm rồi. Ê-li-sa-bét, vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, ngươi khá đặt tên là Giăng” (Lu-ca 1:13). Tên Giăng có nghĩa “Chúa là nhân từ.”

Thế hệ trẻ thường chỉ trích thế hệ già vì những người lớn tuổi thường tôn vinh những gì đã cũ, từ chối những gì mới và muốn tìm lại “những ngày xưa tốt đẹp.” Những người trẻ nói với chúng ta rằng “những ngày xưa tốt đẹp” chỉ là sự kết hợp giữa trí nhớ tồi và trí tưởng tượng phong phú. Đây có vẻ là một tuyên bố rất thông minh nhưng không phải luôn luôn đúng. Vua Sa-lô-môn đã giải quyết vấn đề này khi viết, “Điều chi đã có, ấy là điều sẽ có; điều gì đã làm, ấy là điều sẽ làm nữa; chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời.  Nếu có một vật chi mà người ta nói rằng: Hãy xem, cái nầy mới, vật ấy thật đã có rồi trong các thời đời trước ta.  Người ta chẳng nhớ các đời trước, và các đời sau những người đến sau cũng sẽ chẳng nhớ đến nữa” (Truyền đạo 1:9-11). Sa-lô-môn chỉ ra rằng thế hệ trẻ có một trí nhớ tồi. Họ nói: “hãy nhìn kìa, ở đây có một vài điều mới” chỉ bởi vì họ không biết nhiều điều trong quá khứ. Những gì họ xem là mới thực ra chỉ là một sự tái hợp những gì đã cũ. Sa-lô-môn giải thích rằng chẳng có gì mới dưới ánh mặt trời. Tin tức trên các kênh truyền thông có thể tốt hơn và thú vị hơn, nhưng về bản chất chúng không thay đổi nhiều.

Mặc dù tuổi cao và theo truyền thống như Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét, nhưng họ đã can đảm đem một tên mới vào trong gia đình. Cái mới có thể là “hướng đến thời đại nhưng được neo vào Vầng Đá.” Đây là phương châm của “Tuổi Trẻ Vì Christ” một tổ chức đã có từ lâu phát biểu. Bởi vì ân điển của Đức Chúa Trời là một thuộc tính bất biến của Ngài, tên Giăng rất xưa cũ nhưng nó cũng rất mới. (Thực tế, các trẻ em là một hữu thể xưa cũ, nhưng chúng cũng có một vài điều mới.) Chấp nhận mà không cần hỏi về tất cả mọi điều mà thế hệ trẻ nói và làm là nguy hiểm, nhưng từ chối những gì tốt và không khuyến khích điều đó là ngu ngốc. Phước cho sự cân bằng – và tư duy phân biệt đúng lẽ!

CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ QUÁ GIÀ ĐẾN NỖI KHÔNG THỂ NGỢI KHEN

Nếu bạn bị câm trong chín tháng rồi sau đó nói được, bạn sẽ nói gì? Được Thần cảm Xa-cha-ri đã công bố một bài ca tụng Chúa! Hầu hết mọi người không ai muốn nghe những người cao tuổi và một vài ca sĩ nổi danh đã nghỉ hưu hát đơn ca. Nhưng tôi muốn được ở trong ngôi nhà đó để nghe những lời ca ngợi của Xa-cha-ri. Trong sự vui mừng hoan hỉ, ông chắc chắn ca ngợi Chúa về phép lạ Chúa đã làm trong gia đình ông. Một phép lạ nối kết với lời hứa về Đấng Mê-si sẽ đến.

Bài ca ngợi của Xa-cha-ri trong Lu-ca 1 là một bài ca về sự cứu chuộc, vì Đứa Chúa Trời sẽ cứu dân Ngài thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi như Ngài đã cứu chuộc họ ra khỏi xích xiềng của Ai-cập (câu 68-70). Đây cũng là một bài ca chiến thắng vì Chúa sẽ phù trợ dân Ngài chinh phục kẻ thù và giữ vững sự phục vụ Chúa (câu 77-79). Nhưng sâu sắc hơn, đó là bài ca về sự tha tội, vì các món nợ của tuyển dân sẽ bị hủy bỏ (câu 76-77). Năm hân hỉ – kỳ lễ kỷ niệm đặc biệt của tuyển dân đang đến (Lê-vi-ký 25:8-55; Lu-ca 4:14-21). Xa-cha-ri ca ngợi Con của Đức Chúa Trời nhiều hơn là con trai của ông! Thầy tế lễ cao niên này đã nhìn thấy một bình minh mới cho Israel (câu 78-79), bóng tối tăm và sự chết sẽ lùi xa, những tội nhân được tha thứ sẽ bước đi với Chúa trong sự bình an.

Chúng ta nhớ rằng Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét vui hưởng ân huệ và sự chúc phước của Đức Chúa Trời, vì Ngài bày tỏ sự thành tín và thương xót trên gia đình họ. “Cả hai đều là công bình trước mặt Đức Chúa Trời.” Xa-cha-ri có thể hòa lòng với trước giả Thi thiên ngợi khen Chúa, “Hỡi người công bình, hãy vui vẻ và hớn hở nơi Đức Giê-hô-va! Ớ các người có lòng ngay thẳng, hãy reo mừng!” (Thi thiên 32:11)

 

Bài 47

 

J

 

Bài 64

CÂU KINH VĂN TRUYỀN TẢI SỰ SỐNG CHO TÔI

Ngài bèn phán rằng: Vì cớ ấy, mọi thầy thông giáo đã học thông đạo về nước thiên đàng, thì giống như một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.

Ma-thi-ơ 13:52

Sau khi dành một nửa cuộc đời để viết sách, các bạn có thể hỏi tôi, “Câu Kinh văn nào truyền tải sự sống cho ông?” Tôi không xứng đáng để được xem như củng đẳng cấp với những người vĩ đại trong Kinh thánh mà tôi đã đề cập trong cuốn sách này, nhưng suy nghĩ và cầu nguyện về câu hỏi đó, cuối cùng tôi quyết định chọn Ma-thi-ơ 13:52, “một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.” Hãy để tôi giải thích tại sao.

Đầu tiên tôi dâng hiến chính đời sống mình để nghiên cứu và dạy Kinh Thánh. Tôi đã quản nhiệm ba hội thánh, dạy các lớp Trường Chúa Nhật, được mời phát biểu trong các kỳ hội thảo Kinh Thánh tại nhiều quốc gia, giảng Kinh Thánh trên sóng Radio, viết hàng trăm cuốn sách, làm diễn giả cho các hội đồng bồi linh. Không ai yêu cầu tôi làm trọng tài cho một trận bóng chày hay hướng dẫn một bài thuyết trình về Đấng Mê-si. Nhưng họ có thể yêu cầu tôi giảng hoặc dạy từ Kinh Thánh.

Thứ hai, tôi đánh giá cao những điều mới và cũ trong đời sống Cơ đốc nhân và trong hội thánh. Và tôi cố gắng khích lệ dân sự của Chúa – đặc biệt là những mục sư và những người nhận lãnh các mục vụ phải giữ chính mình trong sự quân bình. Tôi đã đi qua những cuộc tranh chiến về các bản dịch Kinh thánh khác nhau, phong cách âm nhạc, thờ phượng của các nhà thờ, các xung đột giữa các thế hệ, và có những vết sẹo để chứng minh điều đó. Tôi cố gắng giúp đỡ thế hệ trẻ nắm bắt lịch sử trong quá khứ, giúp thế hệ lớn tuổi hơn nắm bắt những diễn biến trong hiện tại, nhưng không phải lúc nào tôi cũng thành công.

Cuối cùng tôi đã trở nên một mục sư cao niên, (tôi hy vọng) mình đã trưởng thành phần nào. Tôi đã thấy sự điên rồ của tất cả sự ồn ào về “khoảng cách thế hệ” hay sự khác nhau giữa “đương đại” và “truyền thống.” Những thay đổi trong phong cách thờ phượng của các nhà thờ là mang lại thu nhập cao hơn cho những người chạy theo khuynh hướng hiện đại, những người tạo ra và phân phối các bản ghi âm, đàn, trống, hệ thống âm thanh, máy chiếu. Trong nỗ lực của họ để đưa ra cái mới, họ đã bỏ qua cái cũ và làm cho hội chúng trở nên mất trí nhớ cách tồi tệ. Khi dân sự của Đức Chúa Trời quên đi quá khứ, họ đã đánh mất nền tảng của mình.

Trước khi tôi chia sẻ các ý tưởng về câu Kinh Thánh truyền tải sự sống cho tôi. Tôi muốn đọc lại lần nữa lời dạy của Chúa Cứu thế trong Ma-thi-ơ 13:52, “Vì cớ ấy, mọi thầy thông giáo đã học thông đạo về nước thiên đàng, thì giống như một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.” Câu Kinh Thánh này nhắc tôi nhớ rằng tôi có ba đặc ân kỳ diệu, và các bạn cũng vậy – bất luận tuổi tác và sự kêu gọi của bạn là gì.

 

HỌC BIẾT LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI – THẦY THÔNG GIÁO

Có một thời, các thầy thông giáo là một nhóm những người tin kính cao quý đã làm chứng nhân sống động cho Lời Chúa. Được E-xơ-ra thành lập, nhóm người này được biệt riêng để bảo tồn và công bố lẽ thật của Chúa (E-xơ-ra 7:10). Tuy nhiên các thầy thông giáo thời của Chúa Giê-su đã không giống như vậy – họ đã làm sai chức năng của mình. Họ biết có bao nhiêu từ Hê-bơ-rơ trong mỗi quyển sách của Cựu ước, họ có thể nhớ và trích dẫn từng câu, từng đoạn theo một chủ đề cụ thể. Nhưng sự thông biết của họ hay các môn đồ của họ đào tạo không làm cho họ và các học trò trở nên tốt hơn. Điều này giống như những người đói đọc các giới thiệu trên bao bì của một gói thực phẩm, nhưng họ không bao giờ chính thức ăn các thực phẩm đó.

Các thầy thông giáo nghĩ rằng khảo cứu các chi tiết của Kinh văn là chìa khóa cho sự cứu rỗi, nhưng họ đã sai. Chúa Giê-su phán, “Các ngươi siêng năng nghiên cứu Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: Ấy là Kinh thánh làm chứng về ta vậy.  Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống!” (Giăng 5:39-40). Điều này nói lên rằng có thể siêng năng tra cứu Kinh Thánh, nhưng lại không thực sự biết Đức Chúa Trời trong Lời Ngài.

Tôi muốn trở nên một học trò siêng năng nghiên cứu Lời Chúa. Nhưng không giống như các thầy thông giáo, tôi muốn nhìn xem Chúa Giê-su trong Lời. “Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn cấm không cho!” (Lu-ca 11:52). Chìa khóa của Lời là Chúa Giê-su. “Ngài bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh thánh.” (Lu-ca 24:27). Thật là một đặc ân lớn được nghiên cứu Kinh Thánh và trở nên người tương giao gần gũi hơn với Chúa Giê-su, để yêu mến Ngài nhiều hơn. Còn nếu sự nghiên cứu Kinh Thánh không làm cho tôi trở nên giống Chúa Giê-su càng hơn, khi đó tôi đang lãng phí thời gian.

 

VÂNG PHỤC LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI – MÔN ĐỒ

Các thầy thông giáo trong thế kỷ thứ nhất không giống như các môn đồ Đấng Christ. Lẽ thật mà chúng ta đã học biết phải là lẽ thật có thể áp dụng vào cuộc sống. Các môn đồ học tập thì không chỉ là lắng nghe thầy của mình, đọc sách và điền vào các khoảng trống trong bài tập trắc nghiệm. Họ cũng học tập vâng phục theo thầy dạy và những gì sách dạy. Có lẽ điều ví sánh tương đương tốt nhất của các môn đệ thời nay là người học việc. Người học việc phải thực hành, anh (chị) đó phải thực hành những gì được dạy. Gia-cơ viết, “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình.” (Gia-cơ 1:22). Bạn không thể học bơi chỉ bằng cách xem video về bơi lội và lắng nghe các bài dạy về bơi. Bạn phải nhảy xuống nước, có thể bạn bị chìm lúc đầu, nhừng rồi sau đó bắt chước thực hành theo huấn luyện viên bạn sẽ bơi được.

Một điều thiếu sót trong việc nghiên cứu Kinh Thánh hiện nay là sự vâng lời. Một tín hữu nói với mục sư, “Tôi đã học xong sáu bài học về truyền giảng phúc âm, nhưng tôi chưa bao giờ đưa được một người nào đến với Chúa.” Cô ấy đã nghiên cứu các bài học, giải quyết các bài tập trên giấy và vượt qua bài thi kiểm tra, nhưng cô không vâng lời theo những gì Chúa Giê-su dạy. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta.” (Giăng 7:17). F. W. Robertson, một nhà giảng đạo người Anh nói, “sự vâng lời là yếu tố quyết định cho tri thức thuộc linh.” Chúng ta không thể thực sự biết một chủ đề hay một lẽ thật cho đến khi thực hành nó.

Đây chính là lý do tại sao Đức Chúa Trời cho phép chúng ta đi qua những thử thách. Những hoạn nạn ban cho chúng ta cơ hội để vâng lời Chúa, tín thác vào Lời của Ngài và thực hành những gì chúng ta suy nghĩ là mình đã học được. Đôi khi chúng ta không biết bài trắc nghiệm kế tiếp là gì cho đến khi gặp thất bại. Nhưng không sao, chúng ta phải quay trở lại và cố gắng lần nữa. Sự thất bại có thể trở thành chất xúc tác phát triển các “cơ bắp thuộc linh” và làm cho chúng ta trở nên trưởng thành hơn.

CHIA SẺ LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI – NGƯỜI QUẢN GIA

Chúa Cứu thế dạy về người quản gia là một ví dụ không khó để nắm bắt. Các môn đồ nói với Chúa Giê-su rằng họ hiểu những gì Ngài đang dạy. Vì vậy Chúa phán rằng họ có trách nhiệm phải chia sẻ những gì họ biết cho người khác. Chúng ta không thể cho người khác những gì chúng ta không có. Nhưng nếu chúng ta không chia sẻ những gì chúng ta có, chúng ta sẽ không giữ được điều mình có theo thời gian. Chúng ta gìn giữ lẽ thật bằng cách vâng theo lẽ thật và chia sẻ nó cho người khác. Hãy nghe Chúa dạy, “Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy.” (Lu-ca 6:38).

Mỗi người chúng ta có một kho tàng lẽ thật bên trong tâm trí và tấm lòng của mình. Kho tàng này được bảo quản tốt khi chúng ta nghiên cứu và áp dụng những gì Kinh Thánh dạy. Từ kho tàng này, chúng ta phải chia sẻ với người khác về “những điều mới và cũ” theo nhu cầu của họ. Chúng ta có nhiều “người A-thên” trong các cộng đồng ngày nay, là những người “chỉ lo nói và nghe việc mới lạ mà thôi.” (Công vụ. 17:21). Tôi đã được mời giảng dạy cho nhiều mục sư trẻ, và tôi sợ một số người trong số họ nghĩ rằng không có gì thực sự quan trọng đã xảy ra trước năm 1975. Tuy nhiên một số đồng nghiệp cùng lứa tuổi của tôi cho rằng không có gì tốt xảy ra kể từ năm 1945.  Chúng ta cần quản lý tốt những cái mới và cũ nếu chúng ta muốn trở thành những người quản gia trung tín.  Thế hệ trẻ hơn cần nắm bắt quá khứ trong khi thế hệ già cần đuổi theo bắt kịp hiện tại.

Cái mới mọc ra từ cái cũ. Chúng ta không “thay thế” cái cũ bằng cái mới. Chúng ta cho phép cái mới lớn lên từ cái cũ, theo cách một bông hoa tu-lip mọc ra từ một cái búp. Mỗi một em bé đều mới và thú vị, nhưng theo thời gian chúng cũng giống như những trẻ em khác, rồi đến lúc cũng già đi. Chúa Giê-su không đến để hủy phá luật pháp cũ nhưng để hoàn thành nó. Bạn có thể phá hủy một trái cây sồi bằng cách dùng búa đập nó, hay là bạn trồng hạt giống đó và chăm sóc nó trở thành một cây sồi? Trong vương quốc Đức Chúa Trời, cái mới xuất hiện, không phải bằng sự thay thế mà bằng sự biến đổi.

Thầy thông giáo quan tâm chủ yếu đến việc giữ gìn cái cũ, và đó là điều quan trọng. Nhưng môn đồ quan tâm đến việc khám phá cái mới, và điều này cũng quan trọng. Sự vâng phục của chúng ta trong tư cách môn đồ là làm cho những lẽ thật cũ trở nên tươi mới trong những trải nghiệm mới của chúng ta và đối diện với những thách thức mới. Chúng ta khám phá cái mới bên trong những lời hứa cũ và thực hành áp dụng cách mới mẻ trên những nguyên tắc cũ. Những cái rễ có thể già đi, nhưng bông hoa và trái của nó luôn tươi mới, và điều này làm cho đời sống trở nên thú vị hơn! “Dầu đến buổi già bạc, họ sẽ còn sanh bông trái. Được thạnh mậu và xanh tươi.” (Thi thiên 92:14)

Trong những năm đầu tiên bước vào chức vụ, tôi học biết rằng tôi không thể giảng dạy hiệu quả trừ khi tôi trở nên giống như Y-sác. Y-sác đào lại một lần nữa trên những cái giếng cũ và  uống nước từ  chúng. “Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham” (Sáng. 26:18). Hay giống như Giê-rê-mi, “tra xét những đường lối cũ, xem thử đường tốt ở đâu: Hãy đi đường ấy…”  (Giê-rê-mi 6:16; 18:15). Vì vậy tôi bắt đầu làm quen với các bài giảng của các thầy giảng trong quá khứ như: Charles Spurgeon, G. Campell Morgan, George Matheson, Joseph Parker, Robert Murray M’Cheyne, Jonathan Edwards… và tôi ngạc nhiên, họ không già đi chút nào. Bởi vì họ lời họ giảng trong Kinh Thánh đã vượt thời gian. Trong những năm qua, tôi đã học nhiều điều với các giảng sư trong quá khứ. Tôi biết thế nào là sự phấn khích khi tôi được trưởng thành từ những cái cũ và mới khi nhìn thấy Chúa đặt chúng lại với nhau để làm phong phú đời sống và chức vụ tôi.

Tôi đã dành nhiều thời gian giúp mọi người hiểu rằng hội thánh cần cả hai điều mới và cũ. Hãy nhớ rằng, những cái mới ra từ cái cũ, và đó là lý do chúng không mới chút nào. Các thiết bị điện tử tinh vi gần đây nhất chỉ là sự kết hợp mới mẻ của các linh kiện đã có từ rất lâu. Tiến sĩ H. A. Ironside đã từng nói, “Nếu nó mới, nó không phải là lẽ thật, và nếu nó là lẽ thật, nó không mới.” Ông đã đồng ý với câu nói của vua Sa-lô-môn, “Điều chi hiện có, đã có ngày xưa; điều gì sẽ xảy đến, đã xảy đến từ lâu rồi: Đức Chúa Trời lại tìm kiếm việc gì đã qua.” (Truyền đạo 3:15)

Vì vậy nếu bạn đã nghe tôi giảng dạy, hay đọc các sách tôi viết, bạn sẽ khám phá rằng những gì tôi chia sẻ là sự nối kết giữa cũ và mới. Những điều mới cũng xuất phát từ những điều cũ. Một số trải nghiệm kỳ thú của tôi là tìm thấy sự phối hợp mới của những lẽ thật thuộc linh từ những trang sách cũ của Kinh Thánh và rồi nhìn thấy những điều kỳ diệu xảy ra khi thực hành áp dụng và rao giảng chúng.

Đó là lý do vì sao tôi chọn Ma-thi-ơ 13:52 làm câu Kinh Thánh tâm đắc của mình. Là một mục sư rao giảng Lời Chúa, tôi muốn xây dựng một chiếc cầu nối kết giữa những điều trong quá khứ với hiện tại, bởi vì đó sẽ là những gì được chuẩn bị cho con người trong tương lai. Tôi muốn giống như E-xơ-ra “định chí tra xét luật pháp của Đức Giê-hô-va, giữ làm theo, và dạy cho dân Y-sơ-ra-ên biết những luật pháp và giới mạng.” (E-xơ-ra 7:10)

Đây là điều mà tôi gọi là sự quân bình trong chức vụ.

 

KẾT LUẬN:

CÂU KINH THÁNH NÀO TRUYỀN TẢI SỰ SỐNG CHO BẠN?

Thỉnh thoảng sự khám phá về một câu văn sinh động làm thay đổi đời sống của con người một cách hoàn toàn. Rô-ma 1:17 đã làm tan vỡ nhà thần học Martin Luther và biến đổi ông thành một nhà cải chánh. Ê-sai 54:2-3 đã làm cho William Carey trở thành người đặt nền tảng cho phong trào truyền giáo hiện đại. Ma-thi-ơ 28:20 cũng đã có một tác động tương tự lên David Livingstone.

Toàn bộ Kinh thánh là của bạn, nhưng đâu đó trong các trang của nó là một câu văn mà đặc biệt là của bạn – nó là câu văn sinh động dành cho bạn. Hãy tìm kiếm nó, tin cậy nó, và thực hành nó. Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ bạn bày tỏ ra sự sống phong phú, bạn chuyển giao ơn phước cho người khác và mang vinh hiển về cho Ngài.

 

The end

 

 

 

 

 

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên