Trang Chủ KINH THÁNH Hiểu Biết Thần Học – Phần 3 (editing)

Hiểu Biết Thần Học – Phần 3 (editing)

2245
0
SHARE

Câu hỏi: Sắt mài nhọn sắt nghĩa là gì?

Trả lời: Cụm từ “sắt mài nhọn sắt” được tìm thấy trong Châm ngôn 27:17: “Giống như sắt mài nhọn sắt. Cũng vậy, con người mài giũa diện mạo bạn mình”. Có hai lợi ích chung trong việc cọ xát hai lưỡi sắt với nhau khiến cho các cạnh trở nên sắc hơn, làm cho con dao cắt và thái lát mỏng hiệu quả hơn. Tương tự như vậy, Lời của Đức Chúa Trời là một “thanh gươm hai lưỡi” (Hê-bơ-rơ 4:12), và với thanh gươm này chúng ta mài sắt cho nhau trong thời gian gặp gỡ, thông công, hoặc tương tác khác.

Châm ngôn cũng chỉ ra sự cần thiết trong việc thông công với nhau. Con người không được tạo dựng để ở một mình, không phải Đức Chúa Trời đã phán như vậy ngay trước khi Sự sa ngã xảy ra sao (Sáng thế ký 2:18)? Vậy sau Sự sa ngã của con người, chúng ta cần phải đến với anh chị em của chúng ta trong Đấng Christ thêm bao lâu trong những đợt thông công và cầu nguyện? Rõ ràng, điều này đã được các thánh của Hội thánh ban đầu công nhận (Công vụ 2:42-47), những người “dâng mình” cho việc giảng dạy, thông công, hiệp thông và cầu nguyện – tất cả các hoạt động tập thể đã tạo nên cơ hội để mài sắt lẫn nhau. Kết quả là họ được “đầy dẫy sự kính sợ” và khi họ gặp nhau họ ngợi khen Đức Chúa Trời vì ơn mà họ tìm ra với nhau.

Có hai quan điểm được đưa ra trong câu Châm ngôn trên. Thứ nhất, cuộc gặp gỡ của hai người trong danh Chúa sẽ luôn luôn đảm bảo phước hạnh. Đó là một phương tiện của ân sủng mà chính Chúa đã hứa rằng nơi nào có hai người hoặc hơn nhóm lại trong danh Ngài thì Ngài ở giữa họ (Ma-thi-ơ 18:20). Ngoài ra, chúng ta thấy một ý nghĩa tương tự trong Ma-la-chi dành cho những người kính sợ Chúa nói chuyện với nhau, và Chúa để ý lắng nghe (Malachi 3:16). Khi chúng ta mài sắt nhau trong mối thông công Cơ Đốc, từ thiên đàng Chúa lắng nghe và vui lòng. Không một lời nào về Ngài mà đem lại vinh hiển cho Ngài ngoài sự chú ý của Ngài.

Mùi thơm của “sự đoàn kết” thiêng liêng được cảm nhận rõ nhất trong mối quan hệ giữa Đa-vít và Giô-na-than, con của Sau-lơ. Khi Đa-vít bị truy đuổi bởi Sau-lơ, Giô-na-than đã tìm Đa-vít để “giúp ông vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời” (I Sa-mu-ên 23:16), là điều dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai. Sắt mài nhọn sắt là một cơ hội để hoàn thành Luật pháp của Đấng Christ. Sứ đồ Phao-lô nói rằng chúng ta phải mang lấy và chia sẻ những gánh nặng mà chúng ta phải đối diện hàng ngày, khóc than về tội lỗi cá nhân, khuyên làm cách nào tốt nhất để ăn năn, và vui mừng khi chinh phục được nó. Đây cũng là “luật lệ hoàng gia” đã đề cập trong Gia-cơ 2:8, nơi chúng ta được khuyến khích yêu thương lẫn nhau.

Quay trở lại với phép loại suy, nếu một con dao bị cùn thì nó vẫn tiếp tục là một con dao, mặc dù nó kém hiệu quả và hữu dụng. Do đó, chúng ta được khuyến khích dành nhiều thời gian với nhau, khích lệ, động viên, cầu nguyện, khuyên bảo, chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện bằng Lời Chúa và những nhu cầu của Hội Thánh địa phương của chúng ta, để chúng ta trở nên sắt hơn trong chức vụ mà Chúa đã giao cho mỗi người chúng ta. Thông thường, mối thông công diễn ra trong Hội Thánh hiện đại được tập trung vào thức ăn và vui chơi chứ không phải là mài sắt lẫn nhau bằng Lời Chúa (Rô-ma 12:10, 16; 14:13; 15:5, 7, 14; 1 Cô rinh tô 11:33; 12:25; 2 Cô rinh tô 13:11; Ga la ti 5:13)

Cuối cùng, một con dao đã được mài sắt cũng sẽ sáng bóng hơn bởi vì tất cả sự mờ đục đã được cọ xát khỏi bề mặt của nó. Tương tự như vậy, chúng ta sẽ tỏa sáng tốt hơn cho Chúa của chúng ta nếu chúng ta làm những điều được đề cập ở trên một cách kiên định, là những điều mà kết chúng ta trong sự hòa hợp. “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau. Thật tốt đẹp biết bao” (Thi thiên 133:1). Vì vậy, như tác giả của sách Hê-bơ-rơ nói, “Chúng ta hãy quan tâm khích lệ nhau về lòng yêu thương và các việc lành. Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, nếu anh em thấy ngày của Chúa càng gần chừng nào thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê-bơ-rơ 10:24-25).

PHẦN III:

JESUS CHRIST

Tác giả: John A. Witmer Associate Professor Emeritus of Theology and Retired Librarian Dallas Theological Seminary

Giới thiệu

  1. Lời Đức Chúa Trời là thành viên của Tam Vị Nhất Thể
  2. The Preincarnate Ministry of the Word of God
  3. The Old Testament Anticipation of the Incarnation of the Word of God.
  4. The Names and Titles of the Son of God
  5. The Incarnation of the Son of God Announced
  6. The Person of the Incarnate Son of God
  7. The Earthly Life and Ministry of the Son of God
  8. Christ’s Ascension to the Right Hand of God the Father
  9. Christ’s Present Ministry at the Right Hand of God the Father
  10. Christ’s Translation of His Church to Heaven
  11. The Establishment of the Reign of the King on Earth
  12. The One-Thousand-Year Reign of the King on Earth
  13. The Consummation of the Reign of the King on Earth

PHẦN IV:

ĐỨC THÁNH LINH

Tác giả: Robert G. Gromadd Distinguished Professor Emeritus of Bible and Greek Cedarville University, Cedarville, Ohio

Giới thiệu

  1. Nhân tính của Đức Thánh Linh
  2. Thần tính của Đức Thánh Linh
  3. The Symbols of the Holy Spirit

 

PHẦN X: THỜI KỲ CUỐI CÙNG

  1. Kế hoạch thần thượng cho số mệnh con người
  2. Hiểu biết các lời tiên tri

 

 

 

 

 

PHẦN III: JESUS CHRIST

  1. Lời Đức Chúa Trời Là Thành Viên Của Tam Vị Nhất Thể

CHÚNG TÔI SỬ DỤNG ĐỀ MỤC NÀY để nói về Chúa Giê-su Christ trước khi xuống trần gian làm người vì Kinh Thánh sử dụng đề mục này trong Giăng 1:1-5. Sự đồng nhất của Ngôi Lời với Chúa Giê-su Christ được nêu trong câu 14: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.” Trên thực tế, Giăng 1:1-5 có thể coi như là đoạn Kinh Thánh chủ yếu cho phần đầu tiên chúng ta nghiên cứu về con người và công việc của Chúa Giê-su. Nó bao gồm sự tồn tại vĩnh cửu của Ngài, danh tính và mối quan hệ của Ngài với Đức Chúa Trời, vị trí đặc biệt của Ngài trong công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời ba ngôi hiệp một, và sự hiện thân làm người của Ngài. Ngài trở thành nguồn sống cho nhân loại. “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người” (1: 4). Điều thú vị là sứ đồ Giăng là trước giả Kinh Thánh duy nhất sử dụng danh hiệu Ngôi Lời cho Đấng Christ (Đọc Giăng 1:1, 14; 1 Giăng 1:1; Khải huyền 19:13).

Qua nhiều thế kỷ, các học giả Kinh Thánh đã thắc mắc tại sao Giăng lại sử dụng danh hiệu này, đặc biệt là khi ông trình bày nó mà không có bất kỳ lời giải thích nào, chỉ đơn giản nói rằng, “Ban đầu có Ngôi Lời.” Nhiều người cho rằng nó có một ý nghĩa nào đó đối với độc giả của ông. Họ phỏng đoán rằng Giăng, là một người Do Thái và quen thuộc với Cựu Ước, đã nhận thức được sự phát triển của “lời CHÚA” (Thi 33: 4,6; xem thêm 107: 20; 119: 89, 105; 147:15, 18) và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (Gióp 28:12-28; Châm 1:2-33; 8:1-9: 6). Sự nhân cách hóa thuộc tính khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh được tiếp nối và nhấn mạnh bởi hai trong số các sách ngụy thư của người Do Thái: Sự khôn ngoan của Chúa Giê-su ben Sirach Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn.

 

Nhiều học giả cũng liên hệ việc Giăng sử dụng danh hiệu này với sự xuất hiện của nó trong triết học tôn giáo của các kiều dân Do Thái ở thành phố Alexandria do Philo đại diện  vào những năm 40-50 SCN, người đã kết hợp niềm tin Do Thái của mình với những ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học Hy Lạp thành một học thuyết khó hiểu về logos (danh từ tiếng Hy Lạp được dịch là “lời”) liên quan đến Đức Chúa Trời và là trung gian giữa Đức Chúa Trời và loài người. Trên thực tế, Philo đã nhân cách hóa các biểu tượng thần thánh nhưng từ chối tôn thờ Đức Chúa Trời, vì đối với người Do Thái, Đức Chúa Trời là một theo nghĩa tuyệt đối. Bromiley kể lại cuộc thảo luận của mình về Philo bằng cách viết, “Các biểu tượng dường như là một liên kết thuận tiện giữa Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa và thế giới mà Ngài đã tạo ra.”1

Việc giảng dạy liên quan đến logos mà Philo đã mượn và phỏng theo ít nhất là từ thời Heraclitus (khoảng 525-475 TCN), người coi luật thay đổi là thứ duy nhất không thay đổi, đó là logos.2 Nguyên tắc vũ trụ này của logos đã được Stoics (200-100 TCN) điều chỉnh, và xác định Zeus là Logos vũ trụ — Zeus là lý do, người không bao giờ thay đổi ý định và người xuyên thấu vạn vật thông qua một tia lửa phát ánh sáng thần thánh được gọi là logoi. kiểm soát sự phát triển của mỗi vật thể.3 Đối với học thuyết Hellenism Hy Lạp của người Do Thái ở Alexandria do Philo đại diện, khái niệm về các biểu tượng trong triết học Hy Lạp, mặc dù sử dụng cùng một từ Hy Lạp và một vài điểm tương đồng bề ngoài, không tương ứng với lời mặc khải của sứ đồ Giăng về Đấng Christ là: Lời vĩnh cửu của Đức Chúa Trời; sự nhập thể của Ngài (Lời trở thành Người); và chức vụ của Ngài trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

 

Trên thực tế, từ logos trong tiếng Hy Lạp, được sử dụng phổ biến, đề cập đến cả khái niệm, ý tưởng hoặc suy nghĩ bên trong và biểu hiện bằng lời nói, nói hoặc viết, biểu đạt ý tưởng đó và truyền đạt hoặc tiết lộ nó với người khác. Suy nghĩ hướng nội vẫn vô hình và không thể biết được cho đến khi nó được thể hiện một cách rõ ràng hoặc dễ thấy trong một từ (logos). Đây chính xác và tuyệt vời về mối quan hệ giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai của Tam Vị Nhất Thể (Giăng 14: 8-11; Cô-lô-se 1:15; Hê-bơ-rơ 1: 3a) và chắc chắn là lý do Giăng gọi Đấng Christ là “Lời hay Ngôi Lời.”

 

Philip Schaff đã viết, “Giăng (một mình ông) đã gọi Đấng Christ là ‘Logos’ của Đức Chúa Trời, tức là hiện thân của Đức Chúa Trời và là trung tâm của mọi sự mặc khải của ông. Như lý trí hay suy nghĩ của con người được diễn đạt bằng lời, và như lời nói phương tiện làm cho những suy nghĩ của chúng ta được biết đến với người khác, vì vậy Đức Chúa Trời được biết đến với chính mình và thế giới trong và qua Đấng Christ như là Lời trong thân vị con người … Logos chỉ mối quan hệ siêu hình và trí tuệ … của Đấng Christ với Đức Chúa Trời.4

LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VĨNH CỬU CÙNG VỚI ĐỨC CHA VÀ ĐỨC THÁNH LINH
Điều mặc khải đầu tiên mà sứ đồ Giăng đưa ra liên quan đến Ngôi Lời là lời tuyên bố về thuộc tính đời đời của Ngài— “Ban đầu có Ngôi Lời” (Giăng 1:1). Lời tuyên bố này rõ ràng được thiết kế để nhắc nhở người đọc về câu mở đầu của Kinh Thánh – “Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sáng 1:1). Vì sự tương đồng này, Lewis Sperry Chafer đã nói về Phúc âm Giăng là sự khởi đầu thần học của Tân Ước. Sứ đồ Giăng chắc chắn đã xem từ ban đầu trong hai đoạn văn này là đề cập đến cùng một điểm xuất phát.

Cho dù người ta có đồng ý với Giăng về bản sắc ban đầu này hay không, thì bất cứ lúc nào một người đặt lời tuyên bố của Giăng ở thời điểm Giăng viết sách Phúc âm, “Ban đầu có Ngôi Lời” (Giăng 1:1). Ngôi Lời chưa ra đời vào thời điểm đó; Ngài không ra đời trước thời điểm đó; Đơn giản là vào thời điểm đó, Ngài tồn tại đời đời trong tư cách là chính Đức Chúa Trời. Trong tâm trí của bạn, bạn có thể tạo ra một điểm để đánh dấu sự bắt đầu của thời gian và của tất cả mọi thứ ngoại trừ Đức Chúa Trời – là Đấng tự hữu không phụ thuộc gì vào không gian và thời gian. Từ ban đầu đã có Ngôi Lời là; nói cách khác, Ngài tồn tại vĩnh viễn. Giăng đã sử dụng thì không hoàn thành của một động từ Hy Lạp được dịch là “hiện hữu”, biểu thị sự tồn tại ở điểm được đề cập, trong trường hợp này là vĩnh cửu. Để nhấn mạnh lẽ thật này, sau đó, Giăng đã tuyên bố: “Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời” (1:2), khẳng định sự sở hữu của Ngôi Lời có cùng thuộc tính vĩnh cửu như Đức Chúa Trời.

 

Mặc dù nhiều phần Kinh Thánh nói về sự tồn tại từ trước vô cùng của Chúa Giê-su trước khi Ngài nhập thể (ví dụ, Giăng 1:14; 3:13, 17; 17:5; Ga-la-ti 4:4; Cô-lô-se 1:15-17, 19; Hê-bơ-rơ 1:6; 10:5; 1 Giăng 1:2), nhưng chúng không tự động dạy về sự vĩnh cửu của Ngài. Nhân Chứng Giê-hô-va và một số tín đồ khác dạy rằng Chúa Giê-su đã tồn tại trước khi nhập thể nhưng họ phủ nhận tính đời đời vĩnh cửu của Ngài; họ dạy rằng Ngài là tạo vật đầu tiên của Đức Chúa Trời. Ngoài những câu Kinh Thánh trong Giăng 1, rất ít Kinh Thánh dạy về tính vĩnh cửu của Lời Đức Chúa Trời, và hầu hết chúng ta chỉ suy luận từ những phần Kinh Thánh khác ngoài Giăng 1. Rõ ràng nhất là lời tuyên bố của chính Chúa Giê-su, “Ta nói thật với các ngươi … trước khi Áp-ra-ham sinh ra, thì ta đã có” (Giăng 8:58). Để khẳng định sự tồn tại của chính Ngài, Chúa Giê-su đã dạy, “Trước khi Áp-ra-ham sinh ra, ta đã hiện hữu.” Thay vì Ngài lấy giao ước của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên— “Ta là Đấng TA LÀ/ Ta là Đấng tự hữu hằng hữu” (Xuất 3:14) để tuyên bố sự tồn tại đời đời của Ngài. Ngoài ra, Kinh Thánh đánh đồng thần tính của Chúa Giê-su với thần tính của Đức Chúa Cha. Các câu Kinh Thánh Phi-líp 2: 6; Cô-lô-se 1:15, 19; 2: 9; Hê-bơ-rơ 1: 3 cho biết sự vĩnh cửu của Ngôi Lời bằng cách suy luận đến tính vĩnh cửu, đời đời của Đức Chúa Trời.

Trí óc hữu hạn của chúng ta tương đối ít gặp khó khăn trong việc hình dung về sự vĩnh cửu kéo dài không hồi kết trong tương lai. Những người tin Chúa Giê-su Christ đã nhận được sự sống đời đời (Giăng 3:16, 36). Điều này chủ yếu biểu thị đời sống tâm linh, một phẩm chất của cuộc sống, cuộc sống do Chúa sở hữu và được Chúa ban tặng (17: 3); nhưng sự sống đời đời  sẽ tiếp tục mãi mãi — nó sẽ không bao giờ kết thúc (6: 50-51; 10:28; Khải 22: 5). Kinh Thánh cũng nói rõ rằng tất cả những người không được tái sinh cũng sẽ tồn tại vĩnh viễn, nhưng trong sự đau khổ vĩnh viễn, không phải là cuộc sống hạnh phước đời đời; họ sẽ bị phân cách đời đời khỏi Đức Chúa Trời trong hồ lửa (Mat 25:41, 46; Khải 20: 10-15). Đó là nỗi kinh hoàng khi chết mà không tin nhận Chúa Giê-su Christ để nhận được sự cứu rỗi và sự sống đời đời do ân điển của Đức Chúa Trời cung ứng. Nhận thức về sự giày vò vĩnh viễn đang chờ đợi những người không được tái sinh đó sẽ thúc đẩy tất cả các Cơ đốc nhân quan tâm đến việc làm chứng cá nhân nhiều hơn và hỗ trợ cho các công tác truyền giáo.

Tuy nhiên, khó hơn nhiều đối với con người khi quan niệm về quá khứ vĩnh cửu, về sự tồn tại kéo dài trong quá khứ mà không có bắt đầu. Nhưng điều này là thực với Đức Chúa Trời (Phục truyền luật lệ ký 33:27; Thi thiên 41:13; 90: 2; Ê-sai 44:6; 48:12; 57:15; Rô-ma 1:20), và theo Giăng thì đúng như vậy, cũng đúng với Ngôi Lời. Sự thật về sự hiện hữu của Ngài là điều mà Chúa Giê-su, Ngôi Lời nhập thể, đã tuyên bố về chính Ngài, như đã nói trước đó, khi Ngài nói với những người Do Thái đang tranh luận với Ngài, “Ta nói thật với các ngươi, trước khi Áp-ra-ham được sinh ra, ta đã hiện hữu!” (Giăng 8:58). Bằng lời tuyên bố này, Chúa Giê-su đã tự xưng một cách chính xác về chính Ngài giống như những gì Đức Chúa Trời đã tuyên bố khi Ngài phán với Môi-se, “Ta là Đấng tự hữu hằng hữu” (Xuất. 3:14). Người Do Thái hiểu lời tuyên bố của Chúa Giê-su, vì vậy “họ nhặt đá ném đá Ngài” (Giăng 8:59), họ kết án Ngài tội phạm thượng vì dám xem bản thân ngang bằng với Đức Chúa Trời.

Tính lô-gic, hợp với suy luận ở đây là — ngay cả một số người có thể nói trong một ý nghĩa thông thường — yêu cầu rằng tính vĩnh cửu và sự tồn tại của bản thân là đúng với một ai đó hoặc một chủ thể nào đó. Thật không thể tưởng tượng được rằng mọi thứ, kể cả Đức Chúa Trởi bỗng chốc biến thành hư không. Trong quá khứ, các nhà khoa học thế tục đã coi vật chất là vĩnh cửu. Với sự phân tích của nguyên tử và những khám phá khác liên quan đến vật chất, các nhà khoa học thế tục trong những năm gần đây đã quy tính vĩnh cửu là do năng lượng. Tuy nhiên, định luật khoa học về nhiệt động lực entropy – nguyên tắc cho rằng lượng năng lượng sẵn có luôn giảm trong một hệ thống khép kín như vũ trụ của chúng ta – lập luận chống lại năng lượng là vĩnh cửu. Trong nhiều năm, các nhà khoa học Cơ đốc giáo đã tranh luận về tính vĩnh cửu của Đức Chúa Trời đối lập với chủ nghĩa thế tục vô thần, và trong những năm gần đây, họ đã sử dụng những khám phá mới nhất của khoa học để nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời phải là Đấng vĩnh hằng.

Suy luận lô-gic cũng yêu cầu rằng cái đơn giản hơn và ít phức tạp hơn luôn được tạo ra bởi cái phức tạp hơn, chứ không phải ngược lại. Cái nào sở hữu sự sống và nhân cách thì phức tạp hơn cái vô tri và vô tính; do đó, về mặt lô-gic, cuộc sống và nhân cách không thể được tạo ra từ vật chất hay năng lượng. Do đó, Đức Chúa Trời vĩnh cửu, tự hữu và hằng hữu trong Kinh Thánh, là lời giải thích hợp lý duy nhất về mọi sự vật; Ngài phải là Đấng vĩnh hằng, là Đấng tự tồn tại. Sứ đồ Giăng nói rằng sự vĩnh cửu và tự hữu này thuộc về Chúa Giê-su Christ, là Ngôi Lời.

 

Note:  Trong nhiệt động lực học,{\displaystyle S} (entrophy) là một đơn vị đo nhiệt năng phát tán, hấp thụ khi một hệ vật lý chuyển trạng thái tại một nhiệt độ xác định.

 

SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA NGÔI LỜI TRONG MỐI HIỆP THÔNG VỚI ĐỨC CHA VÀ ĐỨC THÁNH LINH

 

Tuyên bố thứ hai của Giăng về Lời trong Giăng 1: 1 là, “Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời.” Hầu hết các nhà bình luận đồng ý rằng trong sự tồn tại vĩnh cửu của Ngài, Ngôi Lời liên tục kết hợp và thông công với Đức Chúa Trời. Động từ “đã” lặp lại thì không hoàn hảo của động từ Hy Lạp được dịch là “là” trong mệnh đề đầu tiên của câu này. Ngoài ra, một số nhà chú giải lưu ý rằng giới từ Hy Lạp được dịch là “với”, khi nó xảy ra với trường hợp buộc tội của danh từ như ở đây, mô tả hai người có liên quan mặt đối mặt trong một mối quan hệ bình đẳng và gần gũi (xin xem 1 Giăng 1: 2; 2:1). Vincent đã tóm tắt ý nghĩa của lời tuyên bố của Gioan như sau: “Ngôi Lời thiêng liêng không chỉ ở với Chúa Cha từ muôn thuở, nhưng còn ở trong mối quan hệ sống động, tích cực của sự hiệp thông với Ngài.”

Lời tuyên bố thứ ba của sứ đồ Giăng trong Giăng 1: 1 nhấn mạnh hơn nữa sự bình đẳng của Lời với Đức Chúa Trời là Cha và Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh: “và Lời là Đức Chúa Trời.” Vì Từ tiếng Hy Lạp được dịch là “Đức Chúa Trời” (theos) không có mạo từ xác định trong văn bản tiếng Hy Lạp, Nhân Chứng Giê-hô-va, những người tin rằng Chúa Giê-su là một đấng thiêng liêng nhưng không đầy đủ và thực sự là Đức Chúa Trời, đã dịch mệnh đề “và Lời là một vị thần.” Đây là một hình thức của tà giáo cổ đại của tà thuyết Arian và nó cũng lặp lại lỗi của Philo. Nó bị các học giả Hy Lạp như Henry Alford và A. T. Robertson bác bỏ là không phù hợp về mặt ngữ pháp, những người kêu gọi sự chú ý đến cấu trúc song song. Lời tuyên bố của Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng Si-kha: “Đức Chúa Trời là thần, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong tâm thần và lẽ thật” (Giăng 4:24). Một cấu trúc song song khác được tìm thấy trong Giăng 1:49, có nội dung, “thầy là Vua của Y-sơ-ra-ên”, trong đó từ được dịch là “vua” xuất hiện không có mạo từ xác định nhưng được dịch đúng là “vua”. Liên quan đến cấu trúc này EC Colwell đã nói, “Danh từ vị ngữ xác định đứng trước động từ thường thiếu mạo từ … một định ngữ vị ngữ đứng trước động từ không thể được dịch là danh từ không xác định hoặc ‘định tính’ chỉ vì về sự vắng mặt của mạo từ; nếu ngữ cảnh gợi ý rằng vị ngữ là xác định, nó nên được dịch là một danh từ xác định.”

Từ logos ​​có mạo từ xác định trong cả ba mệnh đề trong Giăng 1:1, rõ ràng là chủ đề của hai mệnh đề đầu tiên. Rõ ràng nó có nghĩa là chủ đề của mệnh đề thứ ba này mặc dù trong thứ tự từ tiếng Hy Lạp, nó theo sau từ được dịch là “Chúa” (theos). Robertson đã chỉ ra rằng trong tiếng Hy Lạp, vị trí đầu tiên trong câu hoặc mệnh đề, như ở đây, thường được trao cho vị ngữ “đơn giản vì theo quy luật, vị ngữ là thứ quan trọng nhất trong câu.” Ở đây, sự thật rằng Lời là Đức Chúa Trời là điều quan trọng nhất. Vị trí đầu tiên trong mệnh đề hoặc câu cũng thường được đưa ra để nhấn mạnh, cũng có thể liên quan ở đây. Giăng chắc chắn muốn độc giả của mình biết rằng Ngôi Lời thực sự là Đức Chúa Trời.

Nếu bài viết xảy ra với các từ theos cũng như với từ logos (“Đức Chúa Trời là Ngôi Lời”) thì điều đó có nghĩa là toàn bộ những gì cấu thành Đức Chúa Trời được thể hiện trong Lời, do đó phủ nhận giáo lý về Chúa Ba Ngôi và ủng hộ tà thuyết Sabellianism. Nó cũng sẽ phủ nhận đặc tính con người và mối quan hệ giữa the logos và Đức Chúa Cha, được nêu trong mệnh đề thứ hai và trong câu 2. Mệnh đề như được nêu bởi Giăng có nghĩa là Lời (logos) sở hữu đặc tính của Đức Chúa Trời (theos) và là Đức Chúa Trời trong thể chất vật lý và bản chất.

Như Merrill Tenney đã viết, “Ba câu trong câu 1 nêu lên ba khía cạnh khác nhau về bản chất của Lời. Câu thứ nhất nói về sự tồn tại của Ngài, câu thứ hai về tính đặc biệt của Ngài, và thứ ba về thần tính của Ngài.” 8 Sau đó, trong câu 2, trong cách viết đặc trưng của sứ đồ Giăng, ông lặp lại hai ý tưởng từ câu 1 để nhấn mạnh – sự tồn tại vĩnh cửu của Lời và mối quan hệ trực diện vĩnh cửu của Ngài là tương giao và bình đẳng với Đức Chúa Trời. Được dịch và giải thích một cách chính xác, hai câu này góp phần vào việc công nhận, phát triển và xây dựng học thuyết Kinh Thánh về Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Đây là giáo lý cho rằng Đức Chúa Trời vĩnh cửu duy nhất của Kinh Thánh tồn tại trong Ba Ngôi Vị – Cha, Con (hoặc Lời) và Chúa Thánh Linh.

Giáo lý về Chúa Ba Ngôi là một học thuyết Kinh Thánh, không phải theo nghĩa nó được nêu trong bất kỳ câu nào của Kinh Thánh mà theo nghĩa là sự công nhận và xây dựng nó được yêu cầu bởi vô số bằng chứng Kinh Thánh như đoạn này. Về mặt này, 1 Giăng 5: 7 như nó xảy ra trong Phiên bản King James (“Vì có ba điều ghi lại ở trên trời là Cha, Lời và Thánh Linh; và ba điều này là một”). Tuyên bố về giáo lý Chúa Ba Ngôi, không có sự hỗ trợ về bản thảo Hy Lạp ban đầu và có lẽ không có trong bức thư gốc do Giăng viết nhưng đã được đưa vào sau đó.

Một mặt Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng có một Đức Chúa Trời (Phục truyền. 6: 4; 4:35, 39; Rô-ma 3:30; 1 Côr 8:4, 6; Ê-phê-sô 4:6; 1 Ti-mô-thê 2:5). Kinh Thánh cũng dạy rõ ràng rằng ba ngôi vị – Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Con và Đức Chúa Trời Thánh Linh – sở hữu và có cùng các thuộc tính của Đức Chúa Trời.

 

 

Ba ngôi vị thực hiện các đặc quyền của Đức Chúa Trời như chấp nhận sự thờ phượng và có quyền tha thứ tội lỗi, và được xác định một cách rõ ràng là Đức Chúa Trời. Do đó, Kinh Thánh trình bày Đức Chúa Trời là Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Linh, mỗi người đều là Đức Chúa Trời đời đời và bình đẳng, hình thành một Đức Chúa Trời duy nhất, nhưng mỗi người như một ngôi vị riêng biệt trong mối tương giao và hoạt động hợp tác với nhau. Như Chúa Giê-su đã bày tỏ điều đó với người Do Thái trong đền thờ, dưới hiên cửa Sa-lô-môn, “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30). Chúa Giê-su không tuyên bố chỉ đơn giản là sự thống nhất về mục tiêu hay lợi ích mà là sự thống nhất nhiệm mầu. Và người Do-thái đã phản đối, “Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời” (Giăng 10:33). Sau đó, Chúa Giê-su bày tỏ mối tương quan cá nhân với Đức Chúa Trời là Cha, như được thấy khi Ngài thực hiện các công việc mà chỉ duy nhất Đức Chúa Trời mới có thể làm được (10:37-38).

Các đoạn Kinh Thánh khác về Ba ngôi được bày tỏ trong cách làm báp-tem cho người mới qui đạo, được Chúa Giê-su dạy, ” Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ” (Ma-thi-ơ 28:19). Ba ngôi vị của Tam Vị Nhất Thể đã tham gia vào các sự kiện: thiên sứ Gáp-ri-ên thông báo cho trinh nữ Maria (Lu-ca 1:35) về việc giáng sinh của Chúa; lễ báp-tem Chúa Giê-su được Giăng Báp-tít thực hiện (Ma-thi-ơ 3: 16-17) và công việc chuẩn bị phòng Tiệc Thánh của Chúa Giê-su với các môn đồ vào buổi tối trước khi Ngài bị bắt (Giăng 14-16). Ba ngôi vị của Đức Chúa Trời được kết hợp với nhau trong lời cầu nguyện của Phao-lô ở 2 Cô-rinh-tô 13:13, phần giới thiệu của 1 Phi-e-rơ 1:2, và các luận bàn trong 1 Cô-rinh-tô 12:4-6 và Ê-phê-sô 4:4-6. Một số hàm ý trong Cựu Ước về Chúa Ba Ngôi bao gồm sự ban phước của A-rôn cho các con trai của Y-sơ-ra-ên (Dân số 6: 15-16), sự ban phước của Gia-cốp cho các con trai của Giô-sép (Sáng 48:15-16), và sự xuất hiện ba lần của từ ngữ “thánh thay” trong Ê-sai 6:3. Cách này cũng có thể là một cách mà người Do Thái bày tỏ sự nhấn mạnh vào sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Nhiều bằng chứng Kinh Thánh bổ sung có thể được đưa ra để hỗ trợ giáo lý về Chúa Ba Ngôi.

Mặc dù tuyên bố của giáo lý về Chúa Ba Ngôi rất đơn giản— “Chúng ta thờ phượng một Đức Chúa Trời trong ba ngôi và ba ngôi hiệp nhất mà không làm phân biệt các ngôi vị hoặc phân chia bản thể” (Kinh Tin kính Athanasian) —việc giải thích và hiểu rất khó, thậm chí là không thể theo nghĩa đen, bởi vì nó hoàn toàn độc đáo và vượt qua kinh nghiệm trần thế của con người. Nhiều minh họa về Chúa Ba Ngôi có thể được gợi ý, chẳng hạn như cá thể con người bao gồm thể xác, hồn và linh. (Tuy nhiên, những người khác tin rằng Kinh Thánh dạy con người chỉ bao gồm hai phần — vật chất và phi vật chất.) Một số người lấy hình ảnh về một quả trứng, bao gồm vỏ, lòng trắng và lòng đỏ để minh họa Chú Ba Ngôi. Tuy nhiên, hình minh họa này cũng không hợp lý, bởi vì mỗi phần của quả trứng chỉ là phần đó của quả trứng, không phải toàn bộ quả trứng. Trái lại, mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi hoàn toàn là Đức Chúa Trời, đồng thời là một ngôi vị khác biệt với hai ngôi vị kia. Có lẽ điều tự nhiên gần nhất với minh họa về Chúa Ba Ngôi là ánh sáng, bao gồm ba loại tia sáng khác nhau nhưng lại tạo thành một ánh sáng. Điều này là phù hợp vì Kinh Thánh nói rằng “Đức Chúa Trời là sự sáng” (1 Giăng 1:5), nhưng rồi minh họa này cũng chỉ là minh họa, khó thuyết phục tâm trí con người.

 

 

Trong phân tích cuối cùng, tất cả các minh họa về Chúa Ba Ngôi đều không đủ để giải thích đầy đủ thực tế độc đáo này. Bernard ở Clairvaux đã viết, “Làm thế nào mà một danh từ số nhiều có thể đồng nhất với sự duy nhất, hay sự duy nhất đồng nhất với một danh từ số nhiều?  John Arrowsmith, một thánh đồ trong Thanh giáo nói, “Chúa Ba Ngôi là một bí ẩn mà đức tin của tôi bao phủ lên như được bày tỏ trong Lời, nhưng lý trí của tôi không thể hiểu được”. Một lần nữa trong sách này, một cuộc thảo luận kỹ lưỡng cho đề tài này bị giới hạn. Nhưng tôi phải thú nhận rằng mặc dù rất nhiều lần tôi đã giảng dạy giáo lý về Chúa Ba Ngôi một cách rõ ràng nhất có thể, nhưng mỗi lần vào cuối khóa học, tôi phải thú nhận với bản thân và trước lớp rằng, mặc dù tôi có thể giải thích giáo lý đầy đủ. và hết lòng tin vào điều đó, tôi đã không hiểu nó theo cách hiểu sâu sắc nhất có thể. Tôi cảm thấy an ủi khi nhận xét có tiếng là dí dỏm của Jonathan Edwards, một thánh đồ Thanh giáo khác, liên quan đến Chúa Ba Ngôi: “Ai phủ nhận giáo lý Chúa ba ngôi hiệp một sẽ mất linh hồn, và ai cố gắng hiểu nó trọn vẹn sẽ trở nên mất trí.”

 

 

NGÔI LỜI LÀM VIỆC VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI CHA VÀ ĐỨC THÁNH LINH

Tạo ra vạn vật

Sứ đồ Giăng tiếp nối những điều mặc khải của ông về ngôi vị của Ngôi Lời, mối quan hệ vĩnh cửu và sự đồng nhất của Ngài với Đức Chúa Trời (Giăng 1: 1-2) với sự mặc khải liên quan đến sự tham gia của Ngôi Lời trong sự sáng tạo vũ trụ. Ông viết, “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (1:3). Điều này ủng hộ ý tưởng rằng “sự khởi đầu” trong các câu 1-2 phải được đồng nhất với phần bắt đầu trong Sáng thế ký 1:1. Ở đây động từ Hy Lạp được dịch là “được tạo thành” (nghĩa đen hơn là “ra đời”) trình bày về quá trình sáng tạo trong tất cả sự phức tạp và tiến triển của nó. Các từ “thông qua Ngài” biểu thị tác nhân của một hành động. Tuyên bố sau đó— “không có Ngài thì không có gì được tạo ra” —khẳng định mạnh mẽ lẽ thật này. Điều này cũng phủ nhận một dị giáo thời cổ đại, có quan điểm về tính vĩnh cửu của vật chất và về sự tham gia của các thiên thần hoặc một chủ thể khác vào quá trình sáng tạo.

Lời trình bày của Giăng về sự tham gia của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ với tư cách là Lời trong việc tạo dựng muôn vật được các phần Kinh Thánh khác ủng hộ. Sau đó trong chương này, Giăng viết, “Thế gian đã được tạo nên bởi Ngài” (Giăng 1:10). Sứ đồ Phao-lô đã tuyên bố: ” Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả” (Cô-lô-se 1:16). Tương tự như vậy, trước giả sách Hê-bơ-rơ mô tả Con là Người thừa kế của Đức Chúa Trời “là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (Hêb. 1: 2).

Ở những nơi khác trong Kinh Thánh, sự sáng tạo được quy cho Đức Chúa Trời (Sáng 1:1-2: 4; Xuất 20:11; việc 38: 4; Thi 90: 2; Ê-sai 44:24; Công vụ 14:15; Rô-ma). 1:20; Hê-bơ-rơ 11: 3; Khải huyền 10: 6), được hiểu trong hầu hết các trường hợp là Đức Chúa Trời Cha. Trong một vài câu Kinh Thánh, Đức Chúa Thánh Linh được đề cập đến khi tham gia vào việc sáng tạo (Sáng 1:2; Gióp 33:4; Thi 104:30). Cũng trong ít nhất hai câu, Lời Đức Chúa Trời được cho là công cụ sáng tạo của Ngài (Thi thiên 33:6; Hê-bơ-rơ 11:3), và sự sáng tạo thường xuyên được mô tả là kết quả của sự phán xét của Ngài (Sáng 1:3, 6, 9, 11, 14, 20, 24, 26; Thi 33:9). Trong Châm ngôn 8:27-31, sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được nhân cách hóa và được mô tả là có liên quan đến sự sáng tạo. Ở những nơi khác, sự khôn ngoan được nói đến như công cụ của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo (Thi 136:5; Châm 3:19; Giê 10:12; 51:15). Điểm mấu chốt của vấn đề này là Kinh Thánh trình bày Đức Chúa Trời là Cha. Lời của Đức Chúa Trời – Đức Chúa Giê-su Christ – và Đức Thánh Linh tham gia vào công việc sáng tạo của Đức Chúa Trời mà không xác định cụ thể hai ngôi vị này là thành viên của Tam Vị Nhất Thể, nhưng sự thật là phải như vậy, bởi vì sự sáng tạo là công việc của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Có lẽ câu Kinh Thánh trong Cựu ước làm rõ nhất về Chúa Ba Ngôi trong công trình tạo dựng là lời tuyên phán, “Chúng ta hãy tạo nên loài người theo hình ảnh của chúng ta, giống như chúng ta” (Sáng. 1:26). Điểm đầu tiên cần lưu ý ở đây là lời Chúa được trích dẫn khi Ngài nói với chính Ngài. Đây là một sự bày tỏ về sự tham gia của Ba Ngôi trong sự sáng tạo (xem 3:22; 11:7; Ê-sai 6:8). Sau đó, có việc sử dụng các đại từ số nhiều “chúng ta” và “của chúng ta” khi đề cập đến Đức Chúa Trời. Hầu hết các học giả Cựu Ước coi đây là một ví dụ về “danh từ số nhiều của sự uy nghiêm”, nhưng những đại từ này có thể ám chỉ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời trong Ba Ngôi Hiệp Một dựa trên các bằng chứng từ những phần Kinh Thánh khác.

Một câu Kinh Thánh trong Tân Ước nói rõ mối quan hệ giữa các thành viên của Chúa Ba Ngôi tham dự trong công trình tạo dựng của Đức Chúa Trời là 1 Cô-rinh-tô 8:6. Tại đó, sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh rằng, trái ngược với các thần giả được tượng trưng bởi các thần tượng mà người ngoại giáo thờ phượng, Đức Chúa Trời ba ngôi trong Kinh Thánh được các tín đồ Đấng Christ tôn thờ là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất. Đức Chúa Trời này liên quan đến “về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Giê-su Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy.” Vì vậy, Đức Chúa Cha được xác định là nguồn chính, cũng như mục tiêu của mọi sự, và Chúa Giê-su Christ, Ngôi Lời, được xác định là tác nhân của việc hoàn thành mọi sự. Câu này là một trong những câu rõ ràng nhất trong việc thiết lập mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Con trong công cuộc tạo dựng. Điều này trình bày điều mà các nhà thần học gọi là “trật tự cơ cấu tổ chức” của Tam Vị Nhất Thể, mối quan hệ giữa ba thành viên của Chúa Ba Ngôi trong việc thực hiện mọi công việc của Đức Chúa Trời. Tóm lại, sự sáng tạo là từ Đức Chúa Trời Cha qua Đức Chúa Giê-su Christ (Ngôi Lời) và qua Đức Thánh Linh. Chúa Giê-su Christ phải là ngôi hai của sự sáng tạo là thích hợp; với tư cách là Lời, Ngài là một ngôi vị của Tam Vị Nhất Thể, Ngài là Đấng bày tỏ Đức Chúa Trời và làm cho Đức Chúa Cha hiển lộ. Cũng như lời nói là sự thể hiện ý nghĩ của con người, thì Lời của Đức Chúa Trời là sự thể hiện và biểu lộ của Đức Chúa Trời. Vì Kinh Thánh nói rõ rằng cõi sáng tạo là phương tiện để Đức Chúa Trời mặc khải về chính Ngài (Thi 19:1-6; Rô 1:19-20), nên việc Lời Đức Chúa Trời tham gia vào đó là điều không thế phủ nhận. Tương tự như vậy, như đã thảo luận trong các chương 4 -7, Ngôi Lời là thành viên của Tam Vị Nhất Thể, Ngài đã nhập thể làm người (Giăng 1:14) trong thân vị là Chúa Giê-su Christ.

 

Duy trì mọi điều

 

Kinh Thánh cũng chỉ ra rằng liên quan đến sự sáng tạo của Ngài, Đức Chúa Trời không phải là một người chủ vắng mặt. Ngài đã không tạo ra vũ trụ để rồi bỏ nó cho sự vận hành của các nguyên tắc cố hữu. Quan điểm này gắn liền với tự nhiên thần giáo (Deism), một quan điểm đã trở nên nổi tiếng ở Anh và ở Tây Âu trong suốt thế kỷ XVII, XVIII và sau này. Đó cũng là thành quả của khoa học với việc khám phá ra những định luật được cho là tuyệt đối, bất khả xâm phạm điều khiển hoạt động của vũ trụ. Ngược lại, trong các thông điệp gửi đến Gióp, Đức Chúa Trời nói rõ rằng Ngài nắm quyền kiểm soát ngay lập tức đối với sự sáng tạo hoàn chỉnh của Ngài và tất cả các tạo vật (Gióp 38-41). Cùng một quan điểm, sứ đồ Phao-lô đã viết rằng “trong Ngài [Đấng Christ] mọi sự kết hợp lại với nhau” (Cô-lô-se 1:17). Tương tự như vậy, trước giả sách Hê-bơ-rơ nói rằng Con Đức Chúa Trời đang “nâng đỡ mọi sự bởi Lời quyền năng của Ngài” (Hê 1:3). Không nghi ngờ gì nữa, sứ đồ Giăng đã ghi nhớ công việc duy trì sự sáng tạo khi ông viết về Lời Đức Chúa Trời, “Trong Ngài là sự sống, và sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1: 4). Robertson đã kết luận một cách chính xác, “Tính vĩnh cửu của vũ trụ phụ thuộc vào Đấng Christ nhiều hơn là do lực hấp dẫn. Đó là một vũ trụ lấy Christ làm trung tâm …. Đấng Christ là quyền lực kiểm soát và thống nhất trong tự nhiên.”

 

TÓM LƯỢC

 

Lẽ thật trong Kinh Thánh là Chúa Giê-su Christ đã tồn tại trước khi Ngài nhập thể. Ngài trở thành Ấu Chúa Giê-su được nêu trong một số Kinh Thánh (Giăng 1: 14-15, 18, 30; 3:13; 6:62; Phi-líp 2:5-6). Chính Chúa Giê-su đã cầu xin Đức Chúa Trời là Cha, “Cha ôi! Bây giờ xin lấy sự vinh hiển Con vốn có nơi Cha trước khi chưa có thế gian mà làm vinh hiển Con nơi chính mình Cha” (Giăng 17:5). Tuy nhiên, chỉ có sứ đồ Giăng đã xác định Đấng Christ nhập thế là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng tồn tại vĩnh viễn trong mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời và được xác định là Đức Chúa Trời. Điều này đã giới thiệu học thuyết về một Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, Đấng tồn tại như một Đức Chúa Trời trong Ba Ngôi vị. Và điều này, cũng như sự mặc khải của sứ đồ Giăng về việc Ngôi Lời vĩnh cửu tham gia vào việc tạo ra vạn vật, đã dẫn đến một cuộc thảo luận về mối quan hệ của ba ngôi vị trong Tam Vị Nhất Thể — Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời Con (hoặc Lời), và Đức Chúa Thánh Linh — trong mọi công việc của Đức Chúa Trời, bao gồm cả công việc sáng tạo ra vạn vật và sự bảo tồn vạn vật sau đó.

 

 

 

 

 

 

PHẦN IV: ĐỨC THÁNH LINH

 

1

Nhân Tính của Đức Thánh Linh

CHỦ THỂ NÀO là Đức Thánh Linh? Một số người xem Ngài là hiện thân của quyền năng thánh khiết theo nghĩa giống như họ xem Satan là hiện thân của quyền lực gian ác. Trong cả hai trường hợp Đức Thánh Linh và Satan đều không được nhìn nhận là những cá thể. Có người xem Thánh Linh là một quyền năng vô tính hay sức ảnh hưởng mà Đức Chúa Trời sử dụng để kích hoạt ý muốn của Ngài trong vũ trụ.

Ảnh hưởng của các tôn giáo Phương Đông và niềm tin của họ trong thuyết phiếm thần (quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời là tất cả và tất cả là Đức Chúa Trời) được nhìn thấy trong bộ phim Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao. Mệnh lệnh “hãy cảm nhận nguồn lực” có nghĩa là Luke Skywalker, một diễn viên trong phim phải cảm nhận được sự duy nhất của mình với năng lượng vĩnh cửu tràn ngập trong vũ trụ và tất cả mọi sự sống. Năng lượng đó là cảm giác hiệp nhất với thần thánh, có thể được giải thích là biểu hiện của tâm linh khi sự sống được kích hoạt.

Tín lý sai lầm của chủ nghĩa hình thức dạy rằng Đức Chúa trời là một thân vị, bày tỏ chính Ngài qua ba cách: Đức Cha, Đức Con và  Đức Thánh Linh. Quan điểm này khước từ sự hiện hữu đời đời của ba thân vị riêng biệt trong một thể thiêng liêng. Trong thuyết độc thần trong đó khước từ sự dạy dỗ Ba Ngôi, Đức Thánh Linh chỉ được xem là một cách hoặc là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời. Họ biện hộ bằng cách sử dụng minh hoạ là nước và ba trạng thái/hình thái của chất lỏng, hơi nước và đá. Tuy nhiên nước cùng lúc không thể vừa là chất lỏng, hơi nước và thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Hơn nữa Đức Chúa Trời không tồn tại lúc là Đức Cha, lúc là Đức Con và lúc khác lại là Đức Thánh Linh. Đức Cha cũng không đổi thành Đức Con hay Đức Con thành Đức Thánh Linh.

Ngược lại, những người theo thuyết duy nhất thần  tin rằng trong một thể thiêng liêng và trong một thể đời đời, gọi là, Đức Chúa Cha. Trong quan điểm đó, Chúa Giê-su Christ chỉ được xem như một con người có ý thức- Đức Chúa Trời mạnh mẽ, và Đức Thánh Linh bị giảm sút xuống thành một chức danh cho hoạt động của Đức Chúa Trời trong thế giới. Vì vậy, những người theo thuyết duy nhất thần  khước từ nhân tính của Đức Thánh Linh

Tin Lành Thuần Tuý tin vào thuyết độc thần Ba Ngôi.  Chúng ta tin vào một Đức Chúa Trời, tồn tại hay duy trì đời đời trong ba thân vị, Chúa Cha, Chúa Con và Đức Thánh Linh. Chúng ta tin vào tính độc nhất của ba thân vị trong một Thể thiêng liêng. Chúng ta cũng khẳng định rằng Chúa Cha không phải là Chúa Con hay Thánh Linh, và rằng Chúa Con không phải Chúa Cha hay Thánh Linh, và rằng Thánh Linh không phải là Chúa Cha cũng không phải là Chúa Con. Chúng ta khẳng định thân vị riêng biệt và đời đời của Đức Chúa Cha, Chúa Con và Đức Thánh Linh.

Sinclair Ferguson đã quan sát chính xác, “ Cho nên hiện nay công việc của Ngài đã được nhận biết, chính mình Thánh Linh vẫn còn là một phương diện vô danh, vô hình của một thể thiêng liêng đối với nhiều Cơ Đốc Nhân.” Nhiều nhà thần học đã gán cho Đức Thánh Linh là một thân vị bị lãng quên hoặc không được biết đến của Đức  Chúa Trời. Tuy nhiên, Đức Thánh Linh là một thân vị thực hữu, thần thượng, và chúng ta nên khao khát để biết Ngài hơn.

 

 

ĐỨC THÁNH LINH KHÔNG PHẢI LÀ

 

Đức Thánh Linh Không Phải Là  Linh Của Con Người.

Trong một lớp học Kinh Thánh tại hội thánh nơi tôi làm mục sư, một sinh viên  hỏi tôi liệu Đức Thánh Linh có giống như tâm linh ở trong con người hay không.  Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời, Đấng tạo thành thân thể A-đam từ bụi đất thế gian, hà hơi thở sự sống vào con người, và người trở nên một loài sanh linh (Sáng 2:7). Vì vậy mỗi người là một thể chất vật lý. Người đó vừa là vật chất vừa là phi vật chất. Đấng Christ phân biệt giữa thân thể và tâm linh của con người (Ma-thi-ơ 10: 28). Phao lô nói về con người bao gồm linh, hồn và thân thể (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:23). Trong đời này, bản thể phi vật chất được liên hệ một cách không thể tách rời với thân thể vật lý: cái này ảnh hưởng cái kia.

Trong sự chết, bản thể linh tách rời khỏi thân thể chết. Người tín hữu chân thành đi về với Đấng Christ, và người không được cứu đi vào Địa Ngục để chờ sự phán xét cuối cùng.

Tuy vậy, Thần Linh của Đức Chúa Trời không giống tâm linh của một người. Phao lô phân biệt: “Vả, nếu không phải là thần linh trong lòng người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Đức Chúa Trời” (1 Cor. 2: 11). Những từ “những sự trong người” đó là, trong một người, là quan trọng.  Tuy nhiên, cũng là những chữ “ những sự trong người” không được lặp lại cho Thần Linh của Đức Chúa Trời bởi vì Đức Thánh Linh không ở trong Đức Chúa Trời. Thánh Linh biết các sự trong Đức Chúa Trời vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh tất cả đều biết những điều của Đức Chúa Trời bởi vì tất cả đều ngang bằng Đức Chúa Trời.

Bên cạnh được xác nhận là Thần Linh của Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh cũng được xác nhận là Thần Linh của Đấng Christ (Rô-ma 8: 9). Mối liên hệ này không giống như việc tôi nói “tâm linh của Bob  Gromacki”. Là một con người, tôi là một thể linh, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, ngự trong một thân thể vật chất.  Mặc dù Đức Chúa Con mang trên chính Ngài bản chất tự nhiên qua sự Nhập thể, Đức Thánh Linh không duy trì mối quan hệ với Chúa Giê-su Christ như mối liên hệ của tâm linh tôi với tôi. Trong khi Đức Thánh Linh và Chúa Giê-su là hai thân vị riêng biệt, thì tôi và tâm linh tôi lại không như vậy.

Đức Thánh Linh Không Phải Là Một Chủ Thể Vật Lý

Chúa Giê-su dạy rằng Đức Chúa Trời là thần trong bản chất (Giăng 4: 24). Tương tự như vậy,  Phao lô khẳng định rằng Đức Chúa Trời vừa không hề hư nát và không thấy được (1 Tim 1:17). Danh của Đức Thánh Linh cho thấy bản chất phi vật chất của Ngài. Ngài là thần linh, không phải vật chất. Ngài không có hình và dạng.

Cựu Ước ghi lại những sự hiển hiện, những sự hiện ra của Đức Chúa Trời trong hình dạng loài người và sự hiển hiện của Đấng Christ, sự xuất hiện của Chúa Con trước nhập thể trong hình dạng loài người. Đức Chúa Trời dùng những sự hiện ra này để mặc khải chính Ngài và Ý muốn Ngài cho nhân loại trong những cách họ sẽ hiểu được. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không có những bộ phận vật lý của con người như tai, mắt và tay. Những từ ngữ đó là phương tiện để  Đức Chúa Trời vô hạn giao tiếp với loài người hữu hạn.

Động vật là những sinh vật có sự sống thể chất. Chúng hoạt động từ bản năng được tạo dựng, và khi chúng chết, sự tồn tại của chúng kết thúc.

Con người là sinh vật thể chất vật chất, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi con người chết, tâm linh tách rời khỏi thân thể. Con người sống tiếp bởi vì nguyên tắc sự sống được tập trung vào tâm linh của người đó.

Thiên sứ là thể linh đóng chiếm trong khoảng không giới hạn và có thể hiện thực hoá chúng, thường ở trong hình dạng loài người. Thiên sứ không bao giờ trải nghiệm sự chết giống con người và động vật.

Tuy nhiên, Đức Thánh Linh là một thần linh, một thể riêng biệt và đời đời. Ngài hiện diện mọi nơi; Ngài không có đặc tính vật lý.

Đức Thánh Linh Không Phải Là Một Đồ Vật

Cách gọi tên “Đức Thánh Linh” dịch từ tiếng Hy Lạp to hagion pneuma. Từ pneuma thường được dịch là “linh” hoặc ‘gió”) là một danh từ vô tính về mặt ngữ pháp.

Trong tiếng Hy Lạp, danh từ, đại từ, tính từ, mạo từ đều thuộc giống đực, giống cái hoặc giống trung. Ba tập hợp này không liên quan gì đến nhân cách hay giới tính. Ví dụ, chữ Hy Lạp cho “ngôi nhà” là oikos, thuộc giống đực. Vì vậy tất cả những từ bổ ngữ của nó đều thuộc nhóm giống đực. Tuy nhiên, vì “ngôi nhà” là một đồ vật, thì việc điều chỉnh trong dịch thuật là điều cần thiết để chuyển tải sự việc này. Ví dụ, nếu tôi nói, “Tôi thấy ngôi nhà của mình và đang đi về hướng nó”, thì đại từ cho từ “nó” là từ thuộc giống đực để nhất quán với từ “ngôi nhà”. Sẽ thật nực cười nếu nói rằng, “Tôi thấy ngôi nhà của mình và đang đi về phía anh ta”.

Những người khước từ nhân tính của Đức Thánh Linh tuyên bố rằng thuật ngữ giống trung là pneuma; vì thế họ kết luận rằng Đức Thánh Linh phải là một “đồ vật” hay “nó”. Thật không may bản King James có cách dịch này: “Chính Đức Thánh Linh  mang lời chứng với linh chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời” (Rô- ma 8: 16, xem thêm 8: 26). Tiếng Hy Lạp kết hợp “chính nó- itself” là một đại từ giống trung auto, nhất quán về giới với từ to pneuma (Thánh Linh), một danh từ giống trung. Một cách dịch rõ nghĩa hơn, từ  Chính Thánh Linh Ngài – Himself  được sử dụng hầu hết trong các bản dịch hiện đại, bao gồm các bản (NASB, NIV, NKJV)

Đấng Christ sử dụng đại từ cả giống đực và giống trung để mô tả Đức Thánh Linh. Vào đêm trước khi Ngài chịu đóng đinh, Ngài phán cùng các môn đồ mình rằng: “Nhưng khi Đấng Giúp Đỡ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần Lẽ Thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta.” (Giăng 15:26). Danh xưng “Đấng Giúp Đỡ” thường được dịch là “Đấng Yên Ủi”, từ Hy Lạp là parakletos, là một danh từ giống đực. Đại từ quan hệ “Đấng-Whom”(hon) cũng là một đại từ giống đực, nhất quán với từ parakletos. Đại từ “Ngài- who” (ho), là một đại từ giống trung,  nhất quán với từ pneuma (“Thánh Linh”). Đại từ (“Ngài- He”) dịch là ekeinos, là một từ giống đực nhất quán với từ parakletos.

Trước đó, Đấng Christ hứa với các môn đồ Ngài, “Và ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Giúp Đỡ khác (allon parakleton), để ở với các ngươi đời đời.” (Giăng 14:16). Tính từ “khác” (allon) có nghĩa là “một cái khác cùng loại).  Như vậy, Đức Thánh Linh là một Đấng Yên-ủi khác – bình đẳng với Đấng Christ. Đấng Christ nói về một Đấng khác, chứ không phải với một điều hay một ảnh hưởng vô tri vô giác khác.

Đấng Christ cũng nói với các sứ đồ, “ Ta nói những điều đó với các ngươi đang khi ta còn ở cùng các ngươi. Nhưng Đấng Giúp Đỡ [parakletos tức là Đức Thánh Linh [to pneuma to hagion, giống trung] Đấng mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy  sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi” (Giăng 14:25- 26). Sự pha trộn giữa danh từ và đại từ giống đực và giống trung cho thấy nhân tính của Thánh Linh. Hơn nữa, trách nhiệm dạy dỗ của Đức Thánh Linh cũng hàm ý rằng Ngài là một thân vị  cũng giống như Đấng Christ là một thân vị.

Đấng Christ sau đó công bố, “Dầu vậy, ta nói cùng các ngươi: ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi,  Đấng Giúp Đỡ [parakletos, giống nam] sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài [auto, giống nam] đến. Khi Ngài [ekeinos, giống nam] đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự xưng công bình và sự phán xét.” (Giăng 16: 7-8). Việc sử dụng các đại từ giống nam nhất quán với từ giống nam parakletos; và chức vụ tự cáo miêu tả công việc của một con người thực hữu.

Lại một lần nữa Chúa Giê-su tuyên bố, “Khi nào Ngài [ekeinos, giống nam], Linh [to pneuma, trung tính lẽ thật sẽ đến, Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; Vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài [ekeinos, giống nam] sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về mình mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16: 13- 14). Việc sử dụng ekeinos trong những câu này vô cùng ý nghĩa bởi vì tiền ngữ gần nhất của nó là từ parakleton (16:7), trong khi từ trung tính pneuma được tìm thấy ngay trong chính văn mạch này. Một lần nữa việc trao đổi dễ dàng của đại từ nhân xưng giống nam và trung tính biện chứng cho nhân cách của Đức Thánh Linh. Những hoạt động của Thánh Linh được đề cập trong những câu Kinh Thánh này cũng để mô tả người chứ không phải đồ vật.

ĐỨC THÁNH LINH LÀ CHỦ THỂ NÀO

Chúng ta đã thấy rằng Đức Thánh Linh không giống linh của con người, cũng không phải là vật chất hay một ảnh hưởng vô tính. Bây giờ chúng ta sẽ trở lại chứng cớ tích cực trong Kinh Thánh chứng minh rằng Đức Thánh Linh là một thân vị thực hữu, thần thượng, bình đẳng trong nhân vị tính với Đức Cha và Chúa Con.

Đức Thánh Linh Có Những Phẩm Chất Của Một Người

Những dấu hiệu của nhân cách gồm có ý thức tự hữu, lương tri và sự nhận biết khác biệt của bản thân với người khác và các đồ vật khác. Những đặc điểm của nhân cách cũng bao gồm khả năng suy nghĩ, cảm nhận, lựa chọn. Là con người, chúng ta là những cá thể đạo đức, tinh thần, cảm xúc và ý chí. Thiên sứ cũng có những dấu hiệu nhân cách tương tự như vậy.  Từ sự hiểu biết của chúng ta về nhân cách của con người và từ sự khám phá của Lời Đức Chúa Trời, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng Đức Thánh Linh là một con người.

Ngài suy nghĩ. Đức Thánh Linh có trí khôn. Ngài là toàn tri, ấy là Ngài biết mọi sự. Phao lô viết, “Đấng dò xét lòng người [Đức Chúa Cha]hiểu biết ý tưởng của Đức Thánh Linh, vì Ngài [Thánh Linh] theo ý Đức Chúa Trời mà cầu thay cho các thánh đồ” (Rô-ma. 8: 27). Như vậy Đức Thánh linh có tâm trí, một tâm trí vô hạn.

Trong việc giải nghĩa về chức vụ thiết yếu của Đức Thánh Linh trong sự mặc khải, thần cảm và soi sáng thần hựu, Phao lô công bố, “Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh bày tỏ những sự đó cho chúng ta. Vì, Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa. Vả, nếu không phải thần linh trong lòng người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thì ai biết sự trong Đức Chúa Trời”. (1 Côr 2: 10-11). Để Đức Thánh Linh biết những sự trong Đức Chúa Trời một cách hoàn toàn, thì Ngài cũng phải là Đức Chúa Trời, vì chỉ Đức Chúa trời mới có thể biết Ngài cách trọn vẹn.

Rõ ràng, Đức Thánh Linh phải có trí khôn để Ngài dạy dỗ (Giăng 14:6), làm chứng (15: 26), thuyết phục (tự cáo về tội lỗi), dẫn dắt (16: 13), bày tỏ (16:13), và làm vinh hiển Đấng Christ (16:14).

Ê-sai xác nhận Đức Thánh Linh là Đấng có khả năng xức dầu, đổ đầy và ngự trong Đấng  Mê-sia. Ông đã mô tả Ngài như sau, “Thần của Đức Giê-hô-va sẽ ngự trên Ngài, tức là thần khôn ngoan và thông sáng, thần mưu toan và mạnh sức, thần hiểu biết và kính sợ Đức Giê-hô-va.” (Ê-sai 11:2). Những đặc tính này cho thấy Đức Thánh Linh có một tâm trí, một khả năng vô hạn để suy nghĩ.

Ngài cảm nhận. Phao lô cảnh báo tín hữu, “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc” (Ê-phê 4: 30). Cơ đốc nhân cố ý phạm tội làm tổn thương sự cư ngụ của Đức Thánh Linh về mặt cảm xúc. Từ “lypeo`” trong tiếng Hy Lạp (“làm buồn”) được sử dụng cùng từ nói về nỗi buồn rầu của các sứ đồ vì sự đóng đinh sắp đến của Đấng Christ (Ma-thi-ơ 17: 23), sự buồn rầu của người trai trẻ sau khi chàng rời Đấng Christ đi trong sự không tin (Ma-thi-ơ 19: 22), sự buồn rầu của các mồn đồ khi nghe thông báo rằng một người trong số họ sẽ phản Đấng Christ (26: 22), sự buồn bực dự dội của Đấng Christ khi Ngài cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê (26:37), sự buồn rầu của Phi-e-rơ khi Đấng Christ thử thách lòng trung thành và tình yêu của ông dành cho Ngài (Giăng 21:17), sự buồn rầu của Hội Thánh cô-rinh-tô, điều dẫn họ đến sự ăn năn (2 Côr. 2: 2, 4; 7: 8-9), sự buồn rầu của Cơ đốc nhân về sự chết của những người thân yêu (1 Tê-sa-lô-ni-ca. 4: 13), và gánh nặng bởi những khó khăn của cuộc sống (1 Phi-e-rơ 1: 6).

Từ làm buồn (“lype` ”) dựa trên động từ “làm cho đau khổ”, được sử dụng để nói về nỗi đau khổ của các môn đồ tại vườn Ghế-sê-ma-nê (Luca 22: 45), sự buồn rầu của các sứ đồ về sự đóng đinh và sự ra đi  sắp tới của Đấng Christ (Giăng 16: 20), gánh nặng của Phao lô về sự cứu chuộc của dân Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 9: 2), nỗi đau cảm xúc của Phao lô đối với những người Cô- rinh- tô phản nghịch (2 Cô-rinh-tô 2: 1, 3), nỗi quan tâm của phao lô với bệnh tình của Ép-ba-phô-đích (Phi-líp 2: 27), và ảnh hưởng của sự sửa trị thiên thượng đối với tín hữu (Hê-bơ-rơ 12:11).

Cha mẹ phải đau lòng vì sự phản loạn và sự bất kính của con cái. Vợ chồng đau lòng về nhau vì những lời nói công kích và hành động vô đạo đức. Nỗi đau cảm xúc trở nên nghiêm trọng hơn khi những người chúng ta yêu thương nhất xâm hại mối quan hệ của chúng ta. Điều đó cũng vậy đối với Đức Thánh Linh. Tất cả các tội đều làm buồn lòng Đức Thánh Linh, nhưng những tội lỗi tín hữu cố ý phạm với Ngài là Đấng ngự bên trong sẽ làm tổn thương Ngài hơn hết. Nỗi đau như vậy của Ngài cho thấy yếu tố cảm xúc trong thân vị của Ngài.

Ngài quyết định. Đức Thánh Linh có ý chí, và có khả năng tự ý làm việc gì đó. Ngài có khả năng quyết định và lựa chọn. Đức Thánh linh nói với các tiên tri và giáo sư của Hội Thánh An-ti-ốt rằng, “Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho công tác mà ta đã giao cho họ làm” (Công vụ 13:2). Đức Thánh Linh đã chọn 2 trong số 5 người. Ý muốn của Ngài là cho Phao lô và Ba-na-ba làm những giáo sĩ đầu tiên cho dân ngoại.

Trong chuyến hành trình truyền giáo thứ hai, Phao-lô và các tín hữu bị Đức Thánh Linh ngăn cấm truyền giáo cho các tỉnh Phi-ri-gi và Bi-thi-ni tại Á-Châu (Công vụ 16:6- 7). Một lần nữa cho thấy Đức Thánh Linh bày tỏ ý muốn của là Ngài tập chú vào địa lý đối với lời được rao giảng.

Tất cả tín hữu đều đã nhận được ân tứ và khả năng từ Đức Thánh Linh. Ngài cũng quyết định ân tứ nào sẽ được ban cho mỗi Cơ đốc nhân, “Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng mỗi người” (1. Cô-rinh-tô 12:11). Sự phân phát này là theo ý muốn Ngài không phải theo mong ước của chúng ta.

Đức Thánh Linh nghĩ, cảm nhận và quyết định bởi vì Ngài là một con người. Cũng giống như chúng ta bày tỏ những đặc điểm của tính cách con người chúng ta qua trí tuệ, cảm xúc và ý muốn của chúng ta, vì vậy, Đức Thánh Linh cũng bày tỏ nhân cách thần hựu của Ngài qua những lãnh vực đó.

Đức Thánh Linh Hành Động Giống Như Một Người

Chúng ta bày tỏ chúng ta là ai và là gì qua những việc chúng ta làm. Động vật làm điều chúng làm vì chúng là động vật. Loài chim làm điều chúng làm vì chúng là chim. Loài người làm điều họ làm vì họ là con người. Cũng vậy, Đức Thánh Linh làm điều Ngài làm vì Ngài là một thân vị thần thượng.

Ngài dẫn dắt. Đấng Christ đã hứa với các môn đệ Ngài, “lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (Giăng 16:13). Nếu lẽ thật cứu chuộc và luân lý đạo đức có thể được ví như Bắc Cực, thì Đức Thánh Linh được ví như chiếc bàn là chỉ cho chúng ta đi về hướng đó.

Đó là đặc ân cho tôi được thăm Y-sơ-ra-ên vào 8 dịp. 5 trong 8 chuyến đi đó tôi được phục vụ như một giáo sư Kinh Thánh và một mục sư hướng dẫn viên. Tuy nhiên, nhóm du lịch của chúng tôi đều thuê dịch vụ từ một hướng dẫn viên Y-sơ-ra-ên chính thức. Những người hướng dẫn viên này nói tiếng Anh, tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Ả rập. Họ biết vùng đất đó tận tường. Họ biết nơi nào để đi và biết làm cách nào để tới đó. Những người hướng dẫn viên này là điều không thể thiếu để các cuộc hành hương Xứ Thánh thành công. Trong mỗi chuyến thăm, chúng tôi cần một người, chứ không chỉ một bản đồ hay một bảng chỉ đường đơn thuần để dẫn chúng tôi.

Động từ hodegeo (“dẫn dắt”) chỉ xuất hiện 5 lần trong Tân Ước. Đấng Christ đã sử dụng 2 lần để nói kẻ mù dẫn kẻ mù (Math 15:14; Mác 6: 39). Nó được sử dụng để nói Đấng Christ, Chiên Con, Đấng sẽ dẫn những kẻ được chuộc đến “suối nước sống” (Khải 7: 17). Khi Phi líp gặp hoạn quan Ê-thi-ô-pi và hỏi liệu ông có hiểu sách Ê-sai mà ông đang đọc không, người hoạn quan trả lời, “Nếu chẳng ai dạy cho tôi, thể nào tôi hiểu được” (Công vụ 8:31). Đức Thánh Linh có thể sử dụng những tín hữu hiểu biết và có phẩm chất để hướng dẫn người khác vào trong sự hiểu biết Lời Đức Chúa Trời.

Động từ (“dẫn dắt”) liên hệ với một danh từ chung hodos (“đường” hay “con đường”). Được dẫn dắt bao gồm đích đến, hỗ trợ, thời gian và sự quyết tâm tiến về phía trước trong đời sống thuộc linh của một người.

Ngài bắt phục. Nói về Đức Thánh Linh, Chúa Giê-su Christ phán, “Và khi Ngài đến, Ngài sẽ khiến thế gian tự cáo (bắt phục) về tội lỗi, về sự công bình và sự phán xét” (Giăng 16:8). Động từ elencho (“bắt phục”) là một từ thuộc về pháp luật. Trong phòng xử án luật sư công tố phải đưa ra bằng chứng cho bồi thẩm đoàn và thẩm phán rằng bị cáo phạm tội ngoài một nghi ngờ hợp lý. Trong cuộc truy nã nổi tiếng vụ O.J Simpson, Maira Clark và Christopher Lander thất bại trong nỗ lực thuyết phục bồi thẩm đoàn là Simpton phạm tội.  Vì vậy ông được tuyên bố trắng án khỏi tất cả những cáo buộc pháp luật chống lại ông.

Trong sự bắt phục về tội lỗi, sự công bình và sự phán xét, Đức Thánh Linh không cố gắng thuyết phục vị bồi thẩm đoàn về những đồng phạm của tội nhân. Thay vào đó, Ngài tạo nên bên trong tội nhân sự nhận biết về tội lỗi và sự phạm pháp của họ. Sau đó, Ngài thuyết phục tội nhân thừa nhận tình trạng tội lỗi của mình trước Đấng phán xét của cả vũ trụ. Chỉ sau khi như vậy, tội nhân mới nhận được món quà ân điển của sự cứu chuộc qua Chúa Giê-su Christ.

Quá trình bắt phục đạo đức cá nhân chỉ có thể được thực hiện bởi một người đạo đức. Đó chính là đời sống ảnh hưởng đời sống.

Động từ elencho tương tự được sử dụng bởi một người tín hữu chỉ tội cho một tín hữu khác (Math 18: 15), sự quở trách của Giăng Báp tít đối với Hê-rốt An-ti-ba (Luca 3: 19) , sự phơi bày những công việc tối tăm của tội nhân bởi ánh sáng (Giăng 3: 20), sự bắt phục một người chưa tin bởi lời tuyên bố của  thành viên Hội Thánh (1. Cô-rinh-tô 14: 24), sự phơi bày những công việc vô ích của sự tối tăm bởi các tín hữu (Ê-phê-sô 5: 11, 13), sự quở trách tội lỗi những thành viên và trưởng lão bởi các lãnh đạo Hôi Thánh (1. Ti-mô-thê 5: 20), sự quở trách những Cơ đốc nhân phạm tội trong sự trừng phạt thánh , sự bắt phục bởi Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 12: 5), sự định tội cá nhân bởi luật pháp (Gia-cơ 2: 9), và sự quở trách của Đấng Christ đối với Hội Thánh Lao-đi-xê (Khải 3: 9).

Mục sư có trách nhiệm quở trách (2. Tim 4: 2; Tít 1: 9, 13; 2: 15). “La mắng” (elenchos, 2 Tim 3:16) chỉ ra một trong những đặc tính của lời Kinh Thánh được hà hơi.

Đức Thánh Linh bắt phục con người bằng lời Kinh Thánh qua sự làm chứng của những tín hữu quan tâm. Trong niềm khao khát dẫn dắt người khác vào trong ý muốn theo luân lý của Đức Chúa Trời thì chúng ta phải chắc chắn rằng họ thực sự đã phạm luật đạo đức của Chúa chứ không phải chỉ bởi cảm tính và định kiến của chúng ta.

Ngài làm việc. Sau khi Phi -líp làm báp tem cho hoạn quan Ê-thi-ô-pi qui đạo, “Thánh Linh của Chúa đem Phi-líp đi, hoạn quan chẳng thấy người nữa, cứ hớn hở đi đường.  Nhưng Phi- líp thì người ta thấy ở thành A-xốt” (Công vụ 8: 39-40). Như một cơn lốc, Đức Thánh Linh đưa Phi-líp từ một vị trí địa lý dang một vị trí khác. Phép lạ độc đáo này được thực hiện bởi một thân vị thần hựu. Trong bộ phim ca nhạc giả tưởng Phù Thuỷ xứ Oz, trong một cơn lốc xoáy đã thổi bay Dorothy từ Kansa vào vùng lãnh thổ xứ Oz, nhưng hành trình giả tưởng đó không giống như câu chuyện có thực của Phi-líp.

Trên đảo Bát-mô sứ đồ Giăng đã có một trải nghiệm tương tự như Phi-líp. Khi Chúa Giê-su Christ kêu gọi ông vào thiên đàng (Khài 4: 1), ông tường trình lại, “ Lập tức tôi ở trong Đức Thánh Linh, và này tôi thấy một ngôi đặt trên trời, trên ngôi có một Đấng đương ngồi đó” (Khải 4: 2). Đức Thánh Linh di chuyển Giăng từ dưới đất lên tầng trời thứ ba, và làm cho vị sứ đồ có thể nhìn thấy một phần tương lai như Chúa thấy.

Ngài cầu nguyện. Phao lô viết, “Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin để cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rô-ma 8: 26-28). Chúng ta, những tin hữu không bị cô độc trong những gánh nặng cầu nguyện. Là một mục sư,  tôi thường cầu nguyện cho mọi người có bệnh nan y. Trong những lúc ấy tôi đã tranh chiến. Tôi có nên cầu xin Đức Chúa Trời thực thi phép lạ chữa lành hoàn toàn không, hay tôi xin Chúa cất sự đau đớn này khỏi người đó bằng cách đưa họ về nhà ở trên trời? Ngay cả khi tôi không biết nên cầu xin điều gì, thì Chúa cũng biết rằng tôi muốn Ngài được vinh hiển. Tôi muốn điều tốt nhất cho bệnh nhân và cho gia đình của họ. Đức Thánh Linh biết tấm lòng tôi, và tôi chắc chắn  Ngài khai báo ý định của lòng tôi cho Đức Chúa Cha.

Thật vui mừng khi biết rằng Đức Thánh Linh giúp đỡ và cầu thay cho chúng ta. Ngài biết rõ ý muốn của Đức Chúa Trời hơn chúng ta.

Sự cầu nguyện thực sự bắt nguồn từ tấm lòng qua tâm trí của Đức Thánh Linh tới Đức Chúa Cha. Trong nơi sứt mẻ giữa những tảng đá lớn tại Giê-ru-sa-lem đã làm thành Bức Tường Phía Tây, cũng được gọi là Bức Tường Than Khóc là nơi những lời cầu nguyện được viết lên giấy. Những “lời cầu nguyện viết trên giấy” này đôi khi bị những du khách đánh cắp làm quà lưu niệm. Những người Do Thái sùng đạo là những người đặt những nhu cầu cầu nguyện được viết ra giấy này trên bức tường than khóc với hy vọng nó sẽ giúp Chúa nhớ những lời cầu nguyện của họ. Ngược lại với hình thức dâng nhu cầu cầu nguyện một gián tiếp tới Đức Chúa Trời, thì chúc vụ cầu nguyện của Đức Thánh Linh lại cá nhân và trực tiếp.

Ngài dò xét. Phao lô viết, “Vì, Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời” (2. Cô-rinh-tô 2:10). Động từ eraunao (“dò xét”) xuất hiện 6 lần trong Tân Ước. Đấng Christ thách thức những người phê bình Ngài dò xét những lời Kinh Thánh liên quan đến Ngài (Giăng 5: 39). Những người lãnh đạo tôn giáo, là những người chỉ trích Ni-cô-đem về việc bảo vệ chức vụ của Đấng Christ đã thách thức Ngài, “Người hãy tra xét, chẳng có tiên tri nào ra từ Ga-li-lê” (Giăng 7: 52). Cả Đức Chúa Cha và Chúa Con đều dò xét tấm lòng con người (Rô-ma  8: 27 và khải 2: 23). Các tiên tri dò xét Cựu Ước để hiểu mối tương quan giữa sự chịu khổ và vinh hiển của Đấng Hứa Mesia (1. Phi-e-rơ 1: 10- 11).

Trong việc chuẩn bị để viết quyển sách này, tôi phải nghiên cứu chủ đề này trong cả Kinh Thánh và những sách liên quan. Tôi so sánh, xem xét kỹ lưỡng, đối chiếu và viết tài liệu này bên cạnh một tập giấy màu vàng. Vợ tôi sau đó giúp đánh máy bản thảo vào hệ thống máy tính. Không có máy tính hay bút chì nào đã tìm kiếm và hoàn thành chủ đề này, mà chính tôi phải làm điều đó.

Việc dò xét bao gồm sự phân tính của trí óc. Đó là việc chỉ con người mới có thể làm được. Vì vậy, Đức Thánh Linh phải là một con người.

Ngài ngăn cấm. Trong Công vụ 16: 6- 7 Luca kể lại  những gì đã xảy ra với Phao lô và đội hình truyền giáo của ông trong hành trình truyền giáo thứ 2: “ Đoạn, trải qua xứ Phi-ri-gi và đất Ga-la-ti, vì Đức Thánh Linh đã cấm truyền đạo trong cõi A-si. Tới gần xứ My-si rồi, hai người sắm sửa vào xứ Bi-thi-ni, nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Giê-su không có phép”. Ngăn cấm và cho phép là những sự lựa chọn của con người. Vấn đề này là việc đời sống chạm đến đời sống, người này ảnh hưởng người khác.

Ngài phán. Khi Đức Chúa Trời phán, Ngài có thể hiểu được bởi cả thiên sứ và con người (Hê-bơ-rơ 1: 1- 2). Nhiều phân đoạn Kinh Thánh đề cập đến việc Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con phán. Nhiều đoạn Kinh Thánh cũng công bố Đức Thánh Linh phán. Chúng ta không biết liệu lời mà Đức Thánh Linh phán là lời trình bày có thể cho mọi người nghe thấy hay chỉ là người được chỉ định nhận được. Hay, chúng ta cũng không biết có phải những lời đó được ghi âm lại nếu kỹ thuật công nghệ có sẵn vào thời đó.

Khi “Đức Thánh Linh phán cùng Phi-líp, Hãy lại gần và theo kịp xe đó” (Công vụ 8: 29), Phi-líp hiểu, vâng theo và truyền giáo cho hoạn quan Ê-thi-ô-pi.

Chúa ban cho Phi-e-rơ một khải tượng tại thành Giốp-ba, “Phi-e-rơ còn đương ngẫm nghĩ về sự hiện thấy đó, Đức Thánh Linh phán cùng người rằng; Kìa, có 3 người đương tìm ngươi. Hãy đứng dậy, xuống  mà đi với họ, chớ hồ nghi, vì ta đã sai họ đó.” (Công vụ 10: 19- 20). Phi líp đã vâng theo lệnh cấm thiên thượng.

Lời của Đức Thánh Linh cho các lãnh đạo Hội Thánh tại thành An-ti-ốt tạo nên đội hình truyền giáo đầu tiên, “Đương khi môn đồ cầu nguyện Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh Linh phán rằng: Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công việc ta đã gọi làm” (Công vụ 13: 2). Đức Thánh Linh phán những lời này cho cả nhóm như thế nào? Chúng ta không biết, nhưng rõ ràng những người lãnh đạo này đã quan tâm đến ý muốn của Chúa và uỷ thác hai người cho công tác đó.

Thành phần của Kinh Thánh cũng được liên quan với bài diễn thuyết hay lời nói của Đức Thánh Linh. Trước khi Ma-thia được chọn làm sứ đồ thay thế Giu-đa, Phi-e-rơ thông báo, “Hỡi anh em ta, lời Đức Thánh Linh đã nhờ miệng vua Đa-vít nói trong Kinh Thánh về tên Giu-đa, là đứa đã dẫn đường cho chúng bắt Đức Chúa Giê-su, thì phải được ứng nghiệm” (Công vụ 1: 16). Phao lô cũng dùng những lời tương tự, “Đức Thánh Linh đã phán phải lắm, khi Ngài dùng đấng tiên tri Ê-sai mà phán cùng tổ phụ các ngươi” (Công vụ 28: 25). Như vậy, lời Kinh Thánh chính là tiếng của Đức Thánh Linh. Cũng như việc truyền đạt bằng lời nói giữa mỗi người, thì lời của Đức Thánh Linh cũng có ý nghĩa như vậy.

Lời của Chúa Giê-su Christ cũng ngang bằng với lời của Đức Thánh Linh.  Đấng Christ đề cập chính Ngài trong 7 bức thư gửi cho 7 Hội Thánh tại Châu Á (Khải 2- 3).  Mỗi bức thư đều kết luận: “Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng Hội Thánh” (Khải 2: 7, 11, 17, 29; 3: 6, , 13, 22). Đây là những lời được chia sẻ từ hai thân vị trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Ngài yêu thương. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta (Giăng 3: 16) và rằng Đức Chúa Con yêu chúng ta (Ê-phê-sô 5: 25). Chúa Thánh Linh, bình đẳng với Đức Chúa Cha và Chúa Con cũng yêu chúng ta. Phao lô viết, “Vậy, hỡi anh em, nhờ Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, và nhờ sự yêu thương sanh ra bởi Đức Thánh Linh, tôi khuyên anh em phải cùng tôi chiến đấu trong những lời cầu nguyện mà anh em vì tôi trình cùng Đức Chúa Trời” (Rô-ma 15: 30). Mặc dù có nghĩa rằng tình yêu chúng ta dành cho Đức Thánh Linh hay tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, thì vế sau có vẻ nhiều khả năng hơn. Sau tất cả, mục đích của Ngài trong chúng ta là để chúng ta kết quả thuộc linh, gọi là tình yêu. (Ga-la-ti 5: 22- 23). Nếu Ngài muốn chúng ta yêu người khác, thì chắc chắn Ngài cũng yêu họ và yêu chúng ta.

Đức Thánh Linh Có Thể Bị Ngược Đãi Như Một Con Người

Chúng ta có thể làm ô nhiễm bầu không khí chúng ta đang hít thở, nước chúng ta uống và trái đất chúng ta đang canh tác. Chúng ta có thể gây nguy hại cho động vật, cho chim chóc và cá biển. Tuy nhiên, tội lỗi của chúng ta càng lớn hơn khi chúng ta phạm với người khác vì họ được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng 9: 6). Tội lỗi là sự thiếu hụt tiêu chuẩn của ý muốn và đặc tính của Đức Chúa Trời. Sau cùng, tất cả tội lỗi đều chống nghịch Ngài. Tất cả mọi người tin hay không tin đều đã phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Linh.

           Ngài bị người ta phạm thượng. Một lần kia Chúa Giê-su gặp một người mù và người câm mà những vấn đề vật lý của họ do ma quỉ gây ra (Ma-thi-ơ 12:22). Đấng Christ đã đuổi quỉ, và sau đó người mù thấy được và người câm nói được. Rất nhiều người chứng kiến phép lạ này đều thắc mắc liệu Đấng Christ có phải là Con của Đa vít, Đấng Mê-si hay không. Những người Pha-ri-si lo lắng bèn bác bỏ sự dò hỏi của mọi người bằng tời tuyên bố, “Người này không đuổi quỉ nhưng chỉ nhờ Bê-ên-xê-bun là chúa quỉ mà trừ quỉ đó thôi” (Mat. 12:24). Người Pha-ri-si thừa nhận thực tế của việc đuổi quỉ, trừ tà. Những người lãnh đạo khẳng định rằng thực sự người mù và câm là thật, rằng người đó bị ma quỉ cư ngụ và ma quỉ tồn tại là những sinh vật siêu nhiên gian ác, và rằng Satan hay Bê-ên-xê-bun là kẻ cầm đầu của ma quỉ (Mat. 12:24). Tuy nhiên, người Pha-ri-si đã phạm tội khi họ tuyên bố rằng Chúa Giê-su Christ thực thi phép lạ đó bởi tà linh của Satan chứ không phải bởi Đức Thánh Linh.

Đấng Christ đáp lại  với lời cảnh báo này: “Ấy vậy, ta phán cùng các ngươi, các tội lỗi và các lời phạm thượng của các ngươi đều sẽ được tha; song lời phạm thượng đến Đức Thánh Linh sẽ chẳng được tha đâu.” (Mat. 12:31). Như vậy, chỉ có con người mới có thể bị phạm thượng. Vì vậy Đức Thánh Linh phải là một thân vị – một con người.

Sự phạm thượng nghịch lại Đức Thánh Linh là những tội lỗi không tha thứ được của những người lãnh đạo Do Thái giáo. Khi gọi họ là “dòng dõi rắn lục” (Mat.12:34), Đấng Christ xác nhận sự định tội họ, “Nếu ai nói phạm đến con người, thì sẽ được tha; song ai nói phạm đến Đức Thánh Linh, thì dầu trong đời này hay đời sau cũng sẽ chẳng được tha” (Mat. 12:32). “Đời này” ám chỉ thời kỳ khi Đấng Christ còn trên đất, rao giảng, chữa lành và  cung ứng vương quốc Mê-si cho dân Y-sơ-ra-ên. Cụm từ “ đời sau” hay “đời hầu đến” ám chỉ đến thời kỳ của Hội Thánh, thời kỳ xảy ra sau sự chết và phục sinh của Đấng Christ. Cũng chính giới lãnh đạo Do Thái giáo này, bị mù bởi sự cứng lòng thuộc linh, liên tục khước từ sứ điệp của các sứ đồ (Công vụ 4:20- 21; 5:1- 40)

Một số người nói rằng nói phạm đến Đức Thánh Linh là khước từ Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc. Dĩ nhiên, việc này là hiển nhiên bởi vì chỉ những người không tin mới đưa ra lời cáo buộc chống lại Đấng Christ. Tuy nhiên tội phạm đến Đức Thánh Linh này bao gồm hơn thế bởi vì lý do họ khước từ lời tuyên bố của Đấng Christ đã công bố.

Hãy nhớ những điều Chúa Giê-su đã phán: “Nếu ai nói phạm đến Con Người, thì sẽ được tha” (Mat. 12:32). Có thể nói phạm đến Đấng Christ và sau đó được Ngài tha thứ. Chính Phao lô đã xưng nhận, “Vả, ta cảm tạ đấng ban thêm sức cho ta, là Đức Chúa Giê-su Christ, Chúa chúng ta, về sự Ngài đã xét ta là trung thành, lập ta làm kẻ giúp việc; Ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đương lúc ta ngu muội chưa tin” (1 Ti-mô-thê 1: 12- 13). Trong đời sống trước khi được cứu, Phao lô là một kẻ phạm thượng và là một người Pha-ri-si.  Tuy nhiên, ông không nói phạm đến thân vị  của Đức Thánh Linh. Ông không phạm cùng một tội của người Pha-ri-si đương thời cả trong lời nói hay trong bản chất. Ông khước từ Đấng Christ là Đấng Mê-si và bắt bớ Hội Thánh, nhưng rõ ràng rằng ông không bao giờ tin (hay nói rằng) Chúa Giê-su nhờ Satan để làm các phép lạ.

Trong quyển sách Phong Trào Tiếng Mới Hiện Đại (The Modern Tongues Movement), tôi đã tuyên bố rằng ngày nay một số người không nói tiếng mới bằng quyền năng của Đức Thánh Linh. Tôi đã nhận một số thư từ những độc giả phẫn nộ là những người kết tội tôi phạm thượng chống lại Đức Thánh Linh. Không ai muốn nhận những lá thư như vậy, và tôi cũng không ngoại lệ. Tôi đã trả lời thư những người đó và khích lê họ xem xét cẩn thận bối cảnh lịch sử mà người Pha-ri-si đã phạm thượng cùng Đức Thánh Linh.

Phạm thượng chống nghịch Đức Thánh Linh là tội lỗi mang đến những hậu quả đời đời. Nó là sự đối đầu với nhân cách và sự thánh khiết của Ngài. Không có một tín hữu chân chính nào có thể phạm hay đã phạm tội như vậy.

 

 

Ngài có thể bị người ta lừa dối. Trong thời kỳ ban đầu của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, A-na-nia và Sa-phia-ra đã bán một số gia sản mình, bí mật giữ lại một phần tiền, rồi trao số còn lại cho các sứ đồ quản lý (Công vụ 5: 1-2). Cả hai cố ý tạo ấn tượng  rằng họ đã dâng toàn bộ tài sản đó cho Hội Thánh. Luca sau đó đã ghi lại sự kiện này: “Nhưng Phi-e-rơ bèn nói với người rằng; Hỡi A-na-nia sao quỉ Satan đầy dẫy lòng ngươi, đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh, mà bớt lại một phần giá ruộng đó” (Công vụ 5: 3).

Qua việc lừa dối có kế hoạch, cả hai người có thể phạm tội cùng các sứ đồ và thân thể của hội thánh, nhưng hơn hết, họ phạm tội nghịch cùng Đức Thánh Linh. Bởi vì Đức Thánh Linh cư ngụ trong cả hai vợ chồng đó, trong các sứ đồ và trong toàn thể Cơ đốc nhân tại Hôi Thánh Giê-ru-sa-lem. A-na-nia và Sa-phia-ra đã lừa dối cả loài người và con người thần hựu của Đức Thánh Linh.

Nói dối là một tội nghịch lại loài người. Chúng ta không nói dối những đồ vật, cây cối hay loài vật  vô tri vô giác. Chúng ta nói dối con người và con người lừa dối chúng ta. Sự lừa dối này của A-na-nia và Sa-phia-ra đối với Đức Thánh Linh minh chứng nhân tính của Ngài.

Bởi tội lỗi ấy, A-na-nia bị chết ngay tức thì (Công vụ 5: 5). Sau đó, Phi-e-rơ đối mặt với người vợ là Sa-phia-ra: “Sao các ngươi dám đồng mưu để thử Thánh Linh của Chúa?” (Công vụ 5: 9). Sau đó bà cũng chết tức thì.

Vì việc lừa dối Đức Thánh Linh là một sự lăng nhục nghiêm trọng, sự sợ hãi đến trên toàn thể Hội Thánh. Vì vậy chúng ta không nên xem nhẹ Ngài.

Ngài có thể bị chống đối. Ê-tiên là một trong 7 chấp sự và đầy tớ là những người phụ giúp các sứ đồ trong Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Ông là người “đầy dẫy Đức Thánh Linh và sự khôn ngoan” (Công vụ 6: 3). Ông cũng có một chức vụ tích cực vì ông là người “đầy đức tin và quyền, làm dấu kỳ phép lạ lớn trong dân” (Công vụ 6: 8). Những người lãnh đạo tôn giáo cãi lẫy với ông, nhưng “họ không chống lại nổi với trí khôn người và Đức Thánh Linh, là đấng nhờ người mà nói” (Công vụ 6: 10).

Trong một cuộc biện chứng công khai trước những sự chỉ trích, Ê-tiên nhắc lại chương trình của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên, quá khứ lịch sử, sự khước từ dân ấy đối với sứ điệp cứu chuộc của Đấng Mê-sia. Ông đã kết luận rằng, “Những người cứng cổ, lòng và tai chẳng chịu cắt bì kia! Các ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài; tổ phụ các ngươi thể nào thì các ngươi cũng thể ấy” (Công vụ 7: 51). Người dân Do Thái chống cự Đức Thánh Linh trong đó họ chống lại các tiên tri được đầy dẫy Thánh Linh, là những người công bố Lời Đức Chúa Trời được Đức Thánh Linh hà hơi. Khước từ cá nhân các tiên tri là khước từ Đức Thánh Linh. Sự chống đối như vậy là cố tình, có lỗi và phạm tội.

Ngài có thể bị làm buồn lòng. Phao lô đưa ra sự ngăn cấm “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc” (Êph 4: 30). Phần trước chúng ta đã chú ý rằng đoạn Kinh thánh này ủng hộ khía cạnh cảm xúc của nhân cách Đức Thánh Linh. Bởi vì chỉ con người mới có thể bị làm cho buồn lòng, thì Đức Thánh Linh là một con người.

 

Trong bối cảnh này, tín hữu có thể làm buồn lòng Thánh Linh bằng cách sống giống như những người Dân Ngoại (Êph 4: 17- 19), bằng cách duy trì khuynh hướng tội lỗi (4: 22-24), bằng cánh nói dối (4: 25), nóng giận (4: 26- 27), bằng cách trộm cắp (4: 28), bằng cách nói lời dữ (4: 29), bằng sự cay đắng (4: 31), bằng tinh thần không tha thứ (4: 32), và bằng đời sống tình dục đồi bại (5: 3- 5)

Ngài có thể bị dập tắt. Phao lô ra lệnh, “Chớ dập tắt Đức Thánh Linh” (1. Tê-sa-lô-ni-ca 5: 19). Khái niệm dập tắt dựa trên ẩn dụ về lửa, được sử dụng 8 lần trong Tân Ước. Những người nữ đồng trinh khờ dại than thở rằng đèn của họ gần tắt (Math 25: 8). Trong bản tính dịu dàng của Ngài, Đấng Christ chẳng tắt ngọn đèn gần tàn, có nghĩa rằng Ngài không dập tắt dù chỉ là một lượng đức tin và sự kết ước nhỏ nhoi nhất (Math 12: 20). Đấng Christ mô tả địa ngục là nơi lửa chẳng hề tắt ( Mác 9: 44, 46, 48). Tín hữu có thể sử dụng thuẫn đức tin “để dập tắt cá tên lửa của kẻ dữ” (Ephe. 6: 16). Những anh hùng đức tin như Sa-đơ-rắc, Mê-sác,A-bết-Nê-gô đã có thể tắt ngọn lửa hừng khi họ sống sót bước ra từ ngọn lửa hừng ( Đa-ni-ên 3: 23-28, Hê-bơ-rơ 11: 34).

Giống như ngọn lửa trong mỗi cơ đốc nhân, Đức Thánh Linh muốn bày tỏ chính qua hành động và thái độ của chúng ta. Khi chúng ta, những cơ đốc nhân ngăn cản Đức Thánh Linh làm những điều Ngài muốn làm trong đời sống chúng ta thì chúng ta dập tắt Ngài.

Ngài có thể bị xúc phạm. Con người có thể xúc phạm và trách móc người khác bằng lời nói. Động từ hybrizo (‘xúc phạm’) nhấn mạnh sự đối xử đáng xấu hổ đối với người khác (Math 22: 6, Luca 11: 45, 18: 32; Công vụ 14: 5; 1. Tê-sa-lô-ni-ca 2: 2). Cả Phao lô và Đấng Christ đều bị đối xử như vậy (Luca 18: 32, 1. Tê-sa-lô-ni-ca 2: 2). Những người chưa tin thường cay nghiệt khi xúc phạm người khác (Rô-ma 1: 30). Phao lô thừa nhận trong đời sống mình khi chưa được cứu rằng ông là một người xấc xược, làm tổn thương người khác bằng những lời nói xúc phạm của mình (1. Tim 1: 13)

Sách Hê-bơ-rơ chứa đựng một lời cảnh báo nghiêm trọng: “Huống chi kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời, coi huyết của giao ước, tức là huyết mà mình nhờ nên thánh, là ô uế, lại khinh lờn Đức Thánh Linh ban ơn, thì anh em há chẳng tưởng rằng người ấy đáng bị hình rất nghiêm đoán phạt hay sao?” (Hê-b 10: 29). Nhiều nhà giải kinh tranh cãi về ý nghĩa của câu Kinh Thánh này. Người phạm tội nghiêm trọng này là người tin hay người chưa tin? Cá nhân tôi nghĩ người này là tín hữu. Động từ enybrizo này chỉ tìm thấy trong phần Kinh Thánh này của Tân Ước, dựa trên động từ hybrizo (“xúc phạm”)  và tiếp đầu ngữ en  (“in”) (“trong”). Tiếp đầu ngữ đó dường như ám chỉ rằng người tín hữu đã xúc phạm Đức Thánh Linh, đấng ngự trong người đó. Khái niệm đó càng làm cho tội ấy trở nên nghiêm trọng hơn người không tin phạm phải. Cho dù thế nào, lời  nói xúc phạm đến Đức Thánh Linh giàu lòng thương xót cho thấy rằng  Ngài thực sự là một người, không phải một năng lực hay đồ vật.

Đức Thánh Linh Liên Hệ Với Người Khác

Chúng tôi có một chú chó tên và đặt tên họ cho nó là Frisky. Thực ra tên đăng ký AKC của nó là Baron von Friska, nhưng chúng tôi đối xử với nó giống như một chú chó lai hơn là một chú chó xù thuần chủng. Nó đã sống với chúng tôi hơn 15 năm. Chúng tôi tặng nó cho các con mình là Gary và Gail làm thú cưng, nhưng chẳng bao lâu sau thì nó trở thành con chó của chúng tôi. Tôi thường cho nó ăn, tắm cho nó và đưa nó đi dạo. Tôi và Frisky trở thành bạn với nhau. Tuy nhiên, Frisky lại chú ý đặc biệt với Mishy, một con chó xù sống bên kia đường hơn tôi. Frisky thích đùa giỡn với Mishy hơn là bi bên cạnh tôi.

Chó liên hệ với chó. Mèo liên hệ với mèo. Chim thì liên hệ với chim. Cũng vậy, một cách rất tự nhiên con người liên hệ với con người. Sự gần gũi của tôi với Frisky không thể so sánh với mối quan hệ của tôi với gia đình và bạn bè của tôi.

Cũng tương tự như vậy, nhân cách của Đức Thánh Linh có thể nhìn thấy thông qua mối quan hệ với người khác.

Mối quan hệ với Đức Chúa Cha và với Đức Chúa Con. Trong một số đoạn Kinh Thánh, Đức Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh được đề cập cùng nhau. Cả ba được xem như ba thân vị riêng biệt, liên hệ với nhau trong các công tác thiêng liêng.

Sau khi Ngài phục sinh,  nhưng ngay trước khi Ngài thăng thiên, Chúa Giê-su Christ uỷ thác cho các sứ đồ; “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. 19 Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Math 28: 18-20). Uy quyền làm phép báp tem rất quan trọng.  Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh cùng tham gia cùng một danh (số ít, không phải số nhiều). Cơ đốc nhân chính thức cần được báp tem trong danh của Chúa Ba Ngôi. Chúa là một thể và vì vậy Ngài có một danh. Cũng một thể ấy, có ba ngôi, ba thân vị riêng biệt trong cùng một thể thiêng liêng. Nếu Đức Cha và Chúa Con là  những thân vị (con người), thì Đức Thánh Linh cũng là một thân vị (con người). Nếu Đức Thánh Linh chỉ là một năng lực phi nhân cách, thì ý nghĩa của hình thức lễ báp tem sẽ thật nực cười.

Nói về sự bảo đảm của sự cứu rỗi chúng ta, Phao lô dạy rằng, “Vả, Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em trong Đấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời; 22 Ngài cũng lấy ấn mình mà đóng cho chúng tôi và ban của tin Đức Thánh Linh trong lòng chúng tôi” (2. Cô. 1: 21-22). Việc đề cập Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh bày tỏ sự riêng biệt và chức năng của các thân vị trong địa vị  của sự xưng công bình thuộc linh của chúng ta.

Có lẽ một trong những lời chúc phước quen thuộc nhất trong Kinh Thánh được trích dẫn trong các buổi thờ phượng của Hội Thánh chúng ta được Phao lô đưa ra trong 2 Cô 13: 13 “ Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy!”. Để lời chúc phước này trở nên ý nghĩa một cách thần học, Đức Thánh Linh phải là một người, ngang bằng với Đức Chúa Trời (Đức Cha) và với Chúa Giê-su Christ. Cả ba thực thể thuộc linh là ân điển, tình yêu thương và sự giao thông đều bắt nguồn từ ba thân vị thiêng liêng.

Tại sự kiện qui đạo, tội nhân tin nhận trở thành con cái Đức Chúa Trời, con trai Đức Chúa Trời. Phao lô giải thích; “Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha!” (Ga-la-ti 4: 6). Việc đề cập Chúa Cha và Chúa Giê- su và Đức Thánh Linh trong câu này một lần nữa bày tỏ ba thân vị riêng biệt.

Phi-e-rơ nói đến  sự cứu chuộc vĩnh cửu trong những câu này, “Những người được chọn, 2 theo sự biết trước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha, và được nên thánh bởi Đức Thánh Linh, đặng vâng phục Đức Chúa Jêsus Christ và có phần trong sự rải huyết Ngài: nguyền xin ân điển(a) và bình an thêm lên cho anh em!” (1 Phi-e-rơ 1: 2). Đức Chúa Cha lựa chọn chúng ta, Đức Thánh Linh thánh hoá chúng ta và Đấng Christ giải cứu chúng ta. Ba hành động này được thực hiện bởi ba thân vị thiêng liêng. Như vậy, Đức Thánh Linh phải được xem như một thân vị cũng giống như Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là thân vị.

Giu-đe nhận diện ba thân vị trong Chúa Ba Ngôi trong lời khuyên này, “Hỡi kẻ rất yêu dấu, về phần anh em, hãy tự lập lấy trên nền đức tin rất thánh của mình, và nhân Đức Thánh Linh mà cầu nguyện,  hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời.” (Giu-đe 20- 21)

Với Chúa Giê-su Christ. Trong phần đàm luận tại Phòng Cao (Giăng 13- 17), Đức Thánh Linh phân biệt chính Ngài với Chúa Giê-su (14: 16-17, 26; 15: 26; 16: 7-11, 13- 15). Đấng Christ công bố rằng Đức Thánh Linh sẽ giúp tín hữu, ngự trong họ và hỗ trợ họ làm chứng và hướng dẫn họ. Đấng Cứu Chuộc cũng chỉ ra rằng Đức Thánh Linh sẽ khiến thế gian tự cáo và Ngài sẽ làm vinh hiển Đấng Christ.

Đấng Christ nhìn xem Đức Thánh Linh như một người, mà người đó có thể phục vụ trong vị trí của Đấng Christ, làm những gì Đấng Christ đã làm trước đây. Chúa Giê-su không tạo ấn tượng rằng Đức Thánh Linh không chỉ đơn giản là một năng lực hay sức mạnh thiêng liêng, một thực thể vô nhân tính.

Với các sứ đồ, trưởng lão, và thành viên Hội Thánh. Tại hội nghị Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão và sứ đồ của Hội Thánh trước sự hiện diện của toàn hội chúng đã thảo luận về mối liên hệ giữa việc chịu cắt bì thuộc thể và sự xưng công bình thuộc linh. Họ kết luận rằng cả người Giu đa và người Gờ- réc đều được cứu chỉ bởi ân điển qua đức tin trong Đức Chúa Giê-su mà thôi. Họ đã xác nhận rằng nghi thức cắt bì là không cần thiết và không nên áp đặt lên những tín hữu Gờ-réc.

Hội ghị sau đó đã đưa ra một bức thư có thẩm quyền tới các tín hữu Do Thái. Các tác giả kết luận, “Ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều cần dùng” (Công vụ 15: 28). Chính họ (“chúng ta”) và Đức Thánh Linh đều là con người.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG BÀI HỌC ÁP DỤNG CHO CHÚNG TA

Trước tiên, chúng ta không cần phải sợ Đức Thánh Linh, Ngài là Đấng ấm áp, yêu thương và thiêng liêng. Ngài không phải là một điều thanh tao, tối tăm và bí ẩn. Chúng ta cần nhìn biết Ngài vì Ngài là ai, chứ không phải những gì Ngài làm trong đời sống chúng ta. Chúng ta làm điều đó như thế nào? Một trong những cách hữu hiệu ấy là đọc Kinh Thánh mỗi ngày với giấy và bút. Bất cứ khi nào bạn đọc một phân đoạn Kinh Thánh đề cập đến Đức Thánh Linh, hãy liệt kê ra. Sau đó hãy nghĩ đến những phẩm cách của Thánh Linh mà bạn có thể rút ra từ phân đoạn đó. Hãy viết chúng xuống. Sau đó, khi bạn cầu nguyện, hãy cảm tạ Chúa về những đặc tính này của Đức Thánh Linh.

Thứ hai, chúng ta phải thờ phượng Chúa mỗi ngày trong linh và trong lẽ thật. Hãy yêu Ngài bằng cả tấm lòng, tâm hồn, sức mạnh và tâm trí của bạn. Hãy yêu Chúa là Đấng Ba Ngôi. Tập trú vào cả ba thân vị, chứ không chỉ tập trú vào Đức Chúa Cha hay Đức Chúa Con.

Thứ ba, chúng ta phải gắn kết với Đức Thánh Linh. Nhận biết Ngài sống trong chúng ta. Chúng ta phải nhớ rằng những hành động và thái độ tội lỗi của chúng ta sẽ làm buồn thân vị thiêng liêng của Ngài.

 

 

PHẦN X: THỜI KỲ CUỐI CÙNG

 

 

  1. Kế Hoạch Thần Thượng Cho Số mệnh Con Người

 

CHƯA CÓ THẾ KỶ NÀO trong lịch sử thế giới phát triển nhanh chóng như thế kỷ hai mươi. Mỗi năm có nhiều tiến bộ khoa học hơn so với trước đây đã diễn ra trong cả thế kỷ. Điều tự nhiên là những câu hỏi cổ xưa giờ đây lại được lặp lại với cường độ cao hơn bao giờ hết. Có Đức Chúa Trời không? Ngài có kế hoạch cho tương lai không? Có ý nghĩa cho đời sống không? Chúng ta nên công nhận những giá trị nào của con người là quan trọng trong đời sống?

Hai cuộc chiến tranh thế giới đã xé nát thế kỷ của chúng ta và mang đến những bước phát triển mới đầy ấn tượng. Những thay đổi nhanh chóng trong việc truyền tải kiến thức bằng phương tiện điện tử có tầm ảnh hưởng lớn trên cuộc sống—với sự xuất hiện của điện thoại, ra-đi-ô, ti-vi và máy tính đã chiếm vị trí trung tâm. Giao thông vận tải đã nhanh chóng biến đổi thế giới chúng ta và thay đổi hoàn toàn tính chất của chiến tranh. Sự phát triển của vũ khí hạt nhân hiện đang giam giữ toàn bộ thế giới làm con tin, với viễn cảnh hàng triệu người sẽ bị giết nếu những vũ khí đó được tung ra. Những thay đổi mạnh mẽ này của thế giới đã đặt ra những câu hỏi mới về vận mệnh các sự kiện của nhân loại.

Nhiều câu hỏi về cuộc sống hiện đại xuất hiện với chúng ta khi Iraq, dưới thời Saddam Hussein, xâm lược Kuwait vào tháng tám năm 1990. Nhiều người hỏi liệu cuộc xâm lược này có gây ra ngày tận thế hay không.

Ít người chú ý nhiều đến Kinh Thánh; họ sống như thể Đức Chúa Trời không hiện hữu và như thể không có trách nhiệm giải trình trong tương lai về đời sống họ. Tuy nhiên, bất cứ khi nào có khủng hoảng thế giới, thì họ đều tìm đến Kinh Thánh để xem Kinh Thánh có nói gì về các sự kiện hiện tại hay không.

Trong thần học Cơ Đốc giáo, tiêu chuẩn của bài tín điều khẳng định rằng Chúa Giê-su Christ sẽ tái lâm để phán xét thế giới, cho dù những bài tín điều đó là của Công giáo La Mã, Chính Thống giáo Hy Lạp hay Tin Lành. Mọi tín điều Cơ Đốc đều cho rằng đây là một sự thật theo nghĩa đen. Báo chí thế tục, mặc dù đặt câu hỏi liệu điều này có đúng không, tuy nhiên trong Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh, các tờ báo dẫn đầu đã đăng các bài viết liên quan đến nó, và đặt câu hỏi liệu nó có phải là dấu hiệu của sự kết thúc thời đại, sự tiến đến gần của trận chiến Ha-ma-ghê-đôn, và sự tái lâm của Đấng Christ hay không.

Từ Ha-ma-ghê-đôn dùng để chỉ một địa điểm ở miền bắc Y-sơ-ra-ên, trong tiếng Anh có nghĩa là “Núi Mê-ghi-đô.” Nó được hình dung theo lời tiên tri là nơi đặc biệt tập trung của một đội quân lớn vào thời kỳ cuối cùng chống lại Đấng Christ ngay trước khi Ngài tái lâm. Điều này khiến nhiều người tự hỏi liệu Cuộc Chiến Vùng Vịnh có phải là sự khởi đầu của trận chiến Ha-ma-ghê-đôn hay không.

Hầu hết các nhà nghiên cứu thông thái sớm nhận ra cuộc chiến này không chính xác như những gì Kinh Thánh báo trước, bởi vì trận chiến Ha-ma-ghê-đôn sẽ xảy ra ở Y-sơ-ra-ên và Cuộc Chiến Vùng Vịnh lại liên quan đến quốc gia Kuwait. Tuy nhiên, trên toàn thế giới có cảm giác như một cao trào đang xảy đến, nhưng điều này sớm tan biến khi Cuộc Chiến Vùng Vịnh kết thúc.

Tuy nhiên, các sự kiện sau Cuộc Chiến Vùng Vịnh đã khiến thế giới rơi vào tình trạng bất ổn, với việc Syria có được vũ khí đủ khả năng để tiêu diệt hoàn toàn Y-sơ-ra-ên. Iran và Iraq cũng có vũ khí hủy diệt. Chỉ cần xảy ra một cuộc tấn công là có thể đẩy thế giới vào sự hỗn loạn và xung đột nghiêm trọng. Tuy nhiên Y-sơ-ra-ên ở vị thế đối đầu cũng được trang bị vũ khí hạt nhân loại tốt và có thể đáp trả tương đương.

Hoa Kỳ đã hỗ trợ Y-sơ-ra-ên bằng tiền bạc và vũ khí, do đó giúp cho Y-sơ-ra-ên đạt được sự sẵn sàng cho một chiến dịch quân sự ở mức độ cao. Các nước Trung Đông biết rõ ràng nếu Y-sơ-ra-ên bị tấn công, thì Hoa Kỳ có thể sẽ đến giúp Y-sơ-ra-ên, và hầu hết họ không muốn mạo hiểm đối đầu với một siêu cường lớn. Họ cũng nhận ra rằng một cuộc chiến như vậy sẽ đưa toàn bộ thế giới văn minh đến bờ vực của sự hủy diệt cuối cùng. Những yếu tố này đóng vai trò là những yếu tố răn đe quan trọng, cho dù kho vũ khí ở Trung Đông đủ sức tiêu diệt Y-sơ-ra-ên. Nhưng điều này vẫn làm nổi lên tình trạng căng thẳng của thế giới ngày nay, với nhiều quốc gia có vũ khí hạt nhân với sức mạnh hủy diệt hàng loạt. Vì vậy không dễ dàng gì để dự báo tương lai cho thế giới hiện tại của chúng ta.

Mặc dù một số người đã cố gắng xác định niên đại các sự kiện trong tương lai, nhưng hầu hết những người thông hiểu đều cảm thấy rằng các sự kiện tiên tri, mặc dù có thể sắp xảy ra, nhưng không thể xác định được ngày chính xác. Tuy nhiên, các sự kiện sắp xảy ra sẽ tạo ra căng thẳng và không chắc chắn về những gì sẽ xảy ra ngay cả trong tương lai gần.

Mặc dù nhiều người dạy về tiên tri đưa ra những dự báo thảm khốc về sự hủy diệt của thế giới, nhưng thực tế là lời tiên tri trong Kinh Thánh không nói rằng thế giới sẽ bị vũ khí hạt nhân hủy diệt hoàn toàn. Sự tàn phá được mô tả trong sách Khải Huyền phần lớn là do siêu nhiên, thông qua động đất, sự hủy hoại của các tầng khí quyển, nạn đói, dịch bệnh, v.v. Rõ ràng Đức Chúa Trời sẽ kiểm soát điều ác trên thế giới cách thích hợp để thế giới không tự hủy diệt trước khi đỉnh điểm của các lời tiên tri được hoạch định trở nên ứng nghiệm.

Mối quan tâm trên toàn thế giới này một lần nữa làm dấy lên câu hỏi thường được đặt ra, Đức Chúa Trời là ai? Và Ngài có kiểm soát thế giới được không? Xét cho cùng, Kinh Thánh là cuốn sách duy nhất thuật lại chi tiết về các sự kiện trong tương lai. Sự mặc khải tiên tri trong Kinh Thánh đã chứng minh khả năng của Đức Chúa Trời trong việc tiên báo hàng trăm sự kiện mà sau này đã được ứng nghiệm theo nghĩa đen. Tất cả điều này dẫn đến kết luận rằng những lời tiên tri khác về các sự kiện trong tương lai sẽ có sự ứng nghiệm theo nghĩa đen tương tự khi chúng diễn ra.

ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA KINH THÁNH

Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời là đời đời và vô hạn là những thuộc tính trong tất cả các thuộc tính của Ngài. Là Đức Chúa Trời toàn năng thông sáng, Ngài đã tạo ra vũ trụ bao gồm tất cả sự phức tạp của nó. Khi tạo ra thế giới, Ngài đã đặt ra tiền đề cho các hoạt động của con người. Nhưng làm sao Đức Chúa Trời có thể báo trước được điều gì sẽ xảy ra khi sự lựa chọn được phó mặc cho các tạo vật của Ngài? Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời hiểu biết mọi thứ. Sự hiểu biết của Ngài về tất cả các sự kiện là không thể dò thấu được (Êsai. 40:28). Đấng Christ sở hữu “mọi kho báu của sự khôn ngoan và tri thức” (Côl. 2:3). Với hiểu biết về tất cả mọi thứ đối với thực tế hoặc có khả năng thực hiện, Đức Chúa Trời khi tạo ra thế giới biết hết tất cả những gì sẽ xảy ra từ khi Ngài sáng tạo.

Kinh Thánh cũng bày tỏ rằng Đức Chúa Trời có một kế hoạch trong đó Ngài đã xác định tương lai những gì sẽ diễn ra. Với sự hiểu biết về tất cả những gì có thể xảy ra cũng như tất cả sự kiện có thực trong tương lai, Đức Chúa Trời biết trước bất kỳ kế hoạch nào, bất kể chúng chi tiết đến mức nào, và Ngài có thể tiên báo với độ chính xác tuyệt đối không chỉ những gì chính Ngài sẽ làm mà còn những gì sẽ xảy ra theo luật tự nhiên và những lựa chọn của con người. Nhưng làm sao Đức Chúa Trời có thể biết trước được tương lai nếu không kiểm soát nó? Ngài có thể báo trước những lựa chọn mà con người sẽ thực hiện bởi vì Ngài có sự hiểu biết trọn vẹn về những gì mỗi cá nhân sẽ nhận biết và trải nghiệm.

Ví dụ quan trọng nhất về điều này là sự chết của Đấng Christ mà toàn bộ kế hoạch cứu chuộc rất ăn khớp với nhau. Đức Chúa Trời không cần phải đứng bên ngoài và lo lắng liệu Phi-lát có ra lệnh xử tử Đấng Christ hay quân lính có thực hiện mệnh lệnh đóng đinh Ngài hay không. Với sự toàn tri của Ngài Đức Chúa Trời chắc chắn tuyệt đối rằng sự việc này sẽ phải xảy ra. Đồng thời Đức Chúa Trời không chịu trách nhiệm về những hành vi trái đạo đức của con người, bởi vì họ tự do lựa chọn mà không bị cảm giác ép buộc từ đấng cao hơn. Theo đó, mỗi từng lời trong số hàng trăm lời tiên tri đã được ứng nghiệm chính xác như lời Kinh Thánh tiên báo đều minh họa cho thực tế là Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy tất cả các sự kiện trong tương lai chắc chắn được định đoạt bởi loài người.

Nhưng làm thế nào chúng ta có thể giải thích những tình huống và hành vi bi thảm trong cuộc sống? Vì Đức Chúa Trời là trọn vẹn, nên Ngài sẽ không chấp nhận bất kỳ kế hoạch nào nếu có một kế hoạch tốt hơn. Về mặt con người mà nói, Đức Chúa Trời có thể đã xác định bất kỳ một kế hoạch nào trong số các kế hoạch tốt như nhau. Trong kế hoạch này, thì ông Black được cứu, và trong kế hoạch khác, thì ông Brown được cứu. Vì sự trọn vẹn của Ngài, Đức Chúa Trời luôn phù hợp với bản tính của Ngài là chọn kế hoạch tốt nhất—không thể có kế hoạch nào tốt hơn. Mặc dù trong giới hạn của con người không thể hiểu biết được những bi kịch và sự kiện trong lịch sử là điều có vẻ trái ngược với những gì Đức Chúa Trời mong muốn, nhưng chúng ta chỉ có thể kết luận rằng nếu chúng ta có bức tranh đầy đủ về sự hiểu biết mọi thứ, thì chúng ta sẽ chọn cách thực hiện chính xác những gì Chúa đã hoạch định.

Điều phối viên trưởng của một trạm xe lửa có thể công bố thời gian biểu. Anh ta có thể xác định lịch trình cho thời gian vận chuyển hàng hóa; anh ta cũng có thể xác định lịch trình cho các chuyến tàu chở khách. Lịch trình được công bố và các chuyến tàu chạy như đã định. Nếu người điều phối là người biết mọi sự, có thể biết trước có bao nhiêu hành khách đi mỗi chuyến tàu. Vậy liệu anh ta có biết các chuyến tàu có chạy theo lịch trình hay không. Tuy nhiên, Anh ta sẽ không ép buộc bất cứ ai lên tàu. Sẽ có sự chắc chắn mà không có sự ép buộc. Theo cách tương tự, sự lựa chọn của con người theo quan điểm của Đức Chúa Trời có thể được xác định mà không bắt buộc ai phải làm bất cứ điều gì.

Đây là lập luận của Rô-ma 8:28–39. Câu 28 thường được trích dẫn, “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Ðức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” Sau đó, Phao-lô nói thêm, “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển” (8:29-30). Sự biết trước của Ngài, cũng như các tín lý về sự lựa chọn và tiền định, đều là một phần trong kế hoạch của Đức Chúa Trời, trong đó bao gồm tất cả các khía cạnh quyết định của con người. Rô-ma 8 kết thúc một cách đắc thắng với tuyên bố rằng không gì có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời. “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Ðức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta” (8:38-39).

THẨM QUYỀN VÀ SỰ CHÍNH XÁC CỦA SỰ MẶC KHẢI KINH THÁNH

Tuy nhiên, khái niệm về lời tiên tri được ứng nghiệm phụ thuộc vào việc chấp nhận Kinh Thánh như một cuốn sách được soi dẫn siêu nhiên, trong đó Đức Chúa Trời bày tỏ một cách trọn vẹn những gì Ngài muốn loài người hiểu biết. Là sản phẩm của Đức Chúa Trời, nên Kinh Thánh không có sai sót và tuyên bố về lẽ thật có ý nghĩa tuyệt đối và đời đời. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng là một cuốn sách cho con người được viết bởi con người nên dĩ nhiên là có hạn chế về kiến thức và sự hiểu biết. Đôi khi ngay cả những người viết, được Đức Chúa Trời hướng dẫn, thì chính họ cũng không hiểu những gì mình đã viết. Nói chung, Kinh Thánh không phải là việc đọc cho viết. Nhưng Đức Chúa Trời đã hướng dẫn các trước giả con người để những gì họ viết ra là hoàn toàn đúng sự thật và thể hiện những gì Ngài muốn truyền đạt. Khi viết Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đã kết hợp ý muốn thiên thượng và sự biết trước.

TẠI SAO HIỆN TẠI NGƯỜI TA KHÔNG TIN VÀO LỜI TIÊN TRI?

Kinh Thánh khẳng định rõ ràng con người phải chịu trách nhiệm, đó là sự sống đời sau, và Đức Chúa Trời sẽ phán xét mỗi người. Điều này được tuyên bố rõ ràng trong Hê-bơ-rơ 9:27, “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.” Điều tự nhiên là con người muốn tránh né bị liên quan đến sau này sẽ phải đối diện với Đức Chúa Trời bằng cách này hay cách khác, cũng như cố gắng né tránh những lời tiên tri của Đức Chúa Trời về tương lai. Ngay cả trong nhà thờ, những người giải nghĩa Kinh Thánh cũng có xu hướng bỏ qua tính rõ ràng của những lời tiên tri này; họ thường xuyên đặt câu hỏi về những lời tiên tri quan trọng trong Kinh Thánh liên quan đến Y-sơ-ra-ên, hội thánh và thế gian, và có xu hướng bỏ qua những lời cảnh báo về sự tái lâm của Đấng Christ. Họ đã làm điều này bởi vì họ bỏ qua nhiều sự kiện chứng minh rõ ràng rằng Kinh Thánh là một cuốn sách siêu nhiên chứa đựng những điều mặc khải từ Đức Chúa Trời. Việc có quá nhiều lời tiên tri đã được ứng nghiệm nên dẫn đến sự kết luận rằng không có lời giải thích nào cho sự chính xác của chúng ngoài việc những lời tiên tri đó là do chính Đức Chúa Trời ban cho một cách thiên thượng.

Tất cả những điều này tạo thành nền tảng cho việc giải nghĩa Kinh Thánh một cách chính xác và hiểu biết những sự kiện chính tập trung vào bối cảnh các sự kiện thế giới trong tương lai. Không thể nhấn mạnh quá rằng Kinh Thánh hoàn toàn chính xác trong các tiên báo và Đức Chúa Trời có ý định cho chúng ta hiểu các sự kiện chính của lời tiên tri, mặc dù một số điều vẫn còn mù mờ. Lý thuyết phổ biến cho rằng không thể không coi trọng lời tiên tri được Kinh Thánh hoặc bằng chứng của hàng trăm lời tiên tri đã ứng nghiệm.

 

 

 

2

Hiểu Biết Lời Tiên Tri

BẤT KỲ SINH VIÊN NÀO CỦA MÔN HỌC LỜI TIÊN TRI cũng sớm nhận thức được sự nhầm lẫn phổ biến tồn tại trong việc hiểu biết các lời tiên tri trong Kinh Thánh. Điều này đã gây trở ngại lớn cho một số người và khiến nhiều người quay lưng lại với việc nghiên cứu lời tiên tri. Tuy nhiên, như đã nói, điều đáng chú ý là khoảng một phần tư Kinh Thánh là lời tiên tri khi được viết ra, và khoảng một nửa trong số hàng trăm lời tiên tri này đã  ứng nghiệm theo nghĩa đen. Rõ ràng là Đức Chúa Trời có ý định cung cấp thông tin về các kế hoạch của Ngài cho thế giới và cho Cơ đốc nhân chúng ta.

 

 

NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY LỜI TIÊN TRI

Mặc dù, trong nhiều hội thánh ngày nay, người ta ít cố gắng nghiên cứu để hiểu biết Lời tiên tri, và hầu hết những người thường xuyên đến nhà thờ đều không hiểu những gì Kinh Thánh dạy về tương lai. Một phần của vấn đề là nhiều người lãnh đạo hội thánh cảm thấy họ không đủ khả năng để giảng về chủ đề này. Một số sinh viên tốt nghiệp đại học và chủng viện không nhận được  kiến thức về môn học tiên tri, và do đó, để cố gắng giảng dạy về điều này thì sẽ cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ. Những người khác có vẻ e ngại giảng về đề tài tiên tri vì một số giáo viên khác đã từng lạm dụng chủ đề này, cố gắng đưa ra những thông tin làm náo động dư luận và những lời giải thích không chính xác về lời tiên tri. Những người khác thì cảm thấy lời tiên tri, với vô số chi tiết  rất khó hiểu. Một số người giảng dạy tránh những bài giảng tiên tri vì họ cảm thấy rằng làm như vậy sẽ bị gán cho là những người theo trào lưu chính thống. Nhiều mục sư đang phải vật lộn với những vấn đề đương thời trong hội thánh, cả về đạo đức lẫn quan hệ, và chủ đề của lời tiên tri dường như không phải là lĩnh vực đáng quan tâm cấp thiết. Một số người cũng coi lời tiên tri là điều gây tranh cãi vì có quá nhiều quan điểm khác nhau, và họ muốn giảng hoặc dạy các môn học có nhiều sự đồng tình hơn. Dù lý do là gì, thì nhiều hội thánh ngày nay không coi lời tiên tri như một lĩnh vực nghiên cứu chính và kết quả là những người trong các hội thánh địa phương thường không được dạy ngay cả những điều cơ bản của lẽ thật về lời tiên tri.

 

Điều Cần Thiết là Rõ Ràng và Đơn Giản

Những người cố gắng trình bày lẽ thật lời tiên tri cho người khác nên nhớ rằng họ đang nói chuyện với nhiều người có rất ít kiến thức về chủ đề này. Thông thường, những người dạy tiên tri có xu hướng giải quyết những gì mới mẻ hoặc bất thường hơn là phát hiện ra những khía cạnh quan trọng nhất của sự trông cậy thánh trong chúng ta.

Khi còn là thiếu niên, tôi được nghe một số giáo viên dạy môn đại tiên tri, tôi hoàn toàn hoang mang với những gì tôi được nghe. Các giáo viên thường chỉ đề cập đến một số lĩnh vực tiên tri nào đó có tầm quan trọng đối với học viên tiên tri chuyên sâu nhưng đối với những cá nhân mới bắt đầu nghiên cứu thì không thể hiểu được. Thông thường, họ không cố gắng rút ra kết luận thực tế từ những gì đã dạy hoặc chỉ ra nó tác động như thế nào đến những người đang nghe.

Khi rao giảng lẽ thật về lời tiên tri, điều quan trọng là phải xem xét quan điểm của người nghe; mọi nỗ lực phải được thực hiện để làm rõ các điều khoản và sự kiện để chúng có thể được hiểu một cách dễ dàng. Nếu có thể, những bài thuyết trình như vậy cũng phải bao gồm thông tin mà những sinh viên nghiên cứu Kinh Thánh nâng cao có thể quan tâm, nhiều người trong số họ không có sự liên hệ đúng đối với tất cả các sự kiện và cần có cái nhìn tổng thể về những gì Kinh Thánh trình bày.

Tầm Quan Trọng của Việc Giải Nghĩa Theo Nghĩa Đen

Có lẽ vấn đề quan trọng nhất trong việc hiểu biết lời tiên tri là câu hỏi liệu có nên hiểu theo nghĩa đen hay không. Một giả thiết phổ biến là trong khi Kinh Thánh thông thường có thể được giải thích theo nghĩa đen, với các thuật ngữ thì vẫn giữ nguyên ý nghĩa tự nhiên của chúng, các phần tiên tri của Kinh Thánh nên được coi là một trường hợp đặc biệt, với nghĩa đen hay nghĩa tự nhiên không còn được áp dụng nữa.

Trong hai thế kỷ đầu, hội thánh đầu tiên có xu hướng giải thích lời tiên tri theo nghĩa đen. Vì vậy, họ mong đợi Đấng Christ trở lại thế gian để thiết lập vương quốc của Ngài và trị vì trong một ngàn năm, sau đó trời mới và đất mới sẽ được thiết lập.

Một trường phái thần học nổi lên ở Alexandria, Ai Cập, vào khoảng năm 190 đã cố gắng kết hợp việc giải nghĩa Kinh Thánh với chủ nghĩa duy tâm của nhà triết học Hy Lạp Plato. Điều này dẫn đến việc những nhà lãnh đạo giáo hội coi Kinh Thánh như một câu chuyện ngụ ngôn mở rộng chứ không phải hiểu theo nghĩa đen.

Từ chối quan điểm này, hội thánh đầu tiên đã cố gắng khôi phục lại cách giải thích Kinh Thánh theo truyền thống, đúng ngữ pháp, lịch sử, theo nghĩa đen. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tiên tri, điều này khó khăn hơn vì có những lời tiên tri vẫn chưa được ứng nghiệm, và vì vậy hội thánh đã không thành công trong việc đánh bại hoàn toàn cách giải thích lời tiên tri không theo nghĩa đen. Kết quả là mặc dù khu vực Bắc Phi đã cam kết giữ quan điểm tiền thiên hy niên, nhưng khi thế hệ lãnh đạo đó qua đời, thì đổi sang quan điểm không còn tin vào thiên hy niên nữa. Điều quan trọng là trong nhiều thế kỷ sau đó, Cơ Đốc giáo ở miền bắc Châu Phi không còn phát triển.

Hội thánh đầu tiên hơi lúng túng trong cách tiếp cận lời tiên tri và cách giải nghĩa. Điều này đã được đưa ra ở một mức độ nào đó bởi những lời dạy của Augustine (354-430). Ông cho rằng trong khi Kinh Thánh nên được giải thích theo nghĩa đen thông thường trong hầu hết các lĩnh vực, nhưng trong lĩnh vực tiên tri thì không được hiểu theo nghĩa đen. Quan điểm này sau đó đã được Giáo hội Công giáo La Mã áp dụng, và tiếc là những nhà Cải chánh Tin lành cũng đã xây dựng trên quan điểm của Augustine thay vì dựa trên quan điểm của hội thánh đầu tiên.

Tuy nhiên, nhiều nhà lãnh đạo thần học cùng quan điểm cho biết một số sự kiện tiên tri sẽ được ứng nghiệm theo nghĩa đen. Ví dụ, Giáo hội Công giáo La Mã tin vào địa ngục theo nghĩa đen, Chúa tái lâm theo nghĩa đen, và sự phán xét theo nghĩa đen từ Đức Chúa Trời, nhưng lại phủ nhận vương quốc thiên hy niên trong tương lai theo nghĩa đen. Có lẽ điều này là do trong thời kỳ vương quốc ngàn năm, Y-sơ-ra-ên sẽ là một nhân tố quan trọng, và vì giáo hội chủ yếu bao gồm người ngoại nên đã vô thức phản đối ý tưởng rằng người Do Thái có một tương lai quan trọng. Vấn đề phủ nhận lời tiên tri ứng nghiệm theo nghĩa đen và đặc biệt là thời kỳ vương quốc thiên hy niên theo nghĩa đen vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều hội thánh ngày nay.

Nếu một người không giải thích những tuyên bố rõ ràng về lời tiên tri theo nghĩa đen, thì không có quy tắc nào có thể thiết lập sự thống nhất về mặt ý nghĩa; sự tồn tại của nhiều cách diễn giải cho thấy sự thất bại của phương pháp này. Có thể trưng dẫn năm mươi cách giải nghĩa khác nhau chỉ trong cùng một đoạn Khải Huyền mà có thể dễ dàng hiểu được nếu giải thích theo nghĩa tự nhiên của nó.

Giải Nghĩa Các Biểu Tượng

Đúng là đôi khi lời tiên tri được trình bày theo cách “mặc khải” hoặc biểu tượng, như trong Đa-ni-ên, Ê-xê-chi-ên và Khải Huyền. Nhưng thường thì chính Kinh Thánh cung cấp manh mối về ý nghĩa cho những biểu tượng này. Ví dụ, mười cái sừng trong Đa-ni-ên 7:7 được giải thích trong câu 24 có nghĩa là mười vương quốc hoặc mười vị vua. Khi điều này được hiểu cụ thể, thì ý nghĩa của đoạn văn trở nên rõ ràng.

Thật sai lầm khi nói rằng vì các biểu tượng được bao gồm trong sách Khải Huyền, vì thế tất cả sách nên được coi là biểu tượng. Nhiều sự kiện phải được chấp nhận theo nghĩa đen của chúng (ví dụ như các ngôi sao được đề cập trong sự phán xét của tiếng kèn thứ tư là nghĩa đen, Khải. 8:12), nhưng các sự kiện khác rõ ràng là tượng trưng (ví dụ, một ngôi sao trong Khải. 9:1 là được nhân cách hóa như một người nhận chìa khóa).

Giải nghĩa Kinh Thánh theo nghĩa đen thông thường có nghĩa là chúng ta nhận ra các hình ảnh của lời nói. Và những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân cách hóa, cường điệu, biểu tượng, và nhiều hình ảnh khác là “những bức tranh nói nên lời” trình bày lẽ thật theo nghĩa đen một cách cực kỳ sinh động.

Vì sách Đa-ni-ên và sách Khải Huyền là những quyển sách đi cùng nhau, nên hiểu được sách này sẽ giúp hiểu được sách kia. Phần lớn điều mặc khải ban đầu trong Đa-ni-ên được phát triển rộng hơn trong sách Khải Huyền.

Những Đoạn Tối Nghĩa

Bên cạnh việc cố gắng giải nghĩa các đoạn văn theo ý nghĩa tự nhiên, điều quan trọng là tuân thủ quy tắc đối với các đoạn văn tối nghĩa phải được giải nghĩa dựa trên các đoạn văn rõ nghĩa. May mắn thay, hầu hết các mục quan trọng của Lời tiên tri được trình bày đơn giản và rõ ràng ở một số nơi khác trong Kinh Thánh, và điều này sẽ đóng vai trò hướng dẫn cho những đoạn không rõ ràng.

 

PHẠM VI CỦA LỜI TIÊN TRI TRONG KINH THÁNH

Có lần tôi được một nhà xuất bản yêu cầu xuất bản một cuốn sách giải nghĩa tất cả các lời tiên tri trong Kinh Thánh từ Sáng Thế ký đến Khải Huyền. Điều này đã dẫn đến cuốn sách Sổ tay Kiến thức Tiên tri của tôi, luận giải cả nghàn bài viết về lời tiên tri, một trong số đó là những câu đơn lẻ và một số là các đoạn văn hoặc toàn bộ chương Kinh Thánh. Thực tế là một nửa trong số khoảng năm trăm đoạn văn đó đã được ứng nghiệm theo nghĩa thông thường cho chúng ta lý do thông minh để giải nghĩa những lời tiên tri chưa được ứng nghiệm theo cùng một cách. Việc giải nghĩa lời tiên tri theo nghĩa đen hay theo nghĩa tự nhiên mang lại một hệ thống chân lý tiên tri tự nhất quán và không mâu thuẫn.

 

 

ỨNG DỤNG THỰC TẾ LỜI TIÊN TRI

Những người giải nghĩa lời tiên tri nên hiểu rằng lời tiên tri tự nó không phải là kết thúc mà có nhiều ứng dụng cho những câu hỏi tự nhiên nảy sinh về tương lai. Do đó, lời tiên tri nên được nghiên cứu để tìm câu trả lời cho những câu hỏi này, chẳng hạn như liệu sự tái lâm của Chúa Giê-su Christ có sắp xảy ra không hay liệu dân Y-sơ-ra-ên có một tương lai sẽ sở hữu Đất Hứa hay không. Sự liên quan của lời tiên tri đối với từng tín nhân cần được xem xét khi trình bày lẽ thật về lời tiên tri.

 

CÁC LĨNH VỰC CHÍNH CỦA LỜI TIÊN TRI

Lời tiên tri bày tỏ sự mặc khải cho ba đối tượng lớn đó là: thế giới dân ngoại, dân Y-sơ-ra-ên và hội thánh. Những gì ban đầu đối với Cơ Đốc nhân sẽ trở thành thông tin quan trọng cho bất kỳ ai đang tìm cách sống phù hợp với những gì Đức Chúa Trời đã hoạch định cho tương lai của họ. Đây là chủ đề chính của sự mặc khải trong Tân Ước.

Những Lời Tiên Tri về Các Sự Kiện Thế Giới

Cả Cựu Ước và Tân Ước đều chứa đựng nhiều lời tiên tri ảnh hưởng đến toàn thế giới. Kinh Thánh Cựu Ước ghi lại sáu đế quốc lớn trên thế giới là Ai Cập, A-sy-ri, Ba-by-lôn, Mê-đô Ba-tư, Hy Lạp và La Mã. Điều này đưa đến một phác thảo tiên tri về các sự kiện trên thế giới khi Đức Chúa Trời nhìn thấy điều đó và cho phép chúng ta có thể giải quyết câu hỏi điều gì sẽ xảy ra đối với thế giới trong tương lai. Nhiều lời tiên tri trong số này đã được ứng nghiệm với độ chính xác rất cao.

Những Lời Tiên Tri về Y-sơ-ra-ên

Một lĩnh vực tiên tri khác thường bị bỏ quên là những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ về Y-sơ-ra-ên. Bắt đầu với Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã mở ra một chương trình cho dân Y-sơ-ra-ên bao gồm sự chăm sóc của Ngài dành cho nàng (Y-sơ-ra-ên) trong suốt thời kỳ Cựu Ước cũng như việc khôi phục và sở hữu Đất Hứa trong tương lai. Mặc dù thực tế này không mang lại lợi ích tức thì cho các tín nhân ngày nay, nhưng rõ ràng đây là một phần chính trong các kế hoạch tiên tri của Đức Chúa Trời và mang lại cái nhìn sâu sắc về những gì đang xảy ra ở Y-sơ-ra-ên ngày nay và những gì sẽ xảy ra với Y-sơ-ra-ên trong tương lai.

Những Lời Tiên Tri về Hội Thánh

Hai khía cạnh của lời tiên tri liên quan đến hội thánh là thế giới Cơ Đốc hay còn gọi là hội thánh tuyên xưng đức tin (professing church), và hội thánh là thân thể của Đấng Christ (the church, the body of Christ)—là những tín nhân thật.

Nền tảng của lời tiên tri cho những tín đồ thật là tín lý về sự Cất Lên, nghĩa là Đấng Christ sẽ trở lại để đưa hội thánh Ngài từ đất lên trời. Sự Cất Lên sẽ giới thiệu cho hội thánh thật những sự kiện quan trọng trên thiên đàng, sẽ được trình bày sau, chẳng hạn như việc nàng (hội thánh thật) được kết hợp với Đấng Christ trong một cuộc hôn nhân mang tính biểu tượng, phần thưởng của nàng (hội thánh thật) tại tòa án Đấng Christ, và vai trò đầy thử thách của nàng (hội thánh thật) là phụng sự Đấng Christ đời đời. Điều này sẽ liên quan đến việc nàng (hội thánh thật) được ở với Đấng Christ trên trời trong suốt thời kỳ đại nạn, và được ở với Ngài trên đất trong thời kỳ vương quốc ngàn năm, và cuối cùng là ở trong trời mới, đất mới, và Giê-ru-sa-lem Mới cho đến muôn đời.

Khi sự kiện hội thánh được Cất Lên xảy ra, thì mọi tín nhân thật sẽ được đem lên thiên đàng. Tất cả những người không tin Chúa, bao gồm cả những người trong “hội thánh tuyên xưng đức tin,” sẽ bước vào thời kỳ đại nạn. Trong chương 3, câu hỏi về sự Cất Lên xảy ra trước Đại Nạn hay liên quan đến sự Tái Lâm sẽ được xem xét. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là trong khi hội thánh thật, là thân thể của Đấng Christ, sẽ được cất lên trước Đại Nạn, hội thánh bội đạo hay hội thánh tuyên xưng đức tin sẽ tiếp tục trên đất sau khi hội thánh thật được cất lên và sẽ có bắt bớ đối với những ai tin đến Đấng Christ trong Đại Nạn. Hội thánh tuyên xưng đức tin sẽ bị hủy diệt. và sẽ được thay thế bằng tôn giáo của Sa-tan trong thời kỳ cuối cùng, trong đó nhiều người sẽ tôn thờ Sa-tan, là kẻ độc tài trong thế giới của nó.

Sự hủy diệt nhà thờ tuyên xưng đức tin này sẽ xảy ra vào giữa của cuối bảy năm đại nạn rồi kế đến là sự tái lâm của Đấng Christ, như đã được mô tả trong Khải Huyền 17:16–17: “Mười cái sừng ngươi đã thấy, và chính mình con thú sẽ ghét dâm phụ, sẽ bóc lột cho nó lỏa lồ, ăn thịt nó và thiêu nó bằng lửa. Bởi Ðức Chúa Trời đã để cho chúng có lòng vâng làm theo ý muốn Ngài cùng khiến chúng có chung một ý, và ban nước mình cho con thú, đến khi những lời Ðức Chúa Trời phán được ứng nghiệm.” Điều này sẽ mở đường cho hình thức cuối cùng của tôn giáo sa-tan. Tuy nhiên, đối với các Cơ Đốc nhân, những lẽ thật quan trọng liên quan đến hội thánh, là thân thể của Đấng Christ, chiếm vị trí trung tâm trong việc nghiên cứu lời tiên tri.

Lời Tiên Tri về Thiên Sứ

Cùng với ba lĩnh vực chính nêu trên, một số lời tiên tri liên quan đến ma quỷ và các quỷ sứ của nó, thường liên quan đến một trong ba lĩnh vực tiên tri chính khác. Mặc dù Kinh Thánh không phóng đại chi tiết về sự phán xét của các thiên sứ sa ngã, nhưng 1 Cô-rinh-tô 6:3 nói rằng hội thánh sẽ phán xét các thiên sứ: “Các ngươi không biết rằng chúng ta sẽ phán xét các thiên sứ sao?” Ma-thi-ơ 25:41 bày tỏ thêm rằng hồ lửa được chuẩn bị đặc biệt cho sự phán xét của các thiên sứ ác: “Kế đó, Ngài sẽ phán cùng những người ở bên tả rằng: Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó.” Theo Khải Huyền 20:10 ma quỷ, sau cuộc nổi loạn cuối cùng của hắn khi kết thúc vương quốc ngàn năm, sẽ bị ném vào hồ lửa. “Còn ma quỉ là đứa đã dỗ dành chúng, thì bị quăng xuống hồ lửa và diêm, trong đó đã có con thú và tiên tri giả rồi. Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời.” Có khả năng các thiên sứ ác cũng sẽ gia nhập cùng ma quỉ vào thời điểm đó trong cuộc phán xét cuối cùng. Từ đó trở đi sẽ không còn có hoạt động của ma quỷ hay quyền lực của sa-tan nữa. Theo Giu-đe 6, thì hiện nay, một số thiên sứ sa ngã trong quá khứ đã bị giam cầm, và đang chờ sự phán xét: “Còn các thiên sứ không giữ thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình—thì Ngài đã dùng dây xích họ trong nơi tối tăm đời đời, cầm giữ lại để chờ sự phán xét ngày lớn.” Điều quan trọng là phải nhận biết rằng đến thời điểm thích hợp, Đức Chúa Trời sẽ phán xét mọi việc ác.

Sự Sống sau khi Chết

Kinh Thánh bày tỏ rõ ràng về sự thật của sự sống sau khi chết. Cái chết thể xác không chấm dứt sự tồn tại của một cá thể. Điều này có ý nghĩa đối với Cơ Đốc nhân, đó là chúng ta sẽ tham gia vào các sự kiện chính trong chương trình tương lai của Đức Chúa Trời. Điều quan trọng là Cơ Đốc nhân phải hiểu mục đích sự mặc khải của Đức Chúa Trời và điều này thách thức chúng ta phải sẵn sàng thế nào cho kế hoạch của Đức Chúa Trời về cuộc sống sau khi chết.

Quan điểm hiện đại cho rằng sự tồn tại của con người kết thúc khi chết đã vô hiệu hóa những gì Kinh Thánh dạy về tầm quan trọng của việc phụng sự Chúa trong cuộc sống này và chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Không ai có đủ lý do để phủ nhận sự sống sau khi chết; Kinh Thánh đưa ra nhiều bằng chứng rằng Chúa Giê-su Christ đã phục sinh và đang sống trên trời, và tất cả mọi người, cả những người tin và người không tin cũng vậy, sẽ tiếp tục tồn tại trong thế giới tương lai.

Những Sự Thật Chính Yếu về Lời Tiên Tri Rõ Ràng

Những người giảng và dạy về lời tiên tri nên cố gắng làm cho lời tiên tri trở nên đơn giản, dễ hiểu và có thể áp dụng cho những trông cậy và nỗi sợ hãi của mỗi cá nhân. Mặc dù lời tiên tri phức tạp về một số chi tiết, nhưng các sự kiện chính vẫn có thể được trình bày theo cách mà ngay cả một người mới bắt đầu học Kinh Thánh cũng có thể hiểu được họ đang đối diện với điều gì trong tương lai theo Lời tiên tri của Đức Chúa Trời.

 

TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI TIÊN TRI

Việc nghiên cứu về lời tiên tri tự nó không phải là kết thúc, Đức Chúa Trời dự định điều đó sẽ cho chúng ta sự trông cậy và sự hướng dẫn cho tương lai. Cũng giống như một người nông dân không thể cày một đường thẳng trừ khi để mắt hướng đến một điểm ở xa phía trước, vì vậy những tín nhân không thể lập kế hoạch phù hợp cho tương lai trừ khi chúng ta có một số ý tưởng về những gì tương lai đó đòi hỏi. Khi học Kinh Thánh, chúng ta khám phá ra cuộc sống của chúng ta sẽ được tra xét và khen thưởng tùy theo những gì chúng ta đã làm cho Đấng Christ. Tuy nhiên, cùng với điều này, là viễn cảnh tuyệt vời của niềm vui và sự bình an trong tương lai khi nhận lấy ân điển của Đức Chúa Trời trong suốt cõi đời đời. Điều này mang lại cho chúng ta hy vọng trong thời kỳ khủng hoảng, hướng dẫn trong các quyết định đạo đức, và một hệ thống giá trị phù hợp với những gì Đức Chúa Trời đã hoạch định cho tương lai.

Phao-lô gọi sự trông đợi ngày Chúa trở lại là “sự trông cậy phước hạnh” (Tít 2:13), đó sẽ là một kinh nghiệm vui mừng. Mặc dù sự trông cậy này sẽ gây ra sự nghiêm trọng đối với các vấn đề của cuộc sống ngày nay, nhưng điều đó lại có thể nâng đỡ các tín nhân vượt lên trên những nỗi buồn, chán chường và thất vọng trong cuộc sống này và cho phép chúng ta cảm nhận được mục tiêu của Đức Chúa Trời là bày tỏ cho mỗi tín nhân không mắc lỗi trước sự hiện diện của Ngài trong suốt cõi đời đời, như những đối tượng của ân điển vĩ đại của Ngài.

(Còn nữa)

 

 

 

 

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên