Trang Chủ BIỆN GIÁO Các Hình Ảnh Bày Tỏ Về Đức Chúa Trời

Các Hình Ảnh Bày Tỏ Về Đức Chúa Trời

914
0
SHARE

Những Hình Ảnh Về Đức Chúa Trời

THẬT THÚ VỊ khi khám phá những gì người ta tưởng Đức Chúa Trời là như vậy. C. S. Lewis kể một câu chuyện hài hước về một cậu học sinh được hỏi về những gì cậu đã hình dung về Chúa. Cậu ta trả lời rằng, theo như anh ta có thể xác định, Chúa là “loại người luôn rình mò để xem có ai đang vui hưởng những lạc thú với bản thân hay không rồi tìm cách ngăn chặn điều đó.”1

Đức Chúa Trời thực sự như thế nào? Những người viết Kinh Thánh cổ đại muốn dân Y-sơ-ra-ên được biết, nhưng họ sống trong thời kỳ mà các phương pháp giao tiếp khá hạn chế. Chúng ta có thể tưởng tượng mình đang sống trong một thế giới không có tivi, radio, máy đèn chiếu,  trình phát video và đồ họa máy tính không? Những người sống trong thời của Kinh Thánh lúc bấy giờ không có những phương tiện này. Những gì họ có là từ ngữ. Vì vậy họ đã sử dụng từ ngữ để tạo ra những hình ảnh tinh thần về Đức Chúa Trời. Những “hình ảnh từ ngữ” này đặc biệt nổi bật trong các phần thơ văn của Kinh Thánh, nơi có rất nhiều hình ảnh và ẩn dụ.

Sử dụng hình ảnh là một cách tuyệt vời để truyền đạt lẽ thật về Chúa, vì một số lý do. Thứ nhất, những hình ảnh tinh thần dường như lưu lại trong ký ức của chúng ta tốt hơn những giới luật trừu tượng. Hãy nghĩ về một quảng cáo mà chúng ta vừa xem gần đây. Trong tâm trí chúng ta luôn lưu lại một số hình ảnh của những quảng cáo mà chúng ta vừa mới xem! Thứ nhì, hình ảnh tinh thần hấp dẫn cảm xúc cũng như tâm trí. Người ta được thông báo bằng lời nói, nhưng được cảm động bởi những bức tranh nói thay lời. Thứ ba, những hình ảnh trình bày lẽ thật về Đức Chúa Trời có thể dễ dàng được truyền đến cho người khác. Chẳng hạn, trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn đều có thể hiểu hình ảnh mà Chúa Giê-su dùng trong lời tuyên bố của ngài, “Ta là người chăn nhân lành.” Trong chương này, chúng ta sẽ xem những hình ảnh mà Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Đức Chúa Trời.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ VẦNG ĐÁ CỦA CHÚNG TA

Trong số bảy mươi lăm lần xuất hiện của từ “đá” trong Kinh Thánh, ba mươi ba lần là tượng trưng cho Đức Chúa Trời. Môi-se là người đầu tiên gọi Đức Chúa Trời là “Vầng Đá” (Phục-truyền.  32:4; 32:15), nhưng khi đề cập đến các dân tộc ngoại giáo, Môi-se nói: “Vầng đá của họ không giống Vầng Đá đá của chúng ta” (32:31). Đa-vít công bố rằng, “Đức Giê-hô-va là hòn đá và đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi.  Đức Chúa Trời tôi là hòn đá tôi, nơi tôi sẽ nương náu mình, Là thuẫn đỡ tôi, sừng chửng cứu tôi, Ngọn tháp cao và nơi nương dựa của tôi; Hỡi Đấng che chở tôi!” (2 Sa-mu-ên 22:2-3). Hình ảnh vầng đá cũng nổi bật trong Thi thiên.2

Trong tiếng Hê-bơ-rơ sur, “rock,” không đề cập đến một viên đá hoặc viên sỏi nhỏ, mà là một tảng đá lớn, khối đá, vách đá, hoặc có thể là núi. Chúng ta biết gì về những tảng đá khiến các trước giả Kinh Thánh sử dụng chúng làm hình ảnh cho Đức Chúa Trời? Thứ nhất, những tảng đá lớn không thể chuyển dời được. Chúng có xu hướng đứng yên. Thứ nhì, đá tồn tại rất lâu. Dưới mái vòm của tảng đá đền thờ Giê-ru-sa-lem là tảng đá của Núi Mô-ri-a nơi Áp-ra-ham dâng Y-sác (Sáng thế ký 22). Sau gần bốn nghìn năm, đến nay tảng đá đó vẫn còn. Chúng ta có thể nhìn thấy tảng đá đó khi đến thăm Giê-ru-sa-lem. Thứ ba, những tảng đá có thể đem lại sự che chở. Người ta có thể ẩn sau chúng khi bị kẻ thù tấn công. Thứ ba, đá có thể cung cấp sự bảo vệ. Bạn có thể ẩn sau chúng khi kẻ thù của bạn tấn công. Cả những mũi tên nhọn và đá bắn ra từ ná, đều không thể xuyên thủng một pháo đài bằng đá vững chắc. Những tảng đá lớn cũng có thể tạo ra bóng râm che chắn sức nóng gay gắt của mặt trời trong một vùng hoang dã cằn cỗi đầy đá sỏi.

Với những sự thật này trong tâm trí, chúng ta có thể hiểu tại sao các trước giả Kinh Thánh gọi Chúa là “Tảng đá của chúng ta.” Ngài chắc chắn, vững vàng, không lay chuyển và ban cho sự bảo vệ. Ngài hoàn toàn đáng tin cậy. Ngài không chịu ảnh hưởng của thời gian. Trong khi các pháo đài nhân tạo đổ nát và sụp đổ, Chúa là “vầng đá của các thời đại” (Ê-sai 26:4). Sau hàng ngàn năm, Ngài vẫn không hề thay đổi. Như một tảng đá, Đức Chúa Trời là đồn lũy và nơi ẩn náu của chúng ta (Thi thiên 18:2). Ngài là Đấng mà chúng ta có thể chạy đến khi bị kẻ thù tấn công hoặc gặp lúc đau khổ và khó khăn. Là “hòn đá về sự cứu rỗi tôi” (89:26), Ngài là Nguồn sức lực và sự giải cứu chắc chắn của chúng ta. Người nào nương cậy vào Chúa như Tảng đá mình sẽ được an ninh (62:2, 6).

Ê-sai đề cập đến Đấng Mê-si là “hòn đá vấp ngã, vầng đá vướng mắc cho cả hai nhà Y-sơ-ra-ên, và là bẫy cùng lưới cho dân cư thành Giê-ru-sa-lem vậy” (Ê-sai 8:14). Hễ ai đến với Ngài phải nhận biết Ngài. Một số vấp ngã và Ngài khiến kẻ ấy đổ vỡ để ăn năn. Những kẻ khác vấp ngã và bị chính tảng đá đè nát, tức là họ bị phán xét vì tội lỗi mình. Chúa Cứu Thế cũng là “Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra” (Thi thiên 118:22; Ma-thi-ơ 21:42). Nhưng ai tin vào Tảng đá này sẽ không hổ thẹn (Ê-sai 28:16; 1 Phi-e-rơ 2:6). Trong thời gian ở đồng vắng, Môi-se đã đập vào hòn đá và nước chảy ra cho dân Y-sơ-ra-ên đang khát (Xuất 17: 6; Phục truyền 8:15; Thi thiên 78:15). Phao-lô đồng nhất tảng đá này với Đấng Christ (1 Cô-rinh-tô 10:4). Hình ảnh tảng đá trong Kinh thánh cuối cùng chỉ về Chúa Giê-su, Vầng đá cứu rỗi của chúng ta.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI NƠI ẨN NÁU CỦA CHÚNG TA

Hình ảnh Chúa là nơi ẩn náu của chúng ta khá giống với Chúa là vầng đá của chúng ta. Trên thực tế, những hình ảnh này đôi khi xuất hiện dưới dạng các thuật ngữ song song. Trong Thi thiên 62:7 Đa-vít viết rằng Đức Chúa Trời “Hòn đá về sức lực tôi, và nơi nương náu mình.” Từ nguyên Hê-bơ-rơ hasa, “tìm nơi ẩn náu,” và danh từ mahseh, “nơi ẩn náu” được sử dụng chủ yếu trong Thi thiên và các sách văn thơ khác. Những từ này được sử dụng theo nghĩa đen là trú ẩn khỏi cơn mưa bão (Ê-sai 4:6; 25:4) hoặc trú ẩn khỏi nguy hiểm trên các núi cao (Thi thiên 104:18). Nhưng những từ này thường được dùng theo nghĩa bóng để nói về việc tìm kiếm sự nương tựa nơi Đức Chúa Trời.

Những trước giả Thi thiên thường xác định Đức Giê-hô-va là nơi ẩn náu. “Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, tôi nương náu mình nơi Ngài” (7:1). “Tôi nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va” (11:1). “Linh hồn tôi nương náu nơi Chúa” (57:1). “Thà nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va còn hơn tin cậy loài người” (118:8).

Những trước giả Thi thiên muốn nói gì về hình ảnh này? Rõ ràng là Đức Chúa Trời không đem đến sự bảo vệ theo cách mà những bức tường phòng thủ hay một pháo đài vững chắc ở đời nầy mang lại. Lấy Đức Chúa Trời làm nơi nương náu nghĩa là “tin cậy” nơi Ngài. Đây là hình ảnh có tính văn thơ thể hiện sự tin chắc vào Đức Chúa Trời quyền năng của chúng ta, Đấng cung cấp sự an toàn cho những người không nơi nương tựa, gặp cảnh khó khăn. Như những núi cao cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho những người đang gặp gian nguy (Giô-suê 2:22), Đức Chúa Trời là “nơi nương náu vững bền” (Thi 71:7). Ngài như một “cái thuẫn cho mọi người nương náu mình nơi Ngài” (2 Sa-mu-ên 22:31).

Trong tiếng Hê-bơ-rơ có một từ khác được sử dụng để chỉ các thành ẩn náu (Dân số ký 35), người ta không thể không thấy mối liên hệ giữa họ và Đức Chúa Trời như một nơi ẩn náu. Sáu thành lánh nạn đã cung cấp nơi cư trú cho một người Y-sơ-ra-ên phạm tội ngộ sát. Chừng nào kẻ có tội vẫn còn trong các bức tường của thành, kẻ báo thù huyết không thể thi hành hình phạt. Cũng giống như vậy, Chúa Giê-su Christ là “nơi nương náu” cho những tội nhân (Hê-bơ-rơ 6:18). Ngài là nơi nương náu vững bền và an toàn cho những ai tin cậy nơi Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI – ĐẤNG CHIẾN TRẬN CHO CHÚNG TA

Hầu hết người ta không nghĩ về bằng các thuật ngữ quân đội. Nhưng vì Y-sơ-ra-ên thường bị ngoại bang tấn công, dân sự của Đức Chúa Trời hình dung Chúa của họ như một chiến binh dũng mãnh có thể vừa bảo vệ vừa minh oan cho họ. Đức Giê-hô-va đã chiến trận cho dân Ngài không phải bằng gươm và giáo, nhưng bởi những phép lạ thiên thượng. Sau khi Đức Chúa Trời đánh bại người Ai Cập, dìm quân đội của Pha-ra-ôn ở Biển Đỏ, Môi-se và dân sự Y-sơ-ra-ên đã hát một bài hát như sau: “Đức Giê-hô-va là một chiến sĩ; Danh Ngài là Giê-hô-va. Ngài đã ném xuống biển binh xa Pha-ra-ôn và cả đạo binh của người; Quan tướng kén chọn của người đã bị đắm nơi Biển Đỏ” (Xuất Ê-díp-tô ký 15:3-4). Hình ảnh về Đức Giê-hô-va như một chiến binh phổ biến và quan trọng đến mức trọn một cuốn sách đã được viết về chủ đề này.3 Tiếng Hê-bơ-rơ được dịch “chiến binh” trong đoạn văn này đề cập đến một người đã học được nghệ thuật chiến tranh và đã chứng tỏ bản thân trên chiến trường.

Làm sáng tỏ chủ đề về Giê-hô-va là chiến binh, Ê-sai tuyên bố, “Đức Giê-hô-va sẽ ra như người mạnh dạn; giục lòng sốt sắng như người lính chiến; kêu la quát tháo; ra sức cự lại kẻ thù nghịch mình” (Ê-sai 42:13). Còn Sô-phô-ni đã giục lòng dân sự mình như sau, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi” (3:17). Trong những phân đoạn này, trong tiếng Hê-bơ-rơ từ được dịch là “chiến binh” là một tính từ có nghĩa là “mạnh mẽ” hoặc “hùng mạnh.” Khi được sử dụng cho một cá nhân, nó nói lên một người đàn ông mạnh mẽ hoặc dũng cảm. Khi được sử dụng cho Đức Chúa Trời, thuật ngữ này nhấn mạnh quyền năng của Ngài để bảo vệ dân sự Ngài và đánh bại kẻ thù của họ.    Vì “Đức Giê-hô-va mạnh dạn trong chiến trận” (Thi thiên 24:8), Đa-vít tuyên bố, “Nguyện Đức Chúa Trời chỗi dậy, khiến thù nghịch Ngài tản lạc, Và làm cho những kẻ ghét Ngài phải trốn trước mặt Ngài” (68:1).

Hình ảnh về Chúa như một chiến binh dũng mãnh cuối cùng sẽ được ứng nghiệm bởi sự trở lại của Đấng Cứu Thế “sẽ ra đánh cùng các nước đó” là những nước nhóm lại tranh chiến cùng Giê-ru-sa-lem (Xa-cha-ri 14:3). Giăng đã hình dung sự trở lại của Chúa Giê-su trên một “con ngựa trắng” (Khải huyền 19:11), ngựa của chiến binh thắng trận. Đáng để ý là nhà lãnh đạo La Mã Vespasian đã cưỡi một con ngựa trắng trong chiến thắng của mình trước Giu-đê.4 Trong Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn, Đấng Cứu Thế sẽ “đánh các dân” bằng “một lưỡi gươm bén” và sẽ “cai trị họ bằng một cây gậy sắt” (Khải huyền 19:15).

Thật an ủi khi biết rằng chúng ta có một Đấng Che Chở mạnh mẽ, Đấng có thể đánh bại kẻ thù vô hình mạnh sức nhất là kẻ chống Chúa, tiên tri giả và ma quỷ (Khải huyền 19:20; 20:1-2, 10). Vì Ngài có thể ban cho họ những gì họ xứng đáng, nên không kẻ thù nào có thể chống nổi sự đáp trả của Ngài. Như Phao-lô tuyên bố, “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?” (Rô-ma 8:31). Không thế lực nào có thể đánh bại chúng ta khi chúng ta đứng bên cạnh Chúa Giê-su, Đấng Che Chở là Chúa Cứu Thế của chúng ta.

ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẤNG CHĂN GIỮ CHÚNG TA

Một trong những hình ảnh quen thuộc nhất trong Kinh Thánh là hình ảnh người chăn chiên. Vì nhiều người trong Y-sơ-ra-ên là những người chăn cừu, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi tìm thấy hình ảnh này trong Kinh thánh. Trên thực tế, phép ẩn dụ người chăn chiên đã được sử dụng khắp vùng Cận Đông cổ đại để nói về chức vụ cho những người cai trị cả đời nầy và thuộc linh. Trong một bài thánh ca cổ của người Su-me, thần Enlil được coi là “người chăn trung thành” của tất cả các tạo vật sống. Trong phần mở đầu của bộ luật nổi tiếng của mình, vua Ba-by-lon Hammurabi đã tự mô tả mình là một người chăn chiên được thần Enlil lựa chọn cho dân tộc mình. Trong Cựu Ước, ẩn dụ về người chăn chiên được áp dụng cho cả Chúa (Sáng thế ký 49:24; Thi thiên 80: 1; 95: 7) và những người lãnh đạo đời này (78:70-72; Xa-cha-ri 11:4-14).

Thi thiên hai mươi ba quen thuộc bắt đầu bằng những lời, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi.” Ê-sai đã tiên đoán về chức vụ giống như người chăn chiên của Đấng Cứu Thế. “Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên; thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào lòng; từ từ dắt các chiên cái đương cho bú” (Ê-sai 40:11). Sử dụng hình ảnh người chăn chiên, Ê-xê-chi-ên kết tội các nhà lãnh đạo quốc gia, những người giống như những người chăn giả. Họ bóc lột dân chúng thay vì chăm sóc nhu cầu của họ như một người chăn nhân lành nên làm (Ê-xê-chi-ên 34: 2-4). Sau đó, Ê-xê-chi-ên tiên báo cách Đức Giê-hô-va sẽ trở thành Người chăn chiên của Y-sơ-ra-ên là thể nào. Ngài sẽ đem bầy Y-sơ-ra-ên bị phân tán trở lại đất của họ (34:13). Ngài sẽ “chăm nom” bầy của mình, “Tìm con nào đã mất, dắt về con nào đã bị đuổi,” và “rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh” (34:14, 16).

Hình ảnh người chăn có sự ứng nghiệm cuối cùng trong Chúa Giê-su, “người chăn hiền lành” (Giăng 10:11). Ngài là Người Chăn Hiền Lành vì Ngài chăm sóc đàn chiên, cung cấp cho đàn chiên và phó mạng sống của mình cho đàn chiên (10:12-15). Bầy chiên biết tiếng của Người chăn chúng và đi theo Người (10:2-4). Ngài cũng được gọi là “Đấng chăn chiên lớn” (Hê-bơ-rơ 13;20) và là “Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên” (1 Phi-e-rơ 5:4). Nếu có dịp đến thăm vùng đất Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhiều người chăn chiên cùng với đàn chiên của họ. Chúng ta sẽ thấy những người chăn gọi bầy của mình bằng những âm thanh nghe rất lạ. Bạn sẽ thấy những con chiên đáp lại và đi theo người chăn chúng. Chúng biết rằng chúng có thể tin cậy người ấy bảo vệ và cung cấp những nhu cầu của chúng. Và với tư cách là những người tin Chúa, chúng ta là thành viên trong bầy của Đức Chúa Trời, “bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi thiên 100:3). Chúa Giê-su có thể sử dụng tất cả các nguồn cung cấp thiêng liêng của Ngài với tư cách là Người Chăn Hiền Lành trong việc chăm sóc và cung cấp cho đàn chiên của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI NHƯ  CHIM ĐẠI BÀNG HUẤN LUYỆN CON MÌNH

Một hình ảnh đẹp như tranh vẽ nhưng có lẽ đáng ngạc nhiên về Chúa là hình ảnh chim ưng. Sau cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, Đức Chúa Trời phán với dân Ngài rằng: “Các ngươi đã thấy điều ta làm cho người Ê-díp-tô, ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm sao, và dẫn các ngươi đến cùng ta thế nào” (Xuất Ê-díp-tô ký 19:4). Trong một kiệt tác thi ca tiếng Hê-bơ-rơ, Môi-se đã ví mối quan hệ của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên như một chim ưng chăm sóc con non. “Ngài săn sóc người… như phụng hoàng phấp phới giỡn ổ mình, Bay chung quanh con nhỏ mình, Sè cánh ra xớt nó, Và cõng nó trên chéo cánh mình thể nào” (Phục truyền 32:10-11).

Đa-vít thích hình ảnh đôi cánh của Đức Chúa Trời. Ông đã cầu nguyện, “Hãy ấp tôi dưới bóng cánh của Chúa” (Thi thiên 17:8). Ông tỏ lòng biết ơn về đôi cánh của Đức Chúa Trời cung cấp nơi ẩn náu cho ông hỏi nguy hiểm: “Tôi nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa, Cho đến chừng tai họa đã qua” (57:1; 61:4; 91:4). Nhận biết sự an ninh được tìm thấy trong bóng cánh của Đức Chúa Trời là một nguồn vui cho những người tin. Đa-vít tuyên bố, “Vì Chúa đã giúp đỡ tôi, Dưới bóng cánh của Chúa tôi sẽ mừng rỡ” (63:7).

Trong một phép ẩn dụ tương tự, Chúa Giê-su nói với vẻ buồn bã về việc Ngài bị dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối. “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng!” (Ma-thi-ơ 23:37). Khi từ chối Đấng Cứu Thế, dân Y-sơ-ra-ên khước từ sự bảo vệ được cung cấp dưới “đôi cánh” của Đức Chúa Trời. Sự tàn phá Giê-ru-sa-lem bởi Ti-tớt và quân đội La Mã của ông ngay sau đó (23:38; 24:2).

Là những người tin vào Chúa Giê-su Christ, chúng ta biết ơn về sự bảo vệ yêu thương mà Đức Chúa Trời ban cho dưới đôi cánh quyền năng của Ngài. Đây là một bức tranh tuyệt vời về sự an toàn của chúng ta trong Ngài và sự chăm sóc, bảo vệ khỏi bị tổn hại và tình yêu thương của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI – THUẪN ĐỠ CỦA CHÚNG TA

Sáng thế ký 15:1 ghi lại những lời yên ủi của Đức Chúa Trời đối với Áp-ram, “Hỡi Áp-ram! Ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi.” Từ được dịch là “cái thuẫn” (magen) bắt nguồn từ động từ tiếng Đức, “bảo vệ hoặc đặt một tấm chắn.” Trong thời cổ đại, các chiến binh sử dụng hai loại tấm chắn. Tấm magen là tấm lá chắn tròn nhỏ hơn và phổ biến hơn được bộ binh hạng nhẹ mang theo. Tấm sinna là một tấm lá chắn hình chữ nhật lớn hơn nhiều, giống như cái được mang bởi người hầu của Goliath (I Sa-mu-ên 17:7, 41), có thể bảo vệ toàn bộ cơ thể. Những tấm chắn ban đầu được làm bằng gỗ hoặc đan dệt và được lợp bằng da. Đôi khi chúng được gia cố bằng đồng. Lá chắn là vật dụng thiết yếu để phòng thủ của một người lính. Nhờ tấm chắn, người lính có thể làm chệch hướng những đòn tấn công của kiếm, giáo và mũi tên của kẻ thù.

Vì Đức Chúa Trời là Đấng bảo vệ dân sự Ngài, nên chẳng có gì lạ khi Ngài được mô tả theo phép ẩn dụ là “Ngài là cái khiên cho những kẻ nào nương náu mình nơi Ngài” (Thi thiên 18:30). Môi-se nhắc cho dân Y-sơ-ra-ên nhớ rằng Đức Giê-hô-va là “Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi” (Phục Truyền 33:29). Là một chiến binh, David biết tầm quan trọng của lá chắn trong việc phòng thủ cá nhân trên chiến trường. Trong một bài Thi thiên mà Đa-vít đã viết khi chạy trốn Áp-sa-lôm, ông nói, “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi” (Thi thiên 3:3). Trong một Thi thiên khác ông viết rằng, “Đức Chúa Trời là cái khiên tôi, Ngài là Đấng cứu rỗi những kẻ có lòng ngay thẳng” (7:10).

Được Đức Chúa Trời che chở ngụ ý đến sự cứu rỗi dành cho dân sự Ngài (Thi thiên 18:2), Người dân Y-sơ-ra-ên được khuyến khích “hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va” vì “Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ” (115:9-11). Biết được Đức Chúa Trời là lá chắn của mình đã đem lại cho Đa-vít sự dạn dĩ khi đối mặt với sự tranh chiến. Ông viết, “Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi; Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài” (28:7).

Mặc dù Đa-vít thường xuyên sử dụng magen để mô tả Đức Chúa Trời là lá chắn và người bảo vệ dân Ngài, nhưng ông đã sử dụng sinna trong Thi thiên 5:12 (xem thêm I Các vua 10:16; Thi thiên 35:2; 91:4). Một nhóm binh lính có thể sử dụng những chiếc khiên này để tạo một mái che bảo vệ trên đầu của họ, những người lính La Mã sau này đã thành thạo nghệ thuật di chuyển qua chiến trường bị bao vây bọc theo cách này. Họ gọi cách tiếp cận này là đội hình pha lăng (đội hình sát cánh nhau). Đức Chúa Trời “sẽ ban phước cho người công bình, Lấy ơn vây phủ người khác nào bằng cái khiên” (5:12). Thật khích lệ biết bao khi biết rằng Đức Chúa Trời che chở và bảo vệ những người tin Ngài chống lại các cuộc tấn công của Sa-tan, kẻ sử dụng những “mưu chước” tinh ranh (2 Cô-rinh-tô 2:11; Ê-phê-sô 6:11) để tìm cách lừa dối và tiêu diệt chúng ta (1 Phi 5:8).

ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA

Mười tám lần trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là Đấng Cứu Chuộc. Gióp có thể là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này về Đức Chúa Trời, khi ông nói, “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25). Đa-vít người viết thi thiên có chép, “Hỡi Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi và là Đấng cứu chuộc tôi, Nguyện lời nói của miệng tôi,
Sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi thiên 19:14). Ê-sai rất yêu thích hình ảnh này; ông đã sử dụng hình ảnh ấy đến mười ba lần. Ông viết, “Đấng chuộc ngươi tức là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên” (Ê-sai 54:5). Chúng ta có thể đã quá quen thuộc với danh xưng của Đức Chúa Trời là “Đấng Cứu Chuộc” của chúng ta đến nỗi chúng ta không nhận ra rằng điều đó thật ra là một phép ẩn dụ.

Từ “Đấng Cứu Chuộc” đến từ gaal có nghĩa là “thực hiện vai trò của một người thân và do đó cứu chuộc họ hàng của mình khỏi khó khăn hoặc hoạn nạn.”5 Điều nầy ngụ ý những công việc mà một người nhân đức và thành thật sẽ làm cho một người thân đang gặp cảnh khó khăn. Người họ hàng gần [“người bà con (nam),”] có trách nhiệm chuộc lại một mảnh ruộng mà trước đó đã được bán khi gặp cảnh khó khăn nhằm giữ lại tài sản của gia đình (Lê-vi 25:25). Người đó cũng có trách nhiệm mua lại và giải thoát cho một người họ hàng đã bán mình làm nô lệ vì nghèo đói (25:48-49). Người họ hàng cũng phải trả thù kẻ sát hại thành viên trong gia đình (Dân số ký 35:16-19). Ý tưởng đằng sau việc thi hành bổn phận này là sự thiệt mạng phải trả bằng mạng sống của kẻ sát nhân. Mỗi công việc “chuộc tội” này phải do người thân ruột thịt thực hiện.

Ba yêu cầu đối với một người chuộc lại. Thứ nhất, vì việc chuộc lại là nghĩa vụ của gia đình, nên chỉ người thân ruột thịt mới có quyền chuộc lại. Thứ nhì, vì việc chuộc lại rất tốn kém, nên người đó phải có đủ nguồn tài sản chuộc lại. Thứ ba, vì việc chuộc lại đòi hỏi phải có hành động dứt khoát, nên người ta phải có quyết tâm để chuộc lại. Sách Ru-tơ mô tả một “người bà con có quyền chuộc sản nghiệp” là người có quyền và tài sản để chuộc lại đất của Na-ô-mi và Ru-tơ nhưng không muốn làm như vậy (Ru-tơ 4: 1-8).

Khi Chúa được mô tả là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, hình ảnh cuối cùng nói đến Chúa Giê-su Christ. Đấng Christ đã trở thành người bà con của chúng ta khi Ngài mặc lấy thân xác con người và nhập thể qua sự hạ sinh bởi nữ đồng trinh (Ma-thi-ơ 1:18; Giăng 1:14). Là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, Đấng Christ có nguồn huyết báu của chính Ngài để trả giá cho sự cứu chuộc chúng ta (I Phi-e-rơ 1:18-19). Và Ngài đã quyết hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta (Mác 10:45). Chỉ một mình Chúa Giê-su Christ có thể ban cho “sự cứu rỗi [khỏi tội] bởi huyết Ngài” (Ê-phê-sô 1:7) và bởi ân điển Ngài (Rô-ma 3:24). Được làm dân sự của Đức Chúa Trời thật phước hạnh biết bao, khi biết rằng trong Ngài, họ có Đấng Cứu Chuộc mạnh mẽ (Giê-rê-mi 50:34).

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NƠI ẨN NÁU CỦA CHÚNG TA

Đa-vít cầu nguyện cùng Chúa rằng, “Chúa là nơi ẩn núp tôi; Chúa bảo hộ tôi khỏi sự gian truân” (Thi thiên 32:7). Hình ảnh này lại xuất hiện trong Thi thiên 119:114, “Chúa là nơi ẩn náu và cái khiên của tôi”. Đa-vít bày tỏ lòng tin tưởng rằng “trong ngày hoạn nạn” Đức Giê-hô-va sẽ “che khuất tôi trong đền của Ngài, Giấu tôi nơi kín mật của trại Ngài” (27:5).

Đường hầm Malinta nằm trên đảo Corregidor ở Vịnh Manila. Đường hầm này từng là kho vũ khí trước Thế chiến thứ hai. Nhưng khi Quân đội Nhật Bản xâm lược Philippines vào năm 1941, Đường hầm Malinta đã trở thành một bệnh viện quân đội và là tổng hành dinh của Tướng Douglas MacArthur. Sau nầy, khi máy bay chiến đấu Nhật Bản ném bom lên đảo Corregidor, đường hầm này đã đem lại sự sự che chở cho binh lính Mỹ và Philippines. Mặc dù ngày nay bị bỏ hoang, nhưng Đường hầm Malinta vẫn là một nhân chứng thầm lặng về sự bảo vệ mà nó mang lại cho những người lính khỏi các cuộc bắn phá chết người. Tôi hy vọng rằng không ai trong chúng ta từng phải đối mặt với những trận ném bom của máy bay chiến đấu. Nhưng thường thì dân sự của Đức Chúa Trời trải qua sự thù ghét của một thế giới đầy gian ác và không tin Chúa. Đối mặt với sự tấn công thuộc linh, các tín đồ có một nơi ẩn náu chắc chắn trong Đức Chúa Trời của chúng ta.

Yêu cầu duy nhất đối với những người tìm kiếm lối vào nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời là một thái độ ăn năn và đức tin. Sô-phô-ni đã chỉ dẫn những người trong thời của ông “tìm kiếm sự công bình” và “tìm kiếm sự nhu mì.” Kế đến ông khích lệ họ mà rằng, “hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va” (Sô-phô-ni 2:3).

Đức Chúa Trời là “nơi ẩn náu”, nơi con dân Ngài có thể tìm thấy sự an toàn và nương náu trong lúc nguy nan. Ngài là Đấng mà chúng ta có thể đến khi không ai khác biết hoặc hiểu những gì chúng ta đang trải qua. Là nơi ẩn náu của chúng ta, Ngài có thể ban sự che chở khi sự bảo đảm của con người bị thất bại.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NGUỒN NƯỚC SỐNG CỦA CHÚNG TA

Nếu Kinh thánh được viết ở Oregon là nơi có nhiều mưa chứ không phải tại xứ Y-sơ-ra-ên, thì hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước của chúng ta đã có thể không được nói đến. Nhưng phần lớn đất của Y-sơ-ra-ên chỉ hưởng được lượng mưa khá ít ỏi, nên nước ở đó rất quý báu. Trong những tháng mùa hè, khi mặt trời chiếu trực tiếp, rất dễ trở nên quá nóng và mất nước. Khi tôi đưa sinh viên đến Y-sơ-ra-ên, tôi nhắc họ mang theo nước trong các chuyến đi thực tế và uống thường xuyên.

Trong một vùng đất khô khan, Đức Giê-hô-va được tuyên bố là “nguồn nước sống của Y-sơ-ra-ên” (Thi thiên 68:26, NASB). Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời rằng, “Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa” (36:9). Qua diều này, ông muốn nói rằng Đức Chúa Trời là nguồn sự sống và sự tươi mát tâm linh cho những ai tin cậy Ngài.

Khi dân Y-sơ-ra-ên vào Xứ Đồi Núi sau cuộc chinh phục Ca-na-an, họ phát hiện ra rằng nhiều thành phố được xây dựng gần với suối nước tự nhiên. Ví dụ, Giê-ru-sa-lem cổ đại có Suối nước Gihon luôn chảy là nguồn nước chính của cư dân ở đó. Đây được gọi là “nước sống” vì trong dòng chảy liên tục của nó, nó sống động như thật và mang lại sự sống. Những con suối như vậy đã cung cấp cho dân Y-sơ-ra-ên một nguồn nước ngọt, trong lành. Nhưng khi các thành phố phát triển, nhu cầu về nước của họ thật sự cần phải đề cập đến. Nhu cầu này được đáp ứng bằng cách khoét các lỗ trên đá vôi và dẫn nước mưa vào các bể chứa trát vữa để sử dụng trong mùa khô kéo dài sáu tháng mỗi năm. Loại nước mưa này không ngọt và ngon như nước suối, đặc biệt khi có cặn hoặc tảo trong bể chứa. Nhưng vẫn còn hơn là không có nước!

Chúa đã sử dụng hình ảnh loại nước này khi khiển trách người Giu-đa trong Giê-rê-mi. 2:13. “Dân ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được.” Ở đây chúng ta khám phá ra rằng con người khao khát lẽ thật của Đức Chúa Trời, nhưng họ đang tìm kiếm sự thỏa mãn ở những nơi sai lầm. Họ tìm đến những “bể chứa” đầy bụi bặm và rạng nứt trong khi họ có thể tìm đến Nguồn nước sống làm nguôi cơn khát.

Hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước sống tâm linh và sự tươi mát đã cuối cùng được ứng nghiệm trong Chúa Giê-su. Ngài đã ban cho người nữ Sa-ma-ri “nước sự sống” (Giăng 4:10). Những ai uống từ giếng của Gia-cốp sẽ còn khát nữa, nhưng Chúa Giê-su phán, “Hễ ai…” (4:14). Chỉ có Chúa mới có thể làm dịu cơn khát thuộc linh của chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Đó là lý do tại sao Chúa Giê-su nói về nhu cầu thuộc linh của chúng ta mà rằng, “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống” (7:37). Thật đáng lưu tâm rằng chương cuối cùng của Kinh Thánh chứa đựng lời mời mọi người hãy thỏa mãn cơn khát thuộc linh của họ trong Đấng Christ: “Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không” (Khải huyền 22:17).

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHỒNG CỦA CHÚNG TA

Leo Perdue đã chỉ ra rằng mối quan hệ hôn nhân được sử dụng như một “lăng kính thần học để hiểu về Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên.”6 Đức Chúa Trời được miêu tả là “mẹ” (Dân số ký 11:12; Phục truyền 32:18), người đã thụ thai và sinh ra Y-sơ-ra-ên; với tư cách là một “người cha” (Phục truyền 32:6; Ma-la-chi 2:10), người đã nuôi dưỡng và yêu thương con trai mình là Y-sơ-ra-ên; và với tư cách là “chồng”, người đã cưới Y-sơ-ra-ên làm vợ (Giê-rê-mi 2:2).

Hình ảnh Đức Chúa Trời là người chồng được áp dụng cho Y-sơ-ra-ên như một thể hiệp nhất. Đối với Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời công bố, “Vì chồng ngươi tức là Đấng đã tạo thành ngươi; danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân” (Ê-sai 54:5). Hình ảnh Đức Chúa Trời là người chồng được Ê-xê-chi-ên giới thiệu trong lời tường thuật của ông về Y-sơ-ra-ên là một người vợ ngoại tình (Ê-xê-chi-ên 16). Trong trường hợp tương tự, Ê-xê-chi-ên nói về việc Đức Chúa Trời tìm thấy Y-sơ-ra-ên như một đứa trẻ thờ ơ, bị bỏ rơi và được dẫn đến với Ngài. Theo cách ví von đầy quyền năng của Ê-xê-chi-ên, khi dân Y-sơ-ra-ên trưởng thành, Đức Chúa Trời lập giao ước hôn nhân với dân Ngài. “Khi ta qua gần mầy, và nhìn mầy, nầy, tuổi mầy nầy, mầy đã đến tuổi yêu mến. Ta lấy áo ngoài ta trùm trên mầy, che sự trần truồng mầy. Phải, ta thề cùng mầy và kết giao ước với mầy, thì mầy trở nên của ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy” (16:8).

Các nhà tiên tri đặc biệt thích hình ảnh Đức Chúa Trời là chồng của dân Ngài. Trong Giê-rê-mi, mối quan hệ hôn nhân đóng vai trò như một nỗi niềm để ăn năn. “Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở về; vì ta là chồng ngươi” (Giê-rê-mi 3:14). Giê-rê-mi mô tả cách Y-sơ-ra-ên phá bỏ giao ước cũ, một sự vi phạm gây sốc hơn vì “dầu rằng ta làm chồng chúng nó” (31:32).

Trong lời quở trách mạnh mẽ đối với những kẻ thờ hình tượng đã vi phạm giao ước, Chúa  tuyên bố, “Hãy kiện mẹ các ngươi, hãy kiện đi; vì nó chẳng phải là vợ ta, còn ta chẳng phải là chồng nó! Nó hãy cất bỏ sự dâm loạn khỏi trước mặt nó, và sự ngoại tình khỏi giữa vú nó đi” (Ô-sê 2:2). Nhưng Ô-sê đã đoán trước sẽ đến một ngày hôn nhân của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên sẽ được phục hồi và đổi mới. “Trong ngày đó ngươi sẽ gọi ta là: Chồng tôi; … ta sẽ cưới ngươi cho ta trong sự thành tín, và ngươi sẽ biết Đức Giê-hô-va” (2:16, 20).

Hình ảnh Đức Chúa Trời là chồng cũng xuất hiện trong Tân Ước, ở đây Đấng Christ được giới thiệu là Chàng rể hoặc Chồng của dân sự Ngài, tức là hội thánh (Ê-phê-sô 5:23-32). Khi mô tả sự trở lại được dự đoán trước của Đấng Christ, Giăng nói về “lễ [tiệc] cưới Chiên Con” và “tiệc cưới Chiên Con” (Khải huyền 19:7,9). Giăng cũng hình dung về Giê-ru-sa-lem Mới, nơi cư ngụ đời đời của dân Đức Chúa Trời, từ trời xuống “sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình” (21:2).

Hình ảnh nầy về Đức Chúa Trời với tư cách là một người chồng, ấy là điều mang tính dạy dỗ. Là chồng, Đức Chúa Trời cung cấp và bảo vệ dân Ngài. Là chồng, Đức Chúa Trời yêu mến dân Ngài bằng một tình yêu đời đời. Với tư cách là người chồng, Đức Chúa Trời chia sẻ sự thân mật với dân Ngài. Là nàng dâu của Đức Chúa Trời, dân sự của Ngài phải trung thành với Ngài. Chúng ta không bao giờ được dành sự quan tâm hay tình cảm của mình cho người khác; chúng ta đừng bao giờ cho phép bất cứ điều gì chiếm vị trí của Đức Chúa Trời trong cuộc sống chúng ta. Là nàng dâu của Đức Chúa Trời, chúng ta phải giữ mình trong sạch về tâm hồn và thể xác. Chúng ta phải phục tùng sự chỉ dạy của Ngài, biết rằng các luật lệ của Ngài bắt nguồn từ tình yêu sâu sắc và bền vững của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯỜI TRỒNG NHO CỦA CHÚNG TA

Cây nho là hình ảnh quen thuộc của Y-sơ-ra-ên trong Thi thiên và các sách Tiên tri. (Thi thiên 80:8-16; Giê-rê-mi 5:10; 12:10; Ê-xê-chi-ên 15:1-8; Ô-sê 10:1). Đức Chúa Trời phán cùng dân sự Ngài, “Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt, giống đều rặc cả; mà cớ sao ngươi đã đốc ra nhánh xấu của gốc nho lạ cho ta?” (Giê-rê-mi 2:21). Ê-sai đã viết một câu chuyện ngụ ngôn mô tả cách Đức Chúa Trời chuẩn bị một cánh đồng, trồng một vườn nho và mong đợi một mùa bội thu. Nhưng vườn nho chỉ sinh ra toàn trái nho hoang (Ê-sai 5:1-2). Đức Chúa Trời mong muốn vườn nho của Ngài — Y-sơ-ra-ên và Giu-đa — sinh hoa kết trái “công bình” và “ngay thẳng”, nhưng đến mùa Ngài gặt toàn là “đổ máu” và “những tiếng kêu than đau khổ” (5:7). Vì vậy, Đức Chúa Trời quyết định phá bỏ vườn nho hoang nầy. Dân sự Ngài có thể phải đón nhận giao ước rủa sả thay vì phước lành.

Hình ảnh của Đức Chúa Trời là Người Trồng nho cũng xuất hiện trong những lời dạy tương tự của Chúa Giê-su về thân cây nho và cành. Ngài phán, “Ta là gốc nho thật, Cha ta là người trồng nho” (Giăng 15:1). Chúa Giê-su là “cây nho thật” trái ngược với cây nho biến tính — dân Y-sơ-ra-ên vô tín. Từ “người trồng nho” (“người làm vườn”; theo nghĩa đen, “người lao động trên ruộng vườn”) đề cập đến việc một người nông dân chuẩn bị đất để trồng trọt. Sau đó, Chúa Giê-su mô tả hai loại “cành” và hai hành động được thực hiện bởi Người trồng nho. Ngài chặt bỏ những cành không trái (15:6) và Ngài tỉa sửa những cành có trái để chúng có thể sinh nhiều bông trái hơn nữa (15:2).

Chúng ta có thể học biết những gì về Đức Chúa Trời qua hình ảnh của người trồng nho? Sự thật cơ bản nhất là Đức Chúa Trời làm cho sinh hoa kết trái. Thật vô lý khi một người nông dân chuẩn bị đất và gieo hạt mà không mong muốn gì đến ra một vụ mùa. Đức Chúa Trời mong đợi những ai được kết hiệp với Ngài bởi đức tin cá nhân để sinh bông trái thuộc linh. Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ Ngài, “ta đã chọn … để các ngươi đi và kết quả” (15:16).

Chúng ta cũng học được từ phân đoạn này rằng Đức Chúa Trời làm cho chúng ta “có kết quả”. Như đã nói, những cành có trái thì được cắt tỉa để chúng có thể sinh nhiều trái hơn (15:2). Qua việc trồng nho ở sân sau đem lại cho tôi một số hiểu biết về nhu cầu cắt tỉa cây nho. Mỗi năm vào mùa thu những cành già cỗi cần được loại bỏ để chuẩn bị cho các nhành non mới. Vào mùa xuân, cần tước bỏ các chồi non khỏi thân và các cành chính. Trong mùa hè, các cành nho tạo thành chùm phải được tỉa thưa và các chồi dài, vượt trội được ngắt bỏ. Khi người làm vườn cắt bỏ những gì có thể gây trở ngại đến việc sanh bông trái của cây nho, cũng vậy Đức Chúa Trời là Cha, qua kỷ luật yêu thương (thanh tẩy, gột rửa, làm cho sạch), loại bỏ những thứ không góp phần vào việc sinh bông trái thiêng liêng khỏi đời sống của các tín hữu. Trước giả Hê-bơ-rơ có thể đã nhận lấy sự bày tỏ này khi ông chỉ ra rằng Đức Chúa Trời sửa phạt con cái Ngài (Hê-bơ-rơ 12:6).

Một bài học khác có thể học được từ hình ảnh của Đức Chúa Trời với tư cách là Người trồng nho, ấy là Chúa hài lòng khi dân sự của Ngài sinh hoa kết trái. Chúa Giê-su phán, “Nầy, Cha ta sẽ được sáng danh là thể nào: Ấy là các ngươi được kết nhiều quả” (Giăng 15:8). Chúng ta không thể thêm gì vào các thuộc tính của Chúa. Nhưng chúng ta có thể tôn vinh Ngài, góp phần vào việc bày tỏ trước mọi người về sự vĩ đại và nhân từ của Ngài qua cách chúng ta sống và những việc chúng ta làm. Chúa Giê-su phán, “Sự sáng các người hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Ma-thi-ơ 5:16).

admin

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên