Trang Chủ BIỆN GIÁO Vương quốc 1

Vương quốc 1

12
0
SHARE

MỤC LỤC


1. Kinh Thánh  đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời 2. Vương quốc Đức Chúa Trời là gì? 3. Ý nghĩa các dụ ngôn của Chúa Giê-su về Vương quốc. 4. Các sứ đồ dạy về Vương quốc. 5. Những nguyên tắc của Vương quốc.   6. Sự lãnh đạo trong Vương quốc.   7. Mối liên quan giữa Vương quốc, Y-sơ-ra-ên và Hội thánh. 8. Vương quốc và xã hội. 9. Phúc Âm Vương quốc ảnh hưởng đến chính trị như thế nào? 10. Vương quốc và tương lai. 11. Vương quốc thiên hy niên. 12. Áp dụng các lẽ thật về Vương quốc trong công tác truyền giáo cho người Việt.      

Chương 1
Kinh Thánh  đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời

Tân Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời1
“Nhưng trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33)

“Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó.”(Ma-thi-ơ 21:43)

“Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành.” (Mác 1:15)

“Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:3)

“Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:10)

“Vì ta phán cho các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng.” (Ma-thi-ơ 5:20)

“Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời;
Danh Cha được thánh; Nước Cha được đến; Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma-thi-ơ 6:9-10)

“Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi.” (Ma-thi-ơ 7:21)   “Ta cũng nói cùng các ngươi, có nhiều người từ đông-phương tây-phương sẽ đến, ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong nước thiên-đàng.” (Ma-thi-ơ 8:11)   “Đức Chúa Giê-su đi khắp các thành, các làng, dạy-dỗ trong các nhà hội, giảng tin-lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật-bịnh.” (Ma-thi-ơ 9:35)   “Mà nếu ta cậy Thánh-Linh của Đức Chúa Trời để trừ quỉ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến tận các ngươi.” (Ma-thi-ơ 12:28)   “Ngài lấy ví-dụ khác mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như một hột cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình; hột ấy thật nhỏ hơn cả các giống khác, song khi đã mọc lên, thì lớn hơn các thứ rau, và trở nên cây cối, cho đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được.” (Ma-thi-ơ 13:31-32)
“Ngài lấy ví-dụ khác nữa mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như men mà người đàn-bà kia lấy trộn vào trong ba đấu bột, cho đến chừng nào bột dậy cả lên.” (Ma-thi-ơ 13:33)

“Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua đám ruộng đó.” (Ma-thi-ơ 13:44)

“Nước thiên-đàng lại giống như một người lái-buôn kiếm ngọc châu tốt, khi đã tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia-tài mình mà mua hột châu đó.” (Ma-thi-ơ 13:45-46)   “Nước thiên-đàng cũng giống như một tay lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá. Khi lưới được đầy rồi, thì người đánh cá kéo lên bờ; đoạn, ngồi mà chọn giống tốt để riêng ra, đem bỏ vào rổ, còn giống xấu thì ném đi. Đến ngày tận-thế cũng như vậy: Các thiên-sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công-bình ra, ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc-lóc và nghiến răng.” (Ma-thi-ơ 13:47-50)

“Ta sẽ giao chìa khóa nước thiên-đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 16:19)   “Song Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên-đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy.” (Ma-thi-ơ 19:14)   “Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết-quả của nước đó.” (Ma-thi-ơ 21:43)   “Tin-lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” (Ma-thi-ơ 24:14)   “Khi Con người ngự trong sự vinh-hiển mình mà đến với các thiên-sứ thánh, thì Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh-hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra; để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả.
Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất. Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp-rước ta; ta trần-truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta.” (Ma-thi-ơ 25:31-36)   “Ngài lại phán cùng môn-đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây, có mấy kẻ sẽ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời lấy quyền-phép mà đến.” (Mác 9:1)   “Con lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời.” (Mác 10:25) “Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin-lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến.” (Lu-ca 4:43)   “Nhưng Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao-giảng nước Đức Chúa Trời.” (Lu-ca 9:60)   “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước thiên-đàng. Hãy bán gia-tài mình mà bố-thí. Hãy sắm cho mình túi không hư, và của báu không hề hao-kém ở trên trời, là nơi kẻ trộm không đến gần, sâu mọt không làm hư-nát. Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó.” (Lu-ca 12:32-34)   “Người Pha-ri-si hỏi Đức Chúa Giê-su nước Đức Chúa Trời chừng nào đến, thì Ngài đáp rằng: Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.” (Lu-ca 17:20-21)
“Đức Chúa Giê-su thấy người buồn-rầu, bèn phán rằng: Kẻ giàu vào nước Đức Chúa Trời là khó biết dường nào! Lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời! Những người nghe điều đó, nói rằng: Vậy thì ai được cứu? Ngài đáp rằng: Sự chi người ta không làm được, thì Đức Chúa Trời làm được.
Phi-e-rơ bèn thưa rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ sự mình có mà theo thầy. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người nào vì cớ nước Đức Chúa Trời mà bỏ nhà-cửa, cha mẹ, anh em, vợ con, thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn, và đời sau được sự sống đời đời.” (Lu-ca 18:24-30)   “Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp-rước mọi người đến thăm mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy-dỗ về Đức Chúa Giê-su-Christ cách tự-do trọn-vẹn, chẳng ai ngăn-cấm người hết.” (Công vụ 28:30-31)
“Đức Chúa Giê-su cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Giăng 3:3)
“Vì nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn-uống, nhưng tại sự công-bình, bình-an, vui-vẻ bởi Đức Thánh-Linh vậy.” (Rô-ma 14:17)
Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng-lực.” (1 Cô-rinh-tô 4:20)   “Anh em há chẳng biết những kẻ không công-bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: Phàm những kẻ tà-dâm, kẻ thờ hình-tượng, kẻ ngoại-tình, kẻ làm dáng  yểu-điệu, kẻ đắm nam-sắc, kẻ trộm-cướp, kẻ hà-tiện, kẻ say-sưa, kẻ chưởi-rủa, kẻ chắt-bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu.” (1 Cô-rinh-tô 6:9-10)   “Kế đó, cuối-cùng sẽ đến, là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá-diệt mọi đế-quốc, mọi quyền cai-trị, và mọi thế-lực; vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù-nghịch dưới chân mình.” (1 Cô-rinh-tô 15:24-25)   “Ngài đã giải-thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối-tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu-dấu Ngài.” (Cô-lô-se 1:13)
“Anh em cũng biết rằng chúng tôi đối-đãi với mỗi người trong anh em, như cha đối với con, khuyên-lơn, yên-ủi, và nài-xin anh em ăn-ở một cách xứng-đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em đến nước Ngài và sự vinh-hiển Ngài.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:11-12)   “Hỡi anh em rất yêu-dấu, hãy nghe nầy: Đức Chúa Trời há chẳng lựa kẻ nghèo theo đời nầy đặng làm cho trở nên giàu trong đức-tin, và kế-tự nước Ngài đã hứa cho kẻ kính-mến Ngài hay sao?” (Gia-cơ 2:5)   “Vị thiên-sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế-gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị-vì đời đời.” (Khải huyền 11:15)
Cựu Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời 2
“Hỡi Đức Giê-hô-va! sự cao-cả, quyền-năng, vinh-quang, toàn-thắng, và oai-nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! Vương quốc thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa-tể của muôn vật.” (1 Sử ký 29:11)   “Ta sẽ giảng ra mạng-lịnh: Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Ngươi là Con ta;
Ngày nay ta đã sanh Ngươi. Hãy cầu ta, ta sẽ ban cho Con các ngoại-bang (các quốc gia, các dân tộc) làm cơ-nghiệp, và các đầu cùng đất làm của-cải.” (Thi thiên 2:7-8)   “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời,
Nước Ngài cai-trị trên muôn vật.” (Thi thiên 103:19)   “Hỡi Đức Giê-hô-va, các công việc Ngài sẽ ngợi-khen Ngài;
Những người thánh Ngài cũng sẽ chúc-tụng Ngài.
Họ sẽ nói về sự vinh-hiển nước Chúa,
Thuật lại quyền-năng của Chúa.
Đặng tỏ ra cho con loài người biết việc quyền-năng của Chúa,
Và sự vinh-hiển oai-nghi của nước Ngài.
Nước Chúa là nước có đời đời,
Quyền cai-trị của Chúa còn đến muôn đời.” (Thi thiên 145:10-13)   “Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy-diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân-tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy-diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời.” (Đa-ni-ên 2:44)   “Ta lại nhìn-xem trong những sự hiện-thấy ban đêm, nầy, có một người giống như con người đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng-cổ và bị dẫn đến trước mặt Ngài. Người được ban cho quyền-thế, vinh-hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng đều hầu-việc người. Quyền-thế người là quyền-thế đời đời chẳng qua đi, và nước người không bao giờ phải hủy-phá.” (Đa-ni-ên 7:13-14)   “Nhưng các thánh của đấng Rất Cao sẽ nhận lấy nước, và được nước làm của mình đời đời, cho đến đời đời vô-cùng.” (Đa-ni-ên 7:18)   “Bấy giờ nước, quyền-thế, và sự tôn-đại của muôn nước ở dưới cả trời, sẽ được ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài là nước đời đời, và hết thảy các quyền-thế đều hầu-việc và vâng lời Ngài.” (Đa-ni-ên 7:27)   “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một.” (Xa-cha-ri 14:9)     THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 1     1. https://christianitypath.com/bible-verses-about-kingdom-of-god/ Ngày truy cập 28 tháng 2/2025 2. https://understandyourbible.org/theme/gods-master-plan/kingdom-god-old-testament. Ngày truy cập 4 tháng 3/2025   Chương 2
Vương quốc Đức Chúa Trời là gì?
“Vương quốc Đức Chúa Trời được đề cập thường xuyên trong những sách Phúc Âm (ví dụ trong Mác 1:15; 10:15; 15:43; Lu-ca 17:20) và ở những chỗ khác trong Tân Ước (ví dụ Công vụ 28:31; Rô-ma 14:17; 1 Cô-rinh-tô 15:50). Vương quốc Đức Chúa Trời có ý nghĩa tương đồng với vương quốc thiên đàng (Ma-thi-ơ 19:23). Khái niệm về vương quốc Đức Chúa Trời mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong những phân đoạn Kinh Thánh khác nhau.”1  
Trong sự tổng hợp các lời giải thích về Vương quốc Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy những quan điểm sau đây căn cứ trên nền tảng của Kinh Thánh:
Các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo một ngày mà con người sẽ chung sống trong hòa bình. Khi đó, “luật-pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ làm sự phán-xét trong các nước, đoán-định về nhiều dân. Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi-cày, lấy giáo rèn lưỡi-liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến-tranh (Ê-sai 2:3-4). Không chỉ các vấn đề của xã hội loài người sẽ được giải quyết, mà những điều xấu xa trong môi trường vật chất của con người cũng sẽ không còn nữa. “Bấy giờ muông-sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư-tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” (Ê-sai 11: 6). Hòa bình, an toàn, an ninh – tất cả những điều này đã được hứa cho một vương quốc trong tương lai. 
Sau đó, Chúa Giê-su đến thành Na-xa-rét công bố sứ điệp, “Hãy ăn năn, vì vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 4:17). Chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến gần là trọng tâm trong sứ mệnh của Ngài. Lời dạy của Ngài được thiết kế để chỉ cho con người cách họ có thể vào Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:20; 7:21). Những việc làm vĩ đại của Ngài có mục đích chứng minh rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Những dụ ngôn của Ngài minh họa cho các môn đồ của Ngài sự thật về Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 13:11). Đây là một chủ đề nổi bật trong Kinh thánh nhận được những cách giải thích khác nhau.
Một số nhà giải kinh đã thu hẹp Vương quốc của Chúa thành phạm vi chủ quan, hiểu nó theo cảm xúc con người và mối quan hệ với Chúa. Vương quốc của Chúa là một sức mạnh bên trong đi vào tâm hồn con người và nắm giữ nó. Nó bao gồm một số chân lý tôn giáo cơ bản có ứng dụng phổ quát.
Ở thái cực khác một số người định nghĩa thông điệp của Chúa Giê-su về Vương quốc là một vương quốc sẽ được khai sinh bởi một hành động siêu nhiên của Chúa khi lịch sử sẽ bị phá vỡ và một trật tự mới bắt đầu. Vương quốc của Chúa không phải là một thực tại trong tâm linh con người; nó hoàn toàn thuộc về tương lai và siêu nhiên.   Nhà giải kinh Richard Horsley lập luận rằng Chúa Giê-su phải được hiểu trong bối cảnh đế chế La Mã áp bức Y-sơ-ra-ên. Lời tuyên bố về vương quốc của Chúa Giê-su bao hàm sự phán xét đối với những người cai trị áp bức và sự đổi mới của Y-sơ-ra-ên. Các sách Phúc âm bắt nguồn từ những bản văn kêu gọi những người theo Ngài thực hiện một cuộc cách mạng xã hội trong việc thiết lập “mối quan hệ kinh tế xã hội bình đẳng và hỗ trợ lẫn nhau”2.


Một loại giải thích khác liên hệ Vương quốc của Chúa với Giáo hội. Kể từ thời Augustine, Vương quốc đã được xác định là Giáo hội. Khi Giáo hội phát triển, Vương quốc phát triển và được mở rộng trên thế giới. Nhiều nhà thần học Tin lành đã đi theo cách giải thích này, cho rằng Vương quốc của Chúa có thể được xác định với Giáo hội chân chính được thể hiện trong Giáo hội hữu hình tại mỗi địa phương. Khi Giáo hội mang Phúc âm đến khắp thế giới, nó mở rộng Vương quốc của Chúa. Một phiên bản lạc quan cho rằng sứ mệnh của Giáo hội là giành được toàn bộ thế giới cho Chúa Giê-su và do đó biến đổi thế giới thành Vương quốc của Chúa. 
Đồng thời, Vương quốc là một di sản mà Đức Chúa Trời sẽ ban cho dân sự Ngài khi Đấng Christ đến trong vinh quang. “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma-thi-ơ 25:34). Làm sao Vương quốc của Đức Chúa Trời có thể là một thực tại tâm linh trong hiện tại nhưng vẫn là một di sản được ban cho dân sự của Đức Chúa Trời khi Đấng Christ tái lâm? Một khía cạnh khác của lẽ thật về Vương quốc phản ánh sự kiện rằng Vương quốc là một nơi mà những người theo Chúa Giê-su Christ đã bước vào. Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời đã “giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và chuyển chúng ta sang Vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13). Câu Kinh thánh này nói rất rõ rằng những người được cứu chuộc đã ở trong Vương quốc của Đấng Christ. Tất nhiên, người ta có thể phản đối rằng chúng ta phải phân biệt giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Vương quốc của Đấng Christ; nhưng điều này là không thể, vì Vương quốc của Đức Chúa Trời cũng là Vương quốc của Đấng Christ. Chúng ta đọc phần Kinh thánh sau đây, để xác nhận điều này. “Vì anh em phải biết rõ rằng kẻ gian dâm, ô uế, tham lam, tức là kẻ thờ hình tượng, không một kẻ nào được dự phần kế nghiệp của nước Đấng Christ và Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 5:5).

“Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (Khải huyền 11:15). Hơn nữa, Chúa chúng ta mô tả những người đã tiếp nhận sứ điệp và sứ mệnh của Ngài là những người hiện đang bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời (Lu-ca 16:16).
Đồng thời, Vương quốc của Đức Chúa Trời là một vương quốc tương lai mà chúng ta phải bước vào khi Đấng Christ tái lâm. Phi-e-rơ hướng đến một ngày tương lai khi “anh em sẽ được cho vào cách rộng-rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-su-Christ là Chúa và Cứu-Chúa của chúng ta.” (2 Phi-e-rơ 1:11). Chính Chúa chúng ta thường nhắc đến sự kiện tương lai này. “Nhiều người sẽ đến từ phương đông và phương tây và ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong vương quốc thiên đàng” (Ma-thi-ơ 8:11).
Sự tái lâm trong tương lai của Chúa Giê-su sẽ hiện thực hóa Vương quốc trong quyền năng và vinh hiển. Chúa Giê-su đã nói về ngày mà các thiên sứ sẽ, “thâu mọi gương xấu và những kẻ làm ác khỏi nước Ngài, và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc-lóc và nghiến răng. Khi ấy, những người công-bình sẽ chói-rạng như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai, hãy nghe!” (Ma-thi-ơ 13:41, 43). Mặt khác, khi được những người Pha-ri-si hỏi khi nào Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ đến, Chúa Giê-su trả lời, “Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:20-21).

Vương quốc đã hiện diện giữa loài người; và với câu trả lời này Chúa Giê-su muốn những người Pha-ri-si tìm kiếm một Vương quốc trong thực tại.
Những dụ ngôn về Vương quốc cho thấy rõ rằng theo một nghĩa nào đó, Vương quốc hiện diện và đang hoạt động trên thế giới. Vương quốc của Chúa giống như một hạt cải nhỏ bé trở thành một cây lớn; giống như men mà một ngày nào đó sẽ thấm vào ba đấu bột, cho đến chừng bột dậy cả lên (Lu-ca 13:18-21). Tuy nhiên, mặt khác, khi Phi-lát thẩm vấn Chúa Giê-su về những lời dạy của Ngài, Chúa Giê-su trả lời: “Vương quốc của ta không thuộc về thế gian này” (Giăng 18: 36).
Chính sự phức tạp của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là một trong những lý do tại sao những cách giải thích khác nhau như vậy làm cho thần học có nhiều trường phái giải thích. Có thể trích dẫn những câu riêng lẻ cho hầu hết các cách giải thích có thể tìm thấy trong tài liệu thần học của chúng ta. Vương quốc là một thực tại hiện tại (Ma-thi-ơ 12:28), nhưng lại là một phước lành trong tương lai (1 Cô-rinh-tô 15:50). Đó là một phước lành thuộc linh bên trong (Rô-ma 14:17) chỉ có thể được trải nghiệm thông qua sự tái sinh (Giăng 3:3), nhưng nó sẽ liên quan đến các quốc gia trên thế giới. “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (Khải huyền 11:15). Vương quốc Đức Chúa Trời là một nước mà con người có thể bước vào ngay bây giờ (Ma-thi-ơ 21:31), nhưng đó cũng là một vương quốc mà họ sẽ bước vào trong tương lai (Ma-thi-ơ 8:11). Đồng thời, vương quốc là một món quà của Đức Chúa Trời sẽ được ban cho trong tương lai (Lu-ca 12:32) nhưng phải được tiếp nhận trong hiện tại (Mác 10:15).    Rõ ràng là không có lời giải thích đơn giản nào có thể công bằng với sự đa dạng nhưng phong phú của nhiều điều trông có vẻ nghịch lý như vậy.
Tuy nhiên, có một giải pháp cơ bản cho vấn đề phức tạp này, giải pháp này sẽ cung cấp chìa khóa để mở cánh cửa vào kho tàng hiểu biết và phước lành. Chìa khóa này cung cấp cách tiếp cận đơn giản nhất đối với lẽ thật Kinh thánh phức tạp và đa dạng này. Đây là chìa khóa thường bị bỏ qua vì sự khác biệt giữa các thành ngữ hiện đại và cổ xưa.
Chúng ta phải đặt câu hỏi cơ bản nhất: Ý nghĩa của “vương quốc” là gì? Câu trả lời hiện đại cho câu hỏi này mất đi chìa khóa ý nghĩa đối với chân lý Kinh thánh cổ xưa này. Trong thành ngữ phương Tây, vương quốc chủ yếu là một lãnh thổ mà một vị vua thực hiện quyền lực của mình. Không còn nhiều vương quốc trong thế giới hiện đại của chúng ta với các lợi ích dân chủ của nó. Tuy nhiên khi nghĩ về Vương quốc Thái Lan công nhận vua là người cai trị danh dự của họ. Vương quốc Anh thì có Nữ hoàng là người cai trị của họ. Từ điển Oxford đi theo dòng suy nghĩ này bằng cách đưa ra định nghĩa vương quốc là, “một quốc gia, một tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ mà người đứng đầu là một vị vua hoặc nữ hoàng cai trị.” (a country, state, or territory ruled by a king or queen)3

Nghĩa thứ hai của vương quốc là những người thuộc về một quốc gia nhất định. Vương quốc Anh có thể được xem là tập hợp những công dân mà Nữ hoàng thực hiện quyền cai trị của mình. Người dân nước Anh là công dân của vương quốc đó.
Việc áp dụng một trong hai ý tưởng này vào giáo lý Kinh thánh về Vương quốc khiến chúng ta đi lệch khỏi sự hiểu biết đúng đắn về chân lý Kinh thánh. Bản thân từ điển tiếng Anh cũng mắc lỗi này khi đưa ra định nghĩa thần học về vương quốc Đức Chúa Trời là “Vương quốc thuộc linh có Đức Chúa Trời là người cai trị”. Định nghĩa này không thể chính xác với những câu Kinh thánh nói về sự xuất hiện của Vương quốc khi Chúa Giê-su tái lâm. Mặt khác, những người bắt đầu bằng ý tưởng về một vương quốc tương lai được khai sinh qua sự tái lâm của Chúa Giê-su thì không đồng nghĩa với những câu Kinh thánh nói về Vương quốc như một thực tế của đời sống tâm linh trong hiện tại.
Chúng ta có thể tìm hiểu ý nghĩa chính của từ “vương quốc” trong Cựu Ước để mô tả sự cai trị của một vị vua. E-xơ-ra 8:1 nói đến sự trở về của tuyển dân từ Ba-by-lôn. Lúc đó là vương quốc của Ạt-ta-xét-xe, tức là triều đại của ông. 2 Sử ký 12:1 nói về việc thành lập vương quốc hoặc sự cai trị của Rô-bô-am.   Đa-ni-ên 8:23 viết, “Đến kỳ sau-rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội-nghịch đã đầy, thì sẽ dấy lên một vua” ám chỉ đến giai đoạn cuối của một vương quốc trần gian. Cách sử dụng từ “vương quốc” này như một triều đại của con người cũng có thể được tìm thấy trong các đoạn văn như: Giê-rê-mi 49: 34; 2 Sử ký 11: 17, 12: 1, 26: 30; E-xơ-ra 4: 5; Nê-hê-mi 12: 22. 
Khi nói đến Vương quốc Đức Chúa Trời, cụm từ này luôn ám chỉ đến triều đại của Ngài, sự cai trị của Ngài, quyền tối cao của Ngài. Thi thiên 103:19, xác nhận “Chúa đã lập ngôi Ngài trên các tầng trời, và vương quốc Ngài cai trị trên tất cả.”  Vương quốc của Chúa, là sự cai trị phổ quát của Ngài, quyền tối cao của Ngài trên toàn trái đất. Thi thiên 145: 11, “Người ta sẽ nói về sự vinh hiển của nước Chúa, và thuật lại quyền năng của Chúa.” Trong phép song hành của thơ ca Do Thái, hai câu này diễn đạt cùng một chân lý. Nước Chúa là quyền năng của Ngài. Thi Thiên 145:13, “Nước Chúa là nước đời đời, quyền thống trị của Chúa tồn tại qua các thế hệ.”   Vương quốc của Chúa là bầu trời và mặt đất, nhưng câu Thi thiên này đề cập đến sự trường tồn của Vương quốc. Quyền cai trị của Chúa là quyền năng đời đời. Đa-ni-ên đã nói với vua Nê-bu-cát-nết-sa, “Muôn tâu, bệ hạ là vua vĩ đại nhất trong các vua! Chúa trên trời đã ban cho bệ hạ đế quốc, sức mạnh, uy quyền, và vinh quang” (Đa-ni-ên 2: 37). Hãy chú ý đến các từ đồng nghĩa với Vương quốc: uy quyền, sức mạnh, vinh quang – tất cả đều là cách diễn đạt về thẩm quyền của một vị vua.   Những thuật ngữ này xác định vương quốc của con người là “quyền cai trị” mà Chúa đã ban cho các vua trên đất. Chúng ta đọc về vua Bên-xát-sa, “Đức Chúa Trời đã đếm nước vua và khiến nó đến cuối-cùng” (Đa-ni-ên 5:26). Rõ ràng là vương quốc mà Bên-xát-sa cai trị không bị phá hủy. Vương quốc của người dân Ba-by-lôn không bị chấm dứt; họ được chuyển giao cho một người cai trị khác. Nhưng quyền cai trị của nhà vua đã bị chấm dứt, và nó được trao cho Đa-ri-út người Mê-đi. “Ngay đêm đó, vua người Canh-đê là Bên-xát-sa bị giết. Rồi Đa-ri-út là người Mê-đi được nước” (Đa-ni-ên 5:30-31).
Một tài liệu tham khảo khác trong Phúc âm của chúng ta làm cho ý nghĩa này rất rõ ràng. Chúng ta đọc trong Lu-ca 19:11-12, “Họ nghe những lời ấy, thì Đức Chúa Giê-su thêm một thí-dụ nữa, vì Ngài gần đến thành Giê-ru-sa-lem, và người ta tưởng rằng nước Đức Chúa Trời sẽ hiện ra ngay. Vậy, Ngài phán rằng: Có một vị thế-tử đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua rồi trở về.” Vị thế tử đi xa để có được một vương quốc, một lãnh địa để cai trị. Lãnh thổ mà ông sẽ cai trị là nơi ông rời đi. Vấn đề là lúc đó vị thế tử không phải là vua. Ông cần thẩm quyền để cai trị. Ông đã đi để có được một “vương quốc”, ông cần vương quyền, thẩm quyền để cai trị. Chính điều này đã xảy ra vài năm trước khi Chúa Giê-su giáng sinh. Vào năm 40 TCN, tình hình chính trị ở Palestine trở nên hỗn loạn. Người La Mã đã chinh phục đất nước Y-sơ-ra-ên vào năm 63 TCN, nhưng tiến trình ổn định rất chậm.  Cuối cùng, Hê-rốt Đại đế đã đến Rô-ma, giành được vương quốc từ Thượng viện La Mã và được tuyên bố là vua. Ông thực sự đã đến một quốc gia xa xôi để nhận được vương quyền, nhận được thẩm quyền làm vua cho dân Do Thái. Có thể Chúa chúng ta đã nghĩ đến sự việc này trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây. Trong trường hợp này, nó minh họa cho ý nghĩa cơ bản của một vương quốc trần gian.
Vương quốc của Chúa là vương quyền của Ngài, sự cai trị của Ngài, thẩm quyền của Ngài. Khi đã nhận ra điều này, chúng ta có thể đọc Tân Ước và tìm thấy từng đoạn văn trong đó ý nghĩa này được thể hiện rõ ràng, nơi Vương quốc không phải là một lãnh địa hay một dân tộc mà là sự cai trị của Chúa. Chúa Giê-su đã nói rằng chúng ta phải “tiếp nhận vương quốc Đức Chúa Trời” như những đứa trẻ (Mác 10:15). Điều gì được con người tiếp nhận? Điều được tiếp nhận là sự cai trị của Chúa trên cuộc đời của mỗi người. Để bước vào Vương quốc, người ta phải hoàn toàn tin tưởng vào sự cai trị của Chúa ở đây và ngay bây giờ.
Chúng ta cũng phải “trước hết hãy tìm kiếm Vương quốc của Ngài và sự công bình của Ngài” (Ma-thi-ơ 6:33). Mục đích tìm kiếm của chúng ta là gì? Hội thánh? Thiên đàng? Không phải vậy. Chúng ta phải tìm kiếm sự công bình của Chúa, tìm kiếm sự kiểm soát của Ngài, sự cai trị của Ngài trong cuộc sống của chúng ta.
Khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta có đang cầu nguyện cho thiên đàng ngự xuống trần gian không? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đang cầu nguyện cho điều này. Nhưng thiên đàng chỉ là đối tượng của sự mong muốn vì triều đại của Chúa sẽ được thực hiện hoàn hảo hơn hiện tại. Người Mỹ có một câu nói hay, “The best is yet to come” (Điều tốt nhất vẫn chưa đến). Câu này cũng hàm ý cho chúng ta biết rằng điều tốt nhất là Vương quốc tương lai vẫn chưa đến, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu không có triều đại của Chúa, không có Chúa cai trị thì thiên đàng là vô nghĩa. Do đó, điều chúng ta cầu nguyện là, “Nước Cha được đến; ý Cha được nên ở đất như trời.” Lời cầu nguyện này là lời thỉnh cầu Chúa ngự trị, để thể hiện quyền tối cao của Ngài, để xua đuổi mọi kẻ thù của sự công chính và để chỉ một mình Chúa là Vua trên khắp thế gian.
Tuy nhiên, một triều đại không có lãnh địa để cai trị thì giống như một chính phủ lưu vong. Do đó, chúng ta thấy rằng Vương quốc của Chúa cũng là lãnh địa mà triều đại của Chúa thực thi quyền cai trị. Nhưng một lần nữa, các sự kiện trong Kinh thánh không đơn giản. Đôi khi Kinh thánh nói về Vương quốc như là lãnh địa mà chúng ta bước vào ngay trong hiện tại, đôi khi như thể nó thuộc về tương lai vẫn còn ở phía trước.
Nó là tương lai trong những câu như Mác 9: 47, “Thà rằng một mắt mà vào vương quốc của Chúa còn hơn là hai mắt mà bị ném vào địa ngục.” (Mác 10: 23, 14: 25, Ma-thi-ơ 7: 21) Trong những đoạn văn như vậy, Vương quốc của Chúa tương đương với khía cạnh của sự sống vĩnh cửu mà chỉ có thể trải nghiệm sau khi Chúa Giê-su tái lâm.
Trong những đoạn văn khác, Vương quốc hiện diện và có thể được bước vào ở đây và bây giờ. Trong sách Lu-ca 16:16, “Luật pháp và các tiên tri có cho đến thời Giăng; từ đó, tin lành về Vương quốc Đức Chúa Trời được rao giảng, và mọi người dùng sức mạnh mà vào đó.”  Theo Phúc âm Ma-thi-ơ 21:31, “Những người thu thuế và gái điếm vào Vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi.”  Và cũng trong Lu-ca 11:52, “Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn-cấm không cho!”
Vậy thì chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời nằm ở ba lĩnh vực4 này:
(1) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc của Đức Chúa Trời. Có nghĩa là Đức Chúa Trời là Vua, là Đấng cầm quyền cai trị tuyệt đối.   (2) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc mà chúng ta có thể bước vào để trải nghiệm các phước lành ngay bây giờ.   (3) Một số đoạn Kinh thánh khác lại nói đến một Vương quốc trong tương lai mà chỉ đến khi Chúa Giê-su Christ tái lâm, khi đó chúng ta sẽ bước vào và trải nghiệm sự trọn vẹn của vương quốc.
Do đó, Vương quốc Đức Chúa Trời có ba ý nghĩa khác nhau trong các phần Kinh thánh khác nhau. Chúng ta cần nghiên cứu tất cả các tài liệu tham khảo theo bối cảnh của chúng và sau đó kết hợp chúng lại với nhau trong một cách diễn giải tổng thể.
Về cơ bản, như chúng ta đã thấy, Vương quốc Đức Chúa Trời là triều đại tối cao của Chúa; nhưng triều đại của Chúa thể hiện ở các giai đoạn khác nhau thông qua lịch sử cứu chuộc. Do đó, con người có thể bước vào Vương quốc của Chúa trong nhiều giai đoạn biểu hiện và trải nghiệm các phước lành của triều đại của Ngài ở các cấp độ khác nhau. Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc của thời đại tương lai, thường được gọi là thiên đàng; khi đó chúng ta sẽ nhận ra các phước lành của Vương quốc trong sự hoàn hảo. Nhưng Vương quốc cũng ở đây ngay bây giờ. Có một Vương quốc thuộc linh mà chúng ta có thể bước vào hôm nay và tận hưởng một phần những phước lành – tiền vị của Vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến, ý Cha được nên dưới đất cũng như trên trời.” Niềm tin rằng lời cầu nguyện này sẽ được đáp lại khi Chúa đưa lịch sử loài người đến sự viên mãn theo thời điểm của Ngài, giúp Cơ đốc nhân giữ được sự cân bằng và tỉnh táo trong một thế giới điên loạn mà chúng ta đang sống. Cảm tạ Chúa, Vương quốc của Ngài đang đến. “Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến.”
Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta cũng cầu xin ý Chúa được thể hiện ở đây và ngay hôm nay. Điều này nên là mối quan tâm chính của chúng ta – những người đã trải nghiệm sự tái sanh và thực hiện nếp sống vương quốc. Chúng ta cũng nên cầu nguyện, “Nước Cha được đến, ý Cha được thể hiện trong hội thánh mà tôi đang sinh hoạt như trên thiên đàng. Cuộc sống và sự hiệp thông của một hội thánh Cơ đốc phải là sự hiệp thông của những người mà ý muốn của Chúa được thực hiện trên trái đất. Nước Cha được đến, ý Cha được nên trong cuộc sống của tôi ở đây cũng như trên thiên đàng.” Điều này được bao gồm trong lời cầu nguyện của chúng ta cho sự đến của Vương quốc. Đây là một phần của Phúc âm về Vương quốc của Chúa.   
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 2
1. https://gotquestions.org. Truy cập ngày 7 tháng 2/2025   2. Jesus and Empire: The Kingdom of God and the New World Disorder (Minneapolis: Fortress, 2003. Page 105)   3. https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/us/ Truy cập ngày 25 tháng 3/2025   4.George Eldon Ladd (1959). The Gospel of the Kingdom. William B. Eerdmans Publishing Company Grand Rapids, Michigan

        Chương  3



Các dụ ngôn của Chúa Giê-su về Vương quốcĐức Chúa Trời

Các dụ ngôn của Chúa Giê-su được ghi chép trong các sách Phúc Âm. Các dụ ngôn này thường là những câu chuyện đơn giản và dễ nhớ, có hình ảnh gần gũi với đời thường, nhưng cũng có dụ ngôn mang nghĩa về chủ đề tôn giáo, các luật lệ. Các tín hữu xem dụ ngôn là một phần quan trọng trong giáo huấn của Giê-su, thể hiện phương cách giảng đạo linh hoạt của Ngài đối với những người bình dân. Trong nền văn minh phương Tây, các dụ ngôn của Chúa Giê-su là chất liệu tạo nên các thuật ngữ thời hiện đại, ngay cả đối với những người không biết nhiều về Kinh Thánh, khiến cho chúng nằm trong số những câu chuyện nổi tiếng và truyền cảm hứng nhất trên thế giới.
Dụ ngôn trong Kinh Thánh diễn tả tình yêu vô bờ bến của Đức Chúa Trời với nhân loại và lòng tha thứ vô biên vượt khỏi sự mong đợi của tội nhân. Mục đích chính của dụ ngôn bày tỏ cho chúng  ta về những điều mầu nhiệm của Nước Trời (hay Vương quốc Đức Chúa Trời, hay nước thiên đàng).

“Khảo sát tổng quát từ những lời dạy trong các câu chuyện của Chúa Giê-su, chúng ta thấy Vua Giê-su đã nhìn thấy Vương quốc Đức Chúa Trời theo như lịch sử của nó. Những dụ ngôn, hình ảnh này nói lên quan điểm của Ngài về nước thiên đàng, hay Vương quốc Đức Chúa Trời.”1 

  1. Dụ ngôn Hạt cải là một dụ ngôn ngắn: “Nước thiên đàng giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình. Hạt cải tuy nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng khi lớn lên thì lớn nhất trong các loại cây và trở thành cây lớn, đến nỗi chim chóc đến làm tổ trên cành” (Ma-thi-ơ 13:31–32).
    Giống như mọi dụ ngôn khác, mục đích của Dụ ngôn Hạt cải là dạy một khái niệm hoặc “ý tưởng lớn” bằng cách sử dụng nhiều yếu tố tường thuật hoặc chi tiết phổ biến, dễ nhận biết và thường tượng trưng cho điều gì đó khác. Mặc dù bản thân các yếu tố có tầm quan trọng, nhưng việc nhấn mạnh quá mức vào các chi tiết hoặc tập trung theo nghĩa đen vào một yếu tố thường dẫn đến lỗi diễn giải và bỏ lỡ điểm chính của dụ ngôn.
    Một trong những lý do thực tế có thể khiến Chúa Giê-su sử dụng các dụ ngôn như thế này là bằng cách mô tả các khái niệm bằng hình ảnh từ ngữ, thông điệp không dễ bị mất đi do những thay đổi trong cách sử dụng từ ngữ, bối cảnh văn hóa hoặc sự trôi qua của thời gian. Những hình ảnh trong các dụ ngôn vẫn còn sống động sau hai ngàn năm. Chúng ta vẫn có thể hiểu được khái niệm về hạt giống đang phát triển. Những câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giê-su rất tuyệt vời vì sự đơn giản của chúng. Cách kể chuyện này cũng thúc đẩy việc thực hành các nguyên tắc hơn là tuân thủ cứng nhắc các luật lệ.
    Câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải có trong cả ba sách Phúc âm Nhất lãm (Ma-thi-ơ 13:31–32; Mác 4:30–32; Lu-ca 13:18–19). Trong câu chuyện ngụ ngôn này, Chúa Giê-su dự đoán sự phát triển đáng kinh ngạc của vương quốc thiên đàng. Hạt cải khá nhỏ, nhưng nó phát triển thành một bụi cây lớn – cao tới mười feet – và Chúa Giê-su nói rằng đây là hình ảnh về sự phát triển của Vương quốc. Ý chính của câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải là một điều gì đó lớn lao và được ban phước. Vương quốc của Chúa, đã có khởi đầu khiêm tốn. Chức vụ ngắn ngủi của Chúa Giê-su có thể quan trọng đến mức nào? Ngài chỉ có một số ít môn đệ thân tín, Ngài là một người không có địa vị và không có của cải, và Ngài sống ở nơi mà mọi người đều coi là vùng hẻo lánh của thế giới. Cuộc đời và cái chết của Đấng Christ không thu hút sự chú ý của thế giới nhiều hơn một hạt cải nằm trên mặt đất bên đường. Nhưng đây là công trình của Đức Chúa Trời. Những gì có vẻ không quan trọng lúc đầu đã phát triển thành một phong trào có ảnh hưởng trên toàn thế giới, và không ai có thể ngăn cản nó (xem Công vụ 5:38–39). Ảnh hưởng của Vương quốc trên thế giới này sẽ lớn đến mức mọi người liên quan đến nó đều tìm thấy lợi ích. Nó được mô tả như những chú chim đậu trên cành cây cải trưởng thành.
    Ở những nơi khác trong Kinh thánh, Vương quốc của Đức Chúa Trời cũng được mô tả như một cái cây. Ví dụ, một đoạn trong Ê-xê-chi-ên, có nhiều điểm tương đồng với Dụ ngôn về Hạt cải. Trong lời tiên tri này, Đức Chúa Trời hứa sẽ trồng một chồi “trên một ngọn núi cao và hùng vĩ” (Ê-xê-chi-ên 17:22).  Lời tiên tri bày tỏ về kế hoạch của Cha thiên thượng: “Thật, Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Y-sơ-ra-ên; nó sẽ nứt nhánh, ra trái và sẽ trở nên cây bá hương xinh tốt. Mọi loài chim sẽ đến núp dưới nó và tất cả những giống có cánh sẽ núp dưới bóng các cành của nó” (Ê-xê-chi-ên 17:23). Lời tiên tri về Đấng Cứu thế này báo trước sự phát triển của Vương quốc của Đấng Christ từ những khởi đầu rất nhỏ đến một nơi trú ẩn rộng lớn.
    Một số người tự hỏi tại sao, trong dụ ngôn về Hạt cải, Chúa Giê-su gọi hạt cải là hạt “nhỏ nhất” và cây cải trưởng thành là cây “lớn nhất” trong vườn, trong khi có những hạt nhỏ hơn và cây lớn hơn. Câu trả lời là Chúa Giê-su đang sử dụng phép cường điệu tu từ, một sự cường điệu để nêu bật quan điểm. Ngài không nói về thực vật học mà là về một hình ảnh minh họa. Chúa Giê-su nhấn mạnh vào sự thay đổi về kích thước – từ nhỏ đến lớn – và bản chất đáng ngạc nhiên của sự phát triển.
    Lịch sử của hội thánh đã chứng minh Dụ ngôn về Hạt cải của Chúa Giê-su là đúng. Hội thánh đã trải qua tốc độ phát triển bùng nổ qua nhiều thế kỷ. Hội thánh được tìm thấy trên toàn thế giới, nó là nguồn nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho tất cả những ai tìm kiếm phước lành của Vương quốc. Bất chấp sự đàn áp và những nỗ lực liên tục để dập tắt hội thánh, nó vẫn phát triển mạnh mẽ. Và đó chỉ là một bức tranh nhỏ về sự biểu hiện cuối cùng của Vương quốc Đức Chúa Trời, khi Chúa Giê-su trở lại trái đất để cai trị từ Si-ôn. Lúc đó Ngài và các thánh đồ cai trị Vương quốc thiên hy niên. Trong chương 11, chúng ta sẽ nói rõ hơn về vương quốc này. 
  • Dụ ngôn về men được tìm thấy trong hai sách Phúc âm. Đây là một câu chuyện rất đơn giản—thực sự là một bức ảnh chụp nhanh về cuộc sống: “Nước thiên đàng giống như men mà người đàn bà kia lấy trộn vào một khối bột lớn, cho đến khi tất cả bột đều dậy men” (Ma-thi-ơ 13:33, Lu-ca 13:20-21).
    Chúa Giê-su sử dụng câu chuyện này như một bài học thực tế để minh họa cho Vương quốc thiên đàng. Một người đàn bà lấy men và trộn vào bột. Cuối cùng, toàn bộ khối bột đều lên men. Điều đó có nghĩa là gì?
    Trước tiên, điều quan trọng là phải định nghĩa “Vương quốc thiên đàng”. Qua đó, Chúa Giê-su ám chỉ đến lãnh địa của Ngài. Trong thời đại hiện tại, Vương quốc thiên đàng là thuộc linh, tồn tại trong lòng những người tin. “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:21). Sau đó, vương quốc sẽ được biểu hiện hữu hình, khi Chúa Giê-su thiết lập sự cai trị của Ngài trên trái đất này (Khải huyền 11:15).
    Trong dụ ngôn về Men, chúng ta học được nhiều điều về cách thức hoạt động của Vương quốc trong thời đại hiện tại. Mỗi bài học này đều bắt nguồn từ bản chất của men.
    Đầu tiên, Vương quốc của Chúa có thể khởi đầu nhỏ bé, nhưng rồi sẽ lớn mạnh. Men có kích thước cực nhỏ, và chỉ một ít được nhào vào bột. Tuy nhiên, theo thời gian, men sẽ lan tỏa khắp bột. Tương tự như vậy, lãnh địa của Chúa Giê-su bắt đầu với mười hai người đàn ông ở một nơi hẻo lánh của Ga-li-lê, nhưng đã lan rộng khắp thế giới. Và ngày nay Phúc âm vẫn đang tiến triển.
    Thứ hai, Vương quốc của Chúa tác động từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài. Men làm cho bột nở ra từ bên trong. Trước tiên, Chúa thay đổi tấm lòng của một người, và sự thay đổi bên trong đó có những biểu hiện bên ngoài. Ảnh hưởng của phúc âm trong một nền văn hóa cũng hoạt động theo cách tương tự: Cơ đốc nhân trong một nền văn hóa đóng vai trò là tác nhân thay đổi, từng bước biến đổi nền văn hóa đó từ bên trong.
    Thứ ba, hiệu ứng của Vương quốc của Chúa là toàn diện. Giống như men hoạt động cho đến khi bột nở hoàn toàn, lợi ích cuối cùng của Vương quốc Đức Chúa Trời sẽ lan rộng khắp thế giới (Thi thiên 72:19; Đa-ni-ên 2:35). “Đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết về vinh quang của Đức Giê-hô-va như nước phủ kín biển” (Ha-ba-cúc 2:14).
    Thứ tư, mặc dù Vương quốc Đức Chúa Trời hoạt động một cách vô hình, nhưng hiệu quả của nó thì hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Men thực hiện công việc của mình một cách chậm rãi, bí mật và thầm lặng, nhưng không ai có thể phủ nhận hiệu quả của nó đối với bánh mì. Điều tương tự cũng đúng với công việc của ân điển trong lòng chúng ta.
    Bản chất của men là phát triển và thay đổi bất cứ điều gì nó tiếp xúc. Khi chúng ta tiếp nhận Đấng Christ, ân điển của Ngài phát triển trong lòng chúng ta và thay đổi chúng ta từ trong ra ngoài. Khi phúc âm biến đổi cuộc sống chúng ta, nó tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Lúc đó chúng ta “ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2 Cô-rinh-tô 3:18).
  • Dụ ngôn về kho báu ẩn giấu tiết lộ nhiều điều về bản chất và giá trị của thiên đàng. Chúa Giê-su đã dạy rằng: “Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua đám ruộng đó” (Ma-thi-ơ 13:44).
    Mặc dù ngắn gọn, dụ ngôn này làm sáng tỏ một số thực tế quan trọng. Một chi tiết ban đầu là Vương quốc thiên đàng bị che giấu khỏi tầm nhìn thông thường. Vương quốc của Chúa tồn tại trong phạm vi của tâm linh và không thể nhận thức được bằng các giác quan vật lý như thị giác và thính giác. Nhiều người sẽ bỏ lỡ Vương quốc thiên đàng vì nó bị che khuất đối với họ bởi sự chai sạn trong lòng và sự mù quáng về mặt tâm linh ( Ma-thi-ơ 13:11–17, 14; 2 Cô-rinh-tô 3:14; 4:4). Nhưng những người được Thánh Linh của Đức Chúa Trời mở mắt sẽ nhận ra lẽ thật tâm linh và tìm thấy kho báu thiên đàng được giấu kín, trong một đám ruộng (1 Cô-rinh-tô 2:12–15).
    Một đặc điểm thứ hai mà câu chuyện ngụ ngôn minh họa là bản chất đáng ngạc nhiên hoặc tình cờ mà giá trị của kho báu được khám phá. Chúng ta quá bận rộn với cuộc sống của mình, đi theo con đường riêng của mình, đến nỗi, nếu không có Đức Chúa Trời chủ động tiết lộ giá trị của vương quốc Ngài cho chúng ta, chúng ta sẽ vẫn lạc lối một cách vô định (Ê-sai 53:6; Ma-thi-ơ 18:12–14; Rô-ma 5:6–8; Ê-phê-sô 2:8; 1 Giăng 4:10, 19). Tuy nhiên, một khi mắt chúng ta mở ra để thấy giá trị vô song của Vương quốc, chúng ta tràn ngập niềm vui sâu sắc và không thể diễn tả được (Thi thiên 4:7; 132:16; Ê-sai 12:3; 1 Phi-e-rơ 1:8).
    Giá trị của kho báu trên trời của chúng ta là vô giá; nó đáng giá hơn mọi thứ chúng ta có. Trong hành trình của người thanh niên trẻ tuổi giàu có tìm kiếm Vương quốc thiên đàng, Chúa Giê-su đã khuyên, “Còn một điều ngươi chưa làm. Hãy bán hết gia tài mình và phân phát cho người nghèo, thì ngươi sẽ có kho báu trên trời. Sau đó, hãy đến, theo ta” (Lu-ca 18:22). Thật không may, chàng trai trẻ đã không thấy được giá trị của những gì Chúa Giê-su ban tặng, và anh ta đã quay lưng lại với Đấng Cứu Rỗi (Lu-ca 18: 23).
    Sứ đồ Phao-lô viết về sự thay đổi quan điểm của mình sau khi tìm thấy kho báu ẩn dụ được giấu trong một đám ruộng: “Tôi từng nghĩ những thứ này có giá trị, nhưng bây giờ tôi coi chúng là vô giá trị vì những gì Đấng Christ đã làm. Đúng vậy, mọi thứ khác đều vô giá trị khi so sánh với giá trị vô hạn của việc biết Chúa Giê-su Christ, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đã từ bỏ mọi sự khác, coi chúng như rác rưởi, để có được Đấng Christ và trở nên hiệp một với Ngài” (Phi-líp 3:7–9).
    Mặc dù kho báu trên trời của chúng ta đáng giá, nhưng vẫn có một cái giá phải trả, có một cái giá phải trả cho việc làm môn đồ. Những người tìm kiếm Vương quốc phải chấp nhận mọi hy sinh và trách nhiệm đi kèm với việc sở hữu kho báu này. Chúa Giê-su đã dạy các môn đồ của Ngài, “Nếu ai trong các ngươi muốn theo Ta, thì phải từ bỏ đường lối riêng của mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Nếu ai cố giữ mạng sống mình, thì sẽ mất nó. Nhưng nếu ai vì Ta mà từ bỏ mạng sống mình, thì sẽ cứu được nó. Và nếu các ngươi được cả thế gian mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Có điều gì đáng giá hơn linh hồn mình không?” (Ma-thi-ơ 16:24–26).
    Chừng nào chúng ta còn sống trên trái đất này, chúng ta sẽ phải chịu đựng sự ngược đãi, khó khăn và mất mát với tư cách là những người tin Chúa. Lời chứng của Phao-lô là: “Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi. Chúng tôi bị ép đủ cách, nhưng không đến cùng; bị túng thế nhưng không ngã lòng; bị bắt bớ, nhưng không đến bỏ; bị đánh đập, nhưng không đến chết mất. Chúng tôi thường mang sự chết của Đức Chúa Giê-su trong thân thể mình, hầu cho sự sống của Đức Chúa Giê-su cũng tỏ ra trong thân thể chúng tôi. Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Giê-su mà hằng bị nộp cho sự chết, hầu cho sự sống của Đức Chúa Giê-su cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi;” (2 Cô-rinh-tô 4:7–11).

4. Dụ ngôn về Lưới kéo, hay Dụ ngôn về Nhiều loại cá, trong Ma-thi-ơ 13:47-50.

Chúa Giê-su mở đầu dụ ngôn bằng cách nói rằng lưới kéo  minh họa một khía cạnh của Vương quốc thiên đàng. Câu chuyện kể về những người đánh cá sử dụng lưới kéo, một tấm lưới có trọng lượng kéo dọc theo đáy của một vùng nước để thu gom nhiều loại cá.
Trong dụ ngôn, lưới kéo được thả xuống biển và kéo lên bờ đầy đủ các loại cá. Sau đó, những người đánh cá ngồi xuống để phân loại cá “tốt” và “xấu”. Những con cá đáng giữ lại được gom vào các thùng chứa, nhưng những con còn lại bị ném đi.
Sau đó, Chúa Giê-su giải thích dụ ngôn cho các môn đồ của Ngài: “Vào ngày tận thế, các thiên sứ sẽ đến và tách những kẻ ác ra khỏi những người công chính và ném họ vào lò lửa, nơi sẽ có tiếng khóc lóc và nghiến răng” (câu 49-50).
Dụ ngôn này tương tự như Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43). Cả hai dụ ngôn đều liên quan đến sự phân loại vào thời kỳ cuối cùng, với sự hỗ trợ của các thiên sứ, khi những người tin Chúa sẽ được tách khỏi những người không tin Chúa một lần và mãi mãi.
Giống như lưới được thả xuống biển kéo theo nhiều cá, sứ điệp phúc âm được truyền bá khắp thế giới, thu hút nhiều người đến với nó. Giống như lưới thu gom đủ loại cá, bất kể giá trị của chúng. Phúc âm cũng thu hút nhiều người không ăn năn nhưng muốn theo Chúa Giê-su. Giống như cá không thể được phân loại cho đến khi lưới được kéo vào bờ, những tín đồ giả mạo là Cơ đốc nhân chân chính sẽ bị loại ra trong ngày tận thế.
Những “con cá xấu” hoặc tín đồ giả này có thể được ví như đất sỏi đá và đất gai gốc trong Ma-thi-ơ 13:5-7 và cỏ lùng trong câu 40. Họ tuyên bố có mối quan hệ với Chúa Giê-su, nói rằng “Lạy Chúa, lạy Chúa” (Ma-thi-ơ 7:22), và câu trả lời của Chúa Giê-su sẽ là “Ta không hề biết các ngươi. Hãy tránh xa Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác!” (câu 23).
Điểm chính đáng suy ngẫm của câu chuyện ngụ ngôn có thể được nêu như sau: “Sẽ đến ngày phán xét khi Chúa sẽ tách những tín nhân chân thật ra khỏi những kẻ giả mạo, và những kẻ bị phát hiện là gian dối sẽ bị ném vào địa ngục.”

5. Dụ ngôn Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43)

Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng, hay Cỏ lùng, chứa đầy ý nghĩa và chân lý thuộc linh. Nhưng, bất chấp lời giải thích rõ ràng về dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã đưa ra, dụ ngôn này rất thường bị hiểu sai. Nhiều bài bình luận và bài giảng đã cố gắng sử dụng câu chuyện này như một minh họa về tình trạng của hội thánh, lưu ý rằng có cả những tín đồ chân chính (lúa mì) và những giáo sư giả (cỏ lùng) trong cả hội thánh nói chung và các hội thánh địa phương riêng lẻ. Mặc dù điều này có thể đúng, Chúa Giê-su giải thích rõ ràng rằng ruộng không phải là hội thánh; đó là thế giới (câu 38).

Ngay cả khi Ngài không nói cụ thể với chúng ta rằng thế giới là bối cảnh của câu chuyện, thì điều đó vẫn rất rõ ràng. Người chủ đất bảo những người hầu không được nhổ cỏ lùng trong đám ruộng, mà hãy để chúng cho đến tận thế. Nếu đám ruộng là hội thánh, thì mệnh lệnh này sẽ trực tiếp mâu thuẫn với lời dạy của Chúa Giê-su trong Ma-thi-ơ 18, trong đó cho chúng ta biết cách đối phó với những tội nhân không ăn năn trong hội thánh: họ phải bị đuổi khỏi sự thông công và bị đối xử như những kẻ không tin. Chúa Giê-su không bao giờ chỉ thị chúng ta để những tội nhân không ăn năn ở lại giữa chúng ta cho đến tận thế. Vì vậy, Chúa Giê-su đang dạy ở đây về “Vương quốc thiên đàng” trên thế giới.

Trong xã hội nông nghiệp thời Chúa Giê-su, nhiều nông dân phụ thuộc vào chất lượng mùa màng của họ. Một kẻ thù gieo cỏ dại sẽ phá hoại một nông trại. Cỏ lùng trong câu chuyện ngụ ngôn có thể là cỏ lùng vì loại cỏ dại đó, cho đến khi trưởng thành, trông giống như lúa mì. Nếu không có thuốc diệt cỏ hiện đại, một người nông dân khôn ngoan sẽ làm gì trong tình huống khó xử như vậy? Thay vì nhổ lúa mì cùng với cỏ lùng, người chủ đất trong câu chuyện ngụ ngôn này đã khôn ngoan đợi đến mùa thu hoạch. Sau khi thu hoạch toàn bộ cánh đồng, cỏ lùng có thể được tách ra và đốt. Lúa mì sẽ được lưu trong kho thóc.

Trong lời giải thích về dụ ngôn, Chúa Giê-su tuyên bố rằng chính Ngài là người gieo giống. Ngài gieo hạt giống cứu chuộc của Ngài. Những tín đồ chân chính trên cánh đồng thế gian nhờ ân điển Ngài sinh hoa trái của Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-24). Sự hiện diện của họ trên đất là lý do khiến “Vương quốc thiên đàng” giống như cánh đồng thế gian. Khi Chúa Giê-su nói, “Vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 3:2; 4:17), Ngài muốn nói đến một thế giới tâm linh tồn tại trên đất song song với thế giới của kẻ ác. “Chúng ta biết mình thuộc về Đức Chúa Trời, còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỉ” (1 Giăng 5:19). Khi Vương quốc thiên đàng thành tựu, thiên đàng sẽ trở thành hiện thực và sẽ không có “cỏ dại” giữa “lúa mì”. Nhưng hiện tại, cả hạt giống tốt và xấu đều phát triển trên thế gian. “Ruộng là thế gian.”

Kẻ thù trong dụ ngôn là Sa-tan. Đối lập với Chúa Giê-su, ma quỷ cố gắng phá hoại công việc của Chúa bằng cách đưa những tín đồ và thầy giảng giả mạo vào thế gian để dẫn dắt nhiều người đi lạc. Người ta chỉ cần nhìn vào các vụ bê bối của Cơ đốc giáo trên các phương tiện truyền thông gần đây là biết thế giới đầy rẫy những người tự nhận là “Cơ đốc nhân”  nhưng lại có hành động vô đạo đức làm ô danh Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không được truy đuổi những người như vậy để tiêu diệt họ. Trước hết, chúng ta không biết liệu những tín đồ ngây thơ và non nớt có thể bị tổn thương bởi những nỗ lực của chúng ta hay không. Hơn nữa, người ta chỉ cần nhìn vào Tòa án dị giáo Tây Ban Nha, các cuộc Thập tự chinh để thấy kết quả của việc con người tự mình gánh vác trách nhiệm tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả, một nhiệm vụ chỉ dành riêng cho Chúa. Thay vì yêu cầu những tín đồ giả này phải bị nhổ tận gốc khỏi thế gian và có thể làm tổn thương những tín đồ non nớt trong quá trình này, Chúa Giê-su cho phép họ ở lại cho đến khi Ngài tái lâm. Vào thời điểm đó, các thiên sứ sẽ tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả mạo.

Ngoài ra, chúng ta không được tự mình nhổ tận gốc những người không tin vì sự khác biệt giữa những tín đồ chân chính và tín đồ giả không phải lúc nào cũng rõ ràng. Cỏ lùng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển, giống như lúa mì. Tương tự như vậy, một tín đồ giả có thể giống với một tín đồ chân chính. Trong Ma-thi-ơ 7:22, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nhiều người tuyên xưng đức tin nhưng không biết Ngài. Vì vậy, mỗi người nên xem xét mối quan hệ của chính mình với Đấng Christ (2 Cô-rinh-tô 13:5). Thư tín Giăng thứ nhất là một bài kiểm tra tuyệt vời về sự cứu rỗi.

Một ngày nào đó, Chúa Giê-su Christ sẽ thiết lập sự công chính thật. Sau khi Ngài cất Hội thánh thật ra khỏi thế gian này, Đức Chúa Trời sẽ trút cơn thịnh nộ công chính của Ngài xuống thế gian. Trong cơn hoạn nạn đó, Ngài sẽ thu hút những người khác đến với đức tin cứu rỗi nơi Chúa Giê-su Christ. Vào cuối cơn hoạn nạn, tất cả những người không tin sẽ bị phán xét vì tội lỗi và sự không tin của họ; sau đó, họ sẽ bị loại khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Những người theo Chúa Giê-su thực sự sẽ trị vì với Ngài trong Vương quốc thiên hy niên. Đây là một hy vọng cho tương lai của tất cả những Cơ đốc nhân trung tín.

6. Dụ ngôn về người làm công. “Vả, nước thiên đàng giống như người chủ nhà kia, tảng sáng đi ra để mướn người làm công cho vườn nho mình. Khi người chủ đã định giá với người làm công, mỗi ngày một đơ-ni-ê, thì sai họ vào vườn nho mình. Ước chừng giờ thứ ba, người chủ lại ra, thấy những kẻ khác rảnh việc đứng trong chợ, thì nói cùng họ rằng: Các ngươi hãy đi vào vườn nho ta, và ta sẽ trả tiền công phải cho. Họ liền đi. Ước chừng giờ thứ sáu và giờ thứ chín, người chủ lại ra, cũng làm như vậy. Ước chừng giờ thứ mười một, chủ ra, lại thấy những kẻ khác đứng trong chợ, thì hỏi rằng: Sao các ngươi đứng đây cả ngày không làm gì hết! Họ trả lời rằng: Vì không ai mướn chúng tôi. Người chủ nói với họ rằng: Các ngươi cũng hãy vào đi trong vườn nho ta.

Đến tối, chủ vườn nho nói với người giữ việc rằng: Hãy gọi những người làm công mà trả tiền công cho họ, khởi từ người rốt cho đến người đầu. Những người làm công mướn từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Rồi tới phiên những người đầu đến, tưởng lãnh được nhiều hơn; song họ cũng lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Khi lãnh rồi, lằm bằm cùng chủ nhà, mà rằng: Những người rốt ấy chỉ làm một giờ, mà chủ đãi cũng như chúng tôi, là kẻ đã chịu mệt nhọc cả ngày và giang nắng. Song chủ trả lời cho một người trong bọn họ rằng: Bạn ơi, ta không xử tệ với ngươi đâu; ngươi há chẳng định cùng ta một đơ-ni-ê sao? Hãy lấy của ngươi mà đi đi; ta muốn trả cho kẻ rốt này bằng như đã trả cho ngươi vậy. Ta há không có phép dùng của cải ta theo ý muốn ta sao? Hay là ngươi thấy ta ở tử tế mà lấy mắt ganh sao? Đó, những kẻ rốt sẽ nên đầu và kẻ đầu sẽ nên rốt là như vậy” (Ma-thi-ơ 20:1-16).

Đơ-ni-ê là đồng tiền đúc bằng bạc được sử dụng trong thời chính quyền La-mã cai trị xứ Palestine. Giờ làm việc bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng, như vậy giờ thứ mười một là khoảng 4 hoặc 5 giờ chiều. Người làm công đa số là người nghèo nhận những công việc thời vụ trong mùa thu hoạch, họ cần tiền để đắp đổi qua ngày. Kinh thánh Cựu ước cũng khuyên dạy những người thuê mướn họ:

“Không được ức hiếp người làm thuê nghèo khó và bần cùng, dù người đó là anh em mình hay là ngoại kiều tạm cư trong xứ và trong thành của anh em. Phải thanh toán tiền công cho người ấy mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, vì người ấy vốn nghèo khó chỉ còn biết trông chờ vào đó. Nếu không, người ấy sẽ kêu van Đức Giê-hô-va về anh em và anh em phải mắc tội” (Phục truyền luật lệ ký 24: 14 – 15)

Câu chuyện lấy bối cảnh trong cuộc sống hằng ngày nhưng ngụ ý về Vương quốc. Vườn nho biểu trưng cho hội thánh, chủ vườn là Chúa. Những người làm công biểu trưng cho những người đáp lời kêu gọi của Chúa, thời gian trong ngày là đời người, và tiền công là sự sống vĩnh cửu. Sự kêu gọi đến với mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời. Một số đáp lời sớm, một số trễ hơn, và số khác chỉ đáp lời lúc cuối đời. Nhưng bất cứ ai chấp nhận lời mời đều sẽ được hưởng sự sống đời đời.

Thông điệp của dụ ngôn này thật rõ ràng. Trong khi chúng ta vẫn mặc định rằng người làm việc khó nhọc hơn xứng đáng với tiền công lớn hơn, thì người chủ vườn nho hành động ngược lại; do đó một số người xem đó là không công bằng. Nhưng chủ vườn bảo với họ rằng không ai bị xử tệ cả, bởi vì họ đã đồng ý với chủ vườn về số tiền họ sẽ nhận cho ngày làm việc của họ (một đơ-ni-ê cho một ngày công là tiền lương khá hậu hĩnh vào thời đó). Ông cũng bảo cho họ biết ông đang sử dụng tài sản của ông theo ý ông muốn. Luật lệ trên Vương quốc Thiên đàng là do Đức Chúa Trời thiết lập: sự cứu rỗi dành cho loài người hoàn toàn phụ thuộc vào ân điển của Ngài, không do công đức hoặc nỗ lực hoặc nếp sống khổ hạnh của bất cứ ai, bởi vì không ai có thể đáp ứng những chuẩn mực đạo đức của Đức Chúa Trời.

Ai là người làm công được nhận vào giờ thứ mười một? Có thể là những người tiếp nhận ân điển lúc lâm chung, cũng có thể là những kẻ bị xem thường dưới mắt những tín đồ lâu năm luôn sốt sắng trong các bổn phận tôn giáo. Nhưng chớ vội vàng kết luận. Trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng ta đều là người làm công giờ thứ mười một, và chúng ta đều được Chúa mời vào vương quốc của ngài cách vinh dự. Vì vậy, không cần phải đoán định ai là người làm công giờ thứ mười một. Thông điệp của dụ ngôn là chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi ân điển của Chúa, không bởi những gì chúng ta có.

Phản ứng của một vài người trong số những người làm công trong vườn nho đối với điều họ cho là bất công, biểu trưng cho sự tự mãn thuộc linh thường dễ nhận thấy trong vòng những tín hữu lâu năm. Họ tin rằng phần thưởng dành cho họ phải tương xứng với thời gian họ phụng sự Chúa. Đó là kết quả của cách suy nghĩ cho rằng sự cứu rỗi đến từ công đức, và đó là điều mà dụ ngôn này muốn bác bỏ.

KẾT LUẬN

Tuy nhiên, thông điệp của Chúa Giê-su được kể qua các dụ ngôn không phải ai nghe cũng hiểu được. Trong một lần, các môn đồ hỏi thầy tại sao Ngài  lại dùng cách dạy này và Chúa  trả lời rằng thông điệp của Ngài  sẽ chỉ có những ai có đức tin nơi Ngài và Đức Chúa Trời mới có thể hiểu được.2

 “Môn đồ bèn đến gần Ngài mà hỏi rằng: sao thầy dùng thí dụ mà phán cùng chúng vậy?  Ngài đáp rằng: bởi vì đã ban cho các ngươi được biết những điều mầu nhiệm của nước thiên đàng, song về phần họ, thì không ban cho biết. Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ được dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì lại cất luôn điều họ đã có nữa. Vậy nên ta phán thí dụ cùng chúng; vì họ xem mà không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết” (Ma-thi-ơ 13: 9-13).

Những người có tấm lòng cứng cỏi và không tin nhận Chúa cho dù họ có lắng nghe bao nhiêu đi nữa, sẽ không bao giờ hiểu được những lẽ thật về Vương quốc Đức Chúa Trời. Những lời này của Chúa Giê-su đã ứng nghiệm những gì Đức Chúa Trời phán qua tiên tri Ê-sai 30: 9-10, “Dân nầy là bội nghịch, là con cái nói dối, con cái không muốn nghe luật pháp Đức Giê-hô-va; nói với kẻ tiên kiến rằng: Đừng tiên kiến làm chi! nói với kẻ tiên tri rằng: Đừng nói tiên tri về lẽ thật! Hãy nói cho chúng tôi những điều vui thú, hãy lấy những sự huyễn hoặc bảo chúng tôi!”

THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 3

  1. Dr. G. Campbell Morgan.  Những thí dụ và ẩn dụ của Chúa chúng ta. Phòng sách Tin Lành 1967.
  2. https://vi.postposmo.com/ Ngày truy cập 16 tháng 12/2024.

Chương 4

CÁC SỨ ĐỒ DẠY VỀ VƯƠNG QUỐC

Trong chức vụ của mình, Chúa Giê-su đã công bố vương quốc của Đức Chúa Trời là sứ điệp trung tâm của Ngài. Trong Công vụ các Sứ đồ và trong các thư tín của Phao-lô, các sứ đồ tiếp tục chia sẻ lời dạy của Chúa Giê-su về vương quốc. Họ tiếp tục dạy những gì thầy của họ đã dạy.

Chúa Giê-su giờ đây là Đấng Mê-si và là Chúa được tôn cao, và Đức Thánh Linh hiện diện trong hội thánh và hoạt động trên thế giới. Vì vậy, thay vì chỉ nói về vương quốc của Đức Chúa Trời, các sứ đồ cũng nói về Chúa Giê-su là Vua (tức là Quyền tể trị của Chúa Giê-su, Đấng ngự bên hữu Đức Chúa Cha), và về quyền năng của Đức Thánh Linh, Đấng tiếp tục công việc của Chúa Giê-su trên thế giới.

Trước tiên, chúng ta sẽ xem Công vụ các Sứ đồ và sau đó là lời dạy của Phao-lô. Vì cụm từ “Vương quốc của Đức Chúa Trời” xuất hiện không nhiều, nên chúng ta cần liệt kê và tô đậm những câu này. Sau khi làm vậy, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa quyền tể trị của Đấng Christ và quyền năng của Đức Thánh Linh với vương quốc của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét đến sách Khải huyền của Giăng với chủ đề về Vương quốc.

1. Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời. (Công vụ 1:3).

2. Phi-líp đang rao giảng ở Sa-ma-ri, và Lu-ca mô tả việc này là rao giảng tin mừng về vương quốc  Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ. “Nhưng khi chúng đã tin Phi-líp, là người rao giảng Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Giê-su Christ cho mình, thì cả đàn ông, đàn bà đều chịu phép báp-tem” (Công vụ 8:12).

3. Ba-na-ba và Phao-lô “giục các môn đồ, vững lòng, khuyên phải bền đổ trong đức tin, và bảo trước rằng phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời ( Công vụ 14:22).

4.   “Phao-lô vào nhà hội, và trong ba tháng giảng luận một cách dạn dĩ ở đó; giải bày những điều về nước Đức Chúa Trời mà khuyên dỗ các kẻ nghe mình” (Công vụ 19:8)..

5. “Hiện bây giờ, tôi biết rằng giữa anh em mà tôi đã ghé qua giảng về nước Đức Chúa Trời, thì chẳng có một ai sẽ thấy mặt tôi nữa” (Công vụ 20:25).

6.  “Họ đã hẹn ngày với người, bèn đến thăm tại nơi nhà trọ rất đông; từ buổi sáng đến chiều, người cứ làm chứng và giảng giải với họ về nước Đức Chúa Trời, lấy luật pháp Môi-se và các đấng tiên tri mà gắng sức khuyên bảo họ về Đức Chúa Giê-su” ( Công vụ 28:23).

7. Phao-lô “giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết” ( Công vụ 28:31)

Những đoạn văn này làm rõ rằng các sứ đồ đã giải thích Vương quốc của Đức Chúa Trời dưới góc nhìn của Chúa Giê-su Christ. Điều này được xác nhận nếu chúng ta xem xét các bài giảng đầu tiên của Hội thánh, được ghi lại trong Công vụ 2:14-36; 2:38- 39; 3:12-26; 10:34-43.

Có thể tóm lược nội dung 1 các sứ đồ đã giảng về Chúa Giê-su:

1. Các lời tiên tri của Cựu Ước về Đấng Christ đã được ứng nghiệm, và thời đại mới đã hiện thực hóa chúng, thông qua sự xuất hiện của Chúa Giê-su.

2. Chúa Giê-su sinh ra từ dòng dõi Vua Đa-vít.

3. Chúa Giê-su đã chết như các tiên tri đã báo trước để giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và thời đại gian ác hiện tại.

4. Chúa Giê-su đã được chôn cất và thực sự đã chết.

5. Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba, như các tiên tri đã báo trước.

6. Chúa Giê-su hiện được tôn lên cao ngồi bên hữu Đức Chúa Cha với tư cách là Đấng Mê-si.

7. Chúa Giê-su sẽ tái lâm với tư cách là Đấng phán xét thế gian.

8. Sự tha thứ được ban cho những ai ăn năn và tin nhận Phúc âm Vương quốc.

CHÚA GIÊ-SU RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC

Theo Mác, Chúa Giê-su đi vào Ga-li-lê khi bắt đầu chức vụ công khai của mình và tuyên bố, “Kỳ đã trọn, và vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần; hãy ăn năn và tin nhận phúc âm” (1:15).

Trong chức vụ công khai của mình, Chúa Giê-su đã kêu gọi mọi người tin và tiếp nhận lời của Ngài về Đức Chúa Trời và vương quốc Đức Chúa Trời. Các sứ đồ kêu gọi mọi người tin nhận Chúa Giê-su. Trọng tâm của sứ điệp của Chúa Giê-su là vương quốc Đức Chúa Trời và trọng tâm sứ điệp của các sứ đồ là Chúa Giê-su. Ngài là Đấng Mê-si đã chết, đã phục sinh, thăng thiên và hiện ngồi bên hữu Đức Chúa Trời trên thiên đàng.

Sách Công vụ các sứ đồ nêu rõ rằng sự cứu rỗi của Chúa Giê-su được hiện thực hóa trong cuộc sống cá nhân thông qua sự hiện diện của Chúa Thánh Linh. Đức Thánh Linh đã đến với một trăm hai mươi môn đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, vương quốc của Đức Chúa Trời hiện được trải nghiệm thông qua đức tin vào Chúa Giê-su và bày tỏ qua việc tiếp nhận ân tứ ĐứcThánh Linh.

Khi Chúa Giê-su đuổi quỷ và chữa lành người bệnh bằng quyền năng của Đức Thánh Linh, Ngài  nói rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Trong sách Công vụ các sự chữa lành được xác định là nhờ quyền năng trong danh Chúa Giê-su (hay quyền năng của Đức Thánh Linh).

CÁC THƯ TÍN CỦA PHAO-LÔ NÓI ĐẾN VƯƠNG QUỐC.

“Phao-lô được trao cơ hội để làm những điều phi thường cho Vương quốc của Đức Chúa Trời, đặc biệt  những năm cuối đời của ông cho thấy sự khác biệt rõ rệt khi ông sống cho Đấng Christ và cho sự phát triển của Vương quốc Ngài.

Trong Công vụ 28:31, Phao-lô chia sẻ tin lành về Chúa Giê-su Christ: ông “giảng về Nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn, chẳng ai ngăn cấm.” Phao-lô không ngại nói cho người khác biết những gì Chúa đã làm cho ông. Vị sứ đồ trứ danh này đã dành trọn cuộc đời mình, từ hoán cải đến chịu tử đạo, làm việc không mệt mỏi cho Nước Đức Chúa Trời.”2

Phao-lô là trước giả của 13 thư tín trong Tân ước. Trong chủ đề về Vương quốc, chúng ta có thể đề cập đến từng điểm mà ông nói đến sau đây:

1. Có một số bất đồng trong hội thánh tại Rô-ma về việc thức ăn và đồ uống nào được phép đối với Cơ đốc nhân. Khi đưa ra lời khuyên, Phao-lô nói rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời không phải là thức ăn và đồ uống mà là sự công bình, bình an và vui mừng trong Đức Thánh Linh (Rô-ma 14:17). Ở đây, ông tuyên bố rằng sự kiện chính mà Cơ đốc nhân tự hỏi là liệu Đức Chúa Trời có cai trị trong cuộc sống của họ hay không, và bằng chứng của sự cai trị đó là sự hiện diện của sự công bình, bình an và vui mừng, đến từ sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Vương quốc là một thực tại bên trong tấm lòng tín nhân. Quyền năng và sự hiện diện của Đức Thánh Linh nội trú bên trong tạo ra một đời sống thánh khiết.

2. Để hiểu được thực tại là gì, Phao-lô đã nói với người Cô-rinh-tô rằng Vương quốc Đức Chúa Trời không phải là lời nói mà là quyền năng (1 Cô-rinh-tô 4:20). Sự hiện diện quyền năng của Thánh Linh trong cuộc sống giúp người tin Chúa không chỉ nói mà còn sống và hành động vì Đức Chúa Trời, nghĩa là tín nhân nhận được quyền năng từ Chúa để thi hành các mục vụ , trong đó bao hàm cả sức mạnh để chịu sự sỉ nhục và bắt bớ vì cớ Đấng Christ.

3. Trong một tuyên bố phủ định khác, Phao-lô nói, “Anh em không biết rằng những kẻ không công bình sẽ không được hưởng vương quốc Đức Chúa Trời sao?” (1 Cô-rinh-tô 6:9) và tiếp theo là: “Đừng để bị lừa dối; những kẻ gian dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ trộm cắp, kẻ tham lam, kẻ say sưa, kẻ chửi rủa, kẻ cướp bóc sẽ không được hưởng Vương quốc Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 6:9-10). Trong Vương quốc Đức Chúa Trời không có những con người được liệt kê trên đây.

5. Sau khi Đấng Christ tái lâm, sẽ có sự sống lại của người chết. Kế tiếp là khi Đấng Christ trao vương quốc cho Đức Chúa Cha sau khi đã phá hủy mọi quyền cai trị và mọi thế lực (1 Cô-rinh-tô 15:24). Điều này sẽ xảy ra vào cuối lịch sử loài người, khi vương quốc của Chúa đến trong sự trọn vẹn.

Từ khi Chúa Giê-su khi thăng thiên cho đến khi Ngài tái lâm, có một ý nghĩa thực sự rằng Đấng Christ,  là Vua của Vương quốc Đức Chúa Trời, và đây là điều được nói đến.

6. Vì Vương quốc Đức Chúa Trời trong sự hoàn hảo của nó, nên thịt và huyết không thể thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời. “Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được” (1 Cô-rinh-tô 15:50).

7. Phao-lô đã nói với người Ga-la-ti cũng giống như những gì ông đã nói với người Cô-rinh-tô. Những người có cuộc sống bị chi phối bởi những ham muốn tội lỗi thì không ở trong Vương quốc của Chúa. “Các công việc của xác thịt rất rõ ràng: gian dâm, ô uế, ích kỷ, ganh tị và những điều tương tự. Những ai làm những điều như vậy sẽ không được thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 5:19-21).

8. Và ông có cùng một lời khuyên cho người Ê-phê-sô. “Không có kẻ gian dâm hay người ô uế nào có cơ nghiệp trong vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 5:5). Ở đây chúng ta có sự song hành thú vị của vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời. Điều này tương tự như 1 Cô-rinh-tô 15:24, “Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực.” Lời này nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ Đấng Christ là Chúa được tôn cao đang ngồi bên hữu  Đức Chúa Cha với tư cách là Vua.

9. Một tham chiếu khác về Vương quốc thuộc về Đấng Christ được tìm thấy trong Cô-lô-se 1:13, “Ngài (Đức Chúa Trời) đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua Nước của Con rất yêu dấu Ngài.” Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trong cuộc sống con người đến với các Cơ Đốc nhân thông qua Chúa Giê-su Christ trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Theo thiết kế và ý muốn của Đức Chúa Cha, và thông qua công ơn cứu rỗi của Đấng Christ, sự cứu rỗi được dành cho tín nhân. Và điều này được Đức Thánh Linh áp dụng cho họ. Cho đến cuối lịch sử, Đức Chúa Con cai trị với tư cách là người đại diện của Đức Chúa Cha, và vì vậy Vương quốc thuộc về Ngài.

10. Phao-lô không làm việc một mình để công bố Vương quốc của Đức Chúa Trời, và ông mô tả những người làm việc với ông là những người đồng công cho Vương quốc của Đức Chúa Trời. “Giê-su gọi là Giúc-tu cũng có lời thăm anh em. Trong những người chịu cắt bì, chỉ ba người đó cùng tôi vì Nước Đức Chúa Trời mà làm việc” (Cô-lô-se 4:11). Ông đang nói rằng Đức Chúa Trời đã chọn con người làm phương tiện của ân điển để tin tức về Vương quốc và các phước lành của nó được biết đến trên trái đất. Đức Chúa Trời sử dụng những đầy tớ của Ngài như những phát ngôn nhân cho Vương quốc.

11. Khi Phao-lô ở Tê-sa-lô-ni-ca, ông đã thúc giục và khuyến khích các Cơ Đốc nhân sống một cuộc sống xứng đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em vào Vương quốc và vinh quang của Ngài (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12). Nhờ sự tái sinh, các tín đồ được sinh ra trong Vương quốc của Đức Chúa Trời, và họ sẽ trải nghiệm sự trọn vẹn và vinh quang của Vương quốc vào thời kỳ cuối cùng.

12. Trong thử thách và sự bắt bớ, các Cơ Đốc nhân ở Tê-sa-lô-ni-ca vẫn kiên định trong đức tin. Vì vậy, ông đã viết: “Ngài muốn khiến anh em nên xứng đáng cho nước Ngài, là vì nước đó mà anh em chịu khổ” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5). Nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, các Cơ Đốc nhân vẫn giữ được đức tin trong cơn hoạn nạn và qua đó đã tiết lộ rằng quyền cai trị của Đức Chúa Trời là Vua trong cuộc sống của họ và rằng họ là công dân của Vương quốc.  

13. Bày tỏ lời ngợi khen Chúa, Phao-lô thốt lên: “Nguyền xin sự tôn quí, vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men” (1 Ti-mô-thê 1:17). Ở đây lẽ thật của Cựu Ước về Đức Chúa Trời là Vua được tái khẳng định. Ngài là Chúa của lịch sử.

14. Khi mô tả cùng một Đức Chúa Trời, Phao-lô viết, “Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men” (1 Ti-mô-thê 6:15-16).

15. Khi viết thư cho Ti-mô-thê, Phao-lô long trọng truyền lệnh: “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Giê-su Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng…” (2 Ti-mô-thê 4:1). Lời kêu gọi của Phao-lô dựa trên bối cảnh của hai lẽ thật – sự tái lâm của Đấng Christ trong quyền năng, và sự trọn vẹn của Vương quốc trong tương lai.

16. Sự chắc chắn về Vương quốc tương lai cũng được tìm thấy trong câu này của Phao-lô: “Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong Nước trên trời của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:18).

Các chủ đề được tìm thấy trong những câu này phải được kết hợp lại với nhau để có được bức tranh tổng quát về quan điểm thần học của Phao-lô trong chủ đề vương quốc. Trước hết, chúng ta lưu ý rằng sau lời dạy của Chúa Giê-su, Phao-lô hiểu vương quốc có cả chiều kích hiện tại và tương lai. Thực tế về sự cai trị của Đức Chúa Trời ở đây và bây giờ được dạy trong Rô-ma 14:17 và Cô-lô-se 1:13, trong khi hy vọng về vương quốc vinh quang trong tương lai được tìm thấy trong 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; 2 Ti-mô-thê 4:1, 18.

Thứ hai, Phao-lô nhấn mạnh giống như Chúa Giê-su đã làm trong bài giảng trên núi, về sự trong sạch của cuộc sống tín nhân, về sự công bình và thánh khiết, như là bằng chứng của tư cách thành viên trong vương quốc. Và đó cũng là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời cai trị qua Đức Thánh Linh trong lòng tín nhân. Điều này được thấy rõ trong Rô-ma 14:17; 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; Ga-la-ti 5:21; Ê-phê-sô 5:5; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12; và 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5. Phao-lô nhấn mạnh đến các yếu tố đạo đức này làm chủ đề nổi bật khi nói về Vương quốc.

Cuối cùng, Phao-lô noi theo lời của chính Chúa Giê-su trong Giăng 18:36 để nói về Vương quốc là Vương quốc của Đấng Christ (1 Cô-rinh-tô 15:24; Ê-phê-sô 5:5; Ê-sai 1:13). Là Chúa được tôn cao, Chúa Giê-su Christ cai trị vương quốc của Đức Chúa Trời với tư cách là Đấng thay mặt cho Đức Chúa Cha. Vì giáo huấn này về quyền tể trị của Đấng Christ rất quan trọng đối với Phao-lô, nên chúng ta sẽ xem xét thêm về điều này.

UY QUYỀN TỐI CAO CỦA CHÚA GIÊ-SU.

Rao giảng Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong mục vụ của Phao-lô trong tin lành về Nước Đức Chúa Trời.  Và việc xưng nhận Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong sự hiểu biết của ông về ơn cứu rỗi. Sau đây là một số tuyên bố mạnh mẽ của Phao-lô:

“Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu” (Rô-ma 10:9).

“Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Đức Chúa Giê-su là Chúa” (1 Cô-rinh-tô 12:3).

“Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-su Christ, tức là Chúa” (2 Cô-rinh-tô 4:5).

Sau đó, để hiểu đầy đủ quan điểm của Phao-lô về Chúa Giê-su là Chúa, chúng ta đọc Phi-líp 2:6-11 sau đây:

“Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-su Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” 

Ở đây, Phao-lô nói rằng Chúa Giê-su Christ (trong sự phục sinh và thăng thiên) được tôn cao, sau sự sỉ nhục lớn lao của Ngài khi rời bỏ vinh quang của thiên đàng để trở thành một con người và chịu đau khổ vì tội lỗi của thế gian.

Bức tranh về Chúa Giê-su được tôn cao đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha (Công vụ 7:56; Ê-phê-sô 1:20) dựa trên Thi thiên 110:1, “Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi.” Đây là cách đơn giản để nói rằng Chúa Giê-su, Chúa được tôn cao, cai trị như là người đại diện của Đức Chúa Cha. Đối với thời đại hiện tại, Đức Chúa Cha đã giao quyền cai trị vào tay Chúa Giê-su được tôn cao. Chúng ta có thể hiểu quyền cai trị của Đấng Christ bao gồm tất cả những gì Đức Chúa Cha cai trị. Đây là lý do tại sao Phao-lô có thể đưa ra tuyên bố, “Ngài (Chúa Giê-su) có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Cô-lô-se 1:17).

SỰ MẶC KHẢI CỦA GIĂNG TRONG SÁCH KHẢI HUYỀN

Một chủ đề nổi bật của sách Khải huyền là chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn cao trước mọi kẻ thù của Ngài. Sách được viết vào thời điểm các Cơ đốc nhân bị đàn áp vì họ không chịu khuất phục trước yêu cầu của chính quyền La Mã rằng Hoàng đế phải được tôn thờ là “Chúa và là Đức Chúa Trời.” 

Đức Chúa Trời đã ban cho Giăng những khải tượng về chiến thắng chắc chắn của Chúa Giê-su Christ khi ông bị lưu đày trên đảo Bát-mô. Vì vậy, trong suốt cuốn sách, Chúa Giê-su Christ được miêu tả là Đấng Chiến Thắng vĩ đại. Những kẻ thù bị đánh bại của Ngài là sự chết, Hades (vực thẳm), con rồng (Sa-tan), con thú (quyền lực La Mã), tiên tri giả và những kẻ tôn thờ con thú. Vì Chúa Giê-su Christ là Đấng Chiến Thắng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng cả Chúa Cha và Chúa Giê-su (Con) đều được gọi là Vua và được tôn thờ.

Sau đây là những câu Kinh thánh trong Khải huyền miêu tả Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su là Vua và nói về vương quốc.

1. Giăng giải thích sự đau khổ của ông, “Tôi là Giăng, là anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước (vương quốc), về sự nhịn nhục trong Đức Chúa Giê-su, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Đức Chúa Trời và chứng của Đức Chúa Giê-su” (1:9).

2. Giăng nhìn thấy, “Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (11:15).

3. “Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì” (11:16-17). Bài chúc tụng này báo trước sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời, và sự trị vì của Ngài vào thời kỳ cuối cùng.

4. Trước khi Vương quốc đến, kẻ thù của Đức Chúa Trời và kẻ thù của con người phải bị loại bỏ. “Tôi lại nghe trên trời có tiếng lớn rằng: Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng, và nước Đức Chúa Trời chúng ta đã đến cùng quyền phép của Đấng Christ Ngài nữa; vì kẻ kiện cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, nay đã bị quăng xuống rồi” (12:10).

5. Giăng cũng đã nghe xác nhận những gì ông biết từ việc nghiên cứu Cựu Ước. Đoàn hợp xướng thiên đàng cất tiếng: “Chúng hát bài ca Môi-se, là tôi tớ Đức Chúa Trời, và bài ca Chiên Con, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, công việc Chúa lớn lao và lạ lùng thay! Hỡi Vua của muôn đời, đường lối Ngài là công bình và chân thật” (15:3). Sau đó, ông nghe điệp khúc: “Ha-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng của chúng ta đang trị vì” (19:6).

6. Chúa Giê-su Christ sẽ chiến thắng mọi thế lực của Sa-tan trong thời kỳ cuối cùng. “Chúng chiến tranh cùng Chiên Con, Chiên Con sẽ được thắng, vì là Chúa của các chúa, Vua của các vua; và những kẻ được kêu gọi, những kẻ được chọn cùng những kẻ trung tín đều ở với Chiên Con, cũng thắng được chúng nữa” (17:14). Là một vị Vua chiến binh vĩ đại trên một con ngựa trắng, Ngài sẽ chiến thắng: “Trên áo tơi và trên đùi Ngài, có đề một danh là Vua Của Các Vua Và Chúa Của Các Chúa” (19:16).

Vì vậy, chúng ta thấy rằng Giăng được truyền cảm hứng để trình bày quyền cai trị của Chúa Giê-su. Ngài chiến thắng trước mọi kẻ thù và thiết lập Vương quốc. Mặc dù hình ảnh thì khác, nhưng nội dung giáo lý thì rất giống với quan điểm thần học của Phao-lô.

Một khía cạnh trong bài trình bày của Giăng về chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn vinh là các thánh đồ chia sẻ với Ngài trong sự cai trị và chiến thắng của Ngài. (12:10 và 17:14), những người được đại diện như một “Vương quốc” mà Ngài cai trị (1:6 và 5:10). Sự chia sẻ của các thánh đồ trong triều đại của Ngài được nêu rõ trong Khải huyền 20:4, 6. “Tôi lại thấy những ngai, và những người ngồi trên ngai được quyền xét đoán. Kế đó, tôi thấy linh hồn những kẻ đã phải chết chém vì sự làm chứng cho Đức Chúa Giê-su và vì lời Đức Chúa Trời, linh hồn những kẻ chẳng thờ lạy con thú cùng hình tượng nó, chẳng nhận dấu hiệu nó, hoặc trên trán hoặc trên tay. Các người ấy được sống và trị vì với Đấng Christ trong một ngàn năm…Phước thay và thánh thay những kẻ được phần về sự sống lại thứ nhất! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những người ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm.” 

TÓM LƯỢC

Đối với Chúa Giê-su, Vương quốc của Đức Chúa Trời là trung tâm trong chức vụ của Ngài. Đối với các sứ đồ, Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và là Chúa được tôn vinh.

Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 15:24, “Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực.”

Bởi vì Chúa Giê-su không chỉ công bố Vương quốc, mà Ngài còn là hiện thân cho Vương quốc. Nhờ Đức Thánh Linh là Đấng Yên ủi, là Thần Lẽ Thật, Chúa Giê-su – hiện thân cho Vương quốc được công bố và Ngài là Đầu Hội Thánh. Trong Chúa Giê-su, Vương quốc là một thực tại đối với tín nhân.

Cách duy nhất mà các sứ đồ có thể rao giảng về Vương quốc là rao giảng về Đấng hiện thân cho Vương quốc và Ngài đã đánh bại nước của Sa-tan, sự chết và địa ngục.

THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 4

  1. Peter Toon (1980). God’s Kingdom for today. Cornerstone Books, Westchester, Illinois
  2. https://www.gotquestions.org/Viet/Nhan-vat-Phao-lo-trong-Kinh-Thanh.html. Ngày truy cập 27 tháng 4/2025

Chương 5

NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA VƯƠNG QUỐC

Vương quốc của Chúa không thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động trên trái đất vì Ngài đã đặt nó vào bên trong chúng ta. “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:21). Tuy nhiên, chúng ta phải thực hiện các nguyên tắc của Vương quốc để nhận được phước hạnh của nó. Chúng ta tìm thấy các nguyên tắc của Vương quốc Đức Chúa Trời trong Kinh thánh. Do đó, chúng ta cần biết lẽ thật để hiểu những nguyên tắc Vương quốc này hoạt động.

Chúa đã thiết kế Vương quốc của Ngài để hoạt động theo một cách nhất định. Để tách mình khỏi hệ thống của thế gian và hoạt động trong hệ thống của Chúa, chúng ta cần tìm kiếm và sống theo lẽ thật của Lời Chúa. Lẽ thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự vướng mắc của hệ thống thế gian. Chúa Giê-su đã dạy:

“Nếu các ngươi cứ ở trong lời ta, thì các ngươi thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ giải thoát các ngươi” (Giăng 8:31-32).

Nếu không có lẽ thật, chúng ta không thể thoát khỏi hệ thống thế gian. Và như chúng ta đã  biết Sa-tan giam cầm con người trong hệ thống thế gian. Nếu họ không nghe hoặc không thấy lẽ thật của Lời Chúa, họ sống mà không có hy vọng nào trong cõi đời đời. Hãy nhớ rằng, với tư cách là công dân của vương quốc, chúng ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Hội thánh không được rút lui trong sự cô lập vì sợ bị ô uế, vì chúng ta là ánh sáng của thế gian.

Bàn tay của kẻ ác

Trong Thi thiên 82:3-5, tác giả Thi thiên cầu thay cho những người bị Sa-tan trói buộc: “Hãy đoán xét kẻ khốn cùng và người mồ côi; Hãy xử công bình cho người buồn rầu và kẻ túng ngặt. Khá cứu vớt kẻ khốn cùng và người thiếu thốn, Giải họ khỏi tay kẻ ác. Chúng nó không biết chi, cũng chẳng hiểu chi; Chúng nó đi qua đi lại trong sự tối tăm: Các nền trái đất đều rúng động.”

Toàn bộ hệ thống của thế giới này được thiết lập trên một nền tảng sai trật mà Chúa không muốn. Sa-tan không thể tạo ra bất cứ điều gì, và nó không thể nghĩ ra bất cứ điều gì mới, vì vậy nó đã lấy mô hình của Chúa và làm cho sai lệch đi. Martin Luther đã nói, “Ma quỉ là con khỉ bắt chước Đức Chúa Trời.”1 Lý do Sa-tan có thể thao túng mọi người là vì họ không có mối quan hệ với Chúa, không có sự mặc khải về vương quốc của Ngài. Do đó, ma quỉ có thể tác động qua những người mù quáng để tiếp tục xây dựng vương quốc đen tối của nó.

Sa-tan, trong nỗ lực chiếm lấy vương quốc của Chúa, thậm chí đã cố gắng cám dỗ Chúa Giê-su.

Ma quỉ đem Ngài lên, cho xem mọi nước thế gian trong giây phút; và nói rằng: Ta sẽ cho ngươi hết thảy quyền phép và sự vinh hiển của các nước đó; vì đã giao cho ta hết, ta muốn cho ai tùy ý ta. Vậy, nếu ngươi sấp mình xuống trước mặt ta, mọi sự đó sẽ thuộc về ngươi cả” (Lu-ca 4:5-7)

Nếu Sa-tan thành công trong việc khiến Chúa Giê-su thờ phượng nó, thì vương quốc tối tăm và hệ thống tà ác của nó sẽ chiếm lấy tất cả mọi người trên trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã chống lại nó bằng lẽ thật của Lời Chúa (Ma-thi-ơ 4: 4,7,10) và cuối cùng trao chìa khóa của vương quốc cho tất cả những ai muốn tiếp nhận Ngài. Bây giờ Ngài đã ban cho chúng ta chìa khóa của Vương quốc (Ma-thi-ơ 16:19), chúng ta có thể kích hoạt điều đó và chống lại ma quỷ bằng lẽ thật của Lời Chúa.

Sa-tan đứng sau một hệ thống đang kiểm soát nền kinh tế của thế giới, các tôn giáo do con người tạo ra và các tiến trình chính trị. Nhưng khi chúng ta có Vương quốc Đức Chúa Trời bên trong tấm lòng của mình, chúng ta có thể cai trị mọi thứ mà Sa-tan đã cố gắng thiết lập.

Sa-tan cũng không muốn bất kỳ ai biết rằng nó đứng sau hệ thống thế giới. Nó giống như kẻ ném đá giấu tay. Hoặc nó nói với những người bị tổn thương rằng Chúa đã làm họ tổn thương. Ma quỷ là kẻ làm tổn thương mọi người, nhưng nó chỉ tay vào Chúa để ngăn họ tin cậy Ngài. Sa-tan không muốn người ta rời khỏi vương quốc tối tăm để đến với vương quốc sáng láng.

Hãy nhìn vào con cái Y-sơ-ra-ên. Khi họ cố gắng rời khỏi hệ thống của Sa-tan ở Ai Cập, Pha-ra-ôn đã chống cự bằng tất cả sức mạnh của mình. Tại sao bạn cho rằng Pha-ra-ôn không muốn họ rời đi? Đó là vì ông cần họ xây dựng vương quốc của mình. Pha-ra-ôn không quan tâm đến người Do Thái, và Sa-tan cũng không quan tâm đến mọi người. Sa-tan chỉ sử dụng họ để để xây dựng nước của nó.

Khi chúng ta bước vào vương quốc của Chúa thông qua sự cứu rỗi và được giải thoát khỏi xiềng xích của Sa-tan, đôi khi chúng ta nghĩ rằng những điều tuyệt vời sẽ tự động xảy ra với chúng ta. Chúng ta tin rằng phước lành sẽ đến với chúng ta. Tuy nhiên, để những phước lành đó đến với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa. “Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, nầy là mọi phước lành sẽ giáng xuống trên mình ngươi” (Phục truyền luật lệ ký 28:2). Chúng ta cần thoát khỏi hệ thống của thế gian và tập chú hoàn toàn vào Chúa và Lời của Ngài, trong đó có các nguyên tắc của vương quốc Ngài.

Chúa không bị tác động bởi nhu cầu

Nguyên lý đầu tiên của vương quốc Chúa mà chúng ta cần hiểu là Chúa không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ma-thi-ơ 6:8 chép rằng, “Vậy, các ngươi đừng giống như họ; vì Cha các ngươi biết các ngươi cần gì trước khi các ngươi cầu xin Ngài.”

Chúa biết chúng ta cần gì, nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin Ngài. Chúng ta phải làm gì đó để đáp ứng nhu cầu của mình. Nếu chúng ta không làm phần việc của mình, Chúa sẽ không hành động thay cho chúng ta. Có rất nhiều ví dụ về điều này. Ở một số vùng của Ấn Độ, Châu Phi, Ha-i-ti và trên khắp thế giới, mọi người đang chết đói. Tại sao Chúa không hành động? Đó là vì Ngài không bị lay động bởi nhu cầu.

Điều gì khiến Chúa hành động? Chúa Giê-su đã nhiều lần phán, “Hỡi những kẻ ít đức tin” (Ma-thi-ơ 6:30; 8:26; 16:8; Lu-ca 12:28). Điều khiến Chúa hành động là đức tin. Ngài thiết kế vương quốc của Ngài để hoạt động bằng đức tin nơi Ngài. Chúng ta cần đức tin để tiếp nhận Ngài khi chúng ta được tái sinh và sau đó tiếp nhận, áp dụng, thực hành Lời Ngài từ thời điểm đó.

Khi Ê-li tìm thấy người phụ nữ và đứa con trai của bà giữa nạn đói, sẵn sàng ăn bữa ăn cuối cùng của họ, ông đã không nói, “Các người đã sống sót suốt thời gian này. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài và lấy cho các người chút thức ăn.” Thay vào đó, ông nói, “trước tiên hãy dùng bột ấy làm cho ta một cái bánh nhỏ, rồi đem ra cho ta; kế sau ngươi sẽ làm cho ngươi và cho con trai ngươi” (1 Các vua 17:13). Ê-li khuyên người góa phụ làm bánh cho ông trước. Bà đã vâng lời người của Đức Chúa Trời. Bà đã bày tỏ đức tin của mình.  Nếu bà không gieo một ít hạt giống (hào phóng với tiên tri của Đức Chúa Trời, mặc dù đang thiếu thốn) bày tỏ đức tin của mình nơi Chúa, bà và đứa con trai sẽ chết vào ngày hôm đó (1 Các vua 17). Đức Chúa Trời không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ngài cần một số hạt giống mà chúng ta gieo ra thể hiện đức tin nơi Ngài.

Không phải là Đức Chúa Trời có ác ý. Mà là Ngài đã thiết lập Vương quốc của Ngài dựa trên sự khôn ngoan, và chúng ta phải làm việc trong các nguyên tắc của Vương quốc Ngài. Chúng ta không cần phải chịu đựng thêm một phút nào nữa nếu vẫn còn cho rằng nhu cầu của mình bị Chúa  quên. Chúng ta có thể làm việc theo cách của Ngài ngay bây giờ bằng cách trước tiên lắng nghe tiếng Chúa và học các nguyên tắc của Vương quốc từ Lời Ngài.

Nguyên tắc đầu tiên là Đức Chúa Trời không bị tác động bởi nhu cầu. Ngài bị tác động bởi đức tin. Người khác có thể cầu nguyện cho chúng ta, và Đức Chúa Trời sẽ hành động thay mặt chúng ta. Đức Chúa Trời chỉ cần một số đức tin từ một người nào đó để Ngài có thể hành động. Ngài phán, “Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó, đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không hủy diệt nó; song ta chẳng tìm được một ai” (Ê-xê-chi-ên 22:30).

Chúa muốn trì hoãn sự phán xét đối với những người không biết thờ phượng Ngài, nhưng Ngài cần một người đứng vào khoảng trống để cầu thay xây lại tường thành. Ngài cần đức tin đến từ một người nào đó trên trái đất để cầu nguyện, cầu thay cho dân cư trên đất chạy đến cùng Ngài.

 Đức Chúa Trời Muốn Cung Cấp Nhu Cầu Của Chúng Ta

“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33).

Nguyên tắc của Ma-thi-ơ 6:33 là gì?

Trước hết tìm kiếm nước Trời, và mọi nhu cầu được Chúa đáp ứng.

Đức Chúa Trời mà chúng ta cần tìm kiếm là Đức Chúa Trời muốn cung cấp nhu cầu của chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ điều gì, người nào hoặc tổ chức nào khác trở thành nguồn cung cấp của chúng ta. Ngài muốn trở thành nguồn cung cấp duy nhất của chúng ta.

Trong Xuất Ê-díp-tô ký 20:2-3, Đức Chúa Trời phán, “Ta là Đức Chúa Trời của ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô và nhà nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác trước mặt ta.”

Điều này sẽ xóa tan lập luận rằng chúng ta đã tự đưa mình vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Nếu bạn nghe một số người làm chứng, bạn sẽ nghe họ cảm ơn Chúa vì họ đã tự cứu mình. Tuy nhiên, việc chúng ta đến với Chúa Giê-su là công việc của Đức Chúa Trời. Ngài đã dàn dựng điều đó. Chúa Giê-su đã nói, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta không kéo người ấy đến” (Giăng 6:44).

Sau khi xác định rằng Ngài cứu rỗi và giải cứu chúng ta, trong Xuất Ê-díp-tô ký Chúa tiếp tục:

“Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4-5).

Ngài tự gọi mình là “Đức Chúa Trời kỵ tà/ ghen tuông.” Bản Kinh thánh Living  Bible viết: “for I, the Lord your God, am very possessive. I will not share your affection with any other god!” (Exodus 20:4)

 (Vì Ta là Đức Chúa Trời của ngươi, đòi hỏi sự chú ý và tình yêu hoàn toàn của ngươi. Ta sẽ không chia sẻ tình cảm của ngươi với bất kỳ vị thần nào khác!  Xuất Ê-díp-tô ký 20:4)

Điều này nghe có vẻ giống như một mối quan hệ nam nữ phải không?

Hãy nhớ rằng cộng đồng hội thánh là cô dâu hoàn hảo của Chúa Giê-su. Ngài đã đính hôn với tập thể hội thánh chúng ta. Ngài đang chăm sóc chúng ta và Ngài muốn trở thành Người chu cấp duy nhất cho chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ ai khác chăm sóc cô dâu của Ngài.

Hãy nghe Phao-lô giải thích: “vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài. Vậy nên người đàn ông phải lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt. Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Đấng Christ và Hội thánh vậy” (Ê-phê-sô 5:30-32).

Khi nói về Chúa Giê-su và hội thánh, Kinh thánh nói rằng chúng ta là xương của xương Ngài và thịt của thịt Ngài. Đó là một mối quan hệ khá thân mật! Và Tân Lang của chúng ta yêu chúng ta nhiều đến nỗi Ngài đã hy sinh mạng sống của Ngài vì chúng ta. Tất nhiên, Ngài muốn chăm sóc chúng ta thật tốt! Tác giả Thi thiên đã viết, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi thiên 23:1). Chúa Giê-su là người chăn giữ chúng ta. Ngài muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta để chúng ta không thiếu thốn bất cứ điều gì và Ngài không muốn chúng ta quay sang bất kỳ người chăn nào khác.

Chúa là một Đức Chúa Trời kỵ tà/hay ghen tuông. Chúng ta đừng  bao giờ để bị mắc kẹt trong mối quan hệ thân mật với hệ thống của thế gian. Và Chúa Giê-su không muốn thế gian chăm sóc cô dâu của Ngài. Ngài phán, “Đừng đụng đến nàng!” Nếu chúng ta có thể nhận ra điều đó, thì chúng ta sẽ từ bỏ hệ thống của thế gian, và chúng ta chạy đến với Chúa thành tín của mình. Ca thương 3:23 nói, “Sự thành tín của Chúa thật lớn.” Ngài vô cùng thành tín. Ngay cả khi chúng ta không có đức tin và sống xa cách Chúa thì Ngài vẫn thành tín.

Ô-sê và người vợ của ông: Hình ảnh về Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài.

Trong sách Ô-sê, chúng ta đọc về trường hợp của vị tiên tri. Đức Chúa Trời bảo ông kết hôn với một phụ nữ gian dâm. “Khi Đức Giê-hô-va bắt đầu phán cùng Ô-sê, Đức Giê-hô-va bảo người rằng: Hãy đi, lấy một người vợ gian dâm, và con cái ngoại tình; vì đất nầy chỉ phạm sự tà dâm, lìa bỏ Đức Giê-hô-va” (Ô-sê 1:2).

Ô-sê cưới Gô-me, một cô gái điếm. Và rồi ​​cô rời bỏ Ô-sê và lại quan hệ với những người đàn ông khác. Cô ta đã ngoại tình một thời gian rồi bỏ đi. Đức Chúa Trời đã dùng câu chuyện này để cho Y-sơ-ra-ên thấy rằng Ngài là một người chồng ghen tuông, người đã kiên nhẫn với người vợ gian dâm hơn cả trong những mối quan hệ ngoại tình của cô ta với thế gian. Ngài đã bày tỏ lòng nhẫn nại của Ngài đối với họ, nhưng Ngài cũng cho thấy cuộc sống khốn khổ của Gô-me.

Sống đắc thắng trong Vương quốc  Đức Chúa Trời đòi hỏi sự trung tín. Có vẻ như không có gì xảy ra, nhưng bất kể chúng ta đang nhìn thấy và nghe thấy điều gì, chúng ta phải đứng lên và nói rằng, “Đức Chúa Trời tôi sẽ cung cấp mọi nhu cầu của tôi!” (Phi-líp 4:19.) Tất cả những gì chúng ta cần là Lời Chúa, bởi vì Lời Chúa là hạt giống thể hiện đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời. Chúng ta tin cậy Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi.

Ngài phán, “Ngươi chớ thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5). Đây không phải là lời đe dọa, nó là lời cảnh báo.

Sa-tan đã cố gắng khiến Chúa Giê-su tôn thờ nó. Nó giăng bẫy, “Hãy thờ lạy ta, và ta sẽ cho ngươi mọi thứ ngươi cần.” Sa-tan luôn cố gắng khiến mọi người tôn thờ nó để đổi lấy việc đáp ứng nhu cầu của họ. Nó đã đánh cắp ý tưởng đó từ Chúa. Khi chúng ta tôn thờ và phục vụ Chúa. Ngài đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta. Đó là cách vương quốc của Chúa hoạt động.

Sa-tan đã mô phỏng vương quốc bóng tối theo vương quốc ánh sáng. Khi mọi người cúi đầu trước Sa-tan, nó sẽ đáp ứng nhu cầu của họ. Nhưng luôn có sự hủy diệt và cái chết đi kèm sau đó. Vì vậy Chúa ra lệnh cho chúng ta tránh xa hệ thống của thế gian. Ngài biết rằng điều đó sẽ chỉ gây hại cho chúng ta.

Chúa đã phán, “Đừng thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác.” Chúng ta không cần phải cúi đầu trước các hình tượng. Chúng ta có Đấng chăm sóc và yêu thương chúng ta. Chúng ta không chọn Ngài; Ngài đã chọn chúng ta.  Ngài đã nhìn thấy chúng ta khi chúng ta suy sụp và tuyệt vọng. Một số người trong chúng ta trông rất tệ hại! Chúng ta đi vào các buổi tiệc tùng, và say men rượu đến nỗi thậm chí không biết tên của chính mình. Một số người trong chúng ta hút quá nhiều cần sa đến nỗi cơ thể suy sụp. Một số người trong chúng ta đã phạm phải một số sai lầm khủng khiếp, nhưng không có gì trong số đó làm thay đổi được tình yêu của Chúa dành cho. Kinh thánh nói về Ngài:

“Đức Giê-hô-va từ thuở xưa hiện ra cùng tôi và phán rằng: Phải, ta đã lấy sự yêu thương đời đời mà yêu ngươi; nên đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến. Ta sẽ dựng lại ngươi, thì ngươi sẽ được dựng, hỡi gái đồng trinh Y-sơ-ra-ên! Ngươi sẽ lại cầm trống cơm làm trang sức, đi làm một với những người nhảy múa vui vẻ” (Giê-rê-mi 31:3-4).
Sứ đồ Giăng xác nhận trong Tân Ước:
Trước ngày lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng trở về cùng Đức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng” (Giăng 13:1)

Đó chính là tất cả những gì câu chuyện của Ô-sê muốn nói. Câu chuyện này minh họa rõ ràng cho lẽ thật: “Ta đã cưới một kẻ bội bạc. Ngươi đã quay lưng lại với Ta, nhưng Ta không quay lưng lại với ngươi vì ngay cả khi ngươi không chung thủy, Ta vẫn chung thủy.” Đây là ý mà Chúa muốn dân sự của Ngài thấu hiểu.

Sau khi Ô-sê cưới Gô-me, bà đã rời bỏ Ô-sê. Ngay cả sau khi có con với ông, bà vẫn ra đường, bán dâm với những người đàn ông khác. Chúa bảo Ô-sê đi đón bà. Có lẽ bà đã bị đánh đập, cho dùng thuốc, ngược đãi và tổn thương, không còn tiền bạc hay lòng tự trọng. Nhưng Ô-sê đã tìm thấy bà và nói, “Thôi nào. Chúng ta hãy trở về nhà. Ta sẽ đem ngươi trở về” (Ô-sê 3).

Đó chính là vương quốc của Chúa. Bất kể hoàn cảnh hay điều kiện của chúng ta như thế nào, Chúa đều đón nhận chúng ta. Ngài muốn chúng ta trung tín với Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi. Tuy nhiên, khi chúng ta phạm lỗi và bỏ đi, Ngài luôn chờ đợi với vòng tay rộng mở. Và khi chúng ta nhận được sự mặc khải về tình yêu thương vô bờ bến của Ngài dành cho chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ muốn dính líu gì đến hệ thống thế gian này nữa. Chúng ta chỉ muốn trông cậy vào Ngài để có mọi nhu cầu chính đáng trong cuộc sống.

Đài phát thanh Tin Lành xuyên thế giới đã nói về bài học mà chúng ta có thể nhận được từ tiên tri Ô-sê:

Ô-sê giảng về tình yêu của Đức Chúa Trời khi mà dân Y-sơ-ra-ên đang quay lưng đối với Ngài và sống băng hoại trong tội lỗi. Họ thờ lạy thần tượng, tình trạng thuộc linh và đạo đức xuống dốc. Ô-sê đã thu hút được sự chú ý của thính giả vì ông nói về Đức Chúa Trời bằng chính kinh nghiệm đau xót của mình. Ô-sê kể lại câu chuyện tình giữa ông và Gô-me. Ông cho biết thế nào ông đã yêu Gô-me cách vô điều kiện dựa theo lời Chúa phán dạy. Thế nhưng Gô-me đã phản bội ông, quay về với tình nhân cũ của nàng. Ô-sê được Chúa bảo hãy tìm Gô-me và vẫn cứ yêu nàng. Sau khi thuật lại câu chuyện của mình thì Ô-sê muốn nói rằng, “Đó là hình ảnh của Đức Chúa Trời và các ngươi. Các ngươi đã đối với Đức Chúa Trời giống như Gô-me đối với ta. Khi thờ phượng thần tượng ngoại bang là các ngươi đã phạm tội tà dâm thuộc linh và không trung thành với Đức Chúa Trời. Khi các ngươi sống đời sống băng hoại, dìm mình vào trong những thú vui tội lỗi là các ngươi đang phạm tội tà dâm thuộc linh. Những gì các ngươi đang làm giống như Gô-me đã làm cho ta”.

Đó là trọng tâm sứ điệp của tiên tri Ô-sê, ông nhấn mạnh đến tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho tuyển dân của Ngài.3

Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô từ chối quì lạy hình tượng

Sách Đa-ni-ên kể câu chuyện về Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô, những người được truyền lệnh là phải cúi đầu thờ lạy tượng vàng của vua Nê-bu-cát-nết-sa. “Vua Nê-bu-cát-nết-sa cất tiếng nói cùng họ rằng: Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô, có phải các ngươi cố ý không thờ thần ta và không lạy tượng vàng mà ta đã dựng lên chăng? Vậy bây giờ, khi các ngươi nghe tiếng còi, kèn, đàn cầm, đàn sắt, quyển, sáo và các thứ nhạc khí, mà các ngươi sẵn sàng sấp mình xuống đất để quì lạy pho tượng mà ta đã làm nên, thì được; nhưng nếu các ngươi không quì lạy, thì chính giờ đó các ngươi sẽ phải quăng vào giữa lò lửa hực. Rồi thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?” (Đa-ni-ên 3:14-15).

Nhà vua đang cố gắng khiến mọi người cúi đầu và thờ phượng mình. Chúng ta biết ông ta lấy ý tưởng đó từ đâu! Sa-tan sử dụng hệ thống của thế gian và những người trong đó để cố gắng khiến chúng ta cúi đầu trước nó và thực hiện mong muốn của nó. Nhưng vương quốc của Đức Chúa Trời ở trong chúng ta và nguyên tắc của vương quốc điều khiển mọi phản ứng của chúng ta. “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai trị trên muôn vật” (Thi thiên 103:19). Nguyện tắc của vương quốc đang cai trị ba thanh niên người Hê-bơ-rơ. Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô biết điều đó. Họ trả lời với vua, “Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng” (câu 17-18).

Khi chúng ta tin vào Chúa đủ để thách thức áp lực của thế gian, vương quốc của Chúa sẽ hoạt động trong chúng ta. Ngài đã giải cứu ba thanh niên trung tín khỏi lò lửa hực. Trên thực tế, Ngài đã hiện diện trong ngọn lửa với họ! Sau đó, họ bước ra khỏi ngọn lửa mà thậm chí không có mùi khói. (Đa-ni-ên 3:24-27). Giống như ba chàng trai trung tín này, Chúa muốn cung cấp tất cả các nhu cầu của chúng ta. Ngài sẽ làm như vậy khi chúng ta chỉ phụ thuộc vào Ngài như ba thanh niên người Hê-bơ-rơ đã làm.

Đức Chúa Trời Đáp Ứng Nhu Cầu Của Áp-ram

Trong Sáng thế ký 14, chúng ta thấy cháu trai của Áp-ram là Lót gặp rắc rối khi xảy ra cuộc chiến giữa các vua trong vùng. “Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ, rồi đi. Giặc cũng bắt Lót, là cháu của Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài người, rồi đem đi.” (Câu 11-12). Khi Áp-ram phát hiện ra điều đó, ông đã mang theo hơn ba trăm gia nhân được đào tạo để truy đuổi, và đánh bại họ.

Câu 16 nói rằng, Áp-ram đã đưa cháu trai mình là Lót cùng tài sản, phụ nữ và dân chúng trở về.

Sau đó Vua của Sô-đôm đã ra đón Áp-ram sau chiến thắng.

Vua Sô-đôm nói với Áp-ram rằng: “Hãy giao người cho ta, còn của cải thì ngươi hãy giữ lấy.” Áp-ram trả lời:

“Tôi giơ tay lên trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời Chí cao, Chúa Tể của trời và đất, mà thề rằng: Hễ của chi thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói được rằng: Nhờ ta làm cho Áp-ram giàu có” (câu 22-23).

Áp-ram đã tuân theo các quy tắc của Vương quốc Chúa. Ông không muốn có vẻ như bất kỳ ai đã làm cho ông giàu có ngoài Chúa, vì Chúa không muốn bất kỳ ai nói rằng họ đã làm cho dân sự của Ngài giàu có. Chúa toàn năng là Đấng sẽ cung cấp mọi thứ cho chúng ta. Ngay sau đó, chúng ta thấy Áp-ram nhận được lời hứa tuyệt vời của Chúa.

Sau những điều này, lời của Chúa đã đến với Áp-ram trong một sự hiện thấy: “Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách.  Áp-ram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt-tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi.  Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Áp-ram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi.  Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” (Sáng thế ký 15:1-5).

Tuy nhiên, sau nhiều năm trôi qua và họ vẫn chưa có con trai, Sa-ra đã đến trước mặt Chúa và cố gắng tự mình tìm ra một kế hoạch riêng. Sáng thế ký 16:1-2 tường thuật:

“Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô, tên là A-ga.  Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Đức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng. Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai.”

Sa-ra cho rằng Chúa đã ngăn cản bà sinh con, rằng Ngài không muốn đáp ứng nhu cầu của bà.  Ngược lại, khi An-ne trong sách Sa-mu-ên không thể thụ thai, bà đã thề với Chúa, về cơ bản bà nói rằng nếu Chúa cho bà một đứa con trai thì bà “sẽ phú dâng nó trọn đời cho Đức Giê-hô-va”  (1 Sa-mu-ên 1:11). Kinh thánh nói rằng An-ne đã sinh ra Sa-mu-ên sau đó. Khi chúng ta không thể tiến xa hơn nữa, chúng ta phải đến với Lời Chúa và cầu xin Đức Thánh Linh chỉ cho chúng ta biết những gì chúng ta cần làm để kích hoạt nguyên tắc Vương quốc của Chúa bên trong chúng ta. Chúng ta cần gieo hạt giống đức tin.

Sa-ra tiếp tục theo cách riêng của mình, thay vì tìm kiếm con đường của Chúa. Bà nói với Áp-ram đi theo kế hoạch của bà. Áp-ram đã nghe theo tiếng nói sai trái. Ông đã nghe theo Sa-ra thay vì Chúa. Ông đã nghe theo tiếng nói của xác thịt thay vì tiếng nói của Thánh Linh.

“Sau khi Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại xứ Ca-na-an, Sa-rai, vợ người, bắt A-ga, là con đòi Ê-díp-tô mình, đưa cho chồng làm hầu. Áp-ram lại cùng con đòi, thì nàng thọ thai” (Sáng thế ký 16:3-4).

Sa-ra đã cố gắng làm theo cách của riêng mình thay vì chờ đợi Chúa. Đôi khi cách của Chúa mất nhiều thời gian hơn một chút, và điều chúng ta phải làm là chờ đợi Ngài. Nếu Chúa đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.

A-ga đã sinh con cho Áp-ram, và tên của đứa trẻ là Ích-ma-ên. Bởi vì Áp-ram và Sa-ra không tin cậy Chúa, họ đã lập ra một kế hoạch nằm ngoài kế hoạch của Chúa. Kết quả là, một sự chia rẽ lớn giữa con người bắt đầu, một sự chia rẽ giữa người Ả Rập (dòng dõi Ích-ma-ên) và người Do Thái (dòng dõi Y-sác) vẫn còn tranh chiến cho đến ngày nay. Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và các quốc gia Ả Rập là một minh chứng cho điều này.

Nếu chúng ta hoàn toàn tin cậy Chúa, chúng ta sẽ được bình an. Khi chúng ta biết mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào, chúng ta không lo lắng về bất cứ điều gì. Tuy nhiên, khi chúng ta lo lắng, chúng ta cố gắng hành động vì lợi ích của chính mình và gây ra những hỗn độn.

Câu chuyện tiếp diễn. Chúa đã phán với Áp-ram, “Tên ngươi sẽ không còn là Áp-ram nữa, nhưng bây giờ sẽ là Áp-ra-ham.” Theo nghĩa thuộc  linh, Ngài đã kết ước với Áp-ram và ban cho ông một cái tên mới. Ngài đã hứa với Áp-ra-ham, “Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi.” (Sáng thế ký 17.) Cuối cùng, khi Áp-ra-ham và Sa-ra được chín mươi chín tuổi, họ có đứa con trai theo lời Chúa hứa là Y-sác.

Chúa được vinh hiển

Chúa đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua đức tin của chúng ta nơi Ngài và Lời Ngài. Ngài không muốn chúng ta tìm cách đáp ứng nhu cầu của mình bằng suy nghĩ xác thịt. Ngài muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta và bày tỏ điều đó trong Đức Thánh Linh. Sau đó, mỗi khi nhu cầu của chúng ta được đáp ứng, Ngài được vinh hiển.

Sa-tan luôn cố gắng giành lấy vinh quang từ dân sự của Chúa. Hắn muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua các phương tiện xác thịt và hệ quả sau đó là sự đau khổ. Nhưng Chúa muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của Ngài trong vinh hiển thông qua Chúa Giê-su Christ. “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19.) Điều đó có nghĩa là Ngài nhận được vinh quang và chúng ta được ban phước nhiều hơn.

Chúa vẫn tiếp tục làm việc với Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Chúa cũng sẽ tiếp tục làm việc với chúng ta. Ngài có thể xoay chuyển những mớ hỗn độn mà chúng ta tạo ra khi chúng ta theo đuổi mọi kế hoạch riêng của mình, nhưng tốt hơn là chúng ta không nên đi theo ý riêng. Khi chúng ta làm việc theo các nguyên tắc của Vương quốc và chỉ phụ thuộc vào Ngài, Ngài chắc chắn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta.

Hầu hết mọi người không có vấn đề gì với sự thịnh vượng, nhưng một số người có vấn đề với việc Chúa cung cấp sự thịnh vượng. Nếu họ có thể nói rằng họ đã tự mình làm được, điều đó khiến họ cảm thấy tốt. Họ sẽ làm theo công thức để đạt được điều đó, chỉ để họ có thể nói rằng cuối cùng họ đã giành được chiến thắng. Họ không hiểu được ân điển của Chúa.

Trước hết, nếu Chúa dẫn dắt một tín đồ thực hiện một mục vụ, Ngài sẽ cung cấp sức mạnh và sự khôn ngoan mà họ cần để thực hiện chúng. Khi chiến thắng đến, mọi vinh quang sẽ thuộc về Ngài. Nhưng nhiều lần các tín đồ sẽ giống như Sa-ra, tiến hành một kế hoạch riêng. Sa-ra không có kiên nhẫn chờ đợi lời hứa của Chúa thực hiện.  Bà suy nghĩ và sử dụng sự khôn ngoan của mình, trong khi Chúa có cách ban ân điển để Áp-ram và bà nhận được lời hứa theo thời điểm của Ngài.

Trong vấn đề cầu nguyện và nhận được sự chữa lành từ Chúa. Mọi vinh quang phải được qui về cho Chúa. Bất cứ ai trình diễn sự cầu nguyện chữa lành để tìm cách tôn vinh cá nhân người cầu nguyện, đều sai lạc với ý muốn của Chúa.

Lời chứng sau đây của mục sư Bill Winston:

Chúa muốn chúng ta biết rằng Ngài là Đấng chu cấp cho chúng ta. Khi tôi đặt tay lên người bệnh, Chúa chứng minh Ngài là Đấng chữa lành cho họ. Có lần tôi cầu nguyện cho một người đàn ông vừa cãi nhau trong gia đình và bị dao đâm vào cánh tay. Anh ta thậm chí không thể cử động tay. Quyền năng của Chúa chạm vào anh ta, và anh ta bắt đầu cử động tay. Với nước mắt chảy dài trên mặt, anh ta nói, “Nhìn này, tôi có thể cử động tay!”

Người đàn ông này đều biết rằng tôi không làm điều đó xảy ra. Chúng ta không thực hiện phép lạ. Chỉ có Chúa mới làm điều đó. Công việc của chúng ta là gieo hạt giống, và công việc của Chúa là đáp ứng nhu cầu. Và khi Ngài đáp ứng nhu cầu, tất cả vinh hiển thuộc về Ngài.2

Lời cảnh báo của Chúa Giê-su dành cho chúng ta ngày nay: “Các ngươi vẫn chịu vinh hiển của nhau, không tìm kiếm vinh hiển bởi một mình Đức Chúa Trời đến, thì thể nào các ngươi tin được” (Giăng 5:44).

Hạt giống cần gieo ra là Lời Chúa

Như chúng ta đã thấy trước đây, chúng ta bày tỏ đức tin của mình vào Chúa và chỉ vào Chúa bằng cách tin vào Lời Ngài. Hạt giống đầu tiên mà chúng ta gieo cho mọi nhu cầu của mình là Lời Chúa. Chúng ta phải có Lời Chúa trong mọi điều chúng ta muốn làm trước khi Chúa có thể đến và thực hiện điều đó vì Ngài đang tìm kiếm đức tin. Và chúng ta biết rằng đức tin đến “bởi sự người ta nghe, và người ta nghe khi Lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17).

Lời Chúa thay đổi cái nhìn của chúng ta về chính mình và Đức Chúa Trời. Nó thay đổi những gì chúng ta tin, khiến đức tin trỗi dậy và tin vào Ngài. Và Đức Chúa Trời chỉ có thể làm việc với chúng ta ở mức độ chúng ta tin vào Ngài. Mác 4:14 nói rằng, “Người gieo giống ấy là gieo đạo/lời.” Chúng ta phải gieo Lời Chúa vào lòng mình để có đức tin nơi Chúa. Gieo là trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta không gieo bất cứ thứ gì, chúng ta sẽ không gặt được điều gì.

“Chúa Giê-su phán rằng: Nước Đức Chúa Trời cũng như một người vải giống xuống đất; người ngủ hay dậy, đêm và ngày, giống cứ nẩy chồi mọc lên, mà người không biết thể nào” (Mác 4:26-27).

Công việc của ma quỉ là đưa chúng ta vào suy nghĩ của chính mình. Nếu nó đưa chúng ta vào suy nghĩ xác thịt, chúng ta không còn ở trong sự nối kết với Đức Thánh Linh nữa. Khi chúng ta nối kết với Chúa trong tâm linh, chúng ta sẽ di chuyển với sự hướng dẫn của Ngài, và những điều kỳ diệu xảy ra.

Khi sự mặc khải và ánh sáng của Chúa được bày tỏ trong chúng ta, nếu chúng ta không hành động theo Lời Chúa, Sa-tan sẽ đến và cố gắng đánh cắp sự mặc khải đó. Vì vậy, khi chúng ta phát hiện ra rằng Chúa muốn cung cấp cho tất cả các nhu cầu của chúng ta và rằng chúng ta cần gieo một số hạt giống, chúng ta phải bắt đầu gieo hạt ngay! Tuyển dân bước xuống sông Giô-đanh thì nước rẽ ra để họ đi qua. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không thể chờ đợi để kiểm tra mọi thứ. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, ánh sáng đó sẽ mờ dần vì chúng ta không thực sự tin cậy vào Chúa mà muốn sử dụng sự tính toán khôn ngoan của chính mình.                              

Thay vì để hệ thống của thế gian điều khiển chúng ta, tại sao chúng ta không bắt đầu để những nguyên tắc của Vương quốc điều khiển chúng ta? Có một hệ thống ẩn bên trong chúng ta. Nó được thiết lập để dẫn dắt chúng ta tuân theo các nguyên tắc của Vương quốc Đức Chúa Trời.

Vào lúc chúng ta có nhu cầu không thể đáp ứng được, chúng ta chỉ cần thực hiện các nguyên tắc của vương quốc Chúa. Mác 4:14 nói rằng, “Người gieo giống là gieo đạo/ lời Chúa.”

 Hãy nhớ rằng: Đấng đã hứa cùng chúng ta là Đấng thành tín thực hiện điều đó. Sự giải cứu của chúng ta đến trong tâm linh của chúng ta, từ bên trong ra bên ngoài, không phải từ bên ngoài vào trong. Chúa là Đấng thành tín, và khi chúng ta chuyển từ vương quốc bóng tối sang Vương quốc ánh sáng, thì “Đức Chúa Trời sẽ cung cấp mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19). Tất cả những gì chúng ta cần làm là gieo hạt giống đức tin của mình, để Ngài sinh ra trái mà chúng ta cần, và sau đó dâng cho Ngài tất cả những vinh quang.

THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 5

     1. https://www.azquotes.com/author/9142-Martin_Luther. Ngày truy cập 23 tháng 1/2025

2. Dr. Bill Winston (2006). The Kingdom of God in you. Harrison House, Tula, Oklahoma.

    3. https://httlvn.org/bai-147-sach-o-se-kinh-nghiem-dau-kho-cua-o-se.html. Ngày truy cập 12 tháng  2/2025

Chương 6

SỰ LÃNH ĐẠO TRONG VƯƠNG QUỐC

Một nhà truyền giáo đến một vùng đất xa lạ ở Phi Châu. Ông ta nhờ một người thổ dân hướng dẫn đi trong một khu rừng để đến nơi cần đến. Sau nhiều giờ đi trong rừng không có lối mòn, nhà truyền giáo hỏi:

  • Tôi không thấy con đường nào cả trong khu rừng này. Anh có chắc là sẽ dẫn tôi đi đúng hướng để đến nơi cần đến.
  • Ông đừng lo, tôi chính là con đường. Người thổ dân trả lời.

Người thổ dân biết nơi nhà truyền giáo cần đến, và anh ta là một người bản địa biết rõ các lối đi trong rừng. Và đến cuối ngày nhà truyền giáo đã đến đúng nơi ông mong đợi.

Khi nói đến thế giới của chúng ta, và quốc gia của chúng ta nói riêng, phần lớn đích đến của chúng ta gắn liền với những người phải biết chúng ta cần đi đâu. Nó gắn liền với phẩm chất của các chính trị gia đã đặt mục tiêu lãnh đạo đất nước chúng ta. Nó gắn liền với các nhà lãnh đạo dân sự được giao trách nhiệm trong các cấp chính quyền khác nhau để đưa ra định hướng tạo điều kiện thuận lợi cho một xã hội dân sự có trật tự tốt. Kinh thánh nói rõ rằng khi không có sự lãnh đạo chính trị hợp pháp và có trách nhiệm, một xã hội và công dân của nó sẽ rơi vào hỗn loạn. “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (Các quan xét 17:6; 21:25).

Lãnh đạo là một đặc điểm cơ bản của sự cai trị vương quốc. Lãnh đạo chính trị thường thể hiện trong các chính sách mà các chính trị gia ủng hộ và những gì họ dành phần lớn thời gian để tập trung vào. Nhưng ngoài cách một chính trị gia bỏ phiếu hoặc một nhà lãnh đạo dân sự trình bày hoặc ủng hộ các luật khác nhau, chúng ta cũng nên quan tâm đến con người nữa.

Trong vương quốc của Đức Chúa Trời, có đúng người với đúng chính sách được nối kết lại với nhau là cách một nền văn hóa và một quốc gia tiến triển tốt đẹp. Tuy nhiên, khi hai điều này trở nên rời rạc vì bạn có chính sách sai hoặc những người sai thì bạn đã khiến quốc gia này gia tăng xung đột, hỗn loạn và thậm chí là thoái trào trên quy mô toàn cầu.

Đó là lý do tại sao việc tìm kiếm những người phù hợp có phẩm chất cao và quan điểm về vương quốc để đại diện cho chúng ta với tư cách là chính trị gia và nhà lãnh đạo dân sự lại quan trọng đến vậy. Khi chúng ta xem xét nên đưa ai vào chức vụ hoặc hỗ trợ ai thông qua thời gian, tiền quyên góp hoặc phiếu bầu của mình, chúng ta cần xem xét các chính sách mà họ ủng hộ và liệu những chính sách đó có đạt được mục tiêu duy trì một môi trường an toàn, công bằng, chính trực và có trách nhiệm để tự do phát triển hay không. Và trong khi chúng ta có tiếng nói về cách các chính trị gia có thể phục vụ và trong khả năng nào, chúng ta cũng cần nhớ rằng Kinh thánh nói rõ rằng khi nói đến Chúa, Ngài quyết định các kết quả. Châm ngôn 8:15-16 nói rằng, “Nhờ ta, các vua cai trị, Và những quan trưởng định sự công bình. Nhờ ta, các quan trưởng, người tước vị, Và các quan xét thế gian đều quản hạt.”

Cuối cùng, Chúa sắp đặt những người cai trị là ai, bởi vì chính phủ là thể chế của Ngài. Đây là lý do tại sao Chúa đã chỉ thị các nhà lãnh đạo khiêm nhường tìm kiếm Ngài và Lời Ngài để biết cách cai trị dân chúng đúng đắn (Phục truyền luật lệ ký 17:18-20). Điều quan trọng nhất mà một nhà lãnh đạo chính trị có thể làm là thiết lập và khuyến khích công dân hoạt động theo tiêu chuẩn Kinh thánh.

Trên thực tế, trong Rô-ma 13, các nhà lãnh đạo chính trị dân sự được gọi là “đầy tớ của Chúa”. Họ được gọi là “chức việc của Đức Chúa Trời” ba lần chỉ trong bảy câu đầu tiên. Hãy nhớ rằng, đây là trường hợp khi nói về chính quyền La Mã. Phao-lô không nói về chính quyền hay sự lãnh đạo của Cơ đốc giáo. Đó là xã hội thế tục được nhắc đến trong Rô-ma 13. Đức Chúa Trời thường gọi các nhà lãnh đạo dân sự là tôi tớ của Ngài. Họ là những người hầu việc Ngài, những người sẽ phản ánh sự cai trị của Ngài trên mỗi quốc gia.

Do đó, một nhà lãnh đạo dân sự càng gần với tính cách và năng lực của Đức Chúa Trời, cũng như với các nguyên tắc cai trị của Đức Chúa Trời, thì xã hội sẽ càng có trật tự. Ngược lại, các nhà lãnh đạo càng có tính cách và năng lực xa cách với chính sách Kinh thánh, thì quốc gia đó càng xa cách Chúa và trật tự thiêng liêng của Ngài dành cho xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ có nhiều sự hỗn loạn hơn trong đất nước. Nhận ra Chúa không chỉ có nghĩa là sử dụng danh Ngài, cầu nguyện và trích dẫn ngẫu nhiên các câu Kinh thánh trong các bài phát biểu chính trị. Điều đó có nghĩa là cho phép thế giới quan của Chúa ảnh hưởng và tác động đến chính sách của nhà cầm quyền.

Kinh thánh nói gì về chủ đề này?

“Đức Giê-hô-va phán thể nầy cùng Si-ru, là người xức dầu của Ngài, ta đã cầm lấy tay hữu người, đặng hàng phục các nước trước mặt người, và ta sẽ tháo dây lưng các vua; đặng mở các cửa thành trước mặt người, cấm không được đóng lại: Ta sẽ đi trước mặt ngươi, ban bằng các đường gập ghềnh; phá vỡ các cửa bằng đồng, bẻ gãy then gài bằng sắt” (Ê-sai 45:1-2).

“Ấy chính ta đã dấy người lên trong sự công bình, và sẽ ban bằng mọi đường lối người. Người sẽ lập lại thành ta, và thả kẻ bị đày của ta, không cần giá chuộc, cũng không cần phần thưởng, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Ê-sai 45:13).

Không chỉ có trong sách Ê-sai chương 45, mà qua Kinh thánh, chúng ta đọc về việc Chúa chọn các nhà lãnh đạo dân sự để làm theo ý muốn Ngài, cũng như các nhà lãnh đạo dân sự bị hạ xuống (Ê-sai 45:1-5). Ngài liên tục thay đổi chu kỳ lãnh đạo theo dòng lịch sử để bày tỏ đường lối Ngài trên đất.   

Châm ngôn 29:2 nói như thế này: “Khi người công bình gia tăng, dân sự vui mừng; nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự rên xiết.” Khi lãnh đạo là xấu xa và đồi bại, thì luật pháp sẽ không đi theo các nguyên tắc của Kinh thánh, và công dân trong quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều bất công và đau khổ.

Khi nhìn vào nhiều nhà lãnh đạo được bầu tại Hoa Kỳ ngày nay, có thể dễ dàng thấy rằng hệ thống chính phủ thuộc về Chúa. Nhưng bất kể những gì chúng ta thấy phản ánh trong tính cách và chính sách của giới lãnh đạo dân sự, chúng ta phải tự điều chỉnh mình với quan điểm chính xác của Kinh thánh về chính trị.

Để làm như vậy, chúng ta giải thích về mặt thần học về cách nguyên tắc lãnh đạo hoạt động trong sự quản lý của Chúa. Bởi vì giống như một nhà thờ có thể có một nhóm các chấp sự, mục sư hiệu quả kém và một nhà thờ khác có các mục sư có hiệu quả và chất lượng tốt. Nơi đâu có những người lãnh đạo tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt. Những phẩm chất tốt của người lãnh đạo được thể hiện khi họ là người hoạch định và thi hành chính sách.

KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO DỰA TRÊN GIAO ƯỚC

Để hiểu tại sao điều này lại quan trọng như vậy, chúng ta phải xem xét lại nguyên tắc của giao ước. “Chúa vận hành thế giới của Ngài thông qua các giao ước. Xin nhắc lại, giao ước là mối quan hệ ràng buộc về mặt pháp lý đã được Chúa thiết lập. Bạn càng hoạt động hoặc hoạt động đồng bộ với Chúa và các quy tắc của Ngài, dù là một nhà lãnh đạo hay thậm chí là một nền văn hóa, thì bạn càng tiến bộ trong xã hội.”1

Giao ước giống như một quả bóng đá trên sân bóng đá. Mọi thứ phải được căn chỉnh phù hợp với quả bóng. Nếu có thứ gì đó không được căn chỉnh phù hợp – ví dụ, cầu thủ bóng đá đứng trước hoặc chạy trước vị trí của quả bóng trên sân về phía cầu môn thì đó là lỗi. Tùy thuộc vào đội mà cầu thủ đó chơi, hành vi đó được gọi là “việt vị” hoặc “xâm phạm”. Tương tự như vậy, nếu một cầu thủ không xử lý được một quả bóng đá và làm rơi nó, thì đó sẽ trở thành một điều tệ hại. Tương tự như vậy, trong Vương quốc Đức Chúa Trời, mọi chức vụ phụ thuộc vào vị trí của một hay nhiều chức vụ khác trong mối quan hệ với giao ước.

Điều này đúng với gia đình. Điều này đúng với giáo hội. Điều này cũng đúng với các thể chế. Chính phủ các quốc gia rơi vào đấu trường của các thể chế này, và nhờ ân điển chung của Chúa, Ngài đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người và các quốc gia được hưởng lợi từ sự hướng dẫn, định hướng và mệnh lệnh của Ngài. Do đó, giống như quả bóng bầu dục quyết định xem một đội hoặc một cầu thủ có phù hợp với các quy tắc của lưới sắt hay không, cách các nhà lãnh đạo dân sự hoạt động, cả ở nơi riêng tư và nơi công cộng, quyết định liệu một quốc gia có phù hợp với các nguyên  tắc của Chúa hay không.

Do mối liên hệ chặt chẽ này giữa sự ưu ái hoặc phán xét của Chúa và hành vi, tính cách và chính sách của các nhà lãnh đạo dân sự, điều quan trọng là chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo phù hợp với Chúa. Kinh thánh cho chúng ta biết trong Đa-ni-ên 2:21 rằng sự thành công của các nhà lãnh đạo dân sự phụ thuộc vào Chúa và những gì Ngài cung cấp cho họ thông qua sự khôn ngoan. Chúng ta đọc, “Chính Ngài là Đấng thay đổi thời đại và mùa; Ngài phế truất các vua và lập các vua; Ngài ban sự khôn ngoan cho người khôn ngoan và kiến ​​thức cho người hiểu biết.” Đức Chúa Trời quyết định sự thành công hay thất bại của các nhà lãnh đạo. Và Ngài làm như vậy dựa trên các quy tắc của giao ước của Ngài,

Đó là lý do tại sao chúng ta không thể nói về chính phủ hoặc chính trị mà không nói về Đức Chúa Trời và vai trò của Ngài liên quan đến các nhà lãnh đạo dân sự. Nguyên tắc đại diện, là điều mà một nhà lãnh đạo dân sự đảm nhận khi được bầu, là một yếu tố quan trọng đối với giao ước trong Kinh thánh. Điều này có nghĩa là trong trật tự phân cấp giao ước của Đức Chúa Trời, người có thẩm quyền và chức năng cao hơn bạn cũng đại diện cho bạn. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời kêu gọi những người chồng phục tùng thẩm quyền thiêng liêng hợp pháp (Tít 2:1, 6), những người vợ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chồng mình (Ê-phê-sô 5:22-24), các thành viên nhà thờ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của ban lãnh đạo nhà thờ (Hê-bơ-rơ 13:17) và công dân phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chính quyền dân sự (1 Phi-e-rơ 2:13).

Khi một nhà lãnh đạo dân sự đại diện cho bạn vì người đó đại diện cho quận, thành phố, quận, trường học, tiểu bang hoặc quốc gia của bạn, họ sẽ đưa ra quyết định thay mặt bạn. Bạn không còn có tiếng nói trong những quyết định này về mặt lập pháp khi bạn chuyển giao đại diện chính phủ cho một nhà lãnh đạo được bầu.

Tại Hoa Kỳ, nếu tổng thống hoặc Quốc hội nói rằng chúng ta sẽ tham chiến, bạn không thể nói rằng chúng ta không tham chiến. Đúng, bạn có thể phản đối quyết định của họ, nhưng quyết định của họ vẫn là quyết định có hiệu lực. Bạn có thể không bỏ phiếu để tham chiến, nhưng vì nhà lãnh đạo được bầu của bạn đại diện cho bạn, nên quyết định tham chiến được đưa ra thay cho bạn. Nước Mỹ tồn tại như một đại diện hệ thống mà chúng ta bầu ra các nhà lãnh đạo dân sự để phản ánh các giá trị của chúng ta trên đất nước. Những nhà lãnh đạo dân sự này đại diện cho chúng ta thay mặt cho quốc gia. Đó là cách Chúa thiết lập chính phủ để hoạt động theo cách đại diện. Ngài cũng thiết lập các gia đình để làm việc theo cách đó, trong đó người cha hoặc người chồng đại diện cho gia đình về mặt tâm linh trước mặt Chúa (1 Cô-rinh-tô 11:3; Sáng thế ký 18:19; Xuất Ê-díp-tô Ký 34:23-24). Tương tự như vậy, sự lãnh đạo thuộc linh trong một hội thánh đại diện cho hội chúng trước mặt Chúa (Hê-bơ-rơ 13:17). Tuy nhiên, chỉ vì Chúa thiết lập những người đại diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống này không có nghĩa là họ thực hiện tốt vai trò của mình. Đó là lý do tại sao việc cầu nguyện cho những người đại diện cho bạn lại quan trọng đến vậy, bởi vì nếu và khi họ khiêu khích sự phán xét của Chúa, thì thường thì sự phán xét đó cũng sẽ lan sang những người mà họ đại diện. Ví dụ, một thế hệ dân Y-sơ-ra-ên đã không vào được đất hứa là do tầm nhìn hạn hẹp và ảnh hưởng của những người đại diện của họ – những thám tử được cử đi do thám xứ Ca-na-an.  Chúng ta đọc Kinh thánh để thấy điều này rõ hơn:


 “Trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, các người đó phao phản xứ mình đã do thám mà rằng: Xứ mà chúng tôi đã đi khắp đặng do thám, là một xứ nuốt dân sự mình; hết thảy những người chúng tôi đã thấy tại đó, đều là kẻ hình vóc cao lớn. Chúng tôi có thấy kẻ cao lớn, tức là con cháu của A-nác, thuộc về giống giềnh giàng; chúng tôi thấy mình khác nào con cào cào, và họ thấy chúng tôi cũng như vậy” (Dân số ký 13:32-33).
“Các người đó phao phản xứ mình” đã dẫn đến một kết quả đáng thất vọng cho một thế hệ của tuyển dân lúc bấy giờ!

Sự lãnh đạo là rất quan trọng. Sự lãnh đạo kém sẽ để lại hậu quả lâu dài

Hãy xem xét A-đam chẳng hạn. Rô-ma 5 cho chúng ta biết rằng “trong A-đam, mọi người đều chết.” Lý do tại sao toàn thể nhân loại bị đặt trên con đường chết về thể xác và xa cách Chúa là do A-đam. Người đại diện ban đầu của chúng ta trước mặt Chúa đã chọn cách không vâng lời Chúa, và kết quả là dẫn đến hậu quả mà tất cả chúng ta vẫn đang phải trải qua cho đến tận bây giờ.

Bởi vì A-đam đã thất bại trong vai trò đại diện cho loài người, ông đã truyền đạt cho mỗi người chúng ta kết quả của sự thất bại của mình. A-đam nên là người mở mắt cho tất cả chúng ta về lý do tại sao việc lựa chọn người đại diện một cách khôn ngoan lại quan trọng đến vậy.

Mặt khác, chúng ta có một người đại diện khác: Chúa Giê-su Christ là người đã không thất bại. Chúa Giê-su đã hoàn toàn thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời và trong việc áp dụng lẽ thật của Ngài. Khi một người chấp nhận Chúa Giê-su Christ là người gánh tội lỗi và đại diện cá nhân của họ trước Đức Chúa Trời, họ sẽ nhận được những lợi ích mà Chúa Giê-su đã bảo đảm trên thập tự giá. Người đại diện rất quan trọng. Chúng ta không bao giờ nên coi nhẹ khái niệm bỏ phiếu hoặc ủng hộ các ứng cử viên chính phủ, bởi vì một khi họ đã chắc chắn nắm giữ vị trí đó, tất cả chúng ta đều phải chịu những lợi ích hoặc hậu quả của tính cách và các quyết định của họ.

Việc hiểu chính trị thông qua thế giới quan của Vương quốc là rất quan trọng đối với mọi công dân. Quá nhiều người không hiểu được mối liên hệ giao ước giữa các đại diện dân sự và Chúa, và do đó không tham gia vào quá trình lựa chọn những nhà lãnh đạo này một cách khôn ngoan. Chúa mong muốn ban phước cho các quốc gia có những nhà lãnh đạo tuân theo sự cai trị của Ngài. Ngài đã làm rõ ràng về cách một quốc gia và cư dân của quốc gia đó có thể đạt được những phước lành mà họ mong muốn. Ngài không giấu chúng ta những đường lối của Ngài hay giữ bí mật con đường dẫn đến phúc lành của đất nước. Phục truyền luật lệ ký 29:9 nêu rõ như sau: “Vậy, hãy giữ những lời của giao ước này để làm theo, hầu cho các ngươi được thịnh vượng trong mọi việc mình làm.”

Nếu chúng ta – những người Việt có quốc tịch Mỹ thực sự muốn cầu nguyện “Chúa ban phước cho nước Mỹ” và thấy kết quả của lời cầu nguyện đó, thì chúng ta cần đảm bảo rằng giới lãnh đạo ở đất nước này được bầu chọn để nhận được phước lành của Chúa trong mọi việc họ làm và nói. Là đại diện của chúng ta, họ đóng vai trò chuyển giao ân huệ của Chúa hoặc chuyển giao sự phán xét của Ngài cho toàn thể công dân.

Chúng ta là những người Việt đang định cư trên nước Mỹ vì nhiều lý do sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Chúng ta cũng đang cầu nguyện xin Chúa ban phước cho nước Việt Nam? Dĩ nhiên Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của con dân Chúa ở khắp mọi nơi và những phước hạnh hay ân ban của Ngài chúng ta có thể đếm được. Tuy nhiên để bầu chọn những người lãnh đạo vào vị trí của chính phủ, thì người Việt Nam chúng ta ở hải ngoại không có quyền đó. Trong nội dung của luận văn này, người viết chỉ có thể nói những chủ đề giới hạn. Hệ thống chính trị của một quốc chắc chắn sẽ dẫn đến những kết quả mà quốc gia đó theo đuổi. Bi kịch nằm ở chỗ là khi những người lãnh đạo không kính sợ Đức Chúa Trời, nhưng vì nhiều lý do họ được nắm giữ quyền lãnh đạo và thực thi một chính sách đối kháng với Kinh thánh, thì toàn bộ công dân của quốc gia đó phải gánh lấy mọi hậu quả. Người Phương tây có một câu nói hay: Dân tộc nào thì chính quyền nấy (The people get the government they deserve). Câu nói của người Phương Tây là để áp dụng cho các quốc gia dân chủ mà người dân có quyền quyết định vận mạng mình. Ở các nước độc tài, theo tôi nghĩ, phải đảo ngược câu nói đó thành: “Chính quyền nào, nhân dân nấy” là thích hợp hơn cả.2

 Quốc gia Singapore có một nhà lãnh đạo giỏi là Lý Quang Diệu đã vực dậy một hòn đảo nhỏ bé ở Châu Á trở nên thịnh vượng về mọi mặt. Mặc dù ông không phải là một Cơ đốc nhân, nhưng tài năng lãnh đạo và tầm nhìn của ông về định hướng phát triển quốc gia đã khiến ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo giỏi nhất ở khu vực Đông Nam Á. “Là người cha lập quốc của Singapore độc lập, Lý Quang Diệu (1923-2015) đã đưa nền kinh tế nước này từ thế giới thứ ba lên vị trí của một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Ông giữ chức thủ tướng từ năm 1959 đến 1990.”3  Lý Quang Diệu tin vào lý thuyết rằng những lãnh đạo vĩ đại sẽ thay đổi  lịch sử. Nhờ điều này, Singapore đã thành công trong khi Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Ông từng nói: “Nếu ai đó nhìn vào Sài Gòn và Singapore vào năm 1954 thì người đó sẽ nghĩ Singapore hết thời rồi, chứ không phải Sài Gòn” (If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon).

Lý Quang Diệu cũng nói, “Sài Gòn có thể làm được những gì mà Singapore đã làm.” (Saigon can do what Singapore did) 4

Nhưng trên thực tế thì Singapore cuối cùng đã thành công, còn Việt Nam Cộng Hòa thì không, vì nhiều lý do.

Lời cầu nguyện của người Việt nên là: “Xin Chúa dấy lên những nhà lãnh đạo khôn ngoan, kính sợ Chúa.”  Khi đất nước thực sự có những người lãnh đạo như vậy, đất nước sẽ thay đổi theo chiều hướng văn minh, tiến bộ, phát triển.


NHU CẦU VỀ NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO CÓ TRÁCH NHIỆM

Hội thánh Chúa trên đất tác động đến bản chất chính trị của một quốc gia bao gồm tác động đến những người được trao quyền, không chỉ vì chính sách của họ mà còn vì tính cách và phẩm chất cá nhân. Phước lành chảy qua nguyên tắc đại diện lấy tổng thống hoặc nội các chính phủ  làm trung tâm khi những người đại diện quyết định làm việc theo giao ước với Chúa. Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm tham gia vào chính trị ở một mức độ nào đó và để tiếng nói và giá trị của chúng ta được biết đến. Chúng ta có trách nhiệm này vì mỗi người chúng ta sẽ trải nghiệm phước lành hoặc sự phán xét được chuyển đến cho chúng ta thông qua những người đại diện chính trị của mình. Phiếu bầu của chúng ta rất có ý nghĩa. Những nhà nghiên cứu bên ngoài Cơ đốc giáo nhìn thấy một thực trạng: Tất cả mọi chế độ xã hội đều là sản phẩm do con người tạo nên, vì vậy chế độ tốt đẹp, lương thiện hay gian manh, ác độc đều là tấm gương phản chiếu sự suy nghĩ, tinh thần và học thức của người dân trong chế độ đó.

Kinh thánh nói gì về điều này?

Sau-lơ trở thành vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên là do tuyển dân của Chúa muốn như vậy. Và khi họ muốn thì Chúa để cho điều đó xảy ra. Khi tuyển dân muốn Sau-lơ làm vua, thì về thực tế là họ đã từ chối không muốn Đức Chúa Trời cai trị họ. Chúng ta thấy gì ở đây? Kết thúc triều đại của Sau-lơ là một bi kịch.   

Thật không may, nhiều Cơ đốc nhân sẽ nói về sự đồng thuận với chính sách của một chính trị gia trong khi đồng thời bỏ qua việc đối xử với họ như một con người. Nhưng theo kế hoạch giao ước của Chúa, tính cách và việc ra quyết định song hành với nhau. Nếu những người đại diện của chúng ta muốn thiết lập thành công một kênh mà phước lành của Chúa sẽ chảy qua, họ phải tập trung vào cả chính sách và các giá trị cá nhân, nhân cách của riêng họ. Điều này phụ thuộc vào niềm tin và nhận thức của họ về Đức Chúa Trời.

Sách Xuất Ê-díp-tô ký cho chúng ta biết những kiểu nhà lãnh đạo mà chúng ta phải tìm kiếm và ủng hộ khi lựa chọn họ. Có một số phẩm chất nhất định sẽ hữu ích trong việc thúc đẩy phước lành của Chúa trên đất nước. Chúng ta đọc về một số người giữa vòng họ trong Xuất Ê-díp-tô ký 18:21-22  khi Giê-trô khuyên bảo Môi-se:

“Nhưng hãy chọn lấy trong vòng dân sự mấy người tài năng, kính sợ Đức Chúa Trời, chân thật, ghét sự tham lợi, mà lập lên trên dân sự, làm trưởng cai trị hoặc ngàn người, hoặc trăm người, hoặc năm mươi người, hoặc mười người đặng xét đoán dân sự hằng ngày.”

Dựa trên đoạn Kinh văn này, trước hết, chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là những nhà lãnh đạo tôn trọng Đức Chúa Trời. Một nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời ám chỉ một người không chỉ tin vào Đức Chúa Trời mà còn tìm cách tìm hiểu những gì Đức Chúa Trời phán về một chủ đề để thực hiện ý muốn của Ngài trong một vấn đề. Một người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ tích cực tìm kiếm quan điểm của Đức Chúa Trời. Kính sợ Đức Chúa Trời không có nghĩa là nhắc đến tên của Đức Chúa Trời trong bữa sáng hoặc tiệc chiêu đãi hoặc trong khi vận động tranh cử. Cũng không có nghĩa là nói rằng, “Xin Chúa ban phước cho nước Mỹ.” Kính sợ Đức Chúa Trời xuất hiện khi một chính trị gia mang quan điểm của Chúa để áp dụng vào các hành động hoặc chính sách, luật pháp hiện hành và các chương trình nghị sự khác. Một chính trị gia kính sợ Chúa sẽ tôn cao Ngài trong các kế hoạch mà ông ấy thực hiện.

Chúng ta có thể  giải thích khái niệm kính sợ Chúa này nếu so sánh nó với điện. Bạn cần thận trọng với điện vì nó có thể mang lại lợi ích lớn cho bạn khi bạn làm vậy. Mặt khác, nếu bạn chọn cắm tua vít vào ổ cắm điện đang hoạt động, điện sẽ làm bạn bị thương. Bạn phải thận trọng với  điện, thậm chí sợ sức mạnh của điện, nếu bạn muốn tiếp cận những lợi ích của điện đồng thời tránh được những nguy hiểm của nó.

Khi một quốc gia có những nhà lãnh đạo không tôn trọng Chúa, thì sự giúp đỡ mà quốc gia đó nhận được từ Vương quốc Đức Chúa Trời sẽ không thông qua họ và đến với người dân. Là những Cơ đốc nhân, chúng ta cần bảo đảm rằng những nhà lãnh đạo đại diện của chúng ta phải chịu trách nhiệm trước ý muốn và đường lối của Chúa. Như Thi thiên 2:10 đã nói, “Vậy bây giờ, hỡi các vua, hãy tỏ ra sáng suốt; hỡi các quan xét của thế gian, hãy chịu sự răn bảo.” Các nhà lãnh đạo chính phủ được kỳ vọng sẽ cai trị dựa trên các tiêu chuẩn của Chúa. “Nhờ ta, các vua cai trị, và những quan trưởng định sự công bình” (Châm ngôn 8:15).

Khi một nhà lãnh đạo không kính sợ Chúa, Chúa có thể truất phế nhà lãnh đạo đó. Và những ai ủng hộ ông ta sẽ có bài học cho mình. (Tuy nhiên trong một thế giới đang hỗn loạn, những người lãnh đạo không kính sợ Chúa vẫn luôn tồn tại cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm).   

Một trong những minh họa tuyệt vời nhất trong Kinh thánh về điều đó là Nê-bu-cát-nết-sa. Chúng ta đọc về ông trong sách Đa-ni-ên. Nhà vua cai trị với quyền lực lớn. Ông cai trị quá dễ dàng và quá lâu đến nỗi điều đó khiến ông trở nên kiêu ngạo. Hiện nay lịch sử vẫn đang tái diễn điều này ở một số quốc gia.  

Và điều gì đã xảy ra sau đó?
“Nê-bu-cát-nết-sa đi dạo trong hoàng cung Ba-by-lôn, thì cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao? Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần sương móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim chóc. Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia. Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy? Trong lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được sự vinh hiển của ngôi nước ta, sự oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị viên và đại thần ta lại chầu ta. Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy nghi quyền thế ta càng thêm. Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chân thật, các đường lối Ngài đều công bình; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống” (Đa-ni-ên 4:29-37).

Sự lãnh đạo Vương quốc theo gương Chúa Giê-su

Lãnh đạo là người phục vụ.

Một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất trong cuộc đời của Chúa Giê-su là khi Ngài rửa chân cho các môn đệ trong Giăng 13. Khi kết thúc việc này, Chúa phán  với họ:” Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau “. Nhà lãnh đạo lớn tập trung vào việc phục vụ những người theo họ. Nhà lãnh đạo lớn là người phục vụ người khác.

Kinh thánh nói về Ngài:
“Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Ma-thi-ơ 20:28).

Còn Phao-lô thì sao?

Phao-lô viết cho hội thánh Cô-rinh-tô: “Hãy bắt chước tôi, như chính tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy” (1 Cô-rinh-tô 11:1).
Cuộc đời và chức vụ của Phao-lô được ghi trong sách Công Vụ. Là một người Pha-ri-si nhiệt thành, ông dũng mãnh chống lại sự lan tràn của Cơ đốc giáo. Phao-lô (trước đó được gọi là Sau-lơ) chính là kẻ khủng bố Đạo Chúa trong thời kỳ đầu tiên. Khi Đức Chúa Giê-su hiện ra với ông trong Công Vụ chương 9, tâm trí ông được biến đổi. Từ đây, Phao-lô sống chết cho Tin Lành của Chúa Giê-su, ông trở thành nhà truyền giáo và thần học gia trứ danh sau đó. “Phao-lô là mẫu người lãnh đạo được thúc đẩy bởi một ý thức rõ ràng về mục đích Chúa kêu gọi ông. Ông là người lãnh đạo có một ngọn lửa cháy trong tim và được thúc giục sẵn sàng thực hiện những mục tiêu cho Chúa.”5  Không có chỗ cho sự thờ ơ, trễ nãi đối với ơn kêu gọi trong cuộc đời của một người lãnh đạo thuộc loại này.

Và Phi-e-rơ. Vị sứ đồ đứng lên từ thất bại.

Phi-e-rơ, người môn đệ nổi tiếng nhất của Chúa Giê-su, chối Ngài ba lần trong khi Chúa Giê-su bị bách hại. Chúa Giê-su đã tiên đoán ông sẽ làm điều đó, mặc dù Phi-e-rơ khẳng định ông sẽ không bao giờ chối Chúa Giê-su cho dù phải chết. Khi gà gáy (những gì Chúa Giê-su phán sẽ xảy ra), Phi-e-rơ nhận ra hành động của ông là sai lầm và khóc lóc thảm thiết. Thế nhưng, trong Công vụ 2, chúng ta thấy Phi-e-rơ giảng bài giảng đầu tiên cho một đám đông hàng ngàn người. Trước đó ông đã từng chối Chúa trước mặt họ. Và kết quả là ba ngàn người thêm vào hội thánh. Nhà lãnh đạo lớn không nản lòng khi họ thất bại. Họ không đắm mình trong sự tự thương hại và bỏ cuộc nửa đường.  Họ phục hồi từ sự ăn năn và đứng lên lần nữa với Chúa.

Mẫu người lãnh đạo của Giăng Báp-tít: không e ngại gọi đúng tên, bộc lộ bản chất của người đối diện.

Giăng Báp-tít trong Ma-thi-ơ chương 3, làm phép báp-tem cho người dân và rao giảng về sự đến của Chúa Giê-su. Khi một nhóm kiêu căng các quan chức tôn giáo đến nhận phép báp-tem, ông gọi chúng là: “dòng dõi rắn lục”. Người lãnh đạo không sợ gọi đúng tên bản chất người đối diện. cho dù họ là nhà cung cấp, nhân viên, hoặc thậm chí là khách hàng. Nhà lãnh đạo thẳng thắn, trung thực với những người họ tiếp xúc. Người lãnh đạo theo kiểu này không cần màu mè, gọi đích danh bản chất của người đối diện.

Chúng ta cũng được kêu gọi trở thành người lãnh đạo trong Vương quốc Đức Chúa Trời. Khi chúng ta thực hành các nguyên tắc lãnh đạo vương quốc trong đời này, nó cũng như tiền vị cho sự lãnh đạo trong đời hầu đến. Kinh thánh nói gì?

“Vương quốc của thế gian đã trở thành Vương quốc của Chúa chúng ta và của Ðấng Christ của Ngài; Ngài sẽ trị vì đời đời vô cùng” (Khải huyền 1:15).

“Lời nầy chắc chắn lắm: Ví bằng chúng ta chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài; lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị” (2 Ti-mô-thê 2:11-12).

THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 6

1.Tony Evans (2022). Kingdom Politics. Moody Publishers. Trang 146

2. Đặng Văn Âu. https://tinhamburg2.blogspot.com/2010/05/nhan-dan-nao-chinh-quyen-o.html. Truy cập ngày 19 tháng 2/2025

3. https://nghiencuuquocte.org/2015/07/18/ly-quang-dieu/ Ngày truy cập 7 tháng 4/2025

4. https://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-46880628. Ngày truy cập 25 tháng 1/2025

5. https://huongdionline.com/chan dung nguoi lanh dao. Ngày truy cập 19 tháng 3/2025

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên