Trang Chủ KINH THÁNH Calvin và Arminius

Calvin và Arminius

341
0
SHARE

Năm điểm của thuyết Calvin (Calvinism) có thể được tóm tắt bằng chữ TULIP.

T là viết tắt của Total Depravity – sự hư hại hoàn toàn;

U cho Unconditional Election – sự chọn lựa vô điều kiện;

L cho Limited Atonement – sự chuộc tội có giới hạn,

I cho Irresistible Grace – ân điển bất khả kháng (không thể chống lại) được,

và P cho Perseverance of the saints – sự giữ gìn các thánh đồ.

Dưới đây là định nghĩa và phần tham khảo Kinh thánh mà những người theo thuyết Calvin dùng để bảo vệ niềm tin của họ:

1.Hoàn toàn bại hoại (sự hư hại hoàn toàn) – Do sự sa ngã của A-đam, toàn thể nhân loại bị ảnh hưởng; tất cả mọi người đã chết trong sự vi phạm và tội lỗi. Con người không thể tự cứu lấy mình (Sáng thế ký 6:5; Giê-rê-mi 17:9; Rô-ma 3:10-18)

2.Sự chọn lựa vô điều kiện – Bởi vì con người đã chết trong tội lỗi, anh ta không thể bắt đầu một sự đáp lại với Chúa; vì thế, trong quá khứ vĩnh hằng Chúa đã chọn một số người để cứu rỗi. Sự lựa chọn và tiền định là vô điều kiện; chúng không dựa vào sự đáp trả của con người (Rô-ma 8:29-30; 9:11; Ê-phê-sô 1:4-6, 11-12) bởi vì con người không thể nào đáp trả, anh ta cũng chẳng hoài đến.

3.Sự chuộc tội có giới hạn – Bởi vì Đức Chúa Trời quyết định rằng một số người sẽ được cứu rỗi bởi sự chọn lựa vô điều kiện của Ngài, Ngài quyết định rằng Đấng Christ nên chết chỉ cho những người được chọn mà thôi. Tất cả những người mà Đức Chúa Trời đã chọn và những người Đấng Christ đã chết cho sẽ được cứu rỗi (Ma-thi-ơ 1:21; Giăng 6:37, 39; 10:11; 17:2,9; Công vụ 20:28; Rô-ma 8:32; Ê-phê-sô 5:25).

4.Ân điển bất khả kháng (không thể chống lại được) – Những người được Đức Chúa Trời lựa chọn Ngài thu hút về chính mình qua ân điển không thể chống lại được. Đức Chúa Trời khiến cho con người sẵn lòng đến với Ngài. Khi Chúa kêu gọi, con người đáp lại (Giăng 6:37, 44; 10:16).

5.Sự kiên trì (sự giữ gìn các) của các thánh đồ – Chính những người đã được Chúa lựa chọn và thu hút về chính Ngài qua Đức Thánh Linh sẽ kiên trì trong đức tin. Không ai trong số những người Chúa đã chọn sẽ bị mất đi; họ an toàn vĩnh viễn (Giăng 10:27-29; Rô-ma 8:29-30; Ê-phê-sô 1:3-14; 1 Phi-e-rơ 1:3-5).

Mặc dù tất cả những giáo lý này đều có nền tảng Kinh thánh, nhiều người chối bỏ tất cả, hoặc một vài điểm. Những người tự gọi là “những người Calvin bốn-điểm” chấp nhận Sự hoàn toàn bại hoại, Sự chọn lựa vô điều kiện, Ân điển bất khả kháng (không thể chống lại được), và Sự kiên trì của các thánh đồ là giáo lý theo Kinh thánh. Con người chắc chắn có tội và không có khả năng tin vào Đức Chúa Trời bằng sức của mình. Chúa chọn người chỉ dựa trên ý muốn của Ngài – sự lựa chọn không dựa trên bất kỳ công đức nào của người được chọn. Tất cả những người Chúa đã chọn sẽ đến với đức tin (Giăng 6:37). Tất cả những người thật sự được tái sinh (sinh lại lần nữa) sẽ kiên trì trong đức tin của họ. Còn về Sự chuộc tội có giới hạn, những người theo thuyết Calvin bốn-điểm tin rằng sự chuộc tội là vô giới hạn, cho rằng Chúa Giê-su chết cho tội lỗi của cả thế giới, không chỉ tội lỗi của những người được chọn. “Chính Ngài là tế lễ chuộc tội chúng ta, không những vì tội của chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội của cả thế gian nữa.” (1 Giăng 2:2).

Các câu Kinh thánh khác đối lập với sự chuộc tội có giới hạn là Lu-ca 19:10; Giăng 1:29; 3:16; 1 Ti-mô-thê 2:6; và 2 Phi-e-rơ 2:1.

Tuy nhiên, những người theo thuyết Calvin năm-điểm thấy thuyết Calvin bốn-điểm có vấn đề. Thứ nhất, họ tranh luận, nếu Sự hư hại hoàn toàn là đúng, thì Sự chuộc tội vô giới hạn không thể đúng bởi vì, nếu Chúa Giê-su chết cho tội lỗi của tất cả mọi người, thì liệu việc chết của Ngài có áp dụng đến một người phụ thuộc vào việc người đó có “chấp nhận” Chúa hay không. Nhưng như chúng ta thấy từ mô tả trên về Sự hoàn toàn bại hoại, con người trong trạng thái tự nhiên hoàn toàn không có khả năng nào để lựa chọn Chúa, anh ta cũng chẳng hoài đến. Bên cạnh đó, nếu Sự chuộc tội vô giới hạn là đúng, thì địa ngục sẽ đầy những người mà Đấng Christ chết cho. Sự đổ máu của Ngài cho họ là vô nghĩa. Đối với những người theo thuyết Calvin năm-điểm, điều này không thể nghĩ đến.

Xin chú ý: bài này chỉ là một tóm tắt ngắn gọn về năm điểm của thuyết Calvin. Để hiểu rõ hơn về chủ đề này, xin hãy xem thêm tại các trang sau: Sự hoàn toàn bại hoại, Sự lựa chọn vô điều kiện, Sự chuộc tội có giới hạn, Ân điễn bất khả kháng, và Sự kiên trì của các thánh đồ.

English

nguồn: gotquestions.org

Thuyết Arminius là một hệ thống niềm tin cố gắng giải thích mối liên hệ giữa ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời và ý muốn tự do của con người, đặc biệt liên quan đến sự cứu rỗi. Thuyết Arminius được đặt theo tên của Jacob Arminius (1560-1609), một nhà thần học người Hà Lan. Trong khi thuyết Calvin nhấn mạnh ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời, thì thuyết Arminius nhấn mạnh trách nhiệm của con người. Nếu thuyết Arminius được chia thành năm quan điểm tương tự như năm quan điểm của thuyết Calvin, thì dưới đây là năm quan điểm của nó:

(1) Hư hỏng (hư hoại) một phần – con người hư hỏng nhưng vẫn có thể tìm kiếm Chúa. Chúng ta bị sa ngã và ô uế bởi tội lỗi nhưng không đến nỗi chúng ta không thể lựa chọn để đến với Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự cứu rỗi, với sự giúp đỡ của ân điển sẵn có trước đó từ Đức Chúa Trời. Nhận được ân điển như vậy, ý muốn con người sẽ tự do và có năng lực để đầu phục sự ảnh hưởng của Thánh Linh. Ghi chú: nhiều người theo thuyết Arminius phủ nhận quan điểm hư hỏng một phần và giữ một quan điểm rất giống với quan điểm hư hỏng hoàn toàn (hoàn toàn bại hoại) của thuyết Calvin.

(2) Sự chọn lựa có điều kiện – Đức Chúa Trời chỉ “lựa chọn” những ai Ngài biết sẽ chọn để tin. Không ai được xác định trước là vào thiên đàng hay đi địa ngục.

(3) Sự chuộc tội không giới hạn – Chúa Giê-xu đã chết vì tất cả mọi người, ngay cả những người không được chọn và sẽ không tin. Sự chết của Chúa Giê-xu là dành cho toàn nhân loại, và bất kì ai cũng có thể được cứu bởi đức tin nơi Ngài.

(4) Ân điển có thể cưỡng lại – sự kêu gọi của Đức Chúa Trời để được cứu có thể bị chống lại hoặc bị từ chối. Chúng ta có thể cưỡng lại sự thúc đẩy của Đức Chúa Trời đối với sự cứu rỗi nếu chúng ta chọn làm như vậy.

(5) Sự cứu rỗi có điều kiện – Cơ Đốc nhân có thể mất sự cứu rỗi nếu họ chủ động từ chối sự ảnh hưởng của Đức Thánh Linh trong đời sống của họ. Việc duy trì sự cứu rỗi là cần thiết để Cơ Đốc nhân giữ lại nó. Ghi chú: nhiều người theo thuyết Arminius từ chối “sự cứu rỗi có điều kiện” và thay vào đó là giữ quan điểm “sự đảm bảo đời đời”.

Quan điểm duy nhất của thuyết Arminius mà quan điểm thứ tư của những người theo thuyết Calvin cho rằng thuộc Kinh thánh là quan điểm thứ ba – Sự chuộc tội không giới hạn. I Giăng 2:2 nói rằng, “Ấy chính Ngài làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa”. II Phi-e-rơ 2:1 nói cho chúng ta rằng Chúa Giê-xu còn trả giá cho những giáo sư giả là những người bị kết tội: “Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình”. Sự cứu rỗi của Chúa Giê-xu là dành sẵn cho bất kì ai và tất cả mọi người sẽ đặt niềm tin nơi Ngài. Chúa Giê-xu không chỉ chết cho những người sẽ được cứu.

Quan điểm thứ tư của thuyết Calvin (vị trí chính thức của Got Question Ministries) nhận thấy bốn quan điểm khác của thuyết Arminius là không thuộc Kinh thánh, ở mức độ khác nhau. Rô-ma 3:10-18 tranh luận mạnh mẽ về sự hư hỏng hoàn toàn. Sự lựa chọn có điều kiện, hay sự chọn lựa dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời về hành động của con người, nhấn mạnh không đúng mức ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:28-30). Ân điển có thể cưỡng lại đánh giá thấp quyền năng và sự quyết định của Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi có điều kiện làm cho sự cứu rỗi trở nên như một phần thưởng cho việc làm hơn là món quà của ân điển (Ê-phê-sô 2:8-10). Có nhiều vấn đề với cả hai hệ thống, nhưng thuyết Calvin dựa trên nền tảng Kinh thánh nhiều hơn so với thuyết Arminius. Tuy nhiên, cả hai hệ thống đều không giải thích thỏa đáng mối liên hệ giữa ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời và ý muốn tự do của con người – do thực tế là trí tuệ hữu hạn của con người không thể nhận thức được khái niệm mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể hiểu trọn vẹn.

English

🙂

  Năm Luận Điểm của Calvin Dưới Ánh Sáng Kinh Thánh

Nội dung

Lời nói đầu của Luder G. Whitlock, Jr.

  Lời nói đầu

Năm luận điểm của Arminianism

Sự tương phản

Ý Muốn của Đức Chúa Trời

 I Tôi Hoàn Toàn Sa Đọa

II Sự tuyển chọn vô điều kiện

III Sự Chuộc Tội Có Giới Hạn

IV Ân Điển Không Thể Cưỡng Lại

V Sự Kiên Trì Của Các Thánh Đồ

  Kết luận

  Bản Tuyên xưng Đức tin của Westminster (1648)

  Bối cảnh lịch sử

Thư mục

Remonstrances: một tài liệu được những người Arminians của Nhà thờ Cải cách Hà Lan soạn thảo vào năm 1610, trình bày sự khác biệt giữa học thuyết của họ và học thuyết của những người theo chủ nghĩa Calvin.

Remonstrance: sự phản đối.

J
Lời tựa

Tại sao chúng ta quan tâm đến Năm luận điểm của thuyết Calvin, một giáo lý quan trọng gây tranh cãi ở thế kỷ 17? Bởi vì vấn đề này có ảnh hưởng vào thời đó và kéo dài đến hômnay: quyền tự do lựa chọn của cá nhân liên quan như thế nào đến quyền tối thượng thiêng liêng khi nó được thực hiện trong kế hoạch đời đời của Đức Chúa Trời và kinh nghiệm cứu rỗi của mỗi chúng ta.

Mặc dù năm luận điểm trên đây, thường được gọi là TULIP, thường được liên kết với nhà thần học Cải cách vĩ đại John Calvin, nhưng chúng không bắt nguồn từ ông. Thay vào đó, những người theo Jacob Arminius, một nhà thần học người Hà Lan, đã bày tỏ sự không đồng tình của họ với quan điểm giải tội đang thịnh hành ở Hà Lan bằng một cuộc phản đối chính thức còn được gị là Remonstrance. Họ đã trình bày sự phản đối này trước Quốc hội vào năm 1610. Tại một cuộc họp thượng hội đồng được tổ chức ở Dort vào năm 1618, năm ý kiến phản đối chính của những người phản đối đã được thảo luận kỹ lưỡng và kiên quyết bác bỏ từng điểm một. Phản ứng của họ thường được gọi là “Năm điểm của thuyết Calvin.” Trong quyển sách này, hai lập trường đối lập này được giải thích, phân tích và đánh giá một cách ngắn gọn.

Cũng cần lưu ý rằng cuộc xung đột giữa Thánh Augustine và Pelagius trong thế kỷ thứ năm khi Pelagius nhấn mạnh vào lòng tốt cơ bản của con người và khả năng tuân theo và tin tưởng của cá nhân; đã đánh dấu những điểm tương đồng với điểm tạo ra năm điểm.

  Bởi vì năm điểm là một phản ứng đối với Rernonstrants, chúng có phạm vi hạn chế, nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả một hàng phòng thủ tốt cũng không nhất thiết phải mang lại khả năng tấn công tốt nhất. Thần học cải cách, toàn diện và hấp dẫn ở mức độ sâu sắc của nó, không được giới hạn trong khuôn khổ này. John Calvin đã chọn một cách tiếp cận khác để giải thích thông điệp Kinh thánh như có thể được nhìn thấy trong Viện Tôn giáo Cơ đốc và các tác phẩm khác của ông.

  Mặt khác, năm điểm phù hợp với những đặc điểm nổi bật của thần học Cải cách chẳng hạn như sự vĩ đại của Chúa, một sự nhấn mạnh đáng hoan nghênh vì quyền tối thượng của Chúa không còn được ủng hộ ở Hoa Kỳ. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 19, xu hướng tự do cá nhân và chủ nghĩa cá nhân tràn lan đã góp phần dân chủ hóa Cơ đốc giáo Hoa Kỳ, làm giảm đáng kể quyền năng của Đức Chúa Trời trong nhận thức của nhiều Cơ đốc nhân. Ảnh hưởng dân túy này đã thúc đẩy tình cảm chống thần học Cải cách.

  Gần đây, sự quan tâm trở lại rộng rãi đối với thần học Cải cách, được kích thích một phần bởi sự suy thoái nhanh chóng của văn hóa Mỹ và nhận thức dần dần trong giới truyền giáo rằng thế giới quan của thần học cải cách đưa ra phản ứng mạch lạc và thuyết phục nhất đối với tình trạng thế tục hóa đáng báo động này.

Cuốn sách này chứng minh rõ ràng và mạnh mẽ về từng điểm trong số năm điểm đang được đề cập, giúp bạn xác định chắc chắn sự dạy dỗ của Kinh thánh về từng điểm. Khi bạn làm như vậy, một lẽ thật đã rõ ràng: Chúa cai trị trên tất cả. Bởi vì Đức Chúa Trời toàn năng trị vì, chúng ta nên để Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, thừa nhận và vui mừng trong tình yêu và ân điển tối cao của Ngài. Chắc chắn rằng sự cứu rỗi của chúng ta là bởi ân điển, tất cả là ân điển – không phải công đức từ con người để chúng ta không có cơ sở để khoe khoang (Ê-phê-sô 2:8-9).

  Cuối cùng, chúng ta có thể vui mừng với sự thật rằng nếu Đức Chúa Trời ủng hộ chúng ta thì việc ai chống lại không thành vấn đề vì không ai có thể ngăn cản được tay Ngài (Rô-ma 8:31). Khi các vua và quan trưởng của thế gian này chống đối Ngài, Ngài cười nhạo (Thi thiên 2). Trong ân điển đầy đủ của Đức Chúa Trời tối cao, chúng ta tìm thấy sự giúp đỡ chắc chắn, niềm hy vọng bất diệt và sự an ninh vĩnh cửu.

  Nếu điều này hấp dẫn – hãy đọc tiếp.

Lời nói đầu

Một trong những dấu hiệu thú vị nhất của thời đại chúng ta là sự quan tâm ngày càng tăng đối với việc nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời và thần học Kinh thánh thay vì thần học Cải cách. Thay vì những tác phẩm văn học tầm thường của tổ tiên họ, nhiều người trẻ tuổi đang đọc những cuốn sách như Sự trói buộc của ý chí của Martin Luther và The Institutes of John Calvin. Khi họ đọc và so sánh thần học của những người Cải cách Tin lành với Kinh thánh của họ, họ bắt đầu nhận ra rằng phần lớn thần học của truyền giáo đương đại đã bỏ qua ân điển và nhấn mạnh đến công việc của xác thịt. Nếu họ đi xa hơn để nghiên cứu lịch sử thần học, họ cũng biết rằng học thuyết của hầu hết các nhà thờ “truyền giáo” ngày nay là thần học nhân văn của Erasmus ở Rome. Sau đó, họ bắt đầu thấy lý do tại sao những người theo trào lưu chính thống và những người theo chủ nghĩa tự do, các hệ phái Tin lành, Công giáo và Ngũ tuần có thể sát cánh bên nhau trong các cuộc phục hưng và thập tự chinh lớn của thế kỷ XX. Điểm chung của họ là học thuyết cao quý về con người được Erasmus tán thành, được Arminius định nghĩa rõ ràng, được nhà Wesley phổ biến và được nhiều nhà tâm lý học tôn giáo của thời đại chúng ta đánh bóng lần cuối.

Tôi thấy lạ là ngày nay có nhiều người khăng khăng rằng họ tin vào sự cứu rỗi bởi ân điển, tuy nhiên họ nhấn mạnh rằng con người có quyền “quyết định cho Đấng Christ.” Họ lập luận rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, bình đẳng và giống nhau,” nhưng họ chắc chắn rằng Ngài sẽ tống một số người xuống địa ngục. Họ khẳng định rằng Kinh thánh dạy rằng Đấng Tạo Hóa của vạn vật chắc chắn là Đấng toàn năng, nhưng họ cũng khá tự tin rằng con người hữu hạn hoàn toàn có khả năng cản trở ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong hầu hết mọi trường hợp, vấn đề nằm ở chỗ những người này không biết các lẽ thật căn bản trong Kinh thánh. Họ không nghe gì từ bục giảng ngoài những bài giảng về “kế hoạch cứu rỗi”. Nếu họ được yêu cầu giải thích ý nghĩa của những giáo lý như sự cứu chuộc, sự hòa giải, sự tha thứ và sự chuộc tội, thì họ sẽ lẩm bẩm những điều nhỏ nhặt khác mà phớt lờ những lẽ thật nền tảng. Tại sao? Bởi vì họ chưa bao giờ được giảng dạy cách đúng đắn, cũng như có sức mạnh thuộc linh cần thiết để khám phá cho chính mình những gì Kinh thánh dạy về công việc của Đấng Christ. Có một điểm chung giữa họ: tin tưởng rằng con người có thể sử dụng ý chí tích cực của chính mình để tiếp nhận Đấng Christ và được cứu.

  Nhiều tín đồ Báp-tít nghĩ rằng họ chống lại những người theo chủ nghĩa Calvin không nhận thức được sự thật rằng một trong những nhà thuyết giáo vĩ đại nhất của họ là Charles Haddon Spurgeon, là một người theo chủ nghĩa Calvin năm điểm vững chắc. Nhà truyền giáo nổi tiếng này nói:

Chân lý cũ mà Calvin đã giảng, mà Augustine đã giảng, mà Paul đã giảng, là chân lý mà ngày nay tôi phải rao giảng, nếu không sẽ là dối trá với lương tâm và Đức Chúa Trời của tôi. Tôi không thể định hình sự thật. Tôi không biết gì về cái gọi là cắt bỏ những góc cạnh thô ráp của một học thuyết. Phúc âm của John Knox là phúc âm của tôi. Điều gì tạo ra cơn phấn hưng tại   Scotland phải tái diễn ở nước Anh.

Trong suốt lịch sử, nhiều nhà truyền giáo vĩ đại, những nhà truyền giáo và những nhà thần học vững vàng đã tin vào những học thuyết quý giá về ân điển được gọi là thuyết Calvin. Ví dụ,

Trang 12

  William Carey đứng vững trong thuyết tiền định nhưng không ngần ngại kêu gọi mọi người ăn năn tội lỗi của họ và tiếp nhận Đấng Christ. Quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người trong việc tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời hoàn toàn không phải là những học thuyết xung khắc. Một khi những lời dạy cơ bản của thuyết Calvin được hiểu một cách chính xác, tấm lòng chúng ta sẽ trở nên ấm áp và nhu cầu cấp bách chia sẻ phúc âm với người khác trở nên khẩn cấp. Burns of China M’Cheyne, Whitfield, Brainerd, Bonar, Luther, Knox, Latimer, Tyndale, Rutherford, Bunyan, Goodwin, Owen, Watson, Watts, Newton, Hodge, Warfield và Pink chỉ là một vài trong số những người khổng lồ trên bục giảng mà rao giảng tỏa sáng với các học thuyết về ân sủng tối cao. Tất cả họ sẽ lên tiếng nhiệt thành amen với những lời này của Spurgeon:

Tôi thích tuyên bố những học thuyết cổ xưa mạnh mẽ có biệt danh là thuyết Calvin, nhưng chắc chắn và chân thực là lẽ thật được mặc khải của Đức Chúa Trời cũng như trong Chúa Giê-su Christ.

P 13

Năm luận điểm của Arminianism

Một nhà thần học người Hà Lan tên là Jacob Hermann, sống từ năm 1560 đến năm 1609, được biết đến là Arminius. Mặc dù được nuôi dưỡng trong truyền thống Cải cách, Arminius nghiêng về học thuyết nhân văn của Erasmus, vì ông nghi ngờ nghiêm trọng về ân sủng tối cao khi nó được những người Cải cách rao giảng. Các đệ tử của ông, được gọi là Arminians và Remonstrant, đã phát triển thêm các lời dạy của ông. Vài năm sau khi ông qua đời, họ đã xây dựng các học thuyết của ông thành năm điểm chính được gọi là Năm điểm của Chủ nghĩa Arminian.

Vì các nhà thờ của Hà Lan, giống như các nhà thờ Tin lành lớn khác của châu Âu, đã đăng ký các Học thuyết Cải cách của Belgic và Heidelberg Confessions, nên những người Arminians đã quyết định trình bày trước Quốc hội Hà Lan một lời phản đối. Sự phản đối này được viết cẩn thận này đã được đệ trình lên quốc hội Hà Lan vào năm 1618. Một hội đồng cấp quốc gia của Giáo hội đã được triệu tập tại Dort để xem xét những lời dạy của Arminius dưới ánh sáng Kinh thánh. Sau 154 phiên họp nghiêm túc, kéo dài bảy tháng, Năm điểm của Arminianism được phát hiện là trái với Kinh thánh.

P 14

và bị tuyên bố là dị giáo. Đồng thời, các nhà thần học lúc đó đã tái khẳng định giáo lý do những người Tin lành Cải Cách nắm giữ là phù hợp với Kinh thánh và đưa ra bản công bố được gọi là Năm điểm của thuyết Calvin (để vinh danh nhà thần học vĩ đại người Pháp, John Calvin).

Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã hình thành một chữ viết tắt tạo thành từ TULIP (tên của cuốn sách nhỏ này). Năm điểm là:

T là viết tắt của Total Depravity – sự hư hại hoàn toàn;

U cho Unconditional Election – sự chọn lựa vô điều kiện;

L cho Limited Atonement – sự chuộc tội có giới hạn,

I cho Irresistible Grace – ân điển bất khả kháng (không thể chống lại) được,

và P cho Perseverance of the saints – sự kiên trì của các thánh đồ.

Chúng ta sẽ xem xét một số chi tiết về ý nghĩa của các nhà thần học Cải cách về năm điểm này, nhưng trước tiên chúng ta hãy xem qua bản tóm tắt về Năm điểm của thuyết Arminian.

I

Ý CHÍ TỰ DO. Điểm đầu tiên của Arminianism là con người sở hữu ý chí tự do. Những người cải cách thừa nhận rằng con người có ý chí, nhưng họ đồng ý với luận điểm của Luther trong cuốn sách Sự trói buộc của ý chí rằng con người không thoát khỏi sự nô lệ của Satan. Arminius tin rằng sự sa ngã của con người không phải là hoàn toàn, cho rằng con người vẫn còn đủ điều tốt để sẵn sàng tiếp nhận Đấng Christ để được cứu rỗi.

P 15

II

SỰ TUYỂN CHỌN CÓ ĐIỀU KIỆN. Arminius dạy rằng việc cứu rỗi dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ tin. Nói cách khác, hành động đức tin của con người là “điều kiện để con người được chọn vào cuộc sống vĩnh cửu, vì Đức Chúa Trời đã thấy trước con người thực hiện” ý chí tự do “của mình với thiện chí tích cực đối với Đấng Christ.

III

SỰ CHUỘC TỘI PHỔ QUÁT. Vì họ tin chắc hơn nữa rằng Đức Chúa Trời yêu thương mọi người, rằng Đấng Christ đã chết cho mọi người và rằng Đức Chúa Trời không muốn để bất kỳ ai phải chết, Arminius và những người theo ông cho rằng sự cứu chuộc (được sử dụng một cách tình cờ như một từ đồng nghĩa với sự chuộc tội) là điều chung chung. Nói cách khác, cái chết của Đấng Christ đã tạo cơ sở để Đức Chúa Trời cứu rỗi tất cả mọi người. Tuy nhiên, mỗi người phải vận dụng ý chí tự do của mình để chấp nhận Đấng Christ.

IV

CẢN TRỞ ÂN ĐIỂN. Người Arminian còn tin rằng vì Đức Chúa Trời muốn tất cả mọi người được cứu, nên Ngài đã gửi Đức Thánh Linh đến để thu hút mọi người đến với Đấng Christ. Tuy nhiên, vì con người có “ý chí tự do” tuyệt đối nên con người có thể chống lại ý muốn của Đức Chúa Trời cho cuộc sống của mình (thứ tự của người Arminian là con người thực hiện ý chí của mình trước, sau đó mới được tái sinh). Mặc dù Arminian nói họ tin rằng Chúa là toàn năng, nhưng nhấn mạnh rằng ý muốn cứu rỗi tất cả mọi người của Chúa có thể bị cản trở bởi ý chí hữu hạn của con người.

P 16

 V

RƠI KHỎI ÂN ĐIỂN.

Điểm thứ năm của chủ nghĩa Arminian là kết quả hợp lý từ các phần trước của hệ thống. Nếu con người không thể được Đức Chúa Trời cứu trừ khi ý muốn của con người là được cứu, thì con người không thể tiếp tục trong sự cứu rỗi trừ khi họ tiếp tục muốn được cứu.

P 17

Sự tương phản giữa Arminian Và Calvin

Khi đối chiếu năm điểm của Chủ nghĩa Arminian với Năm điểm của Chủ nghĩa Calvin, chúng ta thấy chúng hoàn toàn trái ngược. Để chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng “các chiến tuyến” được vạch ra bởi những bộ óc thông minh của cả hai phe, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách so sánh ngắn gọn giữa hai quan điểm trên cơ sở từng điểm một.

  ĐIỂM MỘT. Arminian nói rằng ý chí của con người là “tự do” để lựa chọn Lời Chúa hoặc lời của Satan. Do đó, sự cứu rỗi tùy thuộc vào công việc đức tin của con người.

Người theo chủ nghĩa Calvin trả lời rằng con người không được tái sinh đang ở trong vòng nô lệ tuyệt đối với Sa-tan và hoàn toàn không có khả năng tự do thực hiện ý muốn của mình để tin cậy vào Đấng Christ. Do đó, sự cứu rỗi tùy thuộc vào công việc của Đức Chúa Trời, Đấng phải ban cho con người sự sống trước khi họ có thể tin vào Đấng Christ.

ĐIỂM HAI. Arminius cho rằng sự tuyển chọn là có điều kiện, trong khi những người Calvin tuyên bố nó là vô điều kiện. Người Arminians tin rằng Đức Chúa Trời đã tuyển chọn những người mà Ngài “biết trước” sẽ tin vào sự cứu rỗi, vì vậy sự biết trước dựa trên một điều kiện do con người thiết lập.

P 18

Những người theo chủ nghĩa Calvin cho rằng “sự biết trước” dựa trên mục đích hoặc kế hoạch của Đức Chúa Trời, vì vậy sự tuyển chọn đó không có sự dự phần của con người. Một lần nữa, cần lưu ý rằng kết luận của mỗi bên là hệ quả tự nhiên từ học thuyết của họ.

Nếu con người thực sự có ý chí tự do và không bị ràng buộc bởi Sa-tan và tội lỗi, thì con người có thể đưa ra điều kiện để Đức Chúa Trời có thể chọn để cứu con người. Tuy nhiên, nếu con người không có ý chí tự do, nhưng thực sự đang ở trong vòng nô lệ của Sa-tan và tội lỗi, thì hy vọng duy nhất của họ là Đức Chúa Trời đã lựa chọn ý chí tự do của Ngài để tuyển chọn họ bước vào sự cứu rỗi.

ĐIỂM BA. Người Arminian khẳng định rằng sự chuộc tội (có nghĩa là sự cứu chuộc) là phổ quát cho tất cả mọi người. Người theo học thuyết Calvin nhấn mạnh rằng sự cứu chuộc là đặc biệt, nghĩa là sự chuộc tội có giới hạn được Đấng Christ thực hiện cho một số người mà Ngài đã biết trước là họ sẽ tin.

1. ARMINIANI—Đấng Christ không chết để cứu một ai cụ thể, mà chỉ cứu những ai sử dụng ý chí tự do của mình và chấp nhận sự ban cho của Ngài về sự sống đời đời. Do đó, cái chết của Ngài là có một phần thất bại vì những người có ý chí tiêu cực sẽ xuống địa ngục.

2. CALVINISM—Đấng Christ chết để cứu những con người đặc biệt đã được Đức Chúa Cha ban cho Ngài trong quá khứ vĩnh cửu. Do đó, cái chết của Ngài đã thành công 100%, ở chỗ tất cả những ai Ngài chết vì họ sẽ được cứu, và tất cả những ai Ngài không chết vì họ sẽ nhận được “phán xét công lý” từ Đức Chúa Trời có nghĩa là họ bị ném vào địa ngục.

ĐIỂM BỐN. Arminian tiếp tục bằng cách tuyên bố rằng mặc dù Chúa Thánh Linh tìm cách lôi kéo tất cả mọi người đến với Chúa Giê-su Christ (vì Chúa yêu tất cả nhân loại và muốn cứu tất cả), tuy nhiên, vì ý muốn của Chúa bị ràng buộc bởi ý muốn của con người, Thánh Linh có thể bị ràng buộc bởi ý muốn của con người. Đức Thánh Linh có thể bị con người chống cự nếu họ chọn lựa làm như thế.

Trang 19

Vì chỉ con người mới có thể xác định liệu mình có được cứu hay không, nên có lý khi nói rằng Đức Chúa Trời bị con người cản trở ý muốn thánh khiết của Ngài. Ngài bất lực trước ý muốn của con người, và để cho tạo vật có thể đi theo sự lừa dối của Sa-tan (lời nói dối của Satan với Ê-va trong vườn Ê-đen)

  Người theo chủ nghĩa Calvin trả lời rằng ân điển của Chúa không thể bị cản trở, nhưng Chúa sở hữu “ân điển không thể cưỡng lại được.” Điều này không có nghĩa là Đức Giê-hô-va nghiền nát ý chí ngoan cố của con người như một chiếc xe tải khổng lồ đè bẹp một chú chó con! Ân điển không thể cưỡng lại được không dựa trên quyền năng toàn năng của Đức Chúa Trời, mặc dù nó có thể là nếu Chúa muốn như vậy, nhưng đúng hơn, dựa trên món quà sự sống được gọi là sự tái sinh. Vì tất cả những linh hồn của con người đã chết đều bị Sa-tan, thần của sự chết, lôi kéo một cách không thể cưỡng lại được, và tất cả những linh hồn của con người đang sống đều bị lôi cuốn đến với Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của người sống một cách không thể cưỡng lại được, nên Chúa của chúng ta chỉ đơn giản là ban cho những người được chọn của Ngài Thần sự sống! Khi Ngài làm như vậy, tính chất thuộc linh của họ bị thay đổi. Nơi mà họ đã từng “chết vì vi phạm và tội lỗi” và hướng về ma quỷ, thì giờ đây họ được “sống lại trong Chúa Giê-su Christ” và hướng về Đức Chúa Trời.

  Chính tại thời điểm này, một sự khác biệt lớn khác giữa thần học Arminian và thần học Calvin trở nên rõ ràng. Arminian nói rằng thứ tự của các sự kiện là: thứ nhất là công việc đức tin của con người; tiếp theo là món quà sự sống của Chúa. Người theo thuyết Calvin tuyên bố rằng thứ tự của các sự kiện là: Đầu tiên, món quà sự sống của Đức Chúa Trời, sau đó mới đến đức tin cứu rỗi.

ĐIỂM NĂM. Cuối cùng, Arminian kết luận (khá logic) rằng vì con người được cứu nhờ hành động tự do ý chí của mình khi chấp nhận Đấng Christ, nên họ có thể bị hư mất (sau khi đã được cứu), do thay đổi ý định về Đấng Christ. Một số người Arminian nói thêm rằng sau khi được cứu một người có thể đánh mất sự cứu rỗi của mình khi phạm một số tội lỗi, vì thần học của người Arminian là một “thần học dựa vào công đức” —ít nhất là ở mức độ mà con người phải thực hiện ý chí của mình để được cứu. Khả năng bị hư mất, sau khi đã từng

P 20

được cứu, được những người Arminius gọi là “rơi ra khỏi ân sủng”. Lại nữa, nếu sau khi được cứu rồi bị hư mất, một người nên tự nguyện quay trở lại với Đấng Christ một lần nữa, ăn năn tội lỗi của mình, thì người ấy có thể được cứu trở lại.” Tất cả tùy thuộc vào ý chí tích cực tiếp tục của con người cho đến khi chết.

Người theo chủ nghĩa Calvin trả lời khá đơn giản, vì sự cứu rỗi hoàn toàn là công việc của Chúa, và con người hoàn toàn không liên quan gì đến việc “được cứu” ngay từ đầu, rõ ràng là “giữ đức tin để được sự cứu rỗi” cũng là công việc của Đức Chúa Trời, ngoại trừ bất kỳ điều tốt hay xấu nào về phía những người được chọn của Ngài. Các thánh đồ sẽ “kiên trì” vì lý do đơn giản là Đức Chúa Trời hứa điều này, đảm bảo với chúng ta rằng Ngài sẽ hoàn thành công việc mà Ngài đã bắt đầu trong chúng ta! Do đó, điểm năm của TULIP nói lên sự kiên trì/sự nhẫn nại của các thánh đồ.

P 21

Ý MUỐN CỦA CHÚA

Chúng ta hãy bắt đầu so sánh Năm điểm của thuyết Arminian và Năm điểm của thuyết Calvin với Kinh thánh bằng cách thiết lập quan điểm của Kinh thánh về ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi nói về “ý muốn” của Đức Giê-hô-va, chúng ta phải nhớ rằng đó chỉ là biểu hiện của thuộc tính toàn năng, toàn trí của Ngài. Nếu Ngài là toàn năng, như Kinh thánh làm chứng, thì Ngài sẽ đạt được tất cả những gì Ngài muốn, và nếu Ngài là toàn trí, thì Ngài sẽ không phạm sai lầm nào trong kế hoạch ban đầu, Ngài cũng sẽ không bao giờ thấy cần phải thay đổi mục đích ban đầu của Ngài.

“Từ trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó” (Công vụ 15:18).

Như Benjamin Warfield đã cẩn thận tuyên bố: “Trong sự khôn ngoan vô hạn của Chúa tể của cả thế gian, mỗi sự kiện đều rơi vào vị trí thích hợp của nó một cách chính xác trong kế hoạch thiêng liêng của Ngài, hoặc không có sự phù hợp cụ thể của nó đối với vị trí của nó trong việc thực hiện mục đích của Ngài; và mục đích cuối cùng sẽ là sự biểu lộ vinh quang của Ngài.  Cựu Ước, cũng như Tân Ước là  

P 22

một thế giới quan đạt được sự thống nhất cụ thể trong mục đích đời đời của Chúa (decree), mà tất cả những gì xảy ra chỉ là sự phát triển của nó theo thời gian.”

Do đó, như chúng ta sẽ thấy, bất cứ điều gì xảy ra trong lịch sử nhân loại đều xảy ra như vậy bởi vì nó phù hợp với kế hoạch hoặc mục đích vĩnh cửu của Đức Chúa Trời. Nếu bất cứ điều gì xảy ra trái với ý muốn của Đức Chúa Trời, bởi vì theo quan điểm của tạo vật hữu hạn thì điều đó không “tốt”, thì Sa-tan và con người (ít nhất là trong một số trường hợp) phải ngang hàng hoặc vượt trội so với Đấng Tạo Hóa mà Lời tuyên bố rằng Ngài là toàn năng và hoàn toàn không thể cưỡng lại! Mặt khác, nếu ý chí quyết định của Đức Giê-hô-va phản ánh bản chất tồn tại bất biến của Ngài, thì ý muốn đó không thể bị cản trở hay hủy bỏ. Do đó, bất cứ điều gì xảy ra trong bất kỳ phần nào của sự sáng tạo, vào bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử, đều như vậy bởi vì Đức Chúa Trời toàn tri biết điều đó như một khả năng, muốn nó trở thành hiện thực bởi quyền năng toàn năng của Ngài và thiết lập nó trong kế hoạch hoặc mục đích thiêng liêng của Ngài.

Người ta sẽ thấy rõ hơn rằng không có mâu thuẫn nào giữa những công việc quyền năng biểu lộ sự thánh khiết, sự công chính và cơn thịnh nộ của Ngài với những công việc vinh quang biểu lộ ân điển, tình yêu thương và sự tha thứ của Ngài. Dưới ánh sáng của toàn bộ Kinh thánh, Đức Giê-hô-va sẽ nhất quán khi Ngài trừng phạt một số người và tha thứ cho những người khác, khi Ngài bày tỏ sự công bình và công lý tối cao của Ngài đối với những kẻ tội lỗi không ăn năn, đồng thời tuyên bố ân điển tối cao của Ngài, sẵn lòng tha thứ cho tất cả những ai Ngài đã chọn “trong Chúa Giê-su Christ” trước khi sáng thế. Với tư cách là Tác nhân Tự do thực sự duy nhất trong cõi vĩnh hằng, Đấng duy nhất không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sinh vật hay thế lực bên ngoài nào, Chúa tể Vinh quang có thể tuyên bố:

“Ta muốn thương xót ai thì thương xót” (Rô-ma 9:15).

23

.

Là Đấng duy nhất trong mọi thời đại và cõi vĩnh hằng với quyền tự do tuyệt đối theo ý muốn khi Ngài thấy phù hợp, Đức Chúa Trời đã vạch ra một kế hoạch bao gồm cả sự lựa chọn và sự trừng phạt. Phao-lô nói:

Nào những thế thôi, về phần Rê-bê-ca, khi bà ấy bởi tổ phụ chúng ta là Y-sác mà có thai đôi cũng vậy. Vì, khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi thì có lời phán cho mẹ của hai con rằng: Đứa lớn sẽ làm tôi đứa nhỏ; như có chép rằng: Ta yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau. (Rô-ma 9:10-13).

Nói cách khác, không tính đến “tốt” hay “xấu” ở hai người, Đức Chúa Trời đã tiền định Gia-cốp thành đối tượng yêu thương của Ngài và Ê-sau trở thành đối tượng cho cơn thịnh nộ của Ngài. Tại sao? Để mục đích hoặc kế hoạch thiêng liêng của Ngài, phù hợp với “sự lựa chọn” (hoặc lựa chọn những người và sự kiện đáp ứng ý muốn của Ngài) có thể đứng vững. Đức Chúa Trời trong Kinh thánh không xin lỗi vì Ngài đã quyết định để một số người người phải sống đời đời dưới cơn thịnh nộ của Ngài, ban cho họ chính xác những gì họ đáng phải nhận, trong khi Ngài cũng đã quyết định ban sự cứu rỗi cho một số người. Vì điều đó làm hài lòng Ngài làm như vậy để Ngài có thể bày tỏ ân điển, sự thương xót và yêu thương của Ngài trước sự hiện diện của các thiên sứ được chọn. Đây là lý do tại sao Phao-lô viết:

“Vì Đức Chúa Trời không định cho chúng ta sự thịnh nộ, nhưng Ngài đã chỉ định chúng ta nhận được sự cứu rỗi bởi Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:9).

Đấng Christ thực sự là một gương xấu đối với những người chưa được tái sinh và sẽ như vậy đối với những người mà Đức Chúa Trời không chọn họ. Phi-e-rơ nói rằng Đấng Cứu Rỗi là

24

hòn đá gây vấp phạm cho một số người: “họ bị vấp đá đó, vì không vâng phục Đạo, và điều ấy đã định sẵn cho họ rồi” (1 Phi-e-rơ 2:8).

Ở đây, vị sứ đồ sử dụng cùng một từ Hy Lạp chỉ định như Phao-lô sử dụng khi ông nói rằng ngược lại, chúng ta không được chỉ định để nhận lấy cơn thịnh nộ.

  Khi sứ đồ Phao-lô muốn cho thấy cách Đức Chúa Trời đã ấn định một số người để được cứu rỗi, hoàn toàn không có bất kỳ phẩm chất tốt nào từ phía họ, trong khi Ngài lại chỉ định những người khác để bị kết án, ông nói:

 “Trong Kinh thánh cũng có phán cùng Pha-ra-ôn rằng: Nầy là cớ vì sao ta đã dấy ngươi lên, ấy là để tỏ quyền phép ta ra trong ngươi, hầu cho danh ta được truyền ra khắp đất” (Rô-ma 9:17).

  Nói cách khác, khi Đức Chúa Trời cần một người nào đó cho kế hoạch của Ngài, người đó sẽ chống lại lời Ngài và đuổi theo Y-sơ-ra-ên để giết dân sự của Đức Chúa Trời, thì Ngài đã chọn Pha-ra-ôn. Trong số hàng triệu tinh trùng có thể đã kết hợp với trứng đang chờ đợi trong người mẹ của Pha-ra-ôn, Đức Chúa Trời đã quyết định một bào thai được hình thành và trở thành vua của Ai Cập. Cá nhân cụ thể đó hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ thực hiện những công việc sẽ hoàn thành một cách thích đáng mục đích của Đức Chúa Trời trong thời điểm nổi bật của lịch sử. Đức Giê-hô-va hoàn thành kế hoạch của Ngài.Ngài không ép Pha-ra-ôn hành động trái với bản chất của ông. Pha-ra-ôn chỉ đơn giản là phản ứng tích cực với “vua cầm quyền chốn không trung” (theo Ê-phê-sô 2:2) và đồng thời, hoàn thành mục đích thiêng liêng đã được thiết lập trong quá khứ vĩnh cửu! Đây chính là sự bày tỏ của nguyên tắc.

“Cơn giận loài người hẳn sẽ ngợi khen Chúa” (Thi-thiên 76:10).

25

Trước khi dựng nên trời và đất, Đấng Tạo Hóa đã xác định sự ghét bỏ của mỗi tạo vật và mọi hành động trong lịch sử đều phải vì vinh quang và danh dự của Ngài chứ không vì ai khác. Ngài cũng xác định rằng khi nghe đến danh Chúa Giê-su, mọi đầu gối đều phải quỳ xuống, bất kể vật gì trên trời, vật gì dưới đất, và vật gì dưới đất. và mọi lưỡi phải tuyên xưng rằng Chúa Giê-xu là Chúa, để tôn vinh Đức Chúa Trời là Cha (Phi-líp 2:10-11).

Hơn nữa, đối với những người thấy có lỗi với mục đích đời đời của Chúa. Phao-lô viết:

Nhưng, hỡi người, ngươi là ai, mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói với kẻ nắn nên mình rằng: Sao ngươi đã làm nên ta như vậy? Người thợ gốm há chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng việc hèn hạ sao? Nếu Đức Chúa Trời muốn tỏ ra cơn thạnh nộ và làm cho biết quyền phép Ngài, đã lấy lòng khoan nhẫn lớn chịu những bình đáng giận sẵn cho sự hư mất,  để cũng làm cho biết sự giàu có của vinh hiển Ngài bởi những bình đáng thương xót mà Ngài đã định sẵn cho sự vinh hiển, thì còn nói chi được ư?  Đó tôi nói về chúng ta, là kẻ Ngài đã gọi, chẳng những từ trong người Giu-đa, mà cũng từ trong dân ngoại nữa. (Rô-ma 9:20-24).

Nói tóm lại, Người Thợ gốm thiên thượng đã định trước rằng một số tạo vật của Ngài phải được trang bị hoặc “chỉ định” làm bình chứa ô nhục, mà kết cục của chúng sẽ là cơn thịnh nộ vĩnh cửu. Những người khác (được làm bằng cùng một loại đất sét) được tiền định trở thành những chiếc bình phù hợp để mang lại vinh quang cho danh Ngài và được ban cho phước hạnh vĩnh cửu trong  thiên đàng. Nếu Phao-lô rao giảng một thông điệp như vậy trên bục giảng của “hội truyền giáo” ngày nay thì sẽ có một cuộc họp của các viên chức và họ đuổi ông ra khỏi nhà trước khi họ có thời gian để ăn trưa với nhau.  

26

Không có gì ngạc nhiên khi Kinh thánh nói:

Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu. (Ê-sai 55:8-9).

Chắc chắn đường lối của Đức Chúa Trời không phải là đường lối mà con người có thể nghĩ ra. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng, con đường có vẻ đúng với lý trí của con người thực ra là con đường của Sa-tan và kết thúc bằng sự chết đời đời (xem Châm-ngôn 14:12).

Con người có thể thông đồng và lập kế hoạch, theo kế hoạch phản công của thần của họ là Sa-tan, nhưng họ không thể thực hiện được dù chỉ một hành động trái với ý muốn và kế hoạch của Đức Chúa Trời, Đấng đã định trước toàn bộ lịch sử từ sự kiện lớn nhất cho đến sự kiện tầm thường nhất. Kết quả là các thánh đồ của Thượng Đế có thể “tạ ơn trong mọi việc” vì họ biết rằng Đấng Tạo Hóa đã vạch ra một kế hoạch đảm bảo rằng “mọi sự” trong lịch sử sẽ cùng nhau hoạt động vì lợi ích của những người được chọn của Ngài. Họ có thể đối mặt với những kẻ thù đã tìm cách hủy hoại cuộc sống của họ, cũng như những sự kiện gây đau buồn và đau đớn, và họ có thể nói như Giô-sép ngày xưa:

“Các ngươi toan hại ta, nhưng Đức Chúa Trời lại làm điều lành cho ta” (Sáng. 50:20).

Giống như Nê-bu-cát-nết-sa, sau khi tỉnh táo trở lại, ông hiểu rằng “hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Đa-ni-ên 4:35).

27

Loraine Boettner đã tóm tắt: “Mọi thứ đã được Đức Chúa Trời ấn định và ấn định một cách không thể sai lầm ngay từ đầu, và tất cả những gì xảy ra trong thời gian chỉ là sự hoàn thành của những gì đã được ấn định trong cõi đời đời” Đức Giê-hô-va phán:

Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta.10 Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý. 11 Ta gọi chim ó đến từ phương đông, và gọi người làm mưu ta đến từ xứ xa. Điều ta đã rao ra, ta sẽ làm hoàn thành, điều ta đã định, ta cũng sẽ làm. (Ê-sai 46:9-11).

Làm thế nào cái tôi khô héo là bằng chứng như vậy! Tâm trí xác thịt của con người ghê tởm những học thuyết về ân sủng và quả báo tối thượng biết bao! Lòng anh ta nổi loạn biết bao khi chống lại các sắc lệnh của Đấng Toàn Năng, Đấng cai trị mà ý chí bất di bất dịch của Ngài không bao giờ bị vi phạm! Anh ấy ghét bị nói như thế nào:

“Lòng người mưu tính đường lối mình, nhưng Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước người” (Châm ngôn 16:9).

Tâm trí xác thịt tìm cách tạo ra vị thần của riêng mình, vị thần yêu thương tất cả mọi người, chịu đựng mọi hình thức xấu xa và ngu xuẩn, đồng thời nhượng bộ ý chí của những kẻ xấu xa kêu gào “Bất bình đẳng!” Con người tội lỗi không thể chịu đựng được một Đức Chúa Trời sẽ phán:

Ngài phán: Đi đi! nói với dân nầy rằng: Các ngươi hãy nghe, nhưng chẳng hiểu chi; hãy xem, nhưng chẳng thấy chi.(k) 10 Hãy làm cho dân ấy béo lòng, nặng tai, nhắm mắt, e rằng mắt nó thấy được, tai nó nghe được, lòng nó hiểu được, nó trở lại và được chữa lành chăng! (Ê-sai 6:9-10).

Tuy nhiên, đây chính xác là Đức Chúa Trời mà chúng ta biết trong Kinh thánh, cho dù chúng ta có nhìn thấy công việc Ngài qua Cựu Ước hay không.

28

Các vị tiên tri, hoặc trong con người của Con yêu dấu của Ngài Trong Tân Ước. Như Luther đã thẳng thắn nói: “Điều này xúc phạm mạnh mẽ đến bản chất hợp lý của chúng ta, rằng Đức Chúa Trời, theo ý muốn đơn thuần không thiên vị của riêng mình, để một số người tự do, cứng rắn với họ và sau đó lên án họ; nhưng Ngài đã chứng minh rất nhiều và liên tục làm điều đó. đây thực sự là trường hợp, cụ thể là, nguyên nhân duy nhất khiến một số người được cứu và những người khác bị diệt vong là do ý muốn của Ngài về sự cứu rỗi của người trước và sự diệt vong của người sau.”

‘Vì vậy, Ngài muốn thương xót ai thì thương xót, muốn làm cứng lòng ai thì làm” (Rô-ma 9:18). Lời Đức Chúa Trời là quyền năng cứu rỗi cho tất cả những ai tin. Ngài quyết định ai sẽ tin và ai không tin. Chúa tuyên bố:

  “Vì vậy, lời nói của tôi sẽ nói ra từ miệng tôi: nó sẽ không trở về với tôi một cách trống rỗng, nhưng Nó sẽ hoàn thành cơn lốc đó: Tôi vui lòng, và nó sẽ thịnh vượng ở đâu (Ê-sai 55:11).

Ghi chú! Ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện bởi Lời Đức Chúa Trời bất cứ khi nào nó được sai đi. Hai người đàn ông, có lẽ là anh em sinh đôi giống hệt nhau, đang ngồi trong nhà thờ khi họ tham dự buổi giảng Lời Chúa. Một người đầu phục Chúa Kitô và người kia từ chối Đấng Cứu Rỗi. Tại sao? (Hãy cẩn thận, không trả lời dựa trên lý luận của con người nhưng dựa trên Kinh thánh!) Theo Kinh thánh, Lời Đức Chúa Trời hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Nó đứng, do đó. rằng một người “tin” vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời, và người kia từ chối vì đó cũng là Đức Chúa Trời.

Nếu không có sự lựa chọn thiêng liêng và sự lựa chọn của một số người để được cứu rỗi, thì sẽ không ai tin. Chỉ có

29

những người được “sắp đặt để được cứu rỗi” tin, vì Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ trở về tay không, thất vọng và thất bại. Nó luôn luôn, và không có ngoại lệ, hoàn thành niềm vui của Đức Chúa Trời tối cao, bởi vì Ngài đã ra lệnh rằng kế hoạch thiêng liêng của Ngài sẽ thành công trong từng chi tiết nhỏ nhất (xem Công vụ 13:48).

30 -31

I

Hoàn toàn sa ngã

Điểm đầu tiên trong Năm điểm của thuyết Calvin có thể dễ dàng ghi nhớ dưới chữ “T” của chữ viết tắt tạo thành từ TULIP. “T” là viết tắt của sự sa ngã hoàn toàn.

Để hiểu đúng về giáo lý cứu rỗi, chúng ta phải khám phá ra giáo lý về con người theo Kinh thánh là gì. Kinh thánh có đồng ý với quan điểm của người Arminian rằng con người không hoàn toàn sa ngã hay nó tuyên bố rằng con người hoàn toàn sa đọa (nghĩa là hoàn toàn không thể đương đầu với tình trạng tội lỗi của mình để đạt được hoặc góp phần vào sự cứu rỗi của chính mình.)  J. C. Ryle đã tuyên bố một cách khéo léo:

“Có  học thuyết sai lầm mà khởi đầu  bắt nguồn từ quan điểm không lành mạnh về sự suy đồi của bản chất con người. Quan điểm sai lầm về căn bệnh sẽ luôn mang theo quan điểm sai lầm về phương pháp chữa trị. Quan điểm sai lầm về sự suy thoái của  bản chất con người sẽ luôn mang theo mình những quan điểm sai lầm về phương thuốc giải độc và chữa trị sự bại hoại đó.”

32

Hoàn toàn nhận thức được rằng bắt đầu bằng một giả thuyết sai lầm đồng nghĩa với việc kết thúc bằng một dị giáo. Các nhà thần học đáng kính đã hình thành điểm đầu tiên của thuyết Calvin năm điểm để đáp lại Năm điểm của thuyết Anrrinian. Họ nói rằng con người “hoàn toàn sa ngã”.

Bây giờ, vấn đề là, các nhà thần học Cải cách có ý nghĩa gì với thuật ngữ hoàn toàn sa đọa này? Có lẽ chúng ta có thể trả lời tốt nhất bằng cách nêu rõ thuật ngữ này không có nghĩa là gì. Nó không có nghĩa là “sự sa đọa tuyệt đối.” Thuật ngữ thứ hai này có nghĩa là một người luôn thể hiện sự xấu xa trong bản chất tội lỗi của mình càng nhiều càng tốt. Hơn nữa, “sự suy đồi hoàn toàn” không có nghĩa là con người không có khả năng làm điều tốt cho con người. Tất cả chúng ta đều biết rằng những kẻ xấu xa nhất của nhân loại đều có một số điểm tốt của con người về họ, cũng như những người tốt nhất trong nhân loại cũng có một số điểm xấu của con người về họ. Tất cả chúng ta đều đã đọc những câu chuyện về bọn xã hội đen, trùm rượu, gái mại dâm và ma cô, cùng với những người bán ma túy và những thứ tương tự, những người đã làm những việc tốt cho con người. Không, học thuyết Cải cách về sự suy đồi hoàn toàn của con người không tìm cách nói rằng không có “cái tốt” của con người trong con người. Khi con người tự đánh giá mình bằng con người, anh ta luôn có thể tìm thấy điều tốt đẹp nào đó ở bản thân hoặc ở người khác.

Theo những người khổng lồ của Cải cách Tin lành (như Luther, Calvin và Knox), sự suy đồi hoàn toàn có nghĩa là con người tồi tệ hết mức có thể. Điều đó có nghĩa là con người không thể tự cứu mình bởi vì, như Phao-lô đã nói, con người được sinh ra trong thế giới này “chết trong những vi phạm và tội lỗi” và do đó, hoàn toàn trung thành với Sa-tan, thần của người chết. Do đó lập luận của sứ đồ:

“Các ngươi đi theo đường lối của thế gian này, theo vua chúa cầm quyền chốn không trung, thần hiện đang hành động trong con cái ngỗ nghịch… làm thỏa mãn những dục vọng của xác thịt và tâm trí; và theo bản chất con cái của sự thạnh nộ” (Ê-phê-sô 2:2-3).

33

Tình trạng sa đọa của con người, hoặc hoàn toàn không có khả năng tự giải thoát khỏi tội lỗi nô lệ, dựa trên thực tế là linh hồn con người của con người đã chết từ khi sinh ra.

Sự suy đồi hoàn toàn có nghĩa là con người trong trạng thái tự nhiên của mình không có khả năng làm bất cứ điều gì hoặc mong muốn bất cứ điều gì làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cho đến khi được “tái sinh” bởi Đức Thánh Linh và một linh hồn sống của con người, con người là nô lệ của Sa-tan (Hoàng tử quyền lực của không trung), kẻ đã thúc đẩy con người thực hiện những ham muốn của xác thịt là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Trước mặt Đức Chúa Trời, “người có lòng tốt nhất” chỉ có những ý nghĩ xấu xa vì chúng hướng đến việc làm điều tốt cho con người vì vinh quang của chính mình hoặc Sa-tan chứ không bao giờ vì vinh quang của Đấng Tạo Hóa. Kinh thánh:

‘sự tưởng tượng có hạn về những ý nghĩ trong lòng anh ta chỉ liên tục là xấu xa” (Sáng. 6:5). Sự suy đồi hoàn toàn tuyên bố rằng con người có thể nghĩ rằng lòng mình chứa đựng nhiều điều “tốt lành”, nhưng Kinh thánh nói:

Lòng người dối trá hơn mọi vật, và cực kỳ gian ác: ai biết được?” (Giê-rê-mi 17:9).

Theo quan điểm thiêng liêng, con người bị lên án vì họ yêu thích tội lỗi, vì tội lỗi là không tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời và không thể dâng cho Đức Chúa Trời tất cả vinh quang. Khi con người khẳng định rằng anh ta vẫn còn một tia sáng thiêng liêng cư ngụ trong lòng, và rằng anh ta đang tìm kiếm Chúa, Lời Chúa trả lời:

“Không có một người công bình nào, không, một người cũng không: Chẳng có người nào hiểu biết, chẳng có người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:10-11).

34

Một người  được nhìn từ vị trí cao cả của Thiên Chúa về sự công chính và thánh thiện tuyệt đối, Lời của Ngài tuyên bố:

Vả,sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa.

Giăng 3:19

Con người hoàn toàn suy đồi theo nghĩa là mọi thứ về bản chất của họ đều chống lại Đức Chúa Trời. Con người trung thành với thần bóng tối và yêu bóng tối hơn là Ánh sáng. Do đó, ý chí của anh ta không hề “tự do”. Nó bị ràng buộc bằng xác thịt với hoàng tử bóng tối nghiệt ngã. Sự suy đồi hoàn toàn có nghĩa là con người, với “ý chí tự do” của riêng mình, sẽ không bao giờ đưa ra quyết định cho Đấng Christ. Ngay cả Chúa phúc lành của chúng ta cũng thẳng thắn nói:

  “Các ngươi không đến cùng ta để được sự sống” (Giăng 5:40).

Tại sao Chúa chúng ta nói điều này? Bởi vì ý chí của con người không được tái sinh bị ràng buộc bởi những sợi dây tội lỗi và sự chết đối với vị thần của cái chết thuộc linh. Như Phao-lô đã nói với Ti-mô-thê, họ ở trong “cái bẫy của ma quỷ” và “bị [Sa-tan] bắt giữ theo ý muốn của nó” (xem 2 Ti-mô-thê 2:26).

  Sự suy đồi hoàn toàn có nghĩa là con người tự nhiên hoàn toàn không có khả năng nhận thức được lẽ thật. Trên thực tế, con người chưa được tái sinh nghĩ về những điều thuộc về Đức Chúa Trời là nực cười!

“Con người tự nhiên không nhận được những gì mỏng manh: của Thánh Linh của Đức Chúa Trời: vì đối với họ, những điều đó là điên rồ: con người không thể biết được những điều đó, vì chúng được phân biệt” (1 Cô. 2:14).

sự sa đọa về tinh thần phù hợp với Kinh thánh. Con người không thể thấy hay biết những điều liên quan đến vương quốc của Đức Chúa Trời.

35

mà không được tái sinh trước bởi Đức Thánh Linh. Một linh hồn chết chỉ nhận thức được những điều của con người và Satan. Do đó, những lời của Chúa chúng ta với Nicôđêmô:

Nếu một người không được tái sinh, thì không thể thấy được Nước Thiên Chúa” (Gioan 3:3).

Những đứa trẻ chưa chào đời không nhìn thấy ánh sáng. Người chết không phải là ánh sáng. Con người không được tái tạo tự nhiên (linh hồn) không thể nhìn thấy, không thể hiểu được những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Họ là những kẻ chết chưa sinh (về mặt tâm linh) chỉ biết đến bóng tối. Họ hoàn toàn suy đồi, hoàn toàn không có khả năng suy nghĩ, nhận thức hoặc làm bất cứ điều gì đẹp lòng Đức Chúa Trời, cho đến khi Đức Chúa Trời thấy phù hợp để ban cho họ sự sống và sự hiểu biết. Đức tin nối tiếp sự trao ban sự sống. Việc ban sự sống là do ý muốn của Đức Chúa Trời. Chú ý thứ tự:

Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì tình yêu lớn lao của Ngài đã yêu chúng ta, ngay cả khi chúng ta đã chết trong tội lỗi, Ngài đã làm cho chúng ta sống lại với Đấng Christ, (nhờ ân điển mà anh em được cứu;)” (Ê-phê-sô 2:4-5) .

Con người không được cứu bởi một số hành động thần thoại theo ý chí tự do của chính mình. Anh ta được cứu nhờ ân điển (“ân huệ vô song”) của Đức Chúa Trời, là Đấng trước tiên ban cho anh ta sự sống và sau đó truyền đức tin vào lòng anh ta như một món quà miễn phí. Phao-lô viết tiếp:

“Vì nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu; điều đó không phải do anh em mà là sự ban cho của Đức Chúa Trời: Không phải do việc làm, kẻo có người nào khoe khoang” (Ê-phê-sô 2:8-9)

  Quan sát! Sự cứu rỗi là món quà của Đức Chúa Trời. Đó không phải là công việc của con người. Đức Chúa Trời đã ra lệnh rằng các công việc của xác thịt sẽ không góp phần vào “sự cứu rỗi vĩ đại” mà chính Ngài cung cấp. Đó là công việc của Ngài qua món quà sự sống. Ngài tái sinh chúng ta khi chúng ta còn chết trong tội lỗi. Ngay cả đức tin,

36-37

cũng là món quà của Ngài. Chúng ta được cứu bởi đức tin, điều này không thuộc về chúng ta

Sự sa đọa hoàn toàn mà con người không có ý chí tự do theo nghĩa là anh ta được tự do tin cậy Chúa Giê-xu Christ là Chúa và Đấng Cứu Rỗi của mình. Điểm đầu tiên này, để trả lời cho năm điểm của Thuyết Arminian, lập luận rằng Kinh thánh dạy rằng con người là nô lệ của tội lỗi, rằng con người thuộc linh chỉ có bóng tối chứ không phải ánh sáng, và rằng con người nghe tiếng nói của Sa-tan—cho đến khi Chúa cho tai để nghe và mắt để thấy, vì Ngài vui lòng làm như vậy (Châm ngôn 20:12). Do đó, những lời của Chúa Giê-su:

Tại sao các ngươi không hiểu lời ta? Ấy là bởi các ngươi chẳng có thể nghe được đạo của ta. 44 Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. (Giăng 8:43-44).

Sự sa đọa hoàn toàn có nghĩa là con người không được tái sinh bị mắc kẹt trong tội lỗi một cách vô vọng, bị Sa-tan trói buộc bằng dây sự chết thuộc linh, và hoàn toàn không quan tâm đến những điều của Đấng Tạo Hóa. Khi đến lúc những mối ràng buộc đó bị phá vỡ và sự chết thay thế bằng cuộc sống vĩnh cửu, thì đó là công việc của Đức Chúa Trời, Đấng ban cho đức tin mong muốn và làm những điều đẹp lòng Ngài. Đây là lý do tại sao Phao-lô nói với những người được chọn,

  Vì chính Đức Chúa Trời tác động trong anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt của Ngài- (Phi-líp 2:13).

  Giống như La-xa-rơ sẽ không bao giờ nghe được tiếng nói của Chúa Giê-su, cũng như anh ta sẽ không bao giờ “đến với Chúa Giê-su nếu không được Chúa chúng ta ban cho sự sống trước, vì vậy tất cả những người “chết vì vi phạm và tội lỗi” trước hết phải được Chúa ban cho sự sống trước khi họ có thể đến với Đấng Christ” Vì những người chết không thể muốn nhận sự sống mà chỉ có thể sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời, nên con người tự nhiên không thể bằng ý muốn  của mình mà có được sự sống đời đời (Giăng 10:26- 28)

Sự suy đồi hoàn toàn tuyên bố rằng hy vọng duy nhất của con người hư mất là trong một cuộc tuyển chọn dựa trên mục đích hoặc kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chỉ những ai thuộc về Chúa mới nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi họ đi ra (theo tên). Chúa Giêsu nói với những người không tin vào Ngài.

Ai ra bởi Đức Chúa Trời, thì nghe lời Đức Chúa Trời; cho nên các ngươi chẳng nghe, tại các ngươi không thuộc về Đức Chúa Trời.

Giăng 8:47

P 38

II

Sự tuyển chọn vô điều kiện

Điểm thứ hai trong Năm điểm của thuyết Calvin được ghi nhớ dễ dàng dưới chữ cái “U” của chữ viết tắt tạo thành từ TULIP. Chữ “U” đó là viết tắt của sự tuyển chọn vô điều kiện. Học thuyết này được trình bày trong Bản Tuyên xưng Đức tin của người Báp-tít năm 1689 theo các thuật ngữ gần như giống hệt với Bản tuyên xưng của Westminster và Ba mươi chín Điều khoản của Giáo hội Anh, cũng như Bản tuyên xưng của Heidelberg và Belgic và Giáo luật Dort.

“Những người trong nhân loại đã được định trước cho Sự sống, Đức Chúa Trời, trước khi tạo dựng thế giới, theo Mục đích vĩnh cửu và bất biến của Ngài, cũng như ý định bí mật và ý muốn tốt đẹp của Ngài, đã chọn trong Đấng Christ để được vinh quang vĩnh cửu, từ Ân sủng và tình yêu đơn thuần của Ngài, không có bất kỳ thứ gì khác trong các tạo vật như một điều kiện hay nguyên nhân đưa Ngài đến đó.”

40

  Khi nghĩ về điểm này, chúng ta sẽ nhớ rằng quan điểm của người Arminian cho rằng sự biết trước dựa trên hành động tích cực của ý chí con người như là điều kiện hoặc nguyên nhân khiến Đức Chúa Trời lựa chọn anh ta để được cứu rỗi. Tất cả những lời thú tội lớn đều đồng ý với Nhà cải cách Tin lành,” tuyên bố rằng sự tuyển chọn là vô điều kiện. Nói cách khác, sự biết trước của Đức Chúa Trời dựa trên sắc lệnh, kế hoạch hoặc mục đích của Ngài thể hiện ý muốn của Ngài, chứ không phải dựa trên một số hành động tích cực được dự đoán trước. Do đó, chúng ta phải hướng sự chú ý của chúng ta đến Kinh thánh để khám phá xem liệu sự biết trước/lợi thế dựa trên ý muốn và mục đích của con người hay dựa trên ý muốn và mục đích của Đức Chúa Trời.

Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn(z) Ngài đã định. 29 Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em. (Rô-ma 8:28-29).

  Ở đây, chúng ta thấy rằng sự lựa chọn dựa trên kế hoạch thiêng liêng (“theo mục đích của Ngài”) vì vậy sự biết trước cũng phải dựa trên mục đích của Đức Chúa Trời chứ không phải dựa trên công việc của những người được chọn. Đây là lý do tại sao Phao-lô cũng tuyên bố:

Đối với những đứa trẻ chưa được sinh ra, chưa làm điều gì tốt hay xấu, mục đích của Đức Chúa Trời theo sự lựa chọn có thể đứng vững, không phải việc làm, mà là về anh ta . . . có lời chép rằng: Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét Ê-sau” (Rô-ma 9:11).

Ở đây, sứ đồ tuyên bố rằng nền tảng của sự lựa chọn là ở chính Đức Chúa Trời, nghĩa là trong ý muốn và mục đích của Ngài, chứ không phải trong một hành động đức tin hay một số “điều kiện (như sẽ nói) nơi con cái dù tốt hay xấu. Sự lựa chọn là vô điều kiện. Con người không thể làm gì để xứng đáng với điều đó.

41

Kinh thánh nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời không chọn những người được cứu vì họ có lòng tốt hoặc sự vĩ đại nào đó đã thấy trước. Ngược lại, Ngài thích sử dụng những kẻ yếu đuối, thấp kém và vô dụng theo cách đảm bảo rằng chỉ một mình Ngài sẽ đạt được vinh quang!

Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. 27 Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; 28 Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, 29 để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời.”

(1 Cô-rinh-tô 1:26-29). .

Trong bức thư gửi cho Ti-mô-thê, ông tái khẳng định sự lựa chọn vô điều kiện khi viết:

Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng (2 Tim. 1:9).

  Một lần nữa, sự kêu gọi hay “sự lựa chọn” của chúng ta không bị điều kiện bởi điều gì đó mà con người làm cho Đức Chúa Trời (chẳng hạn như thực hiện ý chí tích cực) mà là “theo mục đích riêng của họ: Sự lựa chọn là” vô điều kiện” đối với công việc của con người. khẳng định rằng con người không làm theo sự lựa chọn của Đức Chúa Trời, vì bản chất sa đọa của con người chỉ có thể “tích cực” đối với Sa-tan.

Ấy chẳng phi các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, (Giăng  15,16).

42

Trên thực tế, theo Phao-lô, sự lựa chọn đó đã được thực hiện trước khi Ngài tạo ra một điều duy nhất.

   ‘ Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ trước khi sáng thế” (Ê-phê-sô 1:4).

Đối với bất kỳ ai tranh luận rằng con người có khả năng, theo ý chí tự do của mình, để tạo ra một công cụ tìm kiếm cho Chúa Kitô, khi Con Thiên Chúa nói bằng những lời không thể hiểu lầm:

Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta. (Giăng 6:44).

Chỉ những người mà Đức Chúa Cha thấy phù hợp để lựa chọn theo ý muốn tự do của Ngài, ngoài bất kỳ điều kiện nào về phía họ, mới được ban cho đức tin để tin nhận sự cứu rỗi. Hãy lưu ý lời chứng thực rõ ràng của Lu-ca:

  “Các dân ngoại nghe lời ấy, thì vui mừng, tôn vinh đạo Chúa: và tất cả những kẻ đã được định sẵn để hưởng sự sống đời đời đều tin theo” (Công vụ 13:48).

Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng nếp sống đạo và đức tin là công việc của Đức Chúa Trời, không phải công việc của con người.  Ngài dạy:
Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy.
Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.

(Giăng 5:21; 6:29).

  Một nhà truyền giáo nói với khán thính giả,  “Ai đến với Chúa Giê-su sẽ không bị bỏ rơi” nên thêm vào  những lời dạy trước đó của Chúa Giê-su:
Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.

Giăng 6:37

43

  Ai sẽ không bị loại bỏ? Tất cả những ai đến với Ngài! , rồi, sẽ đến với Đấng Cứu Thế? Ngài nói: “Tất cả những gì Chúa Cha ban cho tôi”. Sự lựa chọn ai sẽ đến với Đấng Christ là của Đức Chúa Trời, không phải của con người.

Trên thực tế, có một cái nhìn tuyệt vời về  sự tuyển chọn vô điều kiện do Chúa chúng ta đưa ra khi Ngài phán với các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên:

  Ta nói thật cùng các ngươi, về đời Ê-li, khi trời đóng chặt trong ba năm sáu tháng, cả xứ bị đói kém, trong dân Y-sơ-ra-ên có nhiều đàn bà góa;(o) 26 dầu vậy, Ê-li chẳng được sai đến cùng một người nào trong đám họ, nhưng được sai đến cùng một đàn bà góa ở Sa-rép-ta, xứ Si-đôn.(p) 27 Trong đời đấng tiên tri Ê-li-sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng có nhiều kẻ mắc tật phung; song không có ai lành sạch được, chỉ Na-a-man, người xứ Sy-ri mà thôi” (Lu-ca 4:25-27: xem Ê-sai 65:1).

Không có tình trạng nào ở Naaman hoặc góa phụ ở Sarephath có thể được mô tả là “tốt”, nhưng Đức Chúa Trời thấy cần phải hành động ân điển miễn phí đối với họ, mặc dù cả hai đều là người ngoại đạo. Ngài bỏ qua những người tích cực tham gia vào việc “giữ Luật pháp Môi-se” và ban ân huệ  cho những người không biết Ngài.

Tất nhiên, điều không thể tránh khỏi đã xảy ra khi Chúa Giê-su đề cập đến chủ đề lựa chọn vô điều kiện, tức là việc Đức Chúa Trời lựa chọn hành động trong ân điển mà không có một số điều kiện tốt lành đối với đối tượng của Ngài. Họ đã cố ném Ngài xuống một vách đá cho đến chết! Con người nổi loạn, ủ rũ, cay đắng, trong tình trạng không thể phục hồi, ghét bất kỳ học thuyết nào từ chối mang lại cho con người ít nhất một phần vinh quang!

  Lấy một ví dụ khác. Khi Chúa Giê-xu kết thúc bài diễn văn tuyệt vời của Ngài về sự kiện Ngài là ‘Bánh từ trời xuống,” Ngài nói:

Ngài lại phán rằng: Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được. Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa.

 Giăng 6:65-66

44

  Tại sao? Bởi vì Con Đức Chúa Trời đã nhấn mạnh rằng sự lựa chọn dựa trên ý muốn của Đức Chúa Trời chứ không phải ý muốn của con người! Ông tước bỏ quan niệm thổi phồng cái tôi của họ rằng một số điều kiện tốt tồn tại trong họ đã dẫn đến cuộc bầu cử của họ.

  Nếu điều đó tùy thuộc vào con người thì anh ta sẽ không bao giờ tin, vì con người hoàn toàn sa đọa, hoàn toàn không có khả năng làm điều tốt. Bị bỏ lại một mình để đưa ra quyết định cho Đấng Christ, nếu không được ban cho sự sống và đức tin trước bởi một hành động của Đức Chúa Trời, con người sẽ không bao giờ “đến với Chúa Giê-xu.”

“Các ngươi sẽ không đến cùng ta để được sự sống” (Giăng 5:40).

Josiah Condo đã viết:

 không phải là tôi đã chọn Ngài.

Vì. Chúa ơi, đó không thể là:

Trái tim này vẫn từ chối Ngài,

Nếu Ngài không chọn tôi!

  45

Sự Chuộc Tội Có Giới Hạn

Bây giờ chúng ta đến với điều có thể là khó khăn nhất trong Năm điểm của thuyết Calvin bởi vì cộng đồng Cơ đốc giáo đã bị điều kiện hóa về mặt cảm xúc bởi những thực hành sai lầm xuất phát từ học thuyết sai lầm liên quan đến việc huy động những người truyền giáo và thu quỹ cho những điều tương tự.

Khi chúng ta nói về công lao của Đấng Christ trên thập tự giá, liệu chúng ta có đúng khi nói rằng Ngài đã chết cho tất cả mọi người một cách bình đẳng và như nhau (như người Arminian nói), hay chúng ta nói chính xác hơn (với những người theo thuyết Calvin) rằng Đấng Christ đã chết chỉ dành cho những người được?

Trước khi đi đến một kết luận vội vàng, dựa trên cảm xúc và truyền thống giáo phái, chúng ta hãy xem Lời Đức Chúa Trời và luận lý liên tục nói gì về vấn đề cực kỳ quan trọng này.

46

Phần lớn những gì chúng ta nghĩ về cái chết chuộc tội của Đấng Ky Tô sẽ bị giảm bớt bởi những gì chúng ta hiểu từ thế giới đơn giản có nghĩa là gì. Trong Phúc âm của John, từ này có ý nghĩa đặc biệt ở chỗ nó có thể có bất kỳ một trong bảy nghĩa khác nhau: (1) nghĩa cổ điển, tức là vũ trụ có trật tự, (2) chính trái đất, (3) cư dân rên trái đất ,  (4) nhân loại dưới sự phán xét của Đấng Tạo Hóa, xa lạ với cuộc sống của Ngài, theo nghĩa đạo đức, (5) công chúng hướng về Chúa Kitô, đặc biệt là người Do Thái, (6) vương quốc của các thế lực xấu xa, thiên thần cũng như con người, liên quan đến trái đất, và (7) những người từ mọi bộ lạc và quốc gia nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia nói chung.

  Nói cách khác, thuật ngữ thế giới có thể đề cập đến tất cả những gì Đức Chúa Trời đã tạo ra, hoặc quả cầu trái đất mà loài người sinh sống, hoặc toàn thể nhân loại, hoặc những người Palestine cùng thời với Chúa chúng ta, người Do Thái nói riêng, hoặc tất cả những kẻ ác. các lực lượng liên quan đến trái đất và trong cuộc nổi loạn chống lại Thượng Đế, hoặc những người được chọn từ mọi bộ lạc và quốc gia trên mặt đất. Bất cứ nơi nào từ xuất hiện, nó phải được xử lý trong ngữ cảnh giống như cách mà từ tất cả phải được kiểm tra. Ví dụ, Kinh thánh ghi lại những người Pha-ri-si nói rằng:

“Kìa, thế gian đều chạy theo Ngài” (Giăng 12:19).

Giờ đây, rõ ràng từ ngữ cảnh rằng không phải tất cả nhân loại đều theo Chúa Giê-su, vì chính các diễn giả đã từ chối làm như vậy. Hơn nữa, chúng ta có thể yên tâm rằng không phải mọi người trên mặt đất đều noi theo Đấng Cứu Rỗi. Vào dịp đó, “thế gian” chỉ bao gồm những người, dù là Do Thái hay Dân Ngoại, là những người đã nhiệt tình đi theo Chúa chúng ta (vì họ đã nghe nói rằng Ngài đã khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết).

Lấy văn bản vàng làm ví dụ:

47

Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.

(Giăng 3:16).

   Người Arminian giả định một cách hợp lý rằng từ thế giới khiến cả nhân loại lo lắng vì anh ta tin vào hậu định (“số phận được xác định sau khi Đức Chúa Trời thấy trước công việc của con người về ý chí tích cực đối với Đấng Christ”). Người theo chủ nghĩa Calvin giả định một cách logic về định nghĩa thế giới là “con người từ mọi bộ lạc và quốc gia, nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia nói chung? Điều này xuất phát từ niềm tin của ông rằng Kinh thánh tiết lộ rằng sự lựa chọn dựa trên mục đích của Đức Chúa Trời, và bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình trạng nào của con người, vì ý chí của con người không tự do mà bị ràng buộc bởi Sa-tan, tội lỗi và sự chết.

Bạn thấy đấy, nếu bạn tin rằng Kinh thánh dạy rằng Đức Chúa Trời có quyền tể trị, kế hoạch của Ngài là bất biến, và sự lựa chọn của Ngài là vô điều kiện, thì bạn phải kết luận rằng sự chuộc tội chỉ giới hạn cho những người mà Ngài tự do muốn làm đối tượng của ân điển. (Thật ra, ân sủng có nghĩa là ân huệ không xứng đáng. Đó là một hành động hoàn toàn không xứng đáng, vì vậy thuật ngữ này, theo bản chất của định nghĩa, phủ nhận sự tuyển chọn có điều kiện.)

Quan điểm của Arminian khẳng định rằng chính hành động đức tin của con người xứng đáng được tuyển chọn theo sự biết trước của Đức Chúa Trời. Nếu đúng như vậy, con người được cứu bởi việc làm chứ không phải bởi ân điển của Đức Chúa Trời, bởi vì anh ta đã làm ít nhất một điều đẹp lòng Đức Chúa Trời, và tất cả là do chính anh ta! Phao-lô hiểu điều này và khẳng định rằng chúng ta

  và họ nhờ n điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, (Rô-ma 3:24).

  Để trở lại một cách ngắn gọn với Giăng 3:16, chúng ta hãy đặt câu hỏi.

  Chúa Kitô đã chết cho ai? Quay lại câu thơ với các câu hỏi:

Ai không bị hư mất mà được sự sống đời đời?

48

2. Theo Kinh Thánh, ai sẽ tin?

  3. Vậy thì, ai được bao gồm trong thế giới từ ngữ?

  Gần như tất cả mọi người sẽ đồng ý rằng câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên là “bất cứ ai tin vào Ngài” Người Arminian sẽ trả lời câu hỏi thứ hai, “Bất cứ ai tự nguyện chọn tin vào Đấng Christ.” Người Calvin sẽ trả lời, “Những người mà Cha đã chọn trong Đấng Christ, theo ý muốn tự do của Ngài.” Bây giờ, lưu ý một cái gì đó tuyệt vời! Cả hai đều đồng ý rằng “thế gian”, theo thuật ngữ của những người mà Chúa Kitô đã chết, tức là những người tin, có nghĩa là “những người  từ mọi bộ lạc và quốc gia, nhưng không phải tất cả các bộ lạc và quốc gia nói chung”, vì không phải tất cả sẽ tin vào Đấng Christ.

Người Arminian ít nhất phải đồng ý rằng mặc dù huyết của Đấng Christ có đủ giá trị (vì đó là “huyết của Đức Chúa Trời”), và sự chết của Ngài có giá trị vô hạn trước mắt Đức Chúa Trời, nhưng nó chỉ có tác dụng hoặc hiệu quả trong chừng mực nào đó. Sự tuyển chọn có liên quan (cho dù quan điểm là tuyển chọn có điều kiện hay vô điều kiện). Trên thực tế, quan điểm của người Arminian về sự chuộc tội phổ quát là không thể chấp nhận được. Mục đích duy nhất của họ là nói rằng ý muốn của Đức Chúa Trời bị con người làm cho thất bại, bởi vì Đấng Christ được cho là đã chết cho tất cả những người mà Đức Chúa Trời muốn cứu nhưng không thể. Tất nhiên, điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời không toàn năng và Đấng Christ chỉ giành được một chiến thắng nhỏ trên thập tự giá, vì nhiều người đã chết trong sự vô tín hơn là được vinh hiển nhờ đức tin vào công việc đã hoàn thành của Đấng Cứu Rỗi tại đồi Gô-gô-tha.  Peter nói:

Chúa không muốn bất kỳ ai bị hư mất. (2 Phi-e-rơ 3:9).

Đúng, nhưng hãy công bằng với các quy tắc cơ bản về ngữ pháp và diễn giải tiếng Anh (hoặc tiếng Hy Lạp, nếu bạn có thể, vì cả hai đều đi đến cùng một kết luận). Bắt đầu bằng cách trả lời câu hỏi. Thư tín thứ hai của ông gửi cho ai, trong đó có câu này:

Si-môn Phi-e-r, làm tôi tớ và sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho những kẻ cậy sự công bình của Đức Chúa Trời chúng ta và của Cứu Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ, đã lãnh phần đức tin đồng quí báu như của chúng tôi:

2 Phi-e-rơ 1:1

49

Ông đang viết thư cho những người tin, cho những người được chọn, cho những người có đức tin dựa trên sự công bình của Đức Chúa Trời chứ không phải trên một điều kiện nào đó về sự công bình của chính họ! Tiếp theo, hãy đặt câu hỏi: “Đâu là bối cảnh của đoạn văn trong đó câu này được tìm thấy?” Câu trả lời là:

” Chớ nào lời hứa về sự Chúa đến ở đâu?” (2 Phi-e-rơ 3:4).

Sau đó kiểm tra câu trả lời của Peter

“Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người tính là chậm trễ đâu; nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với chúng ta (2 Phi-e-rơ 3:9).

Tạm dừng một chút và đưa ra câu trả lời công bằng cho câu hỏi, “Phi-e-rơ đang xưng hô với ai khi sử dụng đại từ nhân xưng chúng ta?” Ý anh ấy là tất cả mọi người, bầu chọn và thất bại như nhau, hay anh ấy đang viết

“cho những người đã nhận được đức tin quý giá như chúng ta” (2 Phi-e-rơ 1:1)

như ông nói trong lời chào của bức thư này? Câu trả lời rõ ràng là Phi-e-rơ chỉ nói về những người tin Chúa khi ông nói chúng ta…

  Tại sao Chúa kiên nhẫn đối với lời hứa của Ngài sẽ đến? Vì một lẽ đơn giản là Ngài

Chúa không chm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn

2 Phi-e-rơ 3:9

50

Giả sử rằng Chúa Giê-su đã cất hội thánh vào năm 1850! Bạn sẽ ở đâu? Chắc chắn bạn sẽ không “tự ý tin Chúa Giê-xu Christ để được cứu rỗi và có một chỗ trong hội thánh là cô dâu của Ngài!

  Không ai có thể lấy 2 Phi-e-rơ 3:9 để ủng hộ quan điểm của người Arminian mà không đặt nó ra khỏi ngữ cảnh, áp dụng sai nó cho lời chê trách và phá vỡ các quy tắc cơ bản để giải thích tiếng Anh hoặc tiếng Hy Lạp đơn giản. Vị trí của Phi-e-rơ ở đó, cũng như mọi nơi khác, là Đấng Christ đã chết cho chúng ta (những người được chọn) chứ không phải cho cả thế giới. Ông đồng ý với Paul, người đã viết:

“Vì (Đức Chúa Trời) đã khiến (Đấng Christ) trở nên tội lỗi vì chúng ta …

Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (2 Cô. 5:21: Rô. 5:8

Định nghĩa duy nhất của từ thế giani, như được sử dụng trong Kinh thánh, sẽ phù hợp với mọi đoạn văn đề cập đến sự cứu rỗi của những người được chọn, là “những người thuộc mọi bộ lạc và quốc gia, nhưng không phải toàn bộ nhân loại.”

Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta? 32 Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao? 33 Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy.

” (Rô-ma 8:31-33′

51

Chúa Kitô đã không chết cho tất cả mọi người. Sự chuộc tội có giới hạn! Sự cứu chuộc là đặc biệt! Chỉ có Cô Dâu được chọn của Đấng Christ mới là đối tượng tình yêu của Ngài. Phao-lô nói cụ thể:

Ê-phê-sô 5:25

“Tất cả” những người mà Đấng Cứu Rỗi đã chết cho họ là những người được chọn mà Đức Chúa Cha đã chọn để ban cho Ngài làm Cô Dâu “thánh khiết và không chỗ trách được.” Ngài không chọn chúng ta vì chúng ta thánh khiết và không chỗ trách được! Phao-lô nói rằng Đức Chúa Trời

đã chọn chúng ta trong [Đấng Christ] trước khi sáng thế, hầu cho chúng ta nên thánh không chỗ trách được trước mặt Ngài trong tình yêu thương: Ngài đã định trước chúng ta…” (Ê-phê-sô 1:4).

Không phải được chọn “bởi vì,” nhưng được chọn “để” chúng ta có thể nên thánh và không tì vết trước mặt Đức Chúa Trời. Chúng ta đã được định trước là “yêu” bởi vì không có điểm nào trong Kinh thánh là thuật ngữ “được Chúa yêu” áp dụng cho bất kỳ người nào khác ngoài các thánh! Nó không bao giờ được áp dụng cho thế giới nói chung, nơi bao gồm cả sự phản đối. Về điều sau, “cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời” vẫn tồn tại, trong khi điều trước “không có sự lên án.” Chỉ những người được tuyển chọn mới là đối tượng cụ thể của tình yêu  Chúa.

Nguyền xin anh em được ân điển(a) và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta, 4 là Đấng phó mình vì tội lỗi chúng ta, hầu cho cứu chúng ta khỏi đời ác nầy, y theo ý muốn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta, 5 nguyền Ngài được vinh hiển đời đời vô cùng! A-men.  (Ga-la-ti 1:3-5).

  Lấy một ví dụ rất rõ ràng về thực tế là Kinh thánh có giới hạn chuộc tội. Trong chương thứ mười của Phúc âm Giăng, Chúa yêu dấu của chúng ta xác định chính Ngài là Đức Giê-hô-va, “Người Chăn Hiền Lành” của Thi thiên 23. Khi Ngài nói về “chiên” của Ngài, rõ ràng là Ngài muốn nói đến những con chiên được

52

tuyển chọn những người mà Chúa Cha đã ban cho Người làm của riêng mình. Ngài dạy:

  “Ta là người chăn hiền lành, chiên ta biết ta, và chiên ta cũng biết ta” (Giăng 10:14).

Ai là chiên của Ngài biết Ngài và Ngài biết ai? Không thể tranh luận với câu trả lời, “cừu vây là những người tin tưởng, những người được chọn.” Lưu ý tuyên bố sau:

“Ta hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên” (Giăng 10:15). Nói cách khác, khi Đấng Christ hy sinh mạng sống của Ngài trên thập tự giá ở Đồi Sọ, Ngài đã hy sinh mạng sống đó cho bầy chiên của Ngài, những người được chọn của Đức Chúa Cha! Không phải tất cả mọi người đều được bao gồm trong thuật ngữ đó “Chiên của ta? Vì vậy, Đấng Christ đã không hy sinh mạng sống của Ngài vì tất cả mọi người. Đối với những người đứng xung quanh Ngài vào dịp đó, Chúa Giê-su kêu lên:

“Các ngươi không tin, vì các ngươi không thuộc về chiên của ta, như ta đã nói với các ngươi” (Giăng 10:26).

Những người bị quở trách, không được chọn, những người không tin không được tính vào số những người mà Đấng Christ đã hy sinh mạng sống của Ngài cho họ. Ngài chỉ chết cho đàn chiên của Ngài. Hơn nữa, khi Ngài gọi họ bằng tên, họ theo Ngài ngay cả khi Cha đã định trước rằng họ phải làm như vậy! Lưu ý những lời của Ngài:

“Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó và nó theo ta” (Giăng 10:27).

Ngài ban sự sống đời đời như một món quà miễn phí cho những người mà Đức Chúa Cha đã ban cho Ngài trước khi vũ trụ được tạo dựng. Sự cứu rỗi là công việc của Đức Chúa Trời toàn năng, không thể cưỡng lại, Đấng lớn hơn tất cả những chủ thể nào khác.

Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha

Giăng 10:29

53

Kinh thánh không dạy rằng Đấng Christ đã chết để cứu mọi người khỏi tội lỗi của họ. Chúng ta được cho biết rõ ràng rằng cái chết của Ngài được thiết kế để cứu rỗi dân Ngài, những người mà Cha đã chọn trong quá khứ vĩnh cửu.

“Anh em là dòng dõi được chọn” (1 Phi-e-rơ 2:9).

Tại sao người theo thuyết Calvin tin vào sự chuộc tội có giới hạn? Vì lý do đơn giản là Chúa Kitô và các thánh tông đồ đã tin vào điều đó và đã dạy nó!

“Ngươi khá đặt tên là JESUS, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Ma-thi-ơ 1:21).

Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài cho chúng ta  “khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8).

54-55

Ân  điển không thể cưỡng lại

ân sủng không thể cưỡng lại

Điểm thứ tư của chủ nghĩa Calvin đối lập với điểm thứ tư của chủ nghĩa Arminian với “ân sủng không thể cưỡng lại” so với “ân sủng có thể cản trở”. Người theo chủ nghĩa Calvin nhấn mạnh rằng sự cứu rỗi dựa trên ý chí tự do của Đức Chúa Trời, và vì Đức Chúa Trời là đấng toàn năng nên ân điển của Ngài không thể bị cưỡng lại. Người Arminian trả lời rằng sự cứu rỗi dựa trên ý chí tự do của con người, người có khả năng từ chối ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời (ngay cả khi được Chúa Thánh Thần tán tỉnh). Anh ta đủ mạnh để cản trở hoặc chống lại ân điển của Đức Chúa Trời, Đấng rất muốn tất cả mọi người được cứu!

Có lẽ tốt nhất chúng ta nên bắt đầu bằng cách định nghĩa từ Hy Lạp charis được dịch một cách nhất quán là ân điển trong Tân Ước. Ý nghĩa cơ bản của từ này là ân huệ không xứng đáng.” Ân điển là điều mà Đức Chúa Trời làm cho con người, điều mà con người không xứng đáng-điều mà anh ta không xứng đáng bằng bất kỳ sự tưởng tượng nào. Nếu con người xứng đáng với những gì anh ta nhận được từ Chúa, thì anh ta đã kiếm được đó. Làm việc kiếm được phần thưởng, nhưng ai không có việc làm để được Đức Chúa Trời ban ơn thì phải kêu xin ân điển. Đây là cơ sở cho luận điểm của Phao-lô:

Vả, đối với kẻ nào làm việc, thì tiền công không kể là ơn, nhưng kể như là nợ, 5 còn kẻ chẳng làm việc chi hết, nhưng tin Đấng xưng người có tội là công bình, thì đức tin của kẻ ấy kể là công bình cho mình.

Rô-ma 4:4-5

56

Vì đức tin là “món quà của Đức Chúa Trời” và “không phải do việc làm, mà là một hành động của ân điển (của” ân huệ vô song”) từ phía Đức Chúa Trời. Nếu công việc của đức tin là công việc của con người thì Đức Chúa Trời mắc nợ con người. Tuy nhiên, nếu đức tin là công việc của Đức Chúa Trời và là món quà của Đức Chúa Trời dành cho con người, thì con người hoàn toàn không có điều kiện nào trong mình để đáng được cứu rỗi như một phần thưởng.

Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng (2 Tim. I: 9).

Điều gì có nghĩa là khi người theo chủ nghĩa Calvin nói về ân sủng không thể cưỡng lại? Chúng tôi trả lời đầu tiên trong câu phủ định. Điều đó không có nghĩa là Đức Chúa Trời bạo hành tinh thần con người bằng cách ép buộc họ làm điều gì đó mà họ không muốn làm. (Ngài không ép buộc Giu-đa làm điều ông ta đã làm. Giu-đa đã hành động tự do, theo ý muốn tốt lành của Sa-tan, chủ nhân của mình, bằng cách làm theo những gì mà linh hồn con người đã chết của ông ta, linh hồn tội lỗi hư nát của ông ta, sai khiến ông ta phải làm. Đó chính là lý do tại sao Đấng Christ , biết người mà Ngài đã chọn để ở với Ngài ngày này qua ngày khác trong suốt ba năm rưỡi thừa tác vụ công khai của Ngài đã chọn Giuđa.) Giuđa, không chút ép buộc, đã hoàn thành ý muốn của Chúa (Công vụ 2:22-23).

Không thể cưỡng lại, khi sử dụng ân điển của Đức Chúa Trời cho những người được chọn của Ngài, có nghĩa là Đức Chúa Trời, theo ý muốn tự do của Ngài, ban sự sống cho người mà Ngài chọn. Vì linh hồn sống của con người, được sinh ra bởi Đức Chúa Trời, thấy Đức Chúa Trời hằng sống hoàn toàn không thể cưỡng lại được,

57

giống như một linh hồn con người đã chết tìm thấy thần chết (Satan) hoàn toàn không thể cưỡng lại được, Chúa “làm sống lại” (“làm sống lại”) tất cả những người mà Ngài đã chọn trong Chúa Giê-su Christ trước khi sáng thế. Đó là món quà của bản chất mới làm cho chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu Kitô hoàn toàn không thể cưỡng lại. Một con lợn. vì bản chất của nó, thích đắm mình trong bùn và bùn, trong khi một con cừu, vì bản chất của nó, không thích đắm mình trong bùn. “Chết trong sự vi phạm và tội lỗi,” những người không tái sinh chìm đắm trong tội lỗi và vô tín bởi vì đó là bản chất của họ để làm như vậy. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời ban cho những người được chọn của Ngài, những người là đối tượng trực tiếp của tình yêu thương của Ngài, một “bản chất mới”, thì những điều cũ qua đi và mọi sự trở nên mới! Bản chất mới, là tinh thần con người sống động, một tạo vật mới trong Đấng Christ, thấy Đức Chúa Trời không thể cưỡng lại được giống như tinh thần con người “đã chết” trước đây của Ngài từng thấy ma quỷ không thể cưỡng lại được.

Tuy nhiên, Arminian khẳng định rằng Đức Chúa Trời toàn năng có thể bị cản trở ý chí cứu rỗi tất cả mọi người bởi ý chí nhỏ bé, bất lực của bất kỳ cá nhân nào. Nói cách khác, chính Đức Thánh Linh trở nên bất lực trong việc truyền sự sống, nếu tội nhân thích từ chối Đấng Christ và chống lại sự lôi kéo của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Điều này trái ngược với lời của Chúa Giê-su:

Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy. (Giăng 5:21).

Không chỗ nào trong Kinh thánh nói rằng một người chọn sự sống đời đời theo ý muốn của mình. Ngược lại, Kinh thánh nói rằng bất cứ ai Cha ban cho Con yêu dấu của Ngài sẽ đến, đó là ý muốn của Ngài mà họ đến. Hãy nghe Chúa Giêsu!

  ” Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.” (Giăng 6:37).

Ai là người mà Chúa của chúng ta tuyên bố rằng Ngài sẽ không bao giờ loại bỏ”? Theo lời của Ngài, được đưa ra trong nửa đầu của câu,

58

đó là những người mà Cha đã định – sẽ đến” với Ngài. Đây là ân sủng không thể cưỡng lại!

Ở trong suy nghĩ của bạn về vấn đề héo Đó là ý muốn của Đức Chúa Trời, về điều mà Kinh thánh nói

Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?  (Đa-ni-ên 4:35).

Kế đến, chúng ta có ý muốn của Sa-tan, tạo vật mạnh mẽ nhất mà Đức Giê-hô-va từng tạo ra. Là kẻ thù không đội trời chung của Đức Chúa Trời, và mạnh hơn nhiều so với con người, loài được tạo ra “thấp hơn các thiên sứ một chút”, tuy nhiên, Sa-tan kém quyền năng hơn nhiều so với Đức Chúa Trời. Điều này được thể hiện qua việc Đức Giê-hô-va đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt đối với những gì Ngài sẽ cho phép Kẻ kiện cáo anh em ngày xưa làm. Biên sử về Gióp đưa ra một số ví dụ về các ranh giới do Chúa thiết lập mà Sa-tan không thể vượt qua, khi hắn bức hại Gióp. Vì vậy, dù Sa-tan có thể mạnh hơn cả các thiên sứ thánh, nhưng hắn không toàn năng như Đức Giê-hô-va. Nó không toàn trí hay có mặt khắp nơi như Đức Giê-hô-va. Anh ta là một cường quốc hạng hai.

  Con người là một sức mạnh hạng ba. Anh ta không thể chống lại Satan vì ý chí của anh ta thấp kém hơn ý chí của ma quỷ. Phao-lô nói rằng những người không được tái sinh, những người “chống đối” những tôi tớ của Đức Chúa Trời là những người dạy Lời Chúa,

“bị [ma quỷ] bắt giữ theo ý muốn của nó” (2 Ti-mô-thê 2:26).

  Làm thế nào Sa-tan có thể gài bẫy “theo ý muốn” của người hư mất? Vì lý do đơn giản là con người, không có Chúa Thánh Thần, là một sức mạnh thấp kém không thể chống lại tạo vật mạnh mẽ nhất mà Thiên Chúa từng tạo ra! Đây là lý do tại sao những người vẫn còn “chết vì vi phạm và tội lỗi” bị điều khiển bởi kế hoạch phản công của Ác ma, bước đi

59

đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch

 (Ê-phê-sô 2:2).

Các reprobate được điều động bởi ma quỷ. Họ làm theo ý muốn của Ngài vì họ là con cái của cơn thịnh nộ và bị Đức Chúa Trời lên án. Những người đã mất có “ý chí ràng buộc”, vì họ bị thần chết lôi cuốn một cách không thể cưỡng lại trừ khi Thần của người sống thấy phù hợp để ban cho họ món quà là sự sống và đức tin.

Những người không được tuyển chọn đáng chê trách không bao giờ được coi là đối tượng của tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Chỉ những người được chọn, những người mà Chúa Cha muốn ban cho Con của Ngài như một cô dâu, mới được gọi là “con yêu dấu của Chúa.”

Tôi sẽ không làm bạn mệt mỏi khi chỉ ra rằng tình yêu thương của Ngài không dựa trên một tình trạng “tốt” tưởng tượng nào đó trong chúng ta. (Phao-lô nói rằng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn “chết trong tội lỗi”.) Chúng ta không được cứu bởi vì Ngài biết trước một công việc tốt lành của đức tin là kết quả từ thiện chí tích cực của chúng ta đối với Chúa Giê-su. Không, điều đó sẽ khiến Đức Chúa Trời mắc nợ con người tội lỗi. Phao-lô nói rằng đó là “tất cả ân điển.” Ha-lê-lu-gia!

“Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì tình yêu thương lớn lao mà Ngài đã yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta đã chết trong tội lỗi, đã làm cho chúng ta sống lại [làm cho chúng ta sống lại] cùng với Đấng Christ, (nhờ ân điển mà anh em được cứu;)” (Ê-phê-sô 2:4-5).

Ngay cả người Arminian cũng phải nhận ra rằng khi anh ta tuyên bố rằng ân sủng của Đức Chúa Trời, Đấng muốn tất cả mọi người sẽ được cứu, có thể bị chống lại và từ chối, anh ta đang nói rằng Đức Giê-hô-va không phải là Đấng toàn năng. Anh ta đang tuyên bố rằng con người, một sức mạnh hạng ba, dưới sự kiểm soát của một Quyền lực hạng hai cao hơn, có “ý chí tự do” tuyệt vời đến mức anh ta có thể phá vỡ sức mạnh cao hơn của Satan để “chọn” con đường của mình đến

60

thiên đường! Hay là Cha trên trời “dễ dãi” và muốn cho phép các đối tượng của địa ngục của Ngài nếu họ muốn? Hay con người hữu hạn có thể chống lại quyền năng hạng nhất của Đức Giê-hô-va (Đấng Tạo Hóa Toàn Năng) bởi vì Ngài, quyền lực hạng ba, vĩ đại hơn Đức Chúa Trời? Không thể tin được!

  Con người không thể đến với Đấng Christ vì con người bị Sa-tan trói buộc. Con người sẽ không đến vì thấy Sa-tan không thể cưỡng lại được và Đức Giê-hô-va đáng khinh. Con người không có “ý chí tự do”, anh ta có ý chí bị ma quỷ trói buộc. Con người không có “sức mạnh” để chống lại Đức Chúa Trời nếu Đức Chúa Trời “muốn” cứu họ. Con người không chỉ là quyền lực hạng ba dưới quyền của thần chết, mà còn không thể cưỡng lại những thói hư tật xấu và những ham muốn của xác thịt! Con người cần được Đức Chúa Trời lôi kéo một cách không cưỡng lại được bằng ân điển của Ngài, nếu không con người sẽ không bao giờ tiến được một bước nào theo hướng của Đấng Christ. Do đó có lời của Chúa chúng ta:

“Không ai có thể đến với ta. Ngoại trừ Chúa Cha, Đấng đã sai ta đến, kéo anh ta” (Giăng 6:44).

Một ví dụ rõ ràng về điều này là một nữ thương gia đã nghe các sứ đồ dạy Lời Đức Chúa Trời. và

Có một người trong bọn đó nghe chúng ta, tên là Ly-đi, quê ở thành Thi-a-ti-rơ, làm nghề buôn hàng sắc tía, vẫn kính sợ Đức Chúa Trời. Chúa mở lòng cho người, đặng chăm chỉ nghe lời Phao-lô nói (Công vụ 16:14).

Ai đã mở lòng bà cho Chúa Giêsu? Kinh thánh có dạy cô ấy rằng tội nhân mở lòng với Chúa không, hay Kinh thánh dạy rằng chính Chúa là Đấng mở lòng?

Con người hoàn toàn sa đọa, không có khuynh hướng hướng thiện. Anh ta chưa bao giờ có một điều kiện nào trong và về bản thân để xứng đáng được cứu rỗi, do đó anh ta được bầu chọn một cách vô điều kiện để trở thành người nhận sự sống và đức tin. Chúa Kitô đã không chết cho tất cả mọi người, nhưng chỉ cho những người được Chúa Cha tự do chọn lựa từ mọi quốc gia và

61

bộ tộc trên mặt đất. Cái chết của Đấng Christ và huyết quý báu của Ngài được thiết kế đặc biệt dành cho những người mà Đức Chúa Trời đã xác định là phải đến với Con yêu dấu của Ngài trong đức tin nhờ “ân điển không thể cưỡng lại” của Ngài, qua món quà sự sống của Đức Thánh Linh.

62-63

Sự kiên trì của các thánh đồ

Những người phản đối (Arminian) đã dạy rằng một người được cứu có thể “sa ngã khỏi ân sủng”, do đó đánh mất sự cứu rỗi mà anh ta đã từng đạt được. Vì hành động đức tin là ý muốn của con người để được cứu rỗi, nên lý do là nếu anh ta không tiếp tục trong đức tin, hoặc phạm một số tội đáng bị lên án, thì anh ta có thể tự ý từ chối Đức Chúa Trời và quay trở lại với chủ cũ của mình. Tất nhiên, đó là kết luận hợp lý duy nhất có thể đạt được nếu một người nắm vững bốn điểm đầu tiên của thuyết Arminian, và những học trò xuất sắc của Arminius biết điều đó.

  Những người theo chủ nghĩa Calvin đã dạy rằng các thánh, còn được gọi là “những người được chọn”, không bao giờ có thể bị mất đi vì sự cứu rỗi của họ là do ý muốn của Đức Chúa Trời toàn năng, không thay đổi. Vì không có điều kiện nào trong con người quyết định việc anh ta được chọn. bởi vì Kinh thánh dạy về sự lựa chọn vô điều kiện, nên lý do là anh ta không thể làm gì để khiến mình “không được cứu” một khi anh ta đã được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Chắc chắn, lý do của người theo thuyết Calvin, nếu đó là ý muốn của Chúa

64

rằng tôi đã được cứu, và vì Ngài “không thay đổi”, nên tôi bắt đầu tiếp tục sự cứu rỗi của mình, và vào thiên đàng sự cứu rỗi của tôi, một người được cứu bởi vì Ngài đã muốn như vậy!

“Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.” (Gia-cơ 1:18).

Vì vậy, chúng tôi có hai vị trí hoàn toàn đối lập nhau. Một là ý kiến, dựa trên lý luận của tâm trí xác thịt (vốn luôn thù địch với Đức Chúa Trời), và điều kia là sự thật dựa trên Kinh thánh. Vì vậy, chúng ta hãy xem Kinh Thánh nói gì. Phao-lô tiếp tục chủ đề may mắn này bằng cách đảm bảo với các tín hữu tại Phi-líp:

“Hãy tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn việc đó cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ” (Phi-líp 1:6).

Đức Chúa Trời là Tác giả của “công việc tốt” (mà Ngài, không phải con người, đã bắt đầu trong sự lựa chọn của Ngài) sẽ “thực hiện nó” (thì tiếp diễn, hoặc “tiếp tục thực hiện” công việc tốt lành ở vị thánh) cho đến “ngày của Chúa Giê-su” khi chúng ta sẽ nhận được thân thể phục sinh vô tội! Một lần nữa, “việc lành” đó cũng sẽ là công việc của Ngài chứ không phải của chúng ta! Do đó, những lời khác của Phao-lô cho các tín đồ Phi-líp:

Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ,  Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật.  (Phi-líp 3:20-21).

Hãy lưu ý rằng Chúa Cha đã trao “mọi quyền năng” cho ai để “Ngài có thể khuất phục muôn vật”. Đó là Đấng Cứu Rỗi-Vua sắp đến của chúng ta! Đó là Vua vinh hiển, và Ngài xác nhận:

và nhân quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con.

Giăng 17:2

65

Bao nhiêu? Ai? Con của Đức Chúa Trời cũng đã nói một cách đơn giản nhất,

Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt. (Giăng 6:39).

Kinh thánh của bạn nói gì? “Một số” được ban cho Con sẽ bị mất hay “không” sẽ bị mất? Vì sự cứu rỗi đến từ Chúa, hiển nhiên là một khi chúng ta được cứu bởi quyền năng của Đức Chúa Trời thì chúng ta luôn luôn được cứu. Chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì đến việc “được cứu” và chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì đến việc “được cứu”, bởi vì sự cứu rỗi là bởi ân điển của Đức Chúa Trời chứ không phải ý chí dao động của con người! Hãy lưu ý những lời của Đức Chúa Con:

  Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. (Giăng 10:28).

Sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho riêng Ngài được bao lâu? Liệu những con chiên được chọn của Đấng Chăn Hiền Lành có bao giờ bị diệt vong không? Chúng ta nghe lời ai? Của con người hay của Chúa? Tại sao một số người sẽ lấy những đoạn Kinh thánh không rõ ràng để cố gắng vô hiệu hóa những đoạn siêu rõ ràng? Có thể là vì họ sẽ không được cứu rỗi bởi ân điển tối cao của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ được cứu rỗi bởi công việc đức tin của chính họ hoặc không có gì cả?

66

Lấy lời của Phi-e-rơ, khi ông được hướng dẫn và kiểm soát bởi Đức Thánh Linh, người đã viết rằng những người được chọn đều được định sẵn

là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em,  là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!  (1 Phi-e-rơ 1:4-5 ).

Thảo nào Phao-lô hân hoan hát:

   vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó. (2 Ti-mô-thê 1:12; đối chiếu Giăng 17:11).

Chúng ta được tiền định lên thiên đàng vì Chúa đã chọn chúng ta vào vinh quang. Đây là lý do tại sao người Tê-sa-lô-ni-ca yên tâm:

“Ấy cũng là vì đó mà Ngài đã dùng Tin lành chúng tôi gọi anh em, đặng anh em hưởng được sự vinh hiển của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:14).

Thiên đàng là nhà của chúng ta. Vinh quang của nơi ở trên trời đó là cơ nghiệp của chúng ta vì Đức Chúa Trời đã tự ý muốn như vậy bởi ân điển của Ngài!

Ấy cũng là trong Ngài mà chúng ta đã nên kẻ dự phần kế nghiệp, như đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán. (Ê-phê-sô 1:11).

Vậy thì làm sao? Ấy là dân Y-sơ-ra-ên chẳng được điều mình tìm; song những kẻ lựa chọn thì đã được, và những kẻ khác thì bị cứng lòng (Rô-ma 11:7).

“vừa lúc ban ầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em.” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13)

67

ít ngạc nhiên rằng Phao-lô, biết rằng Đấng Tạo Hóa toàn năng đã biến ông thành đối tượng của tình yêu vĩnh cửu, nên có thể mạnh dạn nói:

Chúa sẽ giải cứu tôi khỏi mọi việc ác, và sẽ đưa tôi vào vương quốc trên trời của Ngài  (2 Ti-mô-thê 4:18).

Jude  viết thư cho người được chọn của Chúa,

cho họ được thánh hóa bởi Thiên Chúa Cha, và hiện tại! trong Đức Chúa Jêsus Christ, và được kêu gọi” (Giu-đe 1).

Chẳng có gì ngạc nhiên khi Phao-lô tin tưởng cầu nguyện cho các thánh đồ được chọn tại Tê-sa-lô-ni-ca:

Và chính Thiên Chúa của hòa bình thánh hóa bạn hoàn toàn; và tôi cầu xin Đức Chúa Trời toàn bộ tinh thần, tâm hồn và thể xác của bạn được bảo toàn không chỗ trách được trước sự quang lâm của Chúa Giê-xu Christ chúng ta. Đấng gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23-24).

Ai là người bảo vệ tín đồ “không chỗ trách được” cho đến khi Ngài đến với chúng ta? Ai là người chung thủy? Ai sẽ làm công việc thánh hóa và gìn giữ kỳ diệu này? Tại sao, “Chúa Giê-xu Christ của chúng ta”, tất nhiên rồi! Các thánh tồn tại vì Ngài kiên trì! Chúng tôi cũng không được giữ trong từng mảnh nhỏ. Chúng tôi được giữ như một “tinh thần và tâm hồn và thể xác” hoàn chỉnh!

Hoặc, như Jude nói trong bài tán tụng tuyệt đẹp ở cuối bức thư mạnh mẽ của mình:

Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, 25 là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men.  (Giuđe 24-25).

68

Vâng, các thánh đồ sẽ “kiên trì” vì Đấng Cứu Rỗi tuyên bố rằng Ngài sẽ kiên trì thay cho họ. Anh ấy sẽ giữ chúng. Nếu sự kiên trì phụ thuộc vào con người hay thay đổi với bản chất tội lỗi sa ngã của mình, anh ta sẽ vô vọng. Sự kiên trì của các thánh phụ thuộc vào ân sủng không thể cưỡng lại, được ban cho chúng ta vì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta vì sự chuộc tội mà chúng ta có được bằng máu của Ngài chỉ dành cho những người được chọn. Sự lựa chọn đó, ngợi khen Chúa, không dựa trên một số điều kiện tốt lành đã biết trước ở trong chúng ta vì “chẳng có điều gì tốt cả, không có một điều gì cả.” Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, đó là một sự tuyển chọn vô điều kiện bởi vì không có điều kiện nào có thể được tìm thấy! Không thể tìm thấy tình trạng nào vì con người hoàn toàn sa đọa, tức là hoàn toàn không có khả năng thực thi thiện chí đối với Thiên Chúa, hoàn toàn bất lực để kêu gọi mình sống lại hoặc giải thoát mình khỏi quyền lực siêu phàm của thần chết.

69

Tóm lại là

Tại thời điểm này, tác giả của sự đánh giá về Năm điểm của chủ nghĩa Armian và Năm điểm của chủ nghĩa Calvin, dưới ánh sáng của Kinh thánh, phải thú nhận. Cách đây không lâu, tôi đã bị thuyết phục bởi Arminian. Tôi được tái sinh bởi ý muốn và ân điển của Đức Chúa Trời tại một bàn thờ Giám lý. Sau này tôi trở thành mục sư Giám Lý. Khi tôi tìm kiếm những thông điệp giải thích topmast cho những người của mình, tôi đã nghiên cứu ý nghĩa của mọi từ khóa trong tiếng Hy Lạp hoặc tiếng Do Thái. Kết quả là chẳng bao lâu sau tôi nhận thấy quan điểm giáo lý của giáo phái của tôi không phù hợp với quan điểm của Kinh thánh. Cuối cùng cũng đến ngày tôi lịch sự từ chức bục giảng của mình. Tôi không có ác cảm với nhà thờ, hay với Giám mục, vì tôi luôn được ưu ái trong suốt chín năm phục vụ. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy rằng việc giảng dạy trái ngược với tổ chức mà tôi phục vụ là không phù hợp. Cuộc xuất hành của tôi diễn ra đến nỗi Giám mục đã trả lại giấy tờ thụ phong cho tôi với những lời khen ngợi vì đã trung thành phục vụ, và tôi đang trên đường thực hiện cuộc phiêu lưu thú vị nhất bởi đức tin mà tôi đã có cho đến lúc đó.

Tôi tiếp tục nghiên cứu Kinh thánh, say mê đọc các tác phẩm tham khảo và đọc hết tập này đến tập khác về lịch sử giáo hội (đặc biệt là lịch sử của Tin lành Cải Chánh).

70

Tôi bắt đầu thấy hố sâu ngăn cách giữa thần học hiện đại và Lời Chúa. Khoảng cách vĩ đại này đã được Thánh Linh của Thượng Đế cho thấy rõ ràng nhất trong lòng tôi khi tôi bắt đầu phân tích sự khác biệt giữa điều mà lịch sử gọi là thuyết Arminian và thuyết Calvin. Giống như nhiều nhà thuyết giáo và giáo dân, tôi đã nghe cả hai từ được sử dụng như những thuật ngữ xấu xa để lên án những người có quan điểm trái ngược, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự biết ai tin vào điều gì. Cuốn sách nhỏ này là kết quả của việc tìm kiếm nhiều Kinh Thánh để “xem những điều này có đúng như vậy không”. Nó không được viết ra với mong muốn mâu thuẫn với thuyết Arminian, mặc dù nó làm vậy, để chứng tỏ rằng các học thuyết của những người Cải cách (được gọi là thuyết Calvin), gần với Kinh thánh hơn bất kỳ hệ thống thần học nào khác. mà tôi quen thuộc.

Tôi đã biết rằng người nào đảm nhận vị trí giáo lý của các Nhà cải cách vĩ đại sẽ trở thành đối tượng chế nhạo của những người có thần học dựa trên cảm xúc, truyền thống giáo phái và học thuyết, và lý luận của con người, nhưng tôi không thể rời bỏ con người của mình. lập trường của Đấng Christ và các sứ đồ của Ngài được thuyết phục. Với Luther, tôi phải khóc, tôi là tù nhân của Lời Chúa! Tôi không thể làm gì khác! Tôi ở đây!”

  Tuy nhiên, ngay cả khi tôi đảm bảo rằng học thuyết Cải cách là học thuyết Kinh thánh, tôi khiêm tốn nhận ra rằng cách đây không lâu, tôi đã bị thuyết phục bởi người Arminian, do đó, tôi không lên án những người không đồng ý với quan điểm hiện tại của tôi. Tôi chỉ cầu xin soi sáng cho mỗi người rằng Chúa Thánh Thần sẽ để chúng ta có thể yêu thương nhau bằng Agape trên trời mà Ngài yêu thương chúng ta (bất chấp chính chúng ta) và hiểu biết về Sự thật.

Có lẽ Những Lời Nói của Charles Haddon Spurgeon có thể diễn đạt rõ nhất cảm xúc của tôi trong tác phẩm nhỏ về T-U-L-I-P này.

71

“Chúng tôi tin vào năm điểm quan trọng thường được gọi là thuyết Calvin; nhưng chúng tôi không coi năm điểm này là những cái trục có gai mà chúng tôi sẽ đâm vào giữa các xương sườn của những người theo đạo Cơ đốc của mình. Chúng tôi coi chúng như năm ngọn đèn lớn giúp ích để chiếu sáng thập tự giá; hay nói đúng hơn là năm tia sáng phát ra từ giao ước vinh quang của Đức Chúa Trời ba ngôi hiệp một của chúng ta, và minh họa cho giáo lý vĩ đại của Chúa Giê-xu chịu đóng đinh.”

Tôi đã tìm kiếm Chúa, và sau đó tôi biết

  Ngài khiến linh hồn tôi tìm kiếm Ngài đang tìm kiếm tôi;

Không phải tôi đã tìm thấy, Cứu Chúa thực sự,

  Không, tôi đã được tìm thấy của Thee.

Chúa đã đưa tay ra và bàn tay của tôi bao phủ;

  Tôi bước đi và không chìm trên biển cuồng phong;

Twas không nhiều đến mức tôi trên Thee đã nắm giữ,

Như Chúa, Chúa yêu dấu, trên tôi.

Tôi tìm, tôi bước, tôi yêu, nhưng, 0 toàn bộ

  Tình yêu chỉ là câu trả lời của con, lạy Chúa, với Ngài!

Vì Chúa đã ở trước linh hồn tôi từ lâu,

Ngài luôn yêu thương tôi.

Anon., c. 1878

72

Tuyển chọn từ Bản Tuyên xưng Đức tin của Westminster (1648)

CHƯƠNG III

Về Mục Đích Đời Đời của Đức Chúa Trời

 I  Ta, Đức Chúa Trời, từ đời đời, đã ban, theo ý muốn khôn ngoan và thánh thiện nhất của ý muốn Ngài, tự do và không thể thay đổi quy định bất cứ điều gì xảy ra: tuy nhiên, như vậy, Đức Chúa Trời không phải là tác giả của tội lỗi, cũng không phải bạo lực được ban cho ý chí của các tạo vật; cũng không phải là sự tự do hoặc ngẫu nhiên của các nguyên nhân thứ hai bị lấy đi, mà đúng hơn là được thiết lập.

 II  Mặc dù Đức Chúa Trời biết bất cứ điều gì có thể hoặc có thể xảy ra trong tất cả các điều kiện được cho là, nhưng Ngài không ra lệnh bất cứ điều gì vì Ngài đã thấy trước nó là tương lai, hoặc điều sẽ xảy ra trong những điều kiện như vậy.

73

III Theo sắc lệnh của Thượng Đế, để biểu lộ vinh quang của Ngài, một số người và thiên thần đã được tiền định cho cuộc sống vĩnh cửu; và những người khác đã được định trước cho cái chết vĩnh viễn.

IV Những thiên thần và những người đàn ông này, do đó đã được định trước và định trước, được thiết kế đặc biệt và không thể thay đổi, và số lượng của họ chắc chắn và xác định đến mức không thể tăng lên hoặc giảm đi.

V Những người thuộc loài người đã được định trước để có sự sống, thì Đức Chúa Trời, trước khi tạo dựng thế gian, theo mục đích đời đời và bất biến của Ngài, theo ý định bí mật và ý muốn tốt đẹp của Ngài, đã chọn, trong Đấng Christ, để được vinh hiển đời đời, chỉ đơn thuần là ân điển và tình yêu miễn phí của Ngài, không có bất kỳ tầm nhìn xa nào về đức tin, việc lành, hoặc sự kiên trì trong một trong hai điều đó, hoặc bất kỳ điều gì khác trong tạo vật, như những điều kiện, hoặc nguyên nhân khiến Ngài đến đó; và tất cả để ngợi khen ân điển vinh hiển của Ngài.

VI Như Đức Chúa Trời đã chỉ định những người được chọn đến vinh quang, thì Ngài cũng vậy, theo mục đích vĩnh cửu và tự do nhất trong ý muốn của Ngài, đã định trước tất cả các phương tiện để đạt được điều đó. Vì vậy, những người được chọn, bị sa ngã trong A Đam, được Đấng Ky Tô cứu chuộc, được kêu gọi thực sự để tin nơi Đấng Ky Tô bởi Thánh Linh của Ngài hoạt động đúng thời điểm, được xưng công chính, được nhận làm con nuôi, được thánh hóa và gìn giữ bởi quyền năng của Ngài, nhờ đức tin, để được cứu rỗi . Không ai khác được cứu chuộc bởi Chúa Kitô. được gọi một cách hiệu quả, hợp lý. được thông qua, được thánh hóa và được cứu, nhưng chỉ những người được chọn.

VII Phần còn lại của nhân loại, Đức Chúa Trời hài lòng, theo lời khuyên không thể dò được của ý muốn riêng của Ngài, theo đó Ngài mở rộng hoặc rút lại lòng thương xót, tùy ý Ngài, để vinh quang quyền năng tối cao của Ngài đối với các tạo vật của Ngài, đi qua; và phong chức cho họ để sỉ nhục và phẫn nộ vì tội lỗi của họ, để ca ngợi công lý vinh quang của Ngài.

74

VIII Giáo lý về bí ẩn cao cả về nơi đến này phải được xử lý với sự thận trọng đặc biệt’: điều quan trọng là những người đàn ông, tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Lời Ngài, và tuân theo ý muốn đó, có thể, từ sự chắc chắn về ơn gọi thực sự của họ, được đảm bảo về sự bầu cử vĩnh cửu của họ. Vì vậy, học thuyết này sẽ cung cấp vấn đề ca ngợi, tôn kính và ngưỡng mộ Chúa; và sự khiêm nhường, siêng năng, và sự an ủi dồi dào cho tất cả những ai chân thành tuân theo Phúc Âm.

  CHƯƠNG V

   sự quan phòng của Đức Chúa Trời.

I  Ta, Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vĩ đại của vạn vật, nâng đỡ, hướng dẫn, định đoạt và chi phối mọi sinh vật, hoạt động và sự vật, từ vật lớn nhất cho đến vật nhỏ nhất, bởi sự quan phòng thánh khiết và khôn ngoan nhất của Ngài, theo sự biết trước không thể sai lầm của Ngài, và sự tự do. và lời khuyên bất di bất dịch theo ý muốn của Ngài, để ca ngợi vinh quang về sự khôn ngoan, quyền năng, công lý, lòng tốt và lòng thương xót của Ngài.

II Mặc dù, liên quan đến sự biết trước và sắc lệnh của Thượng Đế, Nguyên nhân đầu tiên, mọi thứ đều diễn ra một cách bất biến và không thể sai lầm; tuy nhiên, theo cùng một sự quan phòng, Ngài ra lệnh cho chúng rơi ra tùy theo bản chất của các nguyên nhân thứ hai, hoặc nhất thiết, tự do hoặc ngẫu nhiên.

Ill Đức Chúa Trời ở trong sự quan phòng thông thường của Ngài, sử dụng các phương tiện, nhưng được tự do làm việc mà không có, bên trên và chống lại chúng, theo ý muốn của Ngài.

IV Quyền năng toàn năng, sự khôn ngoan khôn dò, và lòng nhân từ vô hạn của Đức Chúa Trời cho đến nay đều thể hiện trong sự quan phòng của Ngài, đến nỗi nó tự mở rộng đến lần sa ngã đầu tiên, và mọi tội lỗi khác của thiên thần và loài người; và điều đó không phải bởi một sự cho phép trần trụi, mà như vậy đã kết hợp với nó một giới hạn khôn ngoan và mạnh mẽ nhất, và theo cách khác, và

75

quản lý chúng trong một sự phân bổ đa dạng, cho mục đích thánh thiện của riêng Ngài: nhưng như vậy. vì tội lỗi của nó chỉ bắt nguồn từ tạo vật chứ không phải từ Thiên Chúa, Đấng thánh thiện và công bình nhất, không thể là tác giả hay người chấp thuận tội lỗi.

V Đức Chúa Trời khôn ngoan, công bình và nhân từ nhất đôi khi trong một thời gian nào đó, con cái của Ngài sẽ bày tỏ và bày tỏ sự bại hoại trong lòng họ, để trừng phạt họ vì những tội lỗi trước đây của họ, hoặc để khám phá ra cho họ sức mạnh tiềm ẩn của sự đồi bại và dối trá của họ. trái tim, để họ có thể hạ mình xuống; và để nâng họ đến một sự phụ thuộc gần gũi và liên tục hơn để  họ phụ thuộc vào chính Ngài, đồng thời khiến họ cảnh giác hơn trước mọi dịp tội lỗi trong tương lai, cũng như những mục đích lặt vặt và thánh thiện khác.

VI  Đối với những kẻ gian ác và không tin kính mà Đức Chúa Trời, với tư cách là Quan tòa công bình, vì những tội lỗi trước đây, làm cho họ mù quáng và chai đá, Ngài không chỉ giữ lại ân điển của Ngài để nhờ đó họ có thể được soi sáng trong sự hiểu biết và rèn luyện trong lòng: nhưng đôi khi cũng rút lại những món quà mà họ đã có. và đặt họ vào những đối tượng như vậy khi sự hư hỏng của họ tạo ra cơ hội phạm tội; và cuối cùng, họ chiều theo dục vọng của chính họ, những cám dỗ của thế gian, và quyền lực của Sa-tan, theo đó, họ trở nên chai đá, ngay cả dưới những phương tiện mà Đức Chúa Trời sử dụng để làm mềm lòng người khác.

CHƯƠNG VII

  Về Giao Ước của Thiên Chúa với Con Người

Il Giao ước đầu tiên được lập với con người là giao ước mà tôi thực hiện, trong đó sự sống đã được hứa cho Ađam; và trong hậu thế của mình. với điều kiện phải vâng lời hoàn hảo và cá nhân.

76

III Con người, do sự sa ngã của mình, khiến bản thân không thể sống theo giao ước đó, Chúa đã vui lòng lập giao ước thứ hai, thường được gọi là giao ước ân sủng; trong đó Ngài tự do ban cho tội nhân sự sống và sự cứu rỗi bởi Chúa Giê-xu Christ; đòi hỏi họ phải có đức tin nơi Ngài, để họ có thể được cứu, và hứa ban cho tất cả những người đã được phong chức đời sống Đức Thánh Linh của Ngài, để khiến họ sẵn lòng và có thể tin.

  CHƯƠNG VIII

Chúa Giê-su Christ Đấng Trung Gian

  I   Đức Chúa Trời vui lòng trong mục đích vĩnh cửu của Ngài, Ngài chọn và sắc phong Chúa Giê Su, Con độc sinh của Ngài, làm Đấng Trung Gian giữa Thượng Đế và loài người, Vị Tiên Tri, Thầy Tế Lễ và Vua, Người Đứng Đầu và Đấng Cứu Rỗi của Giáo Hội Ngài, Đấng Thừa Kế của tất cả mọi thứ, và Thẩm phán của thế giới: những người mà Ngài đã ban cho từ muôn đời một dân tộc, để trở thành hạt giống của Ngài và được Ngài cứu chuộc, kêu gọi, công chính hóa, thánh hóa và vinh quang trong thời gian.

V Đức Chúa Jêsus, bởi sự vâng lời trọn vẹn của Ngài, và sự hy sinh của chính Ngài, mà Ngài, nhờ Thánh Linh đời đời, một khi đã dâng lên cho Đức Chúa Trời, đã hoàn toàn thỏa mãn sự công bình của Cha Ngài, và mua chuộc không những sự hòa giải mà còn cả cơ nghiệp đời đời trong Nước Trời cho tất cả những ai Chúa Cha đã ban cho Người.

VIII Đối với tất cả những người mà Đấng Christ đã mua chuộc, chắc chắn Ngài áp dụng và truyền đạt điều tương tự một cách chắc chắn và hiệu quả; cầu thay cho họ và mặc khải cho họ, trong và bởi Lời, những mầu nhiệm. của sự cứu rỗi; hiệu quả thuyết phục họ bằng Thánh Linh của Ngài để tin và vâng lời, và điều khiển tấm lòng của họ bằng Lời và Thánh Linh của Ngài; vượt qua tất cả kẻ thù của họ bằng quyền năng và trí tuệ toàn năng của Ngài, theo cách thức và đường lối như vậy.

77

như là những điều phù hợp nhất với gian kỳ kỳ diệu và không thể tìm kiếm được của Ngài.

CHƯƠNG IX

ý chí tự do

I   Đức Chúa Trời  đã ban cho ý chí của con người sự tự do tự nhiên đó, rằng nó không bị ép buộc, cũng không phải do bất kỳ sự tất yếu tuyệt đối nào của tự nhiên, quyết định thiện hay ác.

II  Con người, trong tình trạng vô tội, có quyền tự do và quyền năng để muốn và làm điều tốt và đẹp lòng Đức Chúa Trời; tuy nhiên, có thể thay đổi, để anh ta có thể rơi khỏi nó.

III  Con người, khi rơi vào tình trạng tội lỗi, đã hoàn toàn mất hết khả năng ý chí đối với bất kỳ điều thiện thiêng liêng nào đi kèm với sự cứu rỗi: đến nỗi, một con người tự nhiên, hoàn toàn xa lạ với điều thiện đó, và chết trong tội lỗi, không thể tự mình sức mạnh của chính mình để chuyển đổi chính mình, hoặc để chuẩn bị cho mình.

  IV Khi Đức Chúa Trời hoán cải một tội nhân và đưa người ấy vào tình trạng ân sủng, Ngài giải thoát người ấy khỏi ách nô lệ tự nhiên của mình dưới tội lỗi; và, chỉ nhờ ân điển của Ngài, cho phép anh ta tự do muốn và làm điều tốt về mặt thuộc linh; tuy nhiên, vì lý do còn lại sự bại hoại của mình, anh ta không hoàn toàn, cũng như không chỉ muốn điều tốt, mà còn muốn điều xấu.

V Ý chí của con người được tự do hoàn toàn và bất biến để hướng thiện chỉ trong trạng thái vinh quang mà thôi.

  CHƯƠNG X

  Lời kêu gọi hiệu quả

I  Tất cả những ai mà Thiên Chúa đã định sẵn cho cuộc sống, và những người duy nhất, Ngài hài lòng. trong sự chỉ định và chấp nhận của Ngài

78

đã đến lúc, nhờ Lời và Thánh Linh của Ngài, một cách hiệu quả, kêu gọi ra khỏi tình trạng tội lỗi và sự chết, vốn là bản chất của họ, để đến với ân điển và sự cứu rỗi, bởi Chúa Giê-xu Christ; soi sáng tâm trí họ một cách thiêng liêng và cứu độ để hiểu những điều thuộc về Thiên Chúa, cất đi trái tim chai đá của họ và ban cho họ trái tim bằng thịt; đổi mới ý chí của họ, và nhờ quyền năng toàn năng của Ngài xác định họ theo điều tốt lành, và thực sự lôi kéo họ đến với Chúa Giê Su Ky Tô; tuy nhiên, như vậy, khi họ đến một cách tự do nhất, được thực hiện bởi ân điển của Ngài.

II  Sự kêu gọi có hiệu lực này chỉ do ân điển đặc biệt và miễn phí của Đức Chúa Trời, không phải do bất cứ điều gì đã thấy trước nơi con người, là người hoàn toàn thụ động trong đó, cho đến khi được Đức Thánh Linh làm cho sống động và đổi mới, nhờ đó con người có thể đáp lại lời kêu gọi này, và để đón nhận ân sủng được dâng hiến và chuyển tải trong đó.

79

Bối cảnh lịch sử

Biểu đồ bắt đầu ở trang 82 được thiết kế để sử dụng với cuốn sách TULIP. Tiêu đề của cuốn sách được lấy từ một chữ viết tắt cũ được hình thành bởi các chữ cái đầu tiên của Năm điểm của thuyết Calvin, đó là: Sự sa đọa hoàn toàn, Cuộc bầu cử vô điều kiện, Sự chuộc tội có giới hạn, Ân sủng không thể cưỡng lại và Sự kiên trì của các thánh đồ.

  Năm điểm hay vị trí giáo lý này đã được Đại Thượng Hội đồng Dort xây dựng để trả lời cho một tài liệu có tên là “Remonstrance.” “Cuộc biểu tình” này đã được đệ trình lên Bang Hà Lan bởi các đệ tử của một giáo sư chủng viện người Hà Lan (Jacob Hermann) có họ Latinh là Arminius. Arminius (1560-1609) chỉ mới bốn tuổi khi Nhà cải cách vĩ đại, John Calvin (1509-1564) qua đời. Mặc dù được nuôi dưỡng theo truyền thống Cải cách, Arminius vẫn nghi ngờ nghiêm trọng về ân sủng tối cao của Chúa, vì lý do tự nhiên của ông là đồng cảm với những lời dạy của Pelagius và Erasmus liên quan đến ý chí tự do của con người. Trong vòng một năm sau cái chết của Arminius, các đệ tử của ông đã trình bày những lời dạy của ông thành năm điểm chính, mà họ đã tiến hành trình bày trước Nhà nước với

80

mong muốn rằng Kinh Xưng tội Belgic và sách giáo lý Heidelberg được thay thế bằng những lời dạy của giáo sư của họ;

  Thượng hội đồng vĩ đại của Dort được triệu tập bởi Quốc tướng vào năm 1618 với mục đích cụ thể là xem xét Năm điểm của Arminianistn dưới ánh sáng của Kinh thánh. 84 nhà thần học và 18 ủy viên thế tục đã được tập hợp trong 154 phiên họp kéo dài từ ngày 13 tháng 11 năm 1618 đến ngày 9 tháng 5 năm 1619. Sau khi xem xét kỹ lưỡng các học thuyết của Arminius, cẩn thận so sánh những lời dạy của ông với những lời dạy trong Thánh kinh, Thượng hội đồng xác định rằng quan điểm của ông là phù hợp. dị giáo. Tuy nhiên, các thành viên của Đại Thượng Hội đồng không dừng lại ở đó mà đã cẩn thận xây dựng một luận điểm bác bỏ năm điểm từ Kinh thánh, mà sau này được gọi là Năm điểm của thuyết Calvin. Lịch sử tiết lộ rằng cả “thuyết Arminian” hay “thuyết Calvin” đều không mới. Một kẻ dị giáo ở thế kỷ thứ năm tên là Pelagius, người phủ nhận rằng bản chất con người bị tha hóa bởi tội lỗi, đã dạy rằng con người sở hữu “ý chí tự do” tuyệt đối nhờ đó anh ta có thể hoặc chọn hoặc từ chối Thiên Chúa. Đối thủ lịch sử của ông là nhà thần học vĩ đại, Augustine, người nhấn mạnh rằng Kinh thánh dạy rằng con người đã chết trong những vi phạm và tội lỗi và bị trói buộc bởi Satan. Ý chí của con người, Augustine nói, không hề “tự do” chút nào

  Trong cuộc Cải cách Tin lành, vấn đề đã được làm rõ hơn. Erasmus, nhà nhân văn và thần học lỗi lạc của Giáo hội Rôma, đã đưa ra một “Bài công kích, trong đó ông phản đối ân sủng tối cao và biện hộ cho ý chí tự do của con người để” đưa ra quyết định” cho Chúa Kitô. , Martin Luther, trong luận án của ông về “Sự trói buộc của ý chí con người.” (Bản dịch) sách điện tử có sẵn ở dạng xuất sắc

Chủ nghĩa Arminian chỉ là một sự cải tiến của chủ nghĩa Pelagian và lý luận phức tạp của Erasmus. Sau đó được phổ biến rộng rãi bởi anh em nhà Wesley ở Anh với hiệu quả tuyệt vời.

81

  Arminianism đã đi vào thế kỷ XX như là cơ sở cho truyền giáo hiện đại của quần chúng. Mục đích của biểu đồ này là để hỗ trợ học sinh xác định các vấn đề thực sự đang bị đe dọa. Nó chỉ nêu những ý tưởng cơ bản về năm điểm của cả người Arminian và người theo thuyết Calvin, đồng thời liệt kê những câu Kinh thánh được mỗi bên sử dụng để hỗ trợ cho quan điểm của mình, với một lời bình luận ngắn gọn về những điểm yếu của hệ thống cũ.

1

QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ARMINIAN

  “Ý chí tự do”

sự sa đọa của con người. là kết quả của sự sụp đổ, không phải là toàn bộ mà là một phần. Con người không mất khả năng tự quyết, cũng như khả năng tự do muốn điều gì tốt đẹp trước mặt Chúa. Con người là tác giả của sự ăn năn và đức tin để được cứu rỗi vì ý chí con người được người Arminian coi là một trong những nguyên nhân của sự tái sinh, nếu con người tự nguyện hợp tác với Chúa Thánh Linh.

Giăng 3:16. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.

Công vụ 2:38. Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.

Công Vụ. 16:31. Hai người tr lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi.

  Rô-ma 10:9. Vậy nếu ming ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu

  I Giăng 3:23. Vả, nầy là điều răn của Ngài: là chúng ta phải tin đến danh Con Ngài, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, và chúng ta phải yêu mến lẫn nhau như Ngài đã truyền dạy ta

 “Ý CHÍ TỰ DO HAY TRÁCH NHIỆM”?

 Nếu quan sát cẩn thận sẽ lưu ý rằng Kinh thánh do Armananis lựa chọn để ủng hộ “ý chí tự do” không đề cập đến chủ đề đó, mà đúng hơn là “trách nhiệm của con người trong việc tin vào Chúa và trách nhiệm giải trình của anh ta nếu anh ta không tin. Có hai lý do cho điều này: (1) Không có Kinh thánh nào dạy rằng con người có ý chí tự do; và (2) Arminius lý luận (trái ngược với Kinh thánh) rằng Đức Chúa Trời không có quyền buộc con người phải chịu trách nhiệm về việc tin, cũng như không lên án họ vì tội vô tín, nếu ý chí của anh ta không được tự do làm như vậy.

  Điều này giống như nói rằng một người mắc chứng ăn cắp vặt không nên chịu trách nhiệm về hành vi ăn cắp, cũng như không bị trừng phạt khi phải làm như vậy, bởi vì anh ta không thể tự kiểm soát chính bản thân. Đây là ý tưởng sai khi nói rằng một kẻ cuồng tình dục không phải chịu trách nhiệm về tội hiếp dâm trẻ em [cũng không bị trừng phạt vì điều tương tự, bởi vì anh ta không thể kiểm soát bản thân! Mỗi người trong chúng ta sẽ khai trình việc mình với Chúa; và những ai chối bỏ Lời Ngài sẽ bị trừng phạt đời đời trong Hồ Lửa đời đời.

Kinh thánh dạy rằng có đủ ánh sáng chiếu ra cho tất cả mọi người, nếu họ có một khuynh hướng nhỏ nhất là đến với Ánh sáng. họ sẽ được cứu. Thực tế là con người quá say mê tội lỗi và vô tín. và bị Sa-tan lôi kéo một cách không cưỡng lại được, đến nỗi họ yêu bóng tối và ghét ánh sáng (Giăng 1:9; 3:19; Rô-ma 1:18-20). Con người có trách nhiệm phải tuân theo Lời Chúa và phải chịu trách nhiệm khi từ chối Lời.

2

“Sự sa ngã hoàn toàn”

QUAN ĐIỂM CỦA CALVINIST

Sự suy đồi của con người, do hậu quả của sự sa ngã, là hoàn toàn. Ile không có ý chí tự do vì anh ta bị ràng buộc với Satan, kẻ bắt giữ con người theo ý muốn của anh ta. Tất cả mọi người đều bị cắm sừng vào thế giới này đã chết về mặt tinh thần trong những vi phạm và tội lỗi để linh hồn con người đã chết của họ bị lôi cuốn đến thần chết một cách không thể cưỡng lại Con người bị suy đồi theo nghĩa là anh ta đã chết, bị mù. điếc, không thể hiểu được những điều của Đức Chúa Trời và bị cai trị bởi Sa-tan qua tấm lòng gian ác và tâm hồn bại hoại của hắn.

TẤT CẢ NHÂN LOẠI ĐỀU SA NGÃ

  Rô-ma 5:12. Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội

Giê-rê-mi 17:9. Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?

Rô-ma 3:11. Chẳng có một người nào hiểu biết,

Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời.

Châm ngôn 20:9. Ai có thể nói: Ta đã luyện sạch lòng mình,

Ta đã trong sạch tội ta rồi?

ĐƯỢC SINH RA VỚI MỘT TÂM LINH ĐÃ CHẾT

Thi Thiên 58:3. Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung.

Chúng nó nói dối lầm lạc từ khi mới lọt lòng mẹ.

Thi Thiên 51:5. Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác,

Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi.

Giăng 3:3. Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.

Sáng Thế Ký 8:21. Đức Giê-hô-va hưởng lấy mùi thơm và nghĩ thầm rằng: Ta chẳng vì loài người mà rủa sả đất nữa, vì tâm tánh loài người vẫn xấu xa từ khi còn tuổi trẻ; ta cũng sẽ chẳng hành các vật sống như ta đã làm.

Ê-phê-sô 5:8. Vả, lúc trưc anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng;

BỊ TRÓI BUỘC ĐI THEO SATAN

  2 Ti-mô-thê 2:25-26. dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26 và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó.

Giăng 8:44. Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình,vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối.

KHÔNG THỂ KHÁNG CỰ, BỊ SATAN LÔI KÉO

Giăng 3:19. Vả, sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa.

Ê-phê-sô 2:1-3. Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch.  Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác.

  CON NGƯỜI SA NGÃ KHÔNG THỂ DẠY ĐƯỢC CÁC BÀI HỌC THUỘC LINH

  1 Cô-rinh-tô 2:14. Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự rồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng.

3

QUAN ĐIỂM CỦA ARMINIAN

  “Sự tuyển chọn có điều kiện”

  Sự lựa chọn dựa trên việc làm tốt của con người về sự ăn năn và đức tin nơi Đấng Christ. Nếu điều này là đúng, thì sự lựa chọn dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ đáp lại lời đề nghị của phúc âm và tự nguyện thực hiện khả năng tự quyết của mình và được cứu. Công việc tốt của sự ăn năn và đức tin của con người phải lùi xa Công việc tốt của sự tái sinh. Anh ta phải đưa ra quyết định cho Đấng Christ và để Chúa Giê-su ngự vào lòng mình, vì Đức Chúa Trời sẽ không vi phạm ý muốn của con người bằng cách ban sự sống hoặc mở rộng trái tim mà không có sự cho phép của con người.

Phi-e-rơ 1:2

Rô-ma 11:2

Châm Ngôn 3:5

Mác 1:15

Mác 11:22

Ma-thi-ơ 8:13

  Giăng 8:24

AI HÀNH ĐỘNG TRƯỚC?”

Arminian tin rằng ý chí của con người là một trong những nguyên nhân của sự tái sinh (hiệp lực). Đây là lý do tại sao ông tin rằng cuộc bầu cử dựa trên sự biết trước của Đức Chúa Trời, Đấng đã thấy trước “những người sẽ tin” trong quá khứ vĩnh cửu. Biết trước những người sẵn lòng ăn năn tội lỗi của họ và quyết định đặt đức tin của họ nơi Đấng Ky Tô. Đức Chúa Trời đã chọn họ để cứu rỗi. Điều này có nghĩa là sự ăn năn và đức tin là những việc làm tốt của con người nhờ đó anh ta thiết lập điều kiện để anh ta được chọn để được cứu. Arminianism là một tôn giáo lao động – ít nhất là ở mức độ mà con người phải hoàn thành các công việc tốt của sự ăn năn và đức tin, chỉ với sự trợ giúp chung của Chúa Thánh Thần dành cho tất cả mọi người như nhau.

  Người theo thuyết Calvin tin rằng chỉ có Chúa là nguyên nhân của sự tái sinh. Biết rằng không ai có thể hoặc sẽ thiết lập bất kỳ điều kiện nào có thể làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình, anh ta tuân theo Kinh thánh tuyên bố rằng sự biết trước là cơ sở trong mục đích của Đức Chúa Trời để chọn một số người để được cứu rỗi mà không cần họ làm việc tốt. Mọi công việc liên quan đến sự cứu rỗi đều là công việc của Đức Chúa Trời, vì chỉ một mình Ngài mới có thể tái sinh, mở mắt người mù, tai người điếc không ngừng, khơi dậy niềm tin vào Đấng Christ, soi sáng những ngóc ngách tối tăm trong lòng con người và ban cho sự ăn năn tội lỗi thực sự bằng cách thiết lập ước muốn trong sạch trong giáo lý và đời sống. Thuyết Calvin hoàn toàn không phải là một công việc…(Ê-phê-sô 2:8-9) bởi vì nó khăng khăng muốn dâng cho Đức Chúa Trời mọi vinh hiển vì mọi điều tốt lành.

4

‘Sự tuyển chọn vô điều kiện’

QUAN ĐIỂM CALVINIST

Sự lựa chọn hoàn toàn dựa trên ý muốn tự do của Đức Chúa Trời và mục đích của Ngài dành cho những người mà Ngài đã chọn “trong Chúa Giê-xu Christ” trước khi sáng thế. Sự biết trước của Ngài dựa trên mục đích của Ngài, vì mục đích của Ngài là sự thể hiện ý chí tối thượng của Ngài Vì con người không có khả năng tự ban cho mình sự sống, tự mở mắt hoặc tự dạy mình lẽ thật thuộc linh, nên Đức Chúa Trời phải chọn hành động thay mặt con người. Do đó, công việc tái sinh phải đi trước đức tin và sự ăn năn và là công việc của Đức Chúa Trời. Ngài phải “mở lòng” và khiến những người được chọn của Ngài “muốn và làm” điều gì đẹp lòng Ngài, nếu không thì không ai tin.

ĐỨC CHÚA TRỜI CHỌN CHỨ KHÔNG PHẢI CON NGƯỜI

..

  SỰ TUYỂN CHỌN DỰA THEO MỤC ĐÍCH CỦA THIÊN CHÚA (KẾ HOẠCH)

..

  SỰ BIẾT BIẾT DỰA VÀO Ý ĐỊNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

..

  CON NGƯỜI KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG, THIÊN CHÚA PHẢI… TỘI LỖI

 ..

Ý ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ ĐƯỢC THÀNH CÔNG

Ê-sai 55:11

5

QUAN ĐIỂM ARININIAN

  “Sự Chuộc Tội Phổ Quát”

  Sự chuộc tội là phổ quát, vì Chúa yêu thương tất cả mọi người một cách bình đẳng và như nhau. và Chúa Kitô đã chết cho tất cả mọi người. Huyết của Chúa Giê-su chuộc tội lỗi theo nghĩa là cơ sở để mang lại sự tha thứ. nhưng nó không hoàn thành việc tha thứ trừ khi con người tự nguyện chấp nhận sự tha thứ. (Sự chuộc tội là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để bao gồm sự cứu chuộc, sự tha tội, sự làm lành, sự hòa giải và tất cả những điều khác được Đấng Christ hoàn thành trên thập tự giá.) Người Arminian khẳng định rằng điều đó đã được thực hiện cho cả nhân loại một cách phổ quát.

Giăng 3:16. “Vì Đức Chúa Trời yêu thương loài người, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời:

2 Phi-e-rơ 3:9. “Chúa… hằng nhịn nhục đối với chúng ta, không muốn một (người) nào bị hư mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.”

Giăng 6:37. Phàm những kẻ Cha ban cho ta đều sẽ đến cùng ta; kẻ đến cùng ta, ta sẽ không bỏ ra ngoài đâu.”

  Giăng 1:29. Kìa là con chiên của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi của thế gian.

Công Vụ. 10:43. Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài.

Giăng 1:12. Nhưng hễ ai ã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.

“CHÚA MUỐN CỨU TẤT CẢ MỌI NGƯỜI!”

Một trong những cách trình bày sai lầm phổ biến nhất về Đức Chúa Trời trong truyền giáo hiện nay là “Chúa yêu thương mọi người và muốn cứu rỗi mọi người. Điều hiển nhiên đầu tiên về ngụy biện này là Kinh thánh dạy rất rõ ràng rằng có nhiều người bị Chúa ghét! Ví dụ:

“Có lời chép rằng: Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét Ê-sau” (Rô-ma 9:13).

  Tất cả những ai có bất kỳ kiến thức thực sự nào về Kinh thánh đều biết rằng nếu Chúa yêu thương mọi người và thực sự muốn cứu tất cả, thì Ngài (với tư cách là Đức Chúa Trời toàn năng mà không ai có thể chống lại) sẽ làm điều đó. Thực tế là, như Kinh thánh bày tỏ. Đức Chúa Trời không yêu thương tất cả mọi người như nhau, Ngài cũng không cứu tất cả mọi người.

Hãy tự hỏi mình những câu hỏi như “Ai là người sẽ không bị hư mất, trong Giăng 3:16 (Trả lời  hễ ai tin nhận Ngài.) Câu hỏi tiếp theo: hễ ai gồm những ai?

 Câu hỏi: Ai, sau đó, là đối tượng thực sự của. Tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong thế gian: bởi vì chỉ một số người sẽ được cứu là những người được chọn của Đức Chúa Trời. Chắc chắn không phải tất cả mọi người!)

  Nếu bạn nghĩ đến 2 Phi-e-rơ 3:9 và cụm từ “chẳng muốn cho một người nào bị hư mất”, hãy tự hỏi: Phi-e-rơ đang viết thư cho ai? Nếu túc từ trong câu được hiểu là tín nhân  thì ngữ pháp cho thấy rằng Phi-e-rơ đang nói rằng Đức Chúa Trời không muốn để bất kỳ người  tin nào bị diệt vong.

6

Điểm 3

  Quan điểm của người theo chủ nghĩa Calvin

“Sự chuộc tội có giới hạn”

Sự chuộc tội chỉ dành cho những người được chọn, vì Đấng Christ chỉ chết cho những người mà Cha đã ban cho Ngài làm Cô dâu của Ngài. Chỉ có các thánh đồ hoặc những người được chọn mới được cho là “được Đức Chúa Trời yêu dấu” vì chỉ một mình họ là đối tượng của ân điển cứu rỗi của Ngài.  Những người theo chủ nghĩa Calvin cho rằng nếu Chúa Giê-su chết cho tất cả mọi người, thì tất cả sẽ được cứu. Còn nếu chỉ những người được chọn mới được cứu, thì Đấng Christ đã chết cho họ, và chỉ một mình họ mà thôi. Mặc dù rõ ràng là huyết của Đấng Christ chắc chắn đủ giá trị để chuộc tội cho tất cả mọi người, nhưng nó rõ ràng chỉ có hiệu quả đối với những người được cứu bởi ân huệ vô điều kiện của Ngài.

 CHÚA CHẾT CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN

Giăng 10:14-15. Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta,  cũng như Cha biết ta, và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình.

Rô-ma 5:8—’Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, trong khi chúng ta còn là tội nhân. Đấng Christ đã chết vì chúng ta.’

Ga-la-ti 1:3-4. Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta,4 là Đấng phó mình vì tội lỗi chúng ta, hầu cho cứu chúng ta khỏi đời ác nầy, y theo ý muốn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.

Rô-ma 8:32. Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?

Ê-phê-sô 5:25. Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh

CHRIST CHỈ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN

Giăng 17:9. Con vì họ mà cầu nguyện; chẳng phải vì thế gian mà cầu nguyện, nhưng vì kẻ Cha đã giao cho Con, bởi chưng họ thuộc về Cha

NHƯ VẬY, CHỈ CÓ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN MỚI ĐƯỢC CỨU

Ma-thi-ơ 1:21. Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jêsus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.

2 Phi-e-rơ 3:9. Chúa không chm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.

2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13. Hỡi anh em yêu dấu của Chúa, còn như chúng tôi, phải vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi, vì vừa lúc ban đầu, Ngài đã chọn anh em bởi sự nên thánh của Thánh Linh, và bởi tin lẽ thật, đặng ban sự cứu rỗi cho anh em.

  CHỈ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN ĐƯỢC CHÚA YÊU

1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:4. hỡi anh em đợc Đức Chúa Trời yêu dấu, chúng tôi biết anh em là kẻ được lựa chọn.

Côl 3:12. Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục.

7

Điểm bốn

“Ân điển có thể bị cản trở

  QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ARMINI

Ý muốn của Chúa là tất cả mọi người đều được cứu rỗi, nhưng ý muốn của Ngài có thể bị cưỡng lại vì mỗi người đều có khả năng tự quyết định. Vì  Chúa yêu thương tất cả mọi người không phân biệt. Ngài thu hút họ bằng Đức Thánh Linh của Ngài, tìm cách lôi kéo họ đến với đức tin nơi Đấng Christ. Tiếng gọi bên ngoài của phúc âm đi kèm với ân điển đầy đủ phổ quát, nhưng nó sẽ không thể ép buộc đối với tất cả mọi người, mà có thể bị cản trở bởi “ý chí tự do” của con người.

Giăng 1:12. Nhưng hễ ai ã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời,là ban cho những kẻ tin danh Ngài.

Giăng 3:36. Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.

Giăng 3:18-21.  Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con một Đức Chúa Trời. 19 Vả,sự đoán xét đó là như vầy: Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa. 20 Bởi vì phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng công việc của mình phải trách móc chăng. 21 Nhưng kẻ nào làm theo lẽ thật thì đến cùng sự sáng, hầu cho các việc của mình được bày tỏ ra, vì đã làm trong Đức Chúa Trời.

Giăng 5:40. Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống!

Giăng 8:45. Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.

AI LÀ NGƯỜI “KHÔNG THỂ CẢN ĐƯỢC” VÀ TẠI SAO

Một trong những ý tưởng điên rồ nhất, rất thịnh hành giữa những người có đầu óc truyền giáo là những người hư mất đang khao khát được nghe phúc âm và khao khát những điều thuộc về Đức Chúa Trời! Bất cứ ai thấy mọi người đều háo hức tin vào Chúa Giê Su Ky Tô cần phải được thông báo về sự thật rằng “Chúa Giê Su” mà anh ta đang dâng và “củi” mà anh ta đang chia sẻ, không phải đến từ Đức Chúa Trời. Chúa của chúng ta rất rõ ràng trong sự dạy dỗ của Ngài rằng thế giới ghét Gợi ý Lời của Ngài và các sứ giả của Ngài (xem Giăng 15:15 và phần tiếp theo).

“Tính không thể cưỡng lại” là lý do khiến thế gian ghét bỏ Đức Chúa Trời và những người được chọn của Ngài. Sa-tan là chúa của tất cả các linh hồn đã chết, thiên thần và con người. Giống như những kẻ đầu óc bẩn thỉu tìm kiếm sự đồng hành của những người khác với những suy nghĩ thấp hèn, và những người có tâm hồn trong sạch thích thú với sự đồng hành của những người cùng chí hướng, vì vậy những linh hồn của con người đã chết bị thu hút một cách không thể cưỡng lại được với người lãnh đạo của những linh hồn đã chết. con người và thiên thần.)

Tuy nhiên, đối với người thợ nề rất lành mạnh, tất cả các linh hồn sống đều thấy rằng Chúa của người sống là “không thể cưỡng lại được”. Họ không thể không bị thu hút đến với Ngài, tin tưởng Ngài, yêu mến Ngài, giống như họ đã từng bị Sa-tan thu hút, tin tưởng vào Sự dối trá và yêu mến Sự dối trá, trước khi Đức Chúa Trời Chân thật tái sinh họ theo ý chỉ tuyệt đối của Ngài. “Những người được sinh ra (1) không phải do huyết thống, (2) cũng không theo ý muốn của xác thịt, (3) cũng không theo ý muốn của loài người, nhưng bởi Đức Chúa Trời (Giăng 1:13). Ý chí của Đấng quyết định việc thụ thai và sinh nở, Cha hay đấng sinh thành?

số 8

“Ân sủng không thể cưỡng lại”

QUAN ĐIỂM CALVINIST

Vì ý muốn của Đức Chúa Trời là những người mà Ngài đã ban cho Con yêu dấu của Ngài trong quá khứ vĩnh cửu sẽ được cứu, nên chắc chắn Ngài sẽ hành động trong ân điển tối cao theo cách mà những người được chọn sẽ thấy Đấng Christ không thể cưỡng lại được. Đức Chúa Trời không ép buộc những người được chọn tin cậy nơi Con Ngài mà ban cho họ sự sống. Linh hồn của con người đã chết thấy không thể cưỡng lại được linh hồn đã chết của Sa-tan, và tất cả những linh hồn của con người đang sống đều thấy không thể cưỡng lại được Đức Chúa Trời của người sống. Sự tái sinh là công việc của Đức Chúa Trời, phải đi trước sự ăn năn và đức tin nơi Chúa.

Ý CHÚA LÀ KHÔNG  AI CẢN ĐƯỢC

  Đa-ni-ên 4:35.  Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?

Ê-sai 46:9-10. Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta.10 Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý.

Ê-sai 55:11.   thì lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó.

CHÚA CỨU NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN

  Giăng 6:37. Phàm những k Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu

Giăng 6:29. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.

ĐỨC CHA SINH RA NHỮNG NGƯỜI MÀ NGÀI ĐÃ TUYỂN CHỌN

Gia-cơ 1:18. Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.

Giăng 1:13. là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy.

HOÀN THÀNH ƠN CỨU CHUỘC BẰNG CÁCH BAN CHO SỰ SỐNG

Giăng 5:21. Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy.

  Ê-phê-sô 2:4- 5. Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, Tín đồ nghe bấy nhiêu lời xong, đều thỏa thuận và ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống!  nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ — ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu

  Công Vụ.11:18. Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống!

ƠN CỨU CHUỘC ĐƯỢC ÁP DỤNG CÁCH  HIỆU QUẢ LÀ NHỜ ĐỨC THÁNH LINH

Tít 3:5. không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh

2 Cô-rinh-tô 3:18. Chúng ta ai ny đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa  là Thánh Linh.

Trong Công Vụ. 9, Phao-lô, trước đó có tên Sau-lơ là một minh họa về ân điển không thể cưỡng lại. Đang khi ông bách hại Đạo Chúa, thì Chúa đã bày tỏ chính Ngài cho ông và ban sự cứu rỗi cho ông.

9

QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ARMINISM

Rơi khỏi ân sủng

  Kết luận hợp lý của Thuyết Arminian là vì sự cứu rỗi là kết quả của sự tự quyết của con người khi họ sử dụng ý chí tự do của mình trong việc lựa chọn Đấng Christ, nên con người cũng có trách nhiệm giữ cho mình được cứu bằng cách tiếp tục đức tin và sự vâng lời. Nếu sau khi đã tin nhận Đấng Christ một lần mà quyết định chống lại Ngài và sự sống đời đời, hay nếu người ấy thấy trách nhiệm sống một đời sống thánh khiết là một gánh nặng quá lớn và quay lưng lại, thì chắc chắn người ấy sẽ đánh mất ân điển và bị hư mất.

Ga-la-ti 5:4. Anh em thảy đều muốn cậy luật pháp cho được xưng công bình, thì đã lìa khỏi Đấng Christ, mất ân điển rồi.

Hê-bơ-rơ 6:4-6. Vì chưng những kẻ đã được soi sáng một lần, đã nếm sự ban cho từ trên trời, dự phần về Đức Thánh Linh, 5 nếm đạo lành Đức Chúa Trời, và quyền phép của đời sau, 6 nếu lại vấp ngã, thì không thể khiến họ lại ăn năn nữa, vì họ đóng đinh Con Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình một lần nữa, làm cho Ngài sỉ nhục tỏ tường

Hê-bơ-rơ 10:26-27. Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có tế lễ chuộc tội nữa, 27 nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi.

TẠI SAO LÀ NHÂN CHỨNG? TẠI SAO LÀ THÁNH?

  Người Arminian thường buộc tội Calvin là người quá tin vào kinh thánh đến nỗi anh ta từ bỏ mọi mong muốn ‘làm chứng’ và sống một ‘cuộc đời thánh thiện’. Tại sao chúng ta phải làm chứng nếu sự lựa chọn là vô điều kiện, và tại sao chúng ta nên tìm cách sống một đời sống thánh khiết nếu đúng là đã được cứu thì luôn được cứu (Phi-e-rơ 1:15-16)?

Các câu trả lời trong thánh thư là trực tiếp và đơn giản. Chúng ta làm chứng vì Ngài đã phán: “Các ngươi sẽ là nhân chứng của ta.” “Chúng tôi là sứ giả của Đấng Christ, dường như Đức Chúa Trời đã nhân danh chúng tôi mà nài xin anh em: thay cho Đấng Christ, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Đức Chúa Trời” (2 Cô. 5:20). Chúng ta làm chứng cho con người và công việc của Đấng Christ vì chính nhờ “sự rao giảng điên rồ” mà Đức Chúa Trời vui lòng cứu những người tin. Tuy nhiên, không phải nhờ việc chúng ta sử dụng tâm lý học, các phương pháp và cách tiếp cận đúng đắn mà con người được cứu rỗi, nhưng nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài mà thôi (chứ không phải “quan điểm” cá nhân của chúng ta). Chúng tôi làm chứng vì chúng tôi là những người cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 3:9). Chúng tôi rao giảng theo sự kêu gọi của Ngài. Chúng tôi rao giảng Lời Ngài. Chúng tôi trồng và tưới, nhưng chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm cho lớn lên.

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật chăng?  Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?  (Rô-ma 6:1-2); vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo. (Ê-phê-sô 2:10); Ấy vậy, các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được (Ma-thi-ơ 7:20).

Giống như một con heo thích đắm mình trong vũng bùn vì đó là ‘bản chất của nó’ làm như vậy, và một con chiên chạy trốn khỏi vũng bùn cũng vì lý do đó; và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bổn tánh Đức Chúa Trời. (2 Phi-e-rơ 1:4)

10

Sự kiên trì của các thánh đồ

QUAN ĐIỂM CALVINIST

Kết luận hợp lý của thuyết Calvin là vì “sự cứu rỗi là của CHÚA” và hoàn toàn không có phần nào của nó phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào được tìm thấy trong người được chọn, mà hoàn toàn phụ thuộc vào Đức Chúa Trời, Đấng đã muốn cứu những người mà Ngài đã ban cho những người thân yêu của Ngài. Con trai, sự cứu rỗi không bao giờ có thể bị mất. Các thánh đồ của Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ kiên trì vì Ngài đã ban cho họ lời hứa của Ngài rằng không tạo vật nào có thể cướp họ khỏi Ngài (kể cả chính họ). Chúng ta sẽ kiên trì vì Ngài làm cho chúng ta kiên trì!

SỰ KIÊN TRÌ CỦA CÁC THÁNH ĐỒ PHỤ THUỘC VÀO ĐỨC CHÚA TRỜI

Giu-đe 24. Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được

Giu-đe 1. Giu-đe, tôi t của Đức Chúa Jêsus Christ và em Gia-cơ, đạt cho những kẻ đã được kêu gọi, được Đức Chúa Trời, là Cha, yêu thương, và được Đức Chúa Giê-su Christ giữ gìn.

Ê-xê-chi-ên 11:19. Ta sẽ ban cho chúng nó một lòng đồng nhau, phú thần mới trong các ngươi; bỏ lòng đá khỏi xác thịt chúng nó, và sẽ cho chúng nó lòng thịt.

Ê-xê-chi-ên 36:27. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.

Phục Truyền. 30:6. Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ cất sự ô uế khỏi lòng ngươi và khỏi lòng dòng dõi ngươi, để ngươi hết lòng hết ý kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, hầu cho ngươi được sống.

KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO SỰ TUYỂN CHỌN

  1 Phi-e-rơ 1:5. là kẻ bởi ức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!

2 Ti-mô-thê 1:12. ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn, vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó.

  2 Ti-mô-thê 4:18. Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong nước trên trời của Ngài. Nguyền xin sự vinh hiển về nơi Ngài muôn đời không cùng! A-men.

  ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ LÀM CHO CÁC THÁNH ĐỒ  KIÊN TRÌ TRONG ĐỨC TIN

Thi Thiên 37:28. Vì Đức Giê-hô-va chuộng sự công bình,

Không từ bỏ người thánh của Ngài; họ được Ngài gìn giữ đời đời:

Còn dòng dõi kẻ dữ sẽ bị diệt đi.

1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23-24. Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn, và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta đến!  Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó.

  Phi-líp 1:6. tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ.

   VÌ VẬY SỰ CỨU RỖI KHÔNG THỂ BỊ ĐÁNH MẤT

  Giăng 6:39. Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến, là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt

Giăng 10:26-29. Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta. 27 Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta.  Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta.  Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha.

  Rô-ma 8:37-39. Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.  Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.

The end


ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên