
Đề tài luận án: VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI THEO KINH THÁNH
Tác giả: Phạm Hơn
Cơ sở Đào tạo: Viện Giáo Dục và Đào Tạo Kinh Thánh Vạn Xuân
Người hướng dẫn: Mục sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Huệ
Ngày nộp luận án: 16 tháng 6 năm 2025.
Địa điểm thực hiện nghiên cứu: Thành phố Hillsboro, tiểu bang Oregon, The USA.
Lời cam đoan
Tôi cam đoan nội dung trong luận án này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép từ các bài nghiên cứu khác, ngoại trừ những tài liệu được trích dẫn hợp lệ.
Các tư liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án này phản ánh chính xác công việc nghiên cứu của tôi.
Tôi cũng cam kết chịu trách nhiệm về quyền sở hữu trí tuệ của luận án và những nguồn tài liệu liên quan.
Lời cảm ơn
Tạ ơn Đức Chúa Trời hằng sống đã ban mọi ân điển tốt lành cho tôi, về sức
khỏe, điều kiện làm việc, sinh hoạt tại tiểu bang Oregon để hoàn thành luận án
này.
Cảm ơn vị Mục sư Tiến sĩ lão thành Nguyễn Văn Huệ ở Texas đã giúp đỡ cho tôi có các nguồn tài liệu và sách vở cần nghiên cứu về chủ đề này.
Cảm ơn President Mark M. Yarbrough, PhD của chủng viện Dallas Theological Seminary (DTS) đã giúp đỡ cho tôi học tập tại chủng viện DTS và có được những hiểu biết cần thiết để viết luận án này.
Cảm ơn Mục sư Tiến sĩ Nguyễn Chí Dũng ở tiểu bang Washington đã hướng dẫn tôi cách viết và trình bày một luận án trong những năm đầu tiên khi tôi theo học chương trình Cao học Mục vụ tại Sài Gòn.
Cảm ơn Mục sư Lê Vinh Thành, giám đốc điều hành của Viên Giáo Dục và Đào Tạo Kinh Thánh Vạn Xuân là một người bạn tốt đã luôn động viên và khích lệ tôi trên con đường nghiên cứu học thuật trong những năm qua.
Cảm ơn Mỹ Vi là người vợ và các con trai tôi là Phạm Linh Huy, và Phạm Hướng Linh đã hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và viết luận án này.
MỤC LỤC
1. Những câu Kinh Thánh đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời 2. Vương quốc Đức Chúa Trời là gì? 3. Các dụ ngôn của Chúa Giê-su về vương quốc. 4. Các sứ đồ dạy về vương quốc. 5. Những nguyên tắc của vương quốc. 6. Sự lãnh đạo trong vương quốc. 7. Mối liên quan giữa vương quốc, Y-sơ-ra-ên và hội thánh. 8. Vương quốc và xã hội. Chương 1 Những câu Kinh Thánh đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời Tân Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời. “Nhưng trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33) “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn-uống, nhưng tại sự công-bình, bình-an, vui-vẻ bởi Đức Thánh-Linh vậy.” (Rô-ma 14:17) ” Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó.”(Ma-thi-ơ 21:43) “Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành.” (Mác 1:15) “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:3) “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:10) “Vì ta phán cho các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng.” (Ma-thi-ơ 5:20) “Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh; Nước Cha được đến; Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma-thi-ơ 6:9-10) “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi.” (Ma-thi-ơ 7:21) “Ta cũng nói cùng các ngươi, có nhiều người từ đông-phương tây-phương sẽ đến, ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong nước thiên-đàng.” (Ma-thi-ơ 8:11) “Đức Chúa Giê-su đi khắp các thành, các làng, dạy-dỗ trong các nhà hội, giảng tin-lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật-bịnh.” (Ma-thi-ơ 9:35) “Mà nếu ta cậy Thánh-Linh của Đức Chúa Trời để trừ quỉ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến tận các ngươi.” (Ma-thi-ơ 12:28) “Ngài lấy ví-dụ khác mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như một hột cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình; hột ấy thật nhỏ hơn cả các giống khác, song khi đã mọc lên, thì lớn hơn các thứ rau, và trở nên cây cối, cho đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được.” (Ma-thi-ơ 13:31-32) Ma-thi-ơ 13:33 “Ngài lấy ví-dụ khác nữa mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như men mà người đàn-bà kia lấy trộn vào trong ba đấu bột, cho đến chừng nào bột dậy cả lên.” (Ma-thi-ơ 13:33) “Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua đám ruộng đó.” (Ma-thi-ơ 13:44) “Nước thiên-đàng lại giống như một người lái-buôn kiếm ngọc châu tốt, khi đã tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia-tài mình mà mua hột châu đó.” (Ma-thi-ơ 13:45-46) “Nước thiên-đàng cũng giống như một tay lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá. Khi lưới được đầy rồi, thì người đánh cá kéo lên bờ; đoạn, ngồi mà chọn giống tốt để riêng ra, đem bỏ vào rổ, còn giống xấu thì ném đi. Đến ngày tận-thế cũng như vậy: Các thiên-sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công-bình ra, ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc-lóc và nghiến răng.” (Ma-thi-ơ 13:47-50) “Ta sẽ giao chìa khóa nước thiên-đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 16:19) “Song Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên-đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy.” (Ma-thi-ơ 19:14) “Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết-quả của nước đó.” (Ma-thi-ơ 21:43) Tin-lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” (Ma-thi-ơ 24:14) Khi Con người ngự trong sự vinh-hiển mình mà đến với các thiên-sứ thánh, thì Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh-hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra; để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả. Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất. Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp-rước ta; ta trần-truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta.” (Ma-thi-ơ 25:31-36) “Ngài lại phán cùng môn-đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây, có mấy kẻ sẽ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời lấy quyền-phép mà đến.” (Mác 9:1) “Con lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời.” (Mác 10:25) “Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin-lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến.” (Lu-ca 4:43) “Nhưng Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao-giảng nước Đức Chúa Trời.” (Lu-ca 9:60) “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước thiên-đàng. Hãy bán gia-tài mình mà bố-thí. Hãy sắm cho mình túi không hư, và của báu không hề hao-kém ở trên trời, là nơi kẻ trộm không đến gần, sâu mọt không làm hư-nát. Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó.” (Lu-ca 12:32-34) Người Pha-ri-si hỏi Đức Chúa Giê-su nước Đức Chúa Trời chừng nào đến, thì Ngài đáp rằng: Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.” (Lu-ca 17:20-21) Đức Chúa Giê-su thấy người buồn-rầu, bèn phán rằng: Kẻ giàu vào nước Đức Chúa Trời là khó biết dường nào! Lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời! Những người nghe điều đó, nói rằng: Vậy thì ai được cứu? Ngài đáp rằng: Sự chi người ta không làm được, thì Đức Chúa Trời làm được. Phi-e-rơ bèn thưa rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ sự mình có mà theo thầy. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người nào vì cớ nước Đức Chúa Trời mà bỏ nhà-cửa, cha mẹ, anh em, vợ con, thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn, và đời sau được sự sống đời đời.” (Lu-ca 18:24-30) “Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp-rước mọi người đến thăm mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy-dỗ về Đức Chúa Giê-su-Christ cách tự-do trọn-vẹn, chẳng ai ngăn-cấm người hết.” (Công vụ 28:30-31) “Đức Chúa Giê-su cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Giăng 3:3) “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn-uống, nhưng tại sự công-bình, bình-an, vui-vẻ bởi Đức Thánh-Linh vậy.” (Rô-ma 14:17) Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng-lực.” (1 Cô-rinh-tô 4:20) Anh em há chẳng biết những kẻ không công-bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: Phàm những kẻ tà-dâm, kẻ thờ hình-tượng, kẻ ngoại-tình, kẻ làm dáng yểu-điệu, kẻ đắm nam-sắc, kẻ trộm-cướp, kẻ hà-tiện, kẻ say-sưa, kẻ chưởi-rủa, kẻ chắt-bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu.” (1 Cô-rinh-tô 6:9-10) Kế đó, cuối-cùng sẽ đến, là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá-diệt mọi đế-quốc, mọi quyền cai-trị, và mọi thế-lực; vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù-nghịch dưới chân mình.” (1 Cô-rinh-tô 15:24-25) “Ngài đã giải-thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối-tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu-dấu Ngài.” (Cô-lô-se 1:13) Anh em cũng biết rằng chúng tôi đối-đãi với mỗi người trong anh em, như cha đối với con, khuyên-lơn, yên-ủi, và nài-xin anh em ăn-ở một cách xứng-đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em đến nước Ngài và sự vinh-hiển Ngài.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:11-12) “Hỡi anh em rất yêu-dấu, hãy nghe nầy: Đức Chúa Trời há chẳng lựa kẻ nghèo theo đời nầy đặng làm cho trở nên giàu trong đức-tin, và kế-tự nước Ngài đã hứa cho kẻ kính-mến Ngài hay sao?” (Gia-cơ 2:5) “Vị thiên-sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế-gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị-vì đời đời.” (Khải huyền 11:15) Cựu Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời “Hỡi Đức Giê-hô-va! sự cao-cả, quyền-năng, vinh-quang, toàn-thắng, và oai-nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! Vương quốc thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa-tể của muôn vật.” (1 Sử ký 29:11) Ta sẽ giảng ra mạng-lịnh: Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Ngươi là Con ta; Ngày nay ta đã sanh Ngươi. Hãy cầu ta, ta sẽ ban cho Con các ngoại-bang (các quốc gia, các dân tộc) làm cơ-nghiệp, và các đầu cùng đất làm của-cải.” (Thi thiên 2:7-8) “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai-trị trên muôn vật.” (Thi thiên 103:19) “Hỡi Đức Giê-hô-va, các công việc Ngài sẽ ngợi-khen Ngài; Những người thánh Ngài cũng sẽ chúc-tụng Ngài. Họ sẽ nói về sự vinh-hiển nước Chúa, Thuật lại quyền-năng của Chúa. Đặng tỏ ra cho con loài người biết việc quyền-năng của Chúa, Và sự vinh-hiển oai-nghi của nước Ngài. Nước Chúa là nước có đời đời, Quyền cai-trị của Chúa còn đến muôn đời.” (Thi thiên 145:10-13) Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy-diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân-tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy-diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời.” (Đa-ni-ên 2:44) Ta lại nhìn-xem trong những sự hiện-thấy ban đêm, nầy, có một người giống như con người đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng-cổ và bị dẫn đến trước mặt Ngài. Người được ban cho quyền-thế, vinh-hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng đều hầu-việc người. Quyền-thế người là quyền-thế đời đời chẳng qua đi, và nước người không bao giờ phải hủy-phá.” (Đa-ni-ên 7:13-14) “Nhưng các thánh của đấng Rất Cao sẽ nhận lấy nước, và được nước làm của mình đời đời, cho đến đời đời vô-cùng.” (Đa-ni-ên 7:18) “Bấy giờ nước, quyền-thế, và sự tôn-đại của muôn nước ở dưới cả trời, sẽ được ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài là nước đời đời, và hết thảy các quyền-thế đều hầu-việc và vâng lời Ngài.” (Đa-ni-ên 7:27) “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một.” (Xa-cha-ri 14:9) Chương 2 Vương quốc Đức Chúa Trời là gì? Theo trang web gotquestions.org, Vương quốc Đức Chúa Trời được giải thích một cách ngắn gọn như sau: “Vương quốc Đức Chúa Trời được đề cập thường xuyên trong những sách Phúc Âm (ví dụ trong Mác 1:15; 10:15; 15:43; Lu-ca 17:20) và ở những chỗ khác trong Tân Ước (ví dụ Công vụ 28:31; Rô-ma 14:17; I Cô-rinh-tô 15:50). Vương quốc Đức Chúa Trời có ý nghĩa tương đồng với vương quốc thiên đàng (Ma-thi-ơ 19:23). Khái niệm về vương quốc Đức Chúa Trời mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong những phân đoạn Kinh Thánh khác nhau.” Trong sự tổng hợp các lời giải thích về Vương quốc Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy những quan điểm sau đây căn cứ trên nền tảng của Kinh Thánh: Các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo một ngày mà con người sẽ chung sống trong hòa bình. Khi đó, “luật-pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ làm sự phán-xét trong các nước, đoán-định về nhiều dân. Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi-cày, lấy giáo rèn lưỡi-liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến-tranh (Ê-sai 2:3-4). Không chỉ các vấn đề của xã hội loài người sẽ được giải quyết, mà những điều xấu xa trong môi trường vật chất của con người cũng sẽ không còn nữa. “Bấy giờ muông-sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư-tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” (Ê-sai 11: 6). Hòa bình, an toàn, an ninh – tất cả những điều này đã được hứa cho một vương quốc trong tương lai. Sau đó, Chúa Giê-su đến thành Na-xa-rét công bố sứ điệp, “Hãy ăn năn, vì vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 4:17). Chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến gần là trọng tâm trong sứ mệnh của Ngài. Lời dạy của Ngài được thiết kế để chỉ cho con người cách họ có thể vào Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:20; 7:21). Những việc làm vĩ đại của Ngài có mục đích chứng minh rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Những dụ ngôn của Ngài minh họa cho các môn đồ của Ngài sự thật về Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 13:11). Có rất ít chủ đề nổi bật trong Kinh thánh lại nhận được những cách giải thích khác biệt như chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời. Một số người, như Adolf von Harnack, đã thu hẹp Vương quốc của Chúa thành phạm vi chủ quan và hiểu nó theo tinh thần con người và mối quan hệ của nó với Chúa. Vương quốc của Chúa là một sức mạnh bên trong đi vào tâm hồn con người và nắm giữ nó. Nó bao gồm một số chân lý tôn giáo cơ bản có ứng dụng phổ quát. Cách giải thích gần đây hơn của C. H. Dodd, coi Vương quốc là tuyệt đối, là hoàn toàn khác trong chức vụ của Chúa Giê-su, người Na-xa-rét. Ở thái cực khác là những người, giống như Albert Schweitzer, định nghĩa thông điệp của Chúa Giê-su về Vương quốc là một vương quốc sẽ được khai sinh bởi một hành động siêu nhiên của Chúa khi lịch sử sẽ bị phá vỡ và một trật tự mới bắt đầu. Vương quốc của Chúa không phải là một thực tại trong tâm linh con người; nó hoàn toàn thuộc về tương lai và siêu nhiên. Một loại giải thích khác liên hệ Vương quốc của Chúa theo cách này hay cách khác với Giáo hội. Kể từ thời Augustine, Vương quốc đã được xác định là Giáo hội. Khi Giáo hội phát triển, Vương quốc phát triển và được mở rộng trên thế giới. Nhiều nhà thần học Tin lành đã dạy một hình thức sửa đổi của cách giải thích này, cho rằng Vương quốc của Chúa có thể được xác định với Giáo hội chân chính được thể hiện trong Giáo hội hữu hình. Khi Giáo hội mang Phúc âm đến khắp thế giới, nó mở rộng Vương quốc của Chúa. Một phiên bản lạc quan cho rằng sứ mệnh của Giáo hội là giành được toàn bộ thế giới cho Chúa Giê-su và do đó biến đổi thế giới thành Vương quốc của Chúa. Đồng thời, Vương quốc là một di sản mà Đức Chúa Trời sẽ ban cho dân sự Ngài khi Đấng Christ đến trong vinh quang. “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma-thi-ơ 25:34). Làm sao Vương quốc của Đức Chúa Trời có thể là một thực tại tâm linh trong hiện tại nhưng vẫn là một di sản được ban cho dân sự của Đức Chúa Trời khi Đấng Christ tái lâm? Một khía cạnh khác của lẽ thật về Vương quốc phản ánh sự kiện rằng Vương quốc là một nơi mà những người theo Chúa Giê-su Christ đã bước vào. Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời đã “giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và chuyển chúng ta sang vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13). Câu Kinh thánh này nói rất rõ rằng những người được cứu chuộc đã ở trong Vương quốc của Đấng Christ. Tất nhiên, người ta có thể phản đối rằng chúng ta phải phân biệt giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Vương quốc của Đấng Christ; nhưng điều này là không thể, vì Vương quốc của Đức Chúa Trời cũng là Vương quốc của Đấng Christ (Ê-phê-sô 5:5; Khải huyền 11:15). Hơn nữa, Chúa chúng ta mô tả những người đã tiếp nhận sứ điệp và sứ mệnh của Ngài là những người hiện đang bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời (Lu-ca 16:16). Đồng thời, Vương quốc của Đức Chúa Trời là một vương quốc tương lai mà chúng ta phải bước vào khi Đấng Christ tái lâm. Phi-e-rơ hướng đến một ngày tương lai khi “anh em sẽ được cho vào cách rộng-rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-su-Christ là Chúa và Cứu-Chúa của chúng ta.” (2 Phi-e-rơ 1:11). Chính Chúa chúng ta thường nhắc đến sự kiện tương lai này. “Nhiều người sẽ đến từ phương đông và phương tây và ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong vương quốc thiên đàng” (Ma-thi-ơ 8:11). Sự tái lâm tương lai của Vương quốc này sẽ được tham dự với vinh quang lớn lao. Chúa Giê-su đã nói về ngày mà các thiên sứ “thâu mọi gương xấu và những kẻ làm ác khỏi nước Ngài, và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc-lóc và nghiến răng. Khi ấy, những người công-bình sẽ chói-rạng như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai, hãy nghe!” (Ma-thi-ơ 13:41, 43). Mặt khác, khi được những người Pha-ri-si hỏi khi nào Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ đến, Chúa Giê-su trả lời, “Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi”’ (Lu-ca 17:20-21). Vương quốc đã hiện diện giữa loài người; và Chúa Giê-su đã ngăn cản những người Pha-ri-si tìm kiếm một Vương quốc tương lai sẽ đến với sự phô trương bên ngoài. Những dụ ngôn về Vương quốc cho thấy rõ rằng theo một nghĩa nào đó, Vương quốc hiện diện và đang hoạt động trên thế giới. Vương quốc của Chúa giống như một hạt giống nhỏ bé trở thành một cây lớn; giống như men mà một ngày nào đó sẽ thấm vào ba đấu bột, cho đến chừng bột dậy cả lên (Lu-ca 13:18-21). Tuy nhiên, mặt khác, khi Phi-lát thẩm vấn Chúa Giê-su về những lời dạy của Ngài, Chúa Giê-su trả lời: “Vương quốc của ta không thuộc về thế gian này” (Giăng 18: 36). Chính sự phức tạp của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là một trong những lý do tại sao những cách giải thích khác nhau như vậy làm cho thần học có nhiều trường phái giải thích khác nhau. Có thể trích dẫn những câu riêng lẻ cho hầu hết các cách giải thích có thể tìm thấy trong tài liệu thần học của chúng ta. Vương quốc là một thực tại hiện tại (Ma-thi-ơ 12:28), nhưng lại là một phước lành trong tương lai (1 Cô-rinh-tô 15:50). Đó là một phước lành thuộc linh bên trong (Rô-ma 14:17) chỉ có thể được trải nghiệm thông qua sự tái sinh (Giăng 3:3), nhưng nó sẽ liên quan đến chính quyền của các quốc gia trên thế giới (Khải huyền 11:15). Vương quốc Đức Chúa Trời là một nước mà con người có thể bước vào ngay bây giờ (Ma-thi-ơ 21:31), nhưng đó cũng là một vương quốc mà họ sẽ bước vào trong tương lai (Ma-thi-ơ 8:11). Đồng thời, vương quốc là một món quà của Đức Chúa Trời sẽ được ban cho trong tương lai (Lu-ca 12:32) nhưng phải được tiếp nhận trong hiện tại (Mác 10:15). Rõ ràng là không có lời giải thích đơn giản nào có thể công bằng với sự đa dạng nhưng phong phú của nhiều điều trông có vẻ nghịch lý như vậy. Tuy nhiên, có một giải pháp cơ bản cho vấn đề phức tạp này, giải pháp này sẽ cung cấp chìa khóa để mở cánh cửa vào kho tàng hiểu biết và phước lành. Chìa khóa này cung cấp cách tiếp cận đơn giản nhất đối với lẽ thật Kinh thánh phức tạp và đa dạng này. Đây là chìa khóa thường bị bỏ qua vì sự khác biệt giữa các thành ngữ hiện đại và cổ xưa. Chúng ta phải đặt câu hỏi cơ bản nhất: Ý nghĩa của “vương quốc” là gì? Câu trả lời hiện đại cho câu hỏi này mất đi chìa khóa ý nghĩa đối với chân lý Kinh thánh cổ xưa này. Trong thành ngữ phương Tây, vương quốc chủ yếu là một lãnh thổ mà một vị vua thực hiện quyền lực của mình. Không còn nhiều vương quốc trong thế giới hiện đại của chúng ta với các lợi ích dân chủ của nó. Tuy nhiên khi nghĩ về Vương quốc Anh và Bắc Ireland như nhóm quốc gia ban đầu công nhận Nữ hoàng là người cai trị của họ. Từ điển đi theo dòng suy nghĩ này bằng cách đưa ra định nghĩa vương quốc là “Một quốc gia hoặc chế độ quân chủ mà người đứng đầu là một vị vua hoặc nữ hoàng có uy quyền tuyệt đối để cai trị.” Nghĩa thứ hai của vương quốc là những người thuộc về một quốc gia nhất định. Vương quốc Anh có thể được xem là tập hợp những công dân mà Nữ hoàng thực hiện quyền cai trị của mình. Người dân nước Anh là công dân của vương quốc đó. Việc áp dụng một trong hai ý tưởng này vào giáo lý Kinh thánh về Vương quốc khiến chúng ta đi lệch khỏi sự hiểu biết đúng đắn về chân lý Kinh thánh. Bản thân từ điển tiếng Anh cũng mắc lỗi này khi đưa ra định nghĩa thần học về vương quốc Đức Chúa Trời là “Vương quốc thuộc linh có Đức Chúa Trời là người cai trị”. Định nghĩa này không thể chính xác với những câu Kinh thánh nói về sự xuất hiện của Vương quốc khi Chúa Giê-su tái lâm. Mặt khác, những người bắt đầu bằng ý tưởng về một vương quốc tương lai được khai sinh qua sự tái lâm của Chúa Giê-su thì không đồng nghĩa với những câu Kinh thánh nói về Vương quốc như một thực tế của đời sống tâm linh trong hiện tại. Chúng ta có thể tìm hiểu ý nghĩa chính của từ “vương quốc” trong Cựu Ước để mô tả sự cai trị của một vị vua. E-xơ-ra 8:1 nói đến sự trở về của tuyển dân từ Ba-by-lôn. Lúc đó là vương quốc của Ạt-ta-xét-xe, tức là triều đại của ông.2 Sử ký 12:1 nói về việc thành lập vương quốc hoặc sự cai trị của Rô-bô-am. Đa-ni-ên 8:23 viết, “Đến kỳ sau-rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội-nghịch đã đầy, thì sẽ dấy lên một vua” ám chỉ đến giai đoạn cuối của một vương quốc trần gian. Cách sử dụng từ “vương quốc” này như một triều đại của con người cũng có thể được tìm thấy trong các đoạn văn như: Giê-rê-mi 49: 34; 2 Sử ký 11: 17, 12: 1, 26: 30; E-xơ-ra 4: 5; Nê-hê-mi 12: 22. Khi nói đến vương quốc Đức Chúa Trời, cụm từ này luôn ám chỉ đến triều đại của Ngài, sự cai trị của Ngài, quyền tối cao của Ngài, Thi thiên 103:19, xác nhận “Chúa đã lập ngôi Ngài trên các tầng trời, và vương quốc Ngài cai trị trên tất cả.” Vương quốc của Chúa, là sự cai trị phổ quát của Ngài, quyền tối cao của Ngài trên toàn trái đất. Thi Thiên 145: 11, “Người ta sẽ nói về sự vinh hiển của nước Chúa, và thuật lại quyền năng của Chúa.” Trong phép song hành của thơ ca Do Thái, hai câu thơ này diễn đạt cùng một chân lý. Nước Chúa là quyền năng của Ngài. Thi Thiên 145:13, “Nước Chúa là nước đời đời, quyền thống trị của Chúa tồn tại qua các thế hệ.” Vương quốc của Chúa là trời và đất, nhưng câu thánh thi này không đề cập đến sự trường tồn của vương quốc. Quyền cai trị của Chúa là quyền năng đời đời. Đa-ni-ên 2: 37, “Hỡi vua, vua của các vua, Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho vua nước, quyền năng, sức mạnh và vinh quang.” Hãy chú ý đến các từ đồng nghĩa với vương quốc: quyền năng, sức mạnh, vinh quang – tất cả đều là cách diễn đạt thẩm quyền. Những thuật ngữ này xác định Vương quốc là “quyền cai trị” mà Chúa đã ban cho các vua trên đất. Chúng ta đọc về vua Bên-xát-sa, “Đức Chúa Trời đã đếm nước vua và khiến nó đến cuối-cùng” (Đa-ni-ên 5:26). Rõ ràng là vương quốc mà Bên-xát-sa cai trị không bị phá hủy. Vương quốc của người dân Ba-by-lôn không bị chấm dứt; họ được chuyển giao cho một người cai trị khác. Nhưng quyền cai trị của nhà vua đã bị chấm dứt, và nó được trao cho Đa-ri-út người Mê-đi. “Ngay đêm đó, vua người Canh-đê là Bên-xát-sa bị giết. Rồi Đa-ri-út là người Mê-đi được nước” (Đa-ni-ên 5:30-31). Một tài liệu tham khảo trong Phúc âm của chúng ta làm cho ý nghĩa này rất rõ ràng. Chúng ta đọc trong Lu-ca 19:11-12, “Họ nghe những lời ấy, thì Đức Chúa Giê-su thêm một thí-dụ nữa, vì Ngài gần đến thành Giê-ru-sa-lem, và người ta tưởng rằng nước Đức Chúa Trời sẽ hiện ra ngay. Vậy, Ngài phán rằng: Có một vị thế-tử đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua rồi trở về.” Vị thế tử đi xa để có được một vương quốc, một lãnh địa để cai trị. Lãnh thổ mà ông sẽ cai trị là nơi ông rời đi. Vấn đề là lúc đó vị thế tử không phải là vua. Ông cần thẩm quyền để cai trị. Ông đã đi để có được một “vương quốc”, ông cần vương quyền, thẩm quyền để cai trị. Chính điều này đã xảy ra vài năm trước khi Chúa Giê-su giáng sinh. Vào năm 40 TCN, tình hình chính trị ở Palestine trở nên hỗn loạn. Người La Mã đã chinh phục đất nước Y-sơ-ra-ên vào năm 63 TCN, nhưng tiến trình ổn định rất chậm. Cuối cùng, Hê-rốt Đại đế đã đến Rô-ma, giành được vương quốc từ Thượng viện La Mã và được tuyên bố là vua. Ông thực sự đã đến một quốc gia xa xôi để nhận được vương quyền, nhận được thẩm quyền làm vua cho dân Do Thái. Có thể Chúa chúng ta đã nghĩ đến sự việc này trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây. Trong trường hợp này, nó minh họa cho ý nghĩa cơ bản của một vương quốc. Vương quốc của Chúa là vương quyền của Ngài, sự cai trị của Ngài, thẩm quyền của Ngài. Khi đã nhận ra điều này, chúng ta có thể đọc Tân Ước và tìm thấy từng đoạn văn trong đó ý nghĩa này được thể hiện rõ ràng, nơi Vương quốc không phải là một lãnh địa hay một dân tộc mà là sự cai trị của Chúa. Chúa Giê-su đã nói rằng chúng ta phải “tiếp nhận vương quốc của Chúa” như những đứa trẻ (Mác 10:15). Điều gì được con người tiếp nhận? Điều được tiếp nhận là sự cai trị của Chúa trên cuộc đời của mỗi người. Để bước vào Vương quốc, người ta phải hoàn toàn tin tưởng vào sự cai trị của Chúa ở đây và ngay bây giờ. Chúng ta cũng phải “trước hết hãy tìm kiếm vương quốc của Ngài và sự công bình của Ngài” (Ma-thi-ơ 6:33). Mục đích tìm kiếm của chúng ta là gì? Hội thánh? Thiên đàng? Không phải vậy. Chúng ta phải tìm kiếm sự công bình của Chúa, tìm kiếm sự kiểm soát của Ngài, sự cai trị của Ngài trong cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta có đang cầu nguyện cho thiên đàng ngự xuống trần gian không? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đang cầu nguyện cho điều này; nhưng thiên đàng chỉ là đối tượng của sự mong muốn vì triều đại của Chúa sẽ được thực hiện hoàn hảo hơn hiện tại. Nếu không có triều đại của Chúa, thiên đàng là vô nghĩa. Do đó, điều chúng ta cầu nguyện là, “Nước Cha được đến; ý Cha được nên ở đất như trời.” Lời cầu nguyện này là lời thỉnh cầu Chúa ngự trị, để thể hiện quyền tối cao của Ngài, để xua đuổi mọi kẻ thù của sự công chính và để chỉ một mình Chúa là Vua trên khắp thế gian. Tuy nhiên, một triều đại không có lãnh địa để cai trị thì giống như một chính phủ lưu vong. Do đó, chúng ta thấy rằng Vương quốc của Chúa cũng là lãnh địa mà triều đại của Chúa thực thi quyền cai trị. Nhưng một lần nữa, các sự kiện trong Kinh thánh không đơn giản. Đôi khi Kinh thánh nói về Vương quốc như là lãnh địa mà chúng ta bước vào ngay trong hiện tại, đôi khi như thể nó thuộc về tương lai. Nó là tương lai trong những câu như Mác 9: 47, “Thà rằng một mắt mà vào vương quốc của Chúa còn hơn là hai mắt mà bị ném vào địa ngục.” (Mác 10: 23, 14: 25, Ma-thi-ơ 7: 21) Trong những đoạn văn như vậy, Vương quốc của Chúa tương đương với khía cạnh của sự sống vĩnh cửu mà chỉ có thể trải nghiệm sau khi Chúa Giê-su tái lâm. Trong những đoạn văn khác, Vương quốc hiện diện và có thể được bước vào ở đây và bây giờ. Trong sách Lu-ca 16:16, “Luật pháp và các tiên tri có cho đến thời Giăng; từ đó, tin lành về vương quốc Đức Chúa Trời được rao giảng, và mọi người dùng sức mạnh mà vào đó.” Theo Phúc âm Ma-thi-ơ 21:31, “Những người thu thuế và gái điếm vào vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi.” Và cũng trong Lu-ca 11:52, “Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn-cấm không cho!” Vậy thì chủ đề vương quốc nằm ở sự kiện ba chiều này: (1) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là vương quốc của Đức Chúa Trời. Có nghĩa là Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền cai trị tuyệt đối. (2) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là vương quốc mà chúng ta có thể bước vào để trải nghiệm các phước lành ngay bây giờ. (3) Một số đoạn Kinh thánh khác lại nói đến một vương quốc trong tương lai mà chỉ đến khi Chúa Giê-su Christ tái lâm, khi đó chúng ta sẽ bước vào và trải nghiệm sự trọn vẹn của vương quốc Ngài. Do đó, Vương quốc Đức Chúa Trời có ba ý nghĩa khác nhau trong các câu Kinh thánh khác nhau. Người ta phải nghiên cứu tất cả các tài liệu tham khảo theo bối cảnh của chúng và sau đó cố gắng kết hợp chúng lại với nhau trong một cách diễn giải tổng thể. Về cơ bản, như chúng ta đã thấy, Vương quốc của Chúa là triều đại tối cao của Chúa; nhưng triều đại của Chúa thể hiện ở các giai đoạn khác nhau thông qua lịch sử cứu chuộc. Do đó, con người có thể bước vào vương quốc của Chúa trong nhiều giai đoạn biểu hiện và trải nghiệm các phước lành của triều đại của Ngài ở các mức độ khác nhau. Vương quốc của Chúa là vương quốc của thời đại tương lai, thường được gọi là thiên đàng; khi đó chúng ta sẽ nhận ra các phước lành của Vương quốc trong sự hoàn hảo của sự trọn vẹn của chúng. Nhưng Vương quốc cũng ở đây ngay bây giờ. Có một vương quốc phước lành thuộc linh mà chúng ta có thể bước vào hôm nay và tận hưởng một phần những phước lành của Vương quốc. Chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha cai trị được đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Niềm tin rằng lời cầu nguyện này sẽ được đáp lại khi Chúa đưa lịch sử loài người đến sự viên mãn do Chúa chỉ định giúp Cơ đốc nhân giữ được sự cân bằng và tỉnh táo trong thế giới điên loạn mà chúng ta đang sống. Cảm tạ Chúa, Vương quốc của Ngài đang đến và sẽ tràn ngập khắp đất. Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta cũng cầu xin ý Chúa được thể hiện ở đây và ngay hôm nay. Điều này nên là mối quan tâm chính của chúng ta – những người đã trải nghiệm sự tái sanh và thực hiện nếp sống vương quốc. Chúng ta cũng nên cầu nguyện, “Nước Cha được đến, ý Cha được thể hiện trong hội thánh mà tôi đang sinh hoạt như trên thiên đàng. Cuộc sống và sự hiệp thông của một nhà thờ Cơ đốc phải là sự hiệp thông của những người mà ý muốn của Chúa được thực hiện trên trái đất. Nước Cha được đến, ý Cha được nên trong cuộc sống của tôi ở đây cũng như trên thiên đàng. Điều này được bao gồm trong lời cầu nguyện của chúng ta cho sự đến của Vương quốc. Đây là một phần của Phúc âm về Vương quốc của Chúa.1 — 1. Tham khảo: George Eldon Ladd (1959). The Gospel of the Kingdom. Page 23. William B. Eerdmans Publishing Company Grand Rapids, Michigan Chương 3 |
|
Các dụ ngôn của Chúa Giê-su về vương quốc/nước trời.
Các dụ ngôn của Chúa
Giê-su được ghi chép trong các Sách Phúc Âm. Các dụ ngôn này thường là những
câu chuyện đơn giản và dễ nhớ, có hình ảnh gần gũi với đời thường, nhưng cũng
có dụ ngôn mang nghĩa về chủ đề tôn giáo, các luật lệ. Các tín hữu xem dụ ngôn
là một phần quan trọng trong giáo huấn của Giê-su, thể hiện phương cách giảng
đạo linh hoạt của Ngài đối với những người bình dân. Trong nền văn minh phương
Tây, các dụ ngôn của Chúa Giê-su là chất liệu tạo nên các thuật ngữ thời hiện
đại, ngay cả đối với những người không biết nhiều về Kinh Thánh, khiến cho
chúng nằm trong số những câu chuyện nổi tiếng và truyền cảm hứng nhất trên thế
giới.
Dụ ngôn trong Kinh Thánh diễn tả tình yêu vô bờ bến của Đức Chúa Trời với nhân
loại và lòng tha thứ vô biên vượt khỏi sự mong đợi của tội nhân. Mục đích chính
của dụ ngôn hướng dẫn ta về những điều mầu nhiệm của Nước Trời (hay Vương quốc
Đức Chúa Trời, hay nước thiên đàng).
- Dụ ngôn Hạt cải là một dụ ngôn ngắn: “Nước thiên đàng giống
như hạt cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình. Hạt cải tuy nhỏ nhất trong
các loại hạt, nhưng khi lớn lên thì lớn nhất trong các loại cây và trở thành
cây lớn, đến nỗi chim chóc đến làm tổ trên cành” (Ma-thi-ơ 13:31–32).
Giống như mọi dụ ngôn khác, mục đích của Dụ ngôn Hạt cải là dạy một khái niệm hoặc “ý tưởng lớn” bằng cách sử dụng nhiều yếu tố tường thuật hoặc chi tiết phổ biến, dễ nhận biết và thường tượng trưng cho điều gì đó khác. Mặc dù bản thân các yếu tố có tầm quan trọng, nhưng việc nhấn mạnh quá mức vào các chi tiết hoặc tập trung theo nghĩa đen vào một yếu tố thường dẫn đến lỗi diễn giải và bỏ lỡ điểm chính của dụ ngôn.
Một trong những lý do thực tế có thể khiến Chúa Giê-su sử dụng các dụ ngôn như thế này là bằng cách mô tả các khái niệm bằng hình ảnh từ ngữ, thông điệp không dễ bị mất đi do những thay đổi trong cách sử dụng từ ngữ, công nghệ, bối cảnh văn hóa hoặc sự trôi qua của thời gian. Những câu chuyện chi tiết theo nghĩa đen dễ trở nên lỗi thời hoặc lỗi thời hơn. Hai ngàn năm sau, hình ảnh vẫn còn sống động. Chúng ta vẫn có thể hiểu được khái niệm về hạt giống đang phát triển. Những câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giê-su rất tuyệt vời vì sự đơn giản của chúng. Cách kể chuyện này cũng thúc đẩy việc thực hành các nguyên tắc hơn là tuân thủ cứng nhắc các luật lệ.
Câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải có trong cả ba sách Phúc âm Nhất lãm (Ma-thi-ơ 13:31–32; Mác 4:30–32; Lu-ca 13:18–19). Trong câu chuyện ngụ ngôn này, Chúa Giê-su dự đoán sự phát triển đáng kinh ngạc của vương quốc thiên đàng. Hạt cải khá nhỏ, nhưng nó phát triển thành một bụi cây lớn – cao tới mười feet – và Chúa Giê-su nói rằng đây là hình ảnh về sự phát triển của vương quốc. Ý chính của Câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải là một điều gì đó lớn lao và được ban phước – vương quốc của Chúa – đã có khởi đầu khiêm tốn. Chức vụ ngắn ngủi của Chúa Giê-su có thể quan trọng đến mức nào? Ngài chỉ có một số ít người theo dõi, Ngài là một người không có địa vị và không có của cải, và Ngài sống ở nơi mà mọi người đều coi là vùng hẻo lánh của thế giới. Cuộc đời và cái chết của Đấng Christ không thu hút sự chú ý của thế giới nhiều hơn một hạt cải nằm trên mặt đất bên đường. Nhưng đây là công trình của Đức Chúa Trời. Những gì có vẻ không quan trọng lúc đầu đã phát triển thành một phong trào có ảnh hưởng trên toàn thế giới, và không ai có thể ngăn cản nó (xem Công vụ 5:38–39). Ảnh hưởng của vương quốc trên thế giới này sẽ lớn đến mức mọi người liên quan đến nó đều tìm thấy lợi ích—được mô tả như những chú chim đậu trên cành cây cải trưởng thành.
Ở những nơi khác trong Kinh thánh, vương quốc của Đức Chúa Trời cũng được mô tả như một cái cây. Ví dụ, một đoạn trong Ê-xê-chi-ên, có nhiều điểm tương đồng với Dụ ngôn về Hạt cải. Trong lời tiên tri này, Đức Chúa Trời hứa sẽ trồng một chồi “trên một ngọn núi cao và hùng vĩ” (Ê-xê-chi-ên 17:22). Nhánh nhỏ này “Thật, Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Y-sơ-ra-ên; nó sẽ nứt nhánh, ra trái và sẽ trở nên cây bá hương xinh tốt. Mọi loài chim sẽ đến núp dưới nó và tất cả những giống có cánh sẽ núp dưới bóng các cành của nó” (Ê-xê-chi-ên 17:23). Lời tiên tri về Đấng cứu thế này báo trước sự phát triển của vương quốc của Đấng Christ từ những khởi đầu rất nhỏ đến một nơi trú ẩn rộng lớn.
Một số người tự hỏi tại sao, trong Dụ ngôn về Hạt cải, Chúa Giê-su gọi hạt cải là hạt “nhỏ nhất” và cây cải trưởng thành là cây “lớn nhất” trong vườn, trong khi có những hạt nhỏ hơn và cây lớn hơn. Câu trả lời là Chúa Giê-su đang sử dụng phép cường điệu tu từ – một sự cường điệu để nêu rõ quan điểm. Ngài không nói về thực vật học mà là về một hình ảnh minh họa. Chúa Giê-su nhấn mạnh vào sự thay đổi về kích thước – từ nhỏ đến lớn – và bản chất đáng ngạc nhiên của sự phát triển.
Lịch sử của hội thánh đã chứng minh Dụ ngôn về Hạt cải của Chúa Giê-su là đúng. Hội thánh đã trải qua tốc độ phát triển bùng nổ qua nhiều thế kỷ. Hội thánh được tìm thấy trên toàn thế giới và là nguồn nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho tất cả những ai tìm kiếm phước lành của hội thánh. Bất chấp sự đàn áp và những nỗ lực liên tục để dập tắt hội thánh, nó vẫn phát triển mạnh mẽ. Và đó chỉ là một bức tranh nhỏ về sự biểu hiện cuối cùng của vương quốc Đức Chúa Trời, khi Chúa Giê-su trở lại trái đất để cai trị từ Si-ôn.
- Dụ ngôn về men được tìm thấy trong hai sách Phúc âm. Đây là
một câu chuyện rất đơn giản—thực sự là một bức ảnh chụp nhanh về cuộc sống:
“Nước thiên đàng giống như men mà người đàn bà kia lấy trộn vào một khối bột
lớn, cho đến khi tất cả bột đều dậy men” (Ma-thi-ơ 13:33, Lu-ca 13:20-21).
Chúa Giê-susử dụng câu chuyện này như một bài học thực tế để minh họa cho vương quốc thiên đàng. Một người đàn bà lấy men (men) và trộn vào bột. Cuối cùng, toàn bộ khối bột đều lên men. Điều đó có nghĩa là gì?
Trước tiên, điều quan trọng là phải định nghĩa “vương quốc thiên đàng”. Qua đó, Chúa Giê-su ám chỉ đến lãnh địa của Ngài là Đấng Mê-si. Trong thời đại hiện tại, vương quốc thiên đàng là thuộc linh, tồn tại trong lòng những người tin (Lu-ca 17:21). Sau đó, vương quốc sẽ được biểu hiện hữu hình, khi Chúa Giê-su thiết lập ngai vàng của Ngài trên trái đất này (Khải huyền 11:15).
Trong Dụ ngôn về Men, chúng ta học được nhiều điều về cách thức hoạt động của vương quốc trong thời đại hiện tại. Mỗi bài học này đều bắt nguồn từ bản chất của men.
Đầu tiên, vương quốc của Chúa có thể khởi đầu nhỏ bé, nhưng rồi sẽ lớn mạnh. Men có kích thước cực nhỏ, và chỉ một ít được nhào vào bột. Tuy nhiên, theo thời gian, men sẽ lan tỏa khắp bột. Tương tự như vậy, lãnh địa của Chúa Giê-su bắt đầu với mười hai người đàn ông ở một nơi hẻo lánh của Ga-li-lê, nhưng đã lan rộng khắp thế giới. Phúc âm đang tiến triển.
Thứ hai, vương quốc của Chúa tác động từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài. Men làm cho bột nở ra từ bên trong. Trước tiên, Chúa thay đổi tấm lòng của một người, và sự thay đổi bên trong đó có những biểu hiện bên ngoài. Ảnh hưởng của phúc âm trong một nền văn hóa cũng hoạt động theo cách tương tự: Cơ đốc nhân trong một nền văn hóa đóng vai trò là tác nhân thay đổi, từ từ biến đổi nền văn hóa đó từ bên trong.
Thứ ba, hiệu ứng của vương quốc của Chúa sẽ toàn diện. Giống như men hoạt động cho đến khi bột nở hoàn toàn, lợi ích cuối cùng của vương quốc Đức Chúa Trời sẽ lan rộng khắp thế giới (Thi thiên 72:19; Đa-ni-ên 2:35). “Đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết về vinh quang của Đức Giê-hô-va như nước phủ kín biển” (Ha-ba-cúc 2:14).
Thứ tư, mặc dù vương quốc Đức Chúa Trời hoạt động một cách vô hình, nhưng hiệu quả của nó thì hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Men thực hiện công việc của mình một cách chậm rãi, bí mật và thầm lặng, nhưng không ai có thể phủ nhận hiệu quả của nó đối với bánh mì. Điều tương tự cũng đúng với công việc của ân điển trong lòng chúng ta.
Bản chất của men là phát triển và thay đổi bất cứ điều gì nó tiếp xúc. Khi chúng ta chấp nhận Đấng Christ, ân điển của Ngài phát triển trong lòng chúng ta và thay đổi chúng ta từ trong ra ngoài. Khi phúc âm biến đổi cuộc sống, nó tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Khi chúng ta “phản chiếu vinh quang của Chúa, . . . Chúa là Đức Thánh Linh, khiến chúng ta ngày càng giống Ngài hơn khi chúng ta được biến đổi theo hình ảnh vinh quang của Ngài” (2 Cô-rinh-tô 3:18).
- Dụ ngôn về kho báu ẩn giấu
tiết lộ nhiều điều về bản chất và giá trị của thiên đàng. Chúa Giê-su đã dạy
rằng: “Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một
người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua
đám ruộng đó.” (Ma-thi-ơ 13:44).
Mặc dù ngắn gọn, dụ ngôn này làm sáng tỏ một số thực tế quan trọng. Một chi tiết ban đầu là vương quốc thiên đàng bị che giấu khỏi tầm nhìn thông thường. Vương quốc của Chúa tồn tại trong phạm vi của tâm linh và không thể nhận thức được bằng các giác quan vật lý như thị giác và thính giác. Nhiều người sẽ bỏ lỡ vương quốc thiên đàng vì nó bị che khuất đối với họ thông qua sự chai sạn trong lòng và sự mù quáng về mặt tâm linh ( Ma-thi-ơ 13:11–17, 14; 2 Cô-rinh-tô 3:14; 4:4). Nhưng những người được Thánh Linh của Đức Chúa Trời mở mắt sẽ nhận ra lẽ thật tâm linh và tìm thấy kho báu thiên đàng được giấu kín, trong một đám ruộng (1 Cô-rinh-tô 2:12–15).
Một đặc điểm thứ hai mà câu chuyện ngụ ngôn minh họa là bản chất đáng ngạc nhiên hoặc tình cờ mà giá trị của kho báu được khám phá. Chúng ta quá bận rộn với cuộc sống của mình, đi theo con đường riêng của mình, đến nỗi, nếu không có Đức Chúa Trời chủ động tiết lộ giá trị của vương quốc Ngài cho chúng ta, chúng ta sẽ vẫn lạc lối một cách vô định (Ê-sai 53:6; Ma-thi-ơ 18:12–14; Rô-ma 5:6–8; Ê-phê-sô 2:8; 1 Giăng 4:10, 19). Tuy nhiên, một khi mắt chúng ta mở ra để thấy giá trị vô song của vương quốc, chúng ta tràn ngập niềm vui sâu sắc và không thể diễn tả được (Thi thiên 4:7; 132:16; Ê-sai 12:3; 1 Phi-e-rơ 1:8).
Giá trị của kho báu trên trời của chúng ta là vô giá; nó đáng giá mọi thứ chúng ta có. Trong hành trình của người thanh niên trẻ tuổi giàu có tìm kiếm vương quốc thiên đàng, Chúa Giê-su đã khuyên, “Còn một điều ngươi chưa làm. Hãy bán hết gia tài mình và phân phát cho người nghèo, thì ngươi sẽ có kho báu trên trời. Sau đó, hãy đến, theo ta” (Lu-ca 18:22). Thật không may, chàng trai trẻ đã không thấy được giá trị của những gì Chúa Giê-su ban tặng, và anh ta đã quay lưng lại với Đấng Cứu Rỗi (câu 23).
Sứ đồ Phao-lô viết về sự thay đổi quan điểm của mình sau khi tìm thấy kho báu ẩn dụ được giấu trong một đám ruộng: “Tôi từng nghĩ những thứ này có giá trị, nhưng bây giờ tôi coi chúng là vô giá trị vì những gì Đấng Christ đã làm. Đúng vậy, mọi thứ khác đều vô giá trị khi so sánh với giá trị vô hạn của việc biết Chúa Giê-su Christ, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đã từ bỏ mọi sự khác, coi mọi sự như rác rưởi, để có thể có được Đấng Christ và trở nên một với Ngài” (Phi-líp 3:7–9).
Mặc dù kho báu trên trời của chúng ta đáng giá, nhưng vẫn có một cái giá phải trả—có một cái giá phải trả cho việc làm môn đồ. Những người tìm kiếm Vương quốc phải chấp nhận mọi hy sinh và trách nhiệm đi kèm với việc sở hữu kho báu này. Chúa Giê-su đã dạy các môn đồ của Ngài, “Nếu ai trong các ngươi muốn theo Ta, thì phải từ bỏ đường lối riêng của mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Nếu ai cố giữ mạng sống mình, thì sẽ mất nó. Nhưng nếu ai vì Ta mà từ bỏ mạng sống mình, thì sẽ cứu được nó. Và nếu các ngươi được cả thế gian mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Có điều gì đáng giá hơn linh hồn mình không?” (Ma-thi-ơ 16:24–26).
Chừng nào chúng ta còn sống trên trái đất này, chúng ta sẽ phải chịu đựng sự ngược đãi, khó khăn và mất mát với tư cách là những người tin Chúa. Kho báu vô giá mà chúng ta tìm thấy ẩn giấu trong một cánh đồng giờ đây được giữ trong “những chiếc bình đất sét mỏng manh” để làm rõ “quyền năng lớn lao của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời, chứ không phải từ chính chúng ta. Chúng ta bị ép buộc từ mọi phía bởi những rắc rối, nhưng chúng ta không bị nghiền nát. Chúng ta bối rối, nhưng không bị đẩy đến tuyệt vọng. Chúng ta bị săn đuổi, nhưng không bao giờ bị Đức Chúa Trời bỏ rơi. Chúng ta bị đánh đập, nhưng chúng ta không bị hủy diệt. Qua sự đau khổ, thân thể chúng ta tiếp tục chia sẻ sự chết của Chúa Giê-su để sự sống của Chúa Giê-su cũng có thể được nhìn thấy trong thân thể chúng ta. Vâng, chúng ta sống . . . khi đối mặt với cái chết, và điều này đã dẫn đến sự sống đời đời” (2 Cô-rinh-tô 4:7–12).
4. Dụ ngôn về Lưới kéo, hay Dụ ngôn về Nhiều loại cá, trong Ma-thi-ơ 13:47-50. Chúa Giê-su mở đầu
dụ ngôn bằng cách nói rằng nó minh họa một khía cạnh của vương quốc thiên đàng.
Câu chuyện kể về những người đánh cá sử dụng lưới kéo, một tấm lưới có trọng
lượng kéo dọc theo đáy của một vùng nước để thu thập nhiều loại cá.
Trong dụ ngôn, lưới kéo được thả xuống biển và kéo lên bờ đầy đủ các loại cá.
Sau đó, những người đánh cá ngồi xuống để phân loại cá thành “tốt” và “xấu”.
Những con cá đáng giữ lại được gom vào các thùng chứa, nhưng những con còn lại
bị ném đi.
Sau đó, Chúa Giê-su giải thích dụ ngôn cho các môn đồ của Ngài: “Vào ngày tận
thế, các thiên sứ sẽ đến và tách những kẻ ác ra khỏi những người công chính và
ném họ vào lò lửa, nơi sẽ có tiếng khóc lóc và nghiến răng” (các câu 49-50).
Dụ ngôn này tương tự như Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43). Cả
hai dụ ngôn đều liên quan đến sự phân loại vào thời kỳ cuối cùng, với sự hỗ trợ
của các thiên sứ, khi những người tin Chúa sẽ được tách khỏi những người không
tin Chúa một lần và mãi mãi.
Giống như lưới được thả xuống biển kéo theo nhiều cá, sứ điệp phúc âm được
truyền bá khắp thế giới, thu hút nhiều người đến với nó. Giống như lưới thu
thập đủ loại cá, bất kể giá trị của chúng, phúc âm cũng thu hút nhiều người
không ăn năn cũng muốn theo Chúa Giê-su. Giống như cá không thể được phân loại
cho đến khi lưới được kéo vào bờ, những tín đồ giả mạo là Cơ đốc nhân chân
chính sẽ bị loại ra trong ngày tận thế.
Những “con cá xấu” hoặc tín đồ giả này có thể được ví như đất sỏi đá và đất gai
gốc trong Ma-thi-ơ 13:5-7 và cỏ lùng trong câu 40. Họ tuyên bố có mối quan hệ
với Chúa Giê-su, nói rằng “Lạy Chúa, lạy Chúa” (Ma-thi-ơ 7:22), và câu trả lời
của Chúa Giê-su sẽ là “Ta không hề biết các ngươi. Hãy tránh xa Ta, hỡi những
kẻ làm điều gian ác!” (câu 23).
Điểm chính đáng suy ngẫm của câu chuyện ngụ ngôn có thể được nêu như sau: “Sẽ
đến ngày phán xét khi Chúa sẽ tách những người tin thật ra khỏi những kẻ giả mạo,
và những kẻ bị phát hiện là gian dối sẽ bị ném vào địa ngục.”
5. Dụ ngôn Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43)
Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng, hay Cỏ lùng, chứa đầy ý nghĩa và chân lý thuộc linh. Nhưng, bất chấp lời giải thích rõ ràng về dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã đưa ra (Ma-thi-ơ 13:36-43), dụ ngôn này rất thường bị hiểu sai. Nhiều bài bình luận và bài giảng đã cố gắng sử dụng câu chuyện này như một minh họa về tình trạng của hội thánh, lưu ý rằng có cả những tín đồ chân chính (lúa mì) và những giáo sư giả (cỏ lùng) trong cả hội thánh nói chung và các hội thánh địa phương riêng lẻ. Mặc dù điều này có thể đúng, Chúa Giê-su giải thích rõ ràng rằng cánh đồng không phải là hội thánh; đó là thế giới (câu 38).
Ngay cả khi Ngài không nói cụ thể với chúng ta rằng thế giới là bối cảnh của câu chuyện, thì điều đó vẫn rất rõ ràng. Người chủ đất bảo những người hầu không được nhổ cỏ lùng trong cánh đồng, mà hãy để chúng cho đến tận thế. Nếu cánh đồng là hội thánh, thì mệnh lệnh này sẽ trực tiếp mâu thuẫn với lời dạy của Chúa Giê-su trong Ma-thi-ơ 18, trong đó cho chúng ta biết cách đối phó với những tội nhân không ăn năn trong hội thánh: họ phải bị đuổi khỏi sự thông công và bị đối xử như những kẻ không tin. Chúa Giê-su không bao giờ chỉ thị chúng ta để những tội nhân không ăn năn ở lại giữa chúng ta cho đến tận thế. Vì vậy, Chúa Giê-su đang dạy ở đây về “vương quốc thiên đàng” (câu 24) trên thế giới.
Trong xã hội nông nghiệp thời Chúa Giê-su, nhiều nông dân phụ thuộc vào chất lượng mùa màng của họ. Một kẻ thù gieo cỏ dại sẽ phá hoại một doanh nghiệp. Cỏ lùng trong câu chuyện ngụ ngôn có thể là cỏ lùng vì loại cỏ dại đó, cho đến khi trưởng thành, trông giống như lúa mì. Nếu không có thuốc diệt cỏ hiện đại, một người nông dân khôn ngoan sẽ làm gì trong tình huống khó xử như vậy? Thay vì nhổ lúa mì cùng với cỏ lùng, người chủ đất trong câu chuyện ngụ ngôn này đã khôn ngoan đợi đến mùa thu hoạch. Sau khi thu hoạch toàn bộ cánh đồng, cỏ lùng có thể được tách ra và đốt. Lúa mì sẽ được lưu trong kho thóc.
Trong lời giải thích về dụ ngôn, Chúa Giê-su tuyên bố rằng chính Ngài là người gieo giống. Ngài gieo hạt giống được cứu chuộc của Ngài, những tín đồ chân chính, trên cánh đồng thế gian. Nhờ ân điển của Ngài, những Cơ Đốc nhân này sinh hoa trái của Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-24). Sự hiện diện của họ trên đất là lý do khiến “vương quốc thiên đàng” giống như cánh đồng thế gian. Khi Chúa Giê-su nói, “Vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 3:2; 4:17), Ngài muốn nói đến cõi tâm linh tồn tại trên đất song song với cõi của kẻ ác (1 Giăng 5:19). Khi vương quốc thiên đàng thành tựu, thiên đàng sẽ trở thành hiện thực và sẽ không có “cỏ dại” giữa “lúa mì”. Nhưng hiện tại, cả hạt giống tốt và xấu đều trưởng thành trên thế gian.
Kẻ thù trong dụ ngôn là Sa-tan. Đối lập với Chúa Giê-su, ma quỷ cố gắng phá hoại công việc của Chúa bằng cách đưa những tín đồ và thầy giảng giả mạo vào thế gian để dẫn dắt nhiều người đi lạc. Người ta chỉ cần nhìn vào các vụ bê bối của Cơ đốc giáo trên các phương tiện truyền thông mới nhất là biết thế giới đầy rẫy những người tự nhận là “Cơ đốc nhân” có hành động vô đạo đức làm ô danh Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không được truy đuổi những người như vậy để tiêu diệt họ. Trước hết, chúng ta không biết liệu những tín đồ ngây thơ và non nớt có thể bị tổn thương bởi những nỗ lực của chúng ta hay không. Hơn nữa, người ta chỉ cần nhìn vào Tòa án dị giáo Tây Ban Nha, các cuộc Thập tự chinh và triều đại của “Bloody Mary” ở Anh để thấy kết quả của việc con người tự mình gánh vác trách nhiệm tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả, một nhiệm vụ chỉ dành riêng cho Chúa. Thay vì yêu cầu những tín đồ giả này phải bị nhổ tận gốc khỏi thế gian và có thể làm tổn thương những tín đồ non nớt trong quá trình này, Chúa Giê-su cho phép họ ở lại cho đến khi Ngài tái lâm. Vào thời điểm đó, các thiên sứ sẽ tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả.
Ngoài ra, chúng ta không được tự mình nhổ tận gốc những người không tin vì sự khác biệt giữa những tín đồ chân chính và tín đồ giả không phải lúc nào cũng rõ ràng. Cỏ lùng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển, giống như lúa mì. Tương tự như vậy, một tín đồ giả có thể giống với một tín đồ chân chính. Trong Ma-thi-ơ 7:22, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nhiều người tuyên xưng đức tin nhưng không biết Ngài. Vì vậy, mỗi người nên xem xét mối quan hệ của chính mình với Đấng Christ (2 Cô-rinh-tô 13:5). Thư tín Giăng thứ nhất là một bài kiểm tra tuyệt vời về sự cứu rỗi.
Một ngày nào đó, Chúa Giê-su Christ sẽ thiết lập sự công chính thật. Sau khi Ngài cất Hội thánh thật ra khỏi thế gian này, Đức Chúa Trời sẽ trút cơn thịnh nộ công chính của Ngài xuống thế gian. Trong cơn hoạn nạn đó, Ngài sẽ thu hút những người khác đến với đức tin cứu rỗi nơi Chúa Giê-su Christ. Vào cuối cơn hoạn nạn, tất cả những người không tin sẽ bị phán xét vì tội lỗi và sự không tin của họ; sau đó, họ sẽ bị loại khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Những người theo Chúa Giê-su thực sự sẽ trị vì với Ngài trong vương quốc thiên hy niên. Thật là một hy vọng vinh quang cho “lúa mì”!
6. Dụ ngôn về người làm công. “Vả, nước thiên đàng giống như người chủ nhà kia, tảng sáng đi ra để mướn người làm công cho vườn nho mình. Khi người chủ đã định giá với người làm công, mỗi ngày một đơ-ni-ê, thì sai họ vào vườn nho mình. Ước chừng giờ thứ ba, người chủ lại ra, thấy những kẻ khác rảnh việc đứng trong chợ, thì nói cùng họ rằng: Các ngươi hãy đi vào vườn nho ta, và ta sẽ trả tiền công phải cho. Họ liền đi. Ước chừng giờ thứ sáu và giờ thứ chín, người chủ lại ra, cũng làm như vậy. Ước chừng giờ thứ mười một, chủ ra, lại thấy những kẻ khác đứng trong chợ, thì hỏi rằng: Sao các ngươi đứng đây cả ngày không làm gì hết! Họ trả lời rằng: Vì không ai mướn chúng tôi. Người chủ nói với họ rằng: Các ngươi cũng hãy vào đi trong vườn nho ta.
Đến tối, chủ vườn nho nói với người giữ việc rằng: Hãy gọi những người làm công mà trả tiền công cho họ, khởi từ người rốt cho đến người đầu. Những người làm công mướn từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Rồi tới phiên những người đầu đến, tưởng lãnh được nhiều hơn; song họ cũng lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Khi lãnh rồi, lằm bằm cùng chủ nhà, mà rằng: Những người rốt ấy chỉ làm một giờ, mà chủ đãi cũng như chúng tôi, là kẻ đã chịu mệt nhọc cả ngày và giang nắng. Song chủ trả lời cho một người trong bọn họ rằng: Bạn ơi, ta không xử tệ với ngươi đâu; ngươi há chẳng định cùng ta một đơ-ni-ê sao? Hãy lấy của ngươi mà đi đi; ta muốn trả cho kẻ rốt này bằng như đã trả cho ngươi vậy. Ta há không có phép dùng của cải ta theo ý muốn ta sao? Hay là ngươi thấy ta ở tử tế mà lấy mắt ganh sao? Đó, những kẻ rốt sẽ nên đầu và kẻ đầu sẽ nên rốt là như vậy” (Ma-thi-ơ 20:1-16).
Đơ-ni-ê là đồng tiền đúc bằng bạc được sử dụng trong thời chính quyền La-mã cai trị xứ Palestine.Giờ làm việc bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng, như vậy giờ thứ mười một là khoảng 4 hoặc 5 giờ chiều. Người làm công đa số là người nghèo nhận những công việc thời vụ trong mùa thu hoạch, họ cần tiền để đắp đổi qua ngày. Kinh thánh Cựu ước cũng khuyên dạy những người thuê mướn họ:
“Không được ức hiếp người làm thuê nghèo khó và bần cùng, dù người đó là anh em mình hay là ngoại kiều tạm cư trong xứ và trong thành của anh em. Phải thanh toán tiền công cho người ấy mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, vì người ấy vốn nghèo khó chỉ còn biết trông chờ vào đó. Nếu không, người ấy sẽ kêu van Đức Giê-hô-va về anh em và anh em phải mắc tội” (Phục truyền luật lệ ký 24: 14 – 15)
Câu chuyện lấy bối cảnh trong cuộc sống hằng ngày nhưng ngụ ý về Vương quốc. Vườn nho biểu trưng cho hội thánh, chủ vườn là Chúa. Những người làm công biểu trưng cho những người đáp lời kêu gọi của Chúa, thời gian trong ngày là đời người, và tiền công là sự sống vĩnh cửu. Sự kêu gọi đến với mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời. Một số đáp lời sớm, một số trễ hơn, và số khác chỉ đáp lời lúc cuối đời. Nhưng bất cứ ai chấp nhận lời mời đều sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Thông điệp của dụ ngôn này thật rõ ràng. Trong khi chúng ta vẫn mặc định rằng người làm việc khó nhọc hơn xứng đáng với tiền công lớn hơn, thì người chủ vườn nho hành động ngược lại; do đó một số người xem đó là không công bằng. Nhưng chủ vườn bảo với họ rằng không ai bị xử tệ cả, bởi vì họ đã đồng ý với chủ vườn về số tiền họ sẽ nhận cho ngày làm việc của họ (một đơ-ni-ê cho một ngày công là tiền lương khá hậu hĩnh vào thời đó). Ông cũng bảo cho họ biết ông đang sử dụng tài sản của ông theo ý ông muốn. Luật lệ trên Vương quốc Thiên đàng là do Đức Chúa Trời thiết lập: sự cứu rỗi dành cho loài người hoàn toàn phụ thuộc vào ân điển của Ngài, không do công đức hoặc nỗ lực hoặc nếp sống khổ hạnh của bất cứ ai, bởi vì không ai có thể đáp ứng những chuẩn mực đạo đức của Đức Chúa Trời.
Ai là người làm công được nhận vào giờ thứ mười một? Có thể là những người tiếp nhận ân điển lúc lâm chung, cũng có thể là những kẻ bị xem thường dưới mắt những tín đồ lâu năm luôn sốt sắng trong các bổn phận tôn giáo. Nhưng chớ vội vàng kết luận. Trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng ta đều là người làm công giờ thứ mười một, và chúng ta đều được Chúa mời vào vương quốc của ngài cách vinh dự. Vì vậy, không cần phải đoán định ai là người làm công giờ thứ mười một. Thông điệp của dụ ngôn là chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi ân điển của Chúa, không bởi những gì chúng ta có.
Phản ứng của một vài người trong số những người làm công trong vườn nho đối với điều họ cho là bất công, biểu trưng cho sự tự mãn thuộc linh thường dễ nhận thấy trong vòng những tín hữu lâu năm. Họ tin rằng phần thưởng dành cho họ phải tương xứng với thời gian họ phụng sự Chúa. Đó là kết quả của cách suy nghĩ cho rằng sự cứu rỗi đến từ công đức, và đó là điều mà dụ ngôn này muốn bác bỏ.
Chương 4
CÁC SỨ ĐỒ DẠY VỀ VƯƠNG QUỐC
Trong chức vụ của mình, Chúa Giê-su đã công bố vương quốc của Đức Chúa Trời là sứ điệp trung tâm của Ngài. Trong Công vụ các Sứ đồ và trong các thư tín của Phao-lô, các sứ đồ tiếp tục chia sẻ lời dạy của Chúa Giê-su về vương quốc. Họ tiếp tục dạy những gì thầy của họ đã dạy.
Chúa Giê-su giờ đây là Đấng Mê-si và Chúa được tôn cao, và Đức Thánh Linh hiện diện trong hội thánh và hoạt động trên thế giới. Vì vậy, thay vì chỉ nói về vương quốc của Đức Chúa Trời, các sứ đồ cũng nói về Chúa Giê-su là Vua (tức là Quyền tể trị của Chúa Giê-su, Đấng ngự bên hữu Đức Chúa Cha), và về quyền năng của Đức Thánh Linh, Đấng tiếp tục công việc của Chúa Giê-su trên thế giới.
Trước tiên, chúng ta sẽ xem Công vụ các Sứ đồ và sau đó là lời dạy của Phao-lô. Vì cụm từ “vương quốc của Đức Chúa Trời” xuất hiện không nhiều, nên chúng ta cần liệt kê và tô đậm những câu này. Sau khi làm vậy, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa quyền tể trị của Đấng Christ và quyền năng của Đức Thánh Linh với vương quốc của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét đến sách Khải huyền của Giăng với chủ đề về vương quốc.
1. Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời. (Công vụ 1:3).
2. Phi-líp đang rao giảng ở Sa-ma-ri, và Lu-ca mô tả việc này là rao giảng tin mừng về vương quốc Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ. “Nhưng khi chúng đã tin Phi-líp, là người rao giảng Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Giê-su Christ cho mình, thì cả đàn ông, đàn bà đều chịu phép báp-tem” (Công vụ 8:12).
3. Ba-na-ba và Phao-lô “giục các môn đồ, vững lòng, khuyên phải bền đổ trong đức tin, và bảo trước rằng phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời ( Công vụ 14:22).
4. “Phao-lô vào nhà hội, và trong ba tháng giảng luận một cách dạn dĩ ở đó; giải bày những điều về nước Đức Chúa Trời mà khuyên dỗ các kẻ nghe mình” (Công vụ 19:8)..
5. “Hiện bây giờ, tôi biết rằng giữa anh em mà tôi đã ghé qua giảng về nước Đức Chúa Trời, thì chẳng có một ai sẽ thấy mặt tôi nữa” (Công vụ 20:25).
6. “Họ đã hẹn ngày với người, bèn đến thăm tại nơi nhà trọ rất đông; từ buổi sáng đến chiều, người cứ làm chứng và giảng giải với họ về nước Đức Chúa Trời, lấy luật pháp Môi-se và các đấng tiên tri mà gắng sức khuyên bảo họ về Đức Chúa Giê-su” ( Công vụ 28:23).
7. Phao-lô “giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết” ( Công vụ 28:31)
Những đoạn văn này làm rõ rằng các sứ đồ đã giải thích vương quốc của Đức Chúa Trời dưới góc nhìn của Chúa Giê-su Christ. Điều này được xác nhận nếu chúng ta xem xét các bài giảng đầu tiên của Hội thánh, được ghi lại trong Công vụ 2:14-36; 2:38- 39; 3:12-26; 10:34-43.
Có thể tóm lược nội dung các sứ đồ đã giảng về Chúa Giê-su:
1. Các lời tiên tri của Cựu Ước về Đấng Christ đã được ứng nghiệm, và thời đại mới là hiện thực thông qua sự xuất hiện của Chúa Giê-su.
2. Chúa Giê-su sinh ra từ dòng dõi Vua Đa-vít.
3. Chúa Giê-su đã chết như các tiên tri đã báo trước để giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và thời đại gian ác hiện tại.
4. Chúa Giê-su đã được chôn cất và do đó thực sự đã chết.
5. Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba, như các tiên tri đã báo trước.
6. Chúa Giê-su hiện được tôn lên bên hữu Đức Chúa Cha với tư cách là Đấng Mê-si.
7. Chúa Giê-su sẽ tái lâm với tư cách là Đấng phán xét thế gian.
8. Sự tha thứ được ban cho những ai ăn năn và tin nhận Phúc âm.
CHÚA GIÊ-SU RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC
Theo Mác, Chúa Giê-su vào Ga-li-lê khi bắt đầu chức vụ công khai của mình và tuyên bố, “Kỳ đã trọn, và vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần; hãy ăn năn và tin nhận phúc âm” (1:15).
Trong chức vụ công khai của mình, Chúa Giê-su đã kêu gọi mọi người tin và tiếp nhận lời của Ngài về Đức Chúa Trời và vương quốc Đức Chúa Trời. Các sứ đồ kêu gọi mọi người tin nhận Chúa Giê-su. Trọng tâm của sứ điệp của Chúa Giê-su là vương quốc Đức Chúa Trời và trọng tâm sứ điệp của các sứ đồ là Chúa Giê-su. Ngài là Đấng Mê-si đã chết, đã phục sinh, thăng thiên và hiện ngồi bên hữu Đức Chúa Trời trên thiên đàng.
Sách Công vụ các sứ đồ nêu rõ rằng sự cứu rỗi của Chúa Giê-su được hiện thực hóa trong cuộc sống cá nhân thông qua sự hiện diện của Chúa Thánh Linh. Đức Thánh Linh đã đến với một tram hai mươi môn đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, vương quốc của Đức Chúa Trời hiện được trải nghiệm thông qua đức tin vào Chúa Giê-su và bày tỏ qua việc nhận được ân tứ ĐứcThánh Linh.
Khi Chúa Giê-su đuổi quỷ và chữa lành mọi người bằng quyền năng của Đức Thánh Linh, Ngài đã nói rằng vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Trong sách Công vụ các sự chữa lành được xác định là nhờ quyền năng trong danh Chúa Giê-su (hay quyền năng của Đức Thánh Linh).
CÁC THƯ TÍN CỦA PHAO-LÔ NÓI ĐẾN VƯƠNG QUỐC
1. Có một số bất đồng trong hội thánh tại Rô-ma về việc thức ăn và đồ uống nào được phép đối với Cơ đốc nhân. Khi đưa ra lời khuyên, Phao-lô nói rằng vương quốc của Đức Chúa Trời không phải là thức ăn và đồ uống mà là sự công bình, bình an và vui mừng trong Đức Thánh Linh (Rô-ma 14:17). Ở đây, ông tuyên bố rằng sự kiện chính mà Cơ đốc nhân tự hỏi là liệu Đức Chúa Trời có cai trị trong cuộc sống của họ hay không, và bằng chứng của sự cai trị đó là sự hiện diện của sự công bình, bình an và vui mừng, đến từ sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Vương quốc là một thực tại bên trong, quyền năng và sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong lòng tạo ra một đời sống thánh khiết.
2. Để hiểu được thực tại là gì, Phao-lô đã nói với người Cô-rinh-tô rằng vương quốc của Đức Chúa Trời không phải là lời nói mà là quyền năng (1 Cô-rinh-tô 4:20). Sự hiện diện
quyền năng của Thánh Linh trong cuộc sống giúp người tin Chúa không chỉ nói mà còn sống và hành động vì Đức Chúa Trời, nghĩa là chịu sự sỉ nhục và bắt bớ vì Đấng Christ.
3. Trong một tuyên bố phủ định khác, Phao-lô nói, Anh em không biết rằng những kẻ không công bình sẽ không được hưởng vương quốc Đức Chúa Trời sao? (1 Cô-rinh-tô 6:9) và tiếp theo là: Đừng để bị lừa dối; những kẻ gian dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ trộm cắp, kẻ tham lam, kẻ say sưa, kẻ chửi rủa, kẻ cướp bóc sẽ không được hưởng vương quốc Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 6:9,10). Trong vương quốc Đức Chúa Trời không có những hành vi không công bình và vô đạo đức.
5. Sau khi Đấng Christ tái lâm, sẽ có sự sống lại của người chết. Kế tiếp là khi Đấng Christ trao vương quốc cho Đức Chúa Cha sau khi đã phá hủy mọi quyền cai trị và mọi thế lực (1 Cô-rinh-tô 15:24). Điều này sẽ xảy ra vào cuối lịch sử loài người, khi vương quốc của Chúa đến trong sự trọn vẹn.
Từ khi Chúa Giê-su khi thăng thiên cho đến khi Ngài tái lâm, có một ý nghĩa thực sự rằng Đấng Christ, là Vua của vương quốc Đức Chúa Trời, và đây là điều được nói đến ở đây.
6. Vì vương quốc Đức Chúa Trời trong sự hoàn hảo của nó, nên thịt và huyết không thể thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 15:50).
7. Phao-lô đã nói với người Ga-la-ti cũng giống như những gì ông đã nói với người Cô-rinh-tô. Những người có cuộc sống bị chi phối bởi những ham muốn tội lỗi thì không ở trong vương quốc của Chúa. Các công việc của xác thịt rất rõ ràng: gian dâm, ô uế, ích kỷ, ganh tị và những điều tương tự. Những ai làm những điều như vậy sẽ không được thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời (Ga-la-ti 5:19-21).
8. Và ông đã có cùng một loại lời khuyên cho người Ê-phê-sô. Không có kẻ gian dâm hay người ô uế nào có cơ nghiệp trong vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 5:5). Ở đây chúng ta có sự song song thú vị của vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời. Điều này tương tự như 1 Cô-rinh-tô 15:24 và nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ Đấng Christ là Chúa được tôn cao đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha với tư cách là Vua.
9. Một tham chiếu khác về vương quốc thuộc về Đấng Christ được tìm thấy trong Cô-lô-se 1:13, “Ngài (Đức Chúa Trời) đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài. Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trong cuộc sống con người đến với các Cơ Đốc nhân thông qua Chúa Giê-su Christ trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Theo thiết kế và ý muốn của Đức Chúa Cha, và thông qua công ơn cứu rỗi của Đấng Christ, sự cứu rỗi được dành cho tín nhân. Và điều này được Đức Thánh Linh áp dụng cho họ. Cho đến cuối lịch sử, Đức Chúa Con cai trị với tư cách là người đại diện của Đức Chúa Cha, và vì vậy vương quốc thuộc về Ngài.
10. Phao-lô không làm việc một mình để công bố vương quốc của Đức Chúa Trời, và ông mô tả những người làm việc với ông là những người đồng công cho vương quốc của Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 4:11). Ông đang nói rằng Đức Chúa Trời đã chọn con người làm phương tiện của ân điển để tin tức về vương quốc và các phước lành của nó được biết đến trên trái đất. Sự cai trị là của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài sử dụng những đầy tớ của Ngài.
11. Khi Phao-lô ở Tê-sa-lô-ni-ca, ông đã thúc giục và khuyến khích các Cơ Đốc nhân sống một cuộc sống xứng đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em vào vương quốc và vinh quang của Ngài (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12). Nhờ sự tái sinh, các tín đồ được sinh ra trong vương quốc của Đức Chúa Trời, và họ sẽ trải nghiệm sự trọn vẹn và vinh quang của vương quốc vào thời kỳ cuối cùng.
12. Trong thử thách và sự bắt bớ, các Cơ Đốc nhân ở Tê-sa-lô-ni-ca vẫn kiên định trong đức tin. Vì vậy, ông đã viết: Ngài muốn khiến anh em nên xứng đáng cho nước Ngài, là vì nước đó mà anh em chịu khổ (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5). Nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, các Cơ Đốc nhân vẫn giữ được đức tin trong cơn hoạn nạn và qua đó đã tiết lộ rằng quyền cai trị của Đức Chúa Trời là Vua trong cuộc sống của họ và rằng họ sẽ là thành viên của vương quốc.
13. Bày tỏ lời ngợi khen Chúa, Phao-lô thốt lên: Nguyền xin sự tôn quí, vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men” (1 Ti-mô-thê 1:17). Ở đây lẽ thật của Cựu Ước về Đức Chúa Trời là Vua được tái khẳng định. Ngài là Chúa của lịch sử.
14. Khi mô tả cùng một Đức Chúa Trời, Phao-lô viết, “Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men” (1 Ti-mô-thê 6:15-16).
15. Khi viết thư cho Ti-mô-thê, Phao-lô long trọng truyền lệnh: “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng…” (2 Ti-mô-thê 4:1). Lời kêu gọi của Phao-lô dựa trên bối cảnh của hai lẽ thật – sự tái lâm của Đấng Christ trong quyền năng, và sự trọn vẹn của vương quốc tương lai.
16. Sự chắc chắn về vương quốc tương lai cũng được tìm thấy trong câu này của Phao-lô: “Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong nước trên trời của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:18).
Các chủ đề được tìm thấy trong những câu này phải được kết hợp lại với nhau để có được bức tranh về quan điểm của Phao-lô trong chủ đề vương quốc. Trước hết, chúng ta lưu ý rằng sau lời dạy của Chúa Giê-su, Phao-lô hiểu vương quốc có cả chiều kích hiện tại và tương lai. Thực tế về sự cai trị của Đức Chúa Trời ở đây và bây giờ được dạy trong Rô-ma 14:17 và Cô-lô-se 1:13, trong khi hy vọng về vương quốc vinh quang trong tương lai được tìm thấy trong 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; 2 Ti-mô-thê 4:1, 18.
Thứ hai, Phao-lô nhấn mạnh giống như Chúa Giê-su đã làm trong bài giảng trên núi, về sự trong sạch của cuộc sống, về sự công bình và thánh khiết, như là bằng chứng của tư cách thành viên trong vương quốc. Và đó cũng là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời cai trị qua Đức Thánh Linh trong long tín nhân. Điều này được thấy rõ trong Rô-ma 14:17; 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; Ga-la-ti 5:21; Ê-phê-sô 5:5; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12; và 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5. Có vẻ như Phao-lô lấy sự nhấn mạnh về mặt đạo đức này làm chủ đề lớn nhất khi nói về vương quốc.
Cuối cùng, Phao-lô noi theo sự dẫn dắt của chính Chúa Giê-su (xem Giăng 18:36) để nói về vương quốc là vương quốc của Đấng Christ (xem 1 Cô-rinh-tô 15:24; Ê-phê-sô 5:5; Ê-sai 1:13). Là Chúa được tôn cao, Chúa Giê-su Christ cai trị vương quốc của Đức Chúa Trời với tư cách là Đấng thay mặt cho Đức Chúa Cha. Vì giáo huấn này về quyền tể trị của Đấng Christ rất quan trọng đối với Phao-lô, nên chúng ta sẽ xem xét them về điều này.
UY QUYỀN TỐI CAO CỦA CHÚA GIÊ-SU
Rao giảng Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong mục vụ của Phao-lô về tin mừng. Và việc xưng nhận Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong sự hiểu biết của ông về ơn cứu rỗi. Sau đây là một số tuyên bố mạnh mẽ của Phao-lô:
Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; (Rô-ma 10:9).
Không ai có thể nói “Chúa Giê-su là Chúa” nếu không nhờ Đức Thánh Linh (1 Cô-rinh-tô 12:3).
Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-su Christ, tức là Chúa; (2 Cô-rinh-tô 4:5).
Sau đó, để hiểu đầy đủ quan điểm của Phao-lô về Chúa Giê-su là Chúa, chúng ta đọc Phi-líp 2:6-11 sau đây:
Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.
Ở đây, Phao-lô Chúa Giê-su Christ (trong sự phục sinh và thăng thiên) được tôn cao, sau sự sỉ nhục lớn lao của Ngài khi rời bỏ vinh quang của thiên đàng để trở thành một con người và chịu đau khổ vì tội lỗi của thế gian.
Bức tranh về Chúa Giê-su được tôn cao đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha (Công vụ 7:56; Ê-phê-sô 1:20) dựa trên Thi thiên 110:1, “Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi.” Đây là cách đơn giản để nói rằng Chúa Giê-su, Chúa được tôn cao, cai trị như là người đại diện của Đức Chúa Cha. Đối với thời đại hiện tại, Đức Chúa Cha đã giao quyền cai trị vào tay Chúa Giê-su được tôn cao. Chúng ta có thể hiểu quyền cai trị của Đấng Christ bao gồm tất cả những gì Đức Chúa Cha cai trị. Đây là lý do tại sao Phao-lô có thể đưa ra tuyên bố, “Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Cô-lô-se 1:17).
SỰ MẶC KHẢI CỦA GIĂNG TRONG SÁCH KHẢI HUYỀN
Một chủ đề nổi bật của sách Khải huyền là chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn cao trước mọi kẻ thù của Ngài. Sách được viết vào thời điểm các Cơ đốc nhân bị đàn áp vì họ không chịu khuất phục trước yêu cầu của chính quyền La Mã rằng Hoàng đế phải được tôn thờ là “Chúa và Đức Chúa Trời”.
Chúa đã ban cho Giăng những khải tượng về chiến thắng chắc chắn của Chúa Giê-su Christ khi ông bị lưu đày trên đảo Bát-mô. Vì vậy, trong suốt cuốn sách, Chúa Giê-su Christ được miêu tả là Đấng Chiến Thắng vĩ đại. Những kẻ thù bị đánh bại của Ngài là sự chết, Hades (vực thẳm), con rồng (Sa-tan), con thú (quyền lực La Mã), tiên tri giả và những kẻ tôn thờ con thú. Vì Chúa Giê-su Christ là Đấng Chiến Thắng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng cả Chúa Cha và Chúa Giê-su (Con) đều được gọi là Vua và được tôn thờ. Sau đây là những câu Kinh thánh miêu tả Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su là Vua và nói về vương quốc.
1. Giăng giải thích sự đau khổ của ông, “Tôi là Giăng, là anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước, về sự nhịn nhục trong Đức Chúa Giê-su, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Đức Chúa Trời và chứng của Đức Chúa Giê-su” (1:9).
2. Giăng nhìn thấy, “Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (11:15).
3. “Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì” (11:16-17). Bài chúc tụng này báo trước sự xuất hiện của vương quốc Đức Chúa Trời, và sự trị vì của Ngài vào thời kỳ cuối cùng.
4. Trước khi vương quốc đến, kẻ thù của Đức Chúa Trời và con người phải bị loại bỏ. “Tôi lại nghe trên trời có tiếng lớn rằng: Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng, và nước Đức Chúa Trời chúng ta đã đến cùng quyền phép của Đấng Christ Ngài nữa; vì kẻ kiện cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, nay đã bị quăng xuống rồi” (12:10).
5. Giăng cũng đã nghe xác nhận những gì ông biết từ việc nghiên cứu Cựu Ước. Đoàn hợp xướng thiên đàng cất tiếng: “Chúng hát bài ca Môi-se, là tôi tớ Đức Chúa Trời, và bài ca Chiên Con, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, công việc Chúa lớn lao và lạ lùng thay! Hỡi Vua của muôn đời, đường lối Ngài là công bình và chân thật! (15:3). Sau đó, ông nghe điệp khúc: Ha-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng của chúng ta đang trị vì (19:6).
6. Chúa Giê-su Christ sẽ chiến thắng mọi thế lực của Sa-tan trong thời kỳ cuối cùng. “Chúng chiến tranh cùng Chiên Con, Chiên Con sẽ được thắng, vì là Chúa của các chúa, Vua của các vua; và những kẻ được kêu gọi, những kẻ được chọn cùng những kẻ trung tín đều ở với Chiên Con, cũng thắng được chúng nữa” (17:14). Là một vị Vua chiến binh vĩ đại trên một con ngựa trắng, Ngài sẽ chiến thắng: “Trên áo tơi và trên đùi Ngài, có đề một danh là Vua Của Các Vua Và Chúa Của Các Chúa” (19:16).
Vì vậy, chúng ta thấy rằng Giăng được truyền cảm hứng để trình bày quyền cai trị của Chúa Giê-su. Ngài chiến thắng trước mọi kẻ thù và thiết lập vương quốc vĩnh cửu cuối cùng. Mặc dù hình ảnh thì khác, nhưng giáo lý thì rất giống với giáo lý của Phao-lô.
Một khía cạnh trong bài trình bày của Giăng về chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn vinh là các thánh đồ chia sẻ với Ngài trong sự cai trị và chiến thắng của Ngài. (12:10 và 17:14), những người được đại diện như một “vương quốc” mà Ngài cai trị (1:6 và 5:10). Sự chia sẻ của các thánh đồ trong triều đại của Ngài được nêu rõ trong Khải Huyền 20:4, 6.
TÓM TẮT
Đối với Chúa Giê-su, vương quốc của Đức Chúa Trời là trung tâm trong chức vụ của Ngài. Đối với các sứ đồ, Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và là Chúa được tôn vinh.
Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 15:24, “Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực.”
Bởi vì Chúa Giê-su không chỉ công bố vương quốc, mà Ngài còn là hiện thân cho vương quốc. Nhờ Đức Thánh Linh là Đấng Yên ủi, là Thần Lẽ Thật, Chúa Giê-su – hiện thân cho vương quốc được công bố và Ngài là Đầu Hội Thánh. Trong Chúa Giê-su, vương quốc là một thực tại đối với tín nhân.
Cách duy nhất mà các sứ đồ có thể rao giảng về vương quốc là rao giảng về Đấng hiện thân cho vương quốc và Ngài đã đánh bại vương quốc của Sa-tan, sự chết và địa ngục.
Chương 5
NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA VƯƠNG QUỐC
Vương quốc của Chúa không thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động trên trái đất vì Ngài đã đặt nó vào bên trong chúng ta. “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:21). Tuy nhiên, chúng ta phải thực hiện các nguyên tắc của vương quốc để nhận được lợi ích của nó. Chúng ta tìm thấy các nguyên tắc của vương quốc của Chúa trong Kinh thánh. Do đó, chúng ta cần biết lẽ thật của Lời Chúa để hiểu cách thức vương quốc của Ngài hoạt động.
Chúa đã thiết kế vương quốc của Ngài để hoạt động theo một cách nhất định. Để tách mình khỏi hệ thống của thế gian và hoạt động trong hệ thống của Chúa, chúng ta cần tìm kiếm và sống theo lẽ thật của Lời Chúa. Lẽ thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự vướng mắc của hệ thống thế gian. Chúa Giê-su đã nói:
“Nếu các ngươi cứ ở trong lời ta, thì các ngươi thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ giải thoát các ngươi” (Giăng 8:31-32).
Nếu không có lẽ thật, chúng ta không thể thoát khỏi hệ thống thế gian. Và như chúng ta đã thảo luận, Sa-tan giam cầm con người trong hệ thống thế gian. Nếu họ không nghe hoặc không thấy lẽ thật của Lời Chúa, họ không biết rằng có cách nào khác để sống. Hãy nhớ rằng, với tư cách là công dân của vương quốc, chúng ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Hội thánh không được rút lui trong sự cô lập vì sợ bị ô uế, vì chúng ta là ánh sáng của thế gian.
Bàn tay của kẻ ác
Trong Thi thiên 82:3-5, tác giả Thi thiên cầu thay cho những người bị Sa-tan trói buộc: “Hãy đoán xét kẻ khốn cùng và người mồ côi; Hãy xử công bình cho người buồn rầu và kẻ túng ngặt. Khá cứu vớt kẻ khốn cùng và người thiếu thốn, Giải họ khỏi tay kẻ ác. Chúng nó không biết chi, cũng chẳng hiểu chi; Chúng nó đi qua đi lại trong sự tối tăm: Các nền trái đất đều rúng động.”
Toàn bộ hệ thống của thế giới này được thiết lập trên một nền tảng mà Chúa không muốn. Sa-tan không thể tạo ra bất cứ điều gì, và nó không thể nghĩ ra bất cứ điều gì mới, vì vậy nó đã lấy mẫu của Chúa và làm cho sai lệch đi. Lý do Sa-tan có thể thao túng mọi người là vì họ không có mối quan hệ với Chúa, không có sự mặc khải về vương quốc của Ngài. Do đó, ma quỉ có thể tác động qua những người mù quáng để tiếp tục xây dựng vương quốc đen tối của nó.
Sa-tan, trong nỗ lực chiếm lấy vương quốc của Chúa, thậm chí đã cố gắng cám dỗ Chúa Giê-su.
Ma quỉ đem Ngài lên, cho xem mọi nước thế gian trong giây phút; và nói rằng: Ta sẽ cho ngươi hết thảy quyền phép và sự vinh hiển của các nước đó; vì đã giao cho ta hết, ta muốn cho ai tùy ý ta. Vậy, nếu ngươi sấp mình xuống trước mặt ta, mọi sự đó sẽ thuộc về ngươi cả” (Lu-ca 4:5-7)
Nếu Sa-tan thành công trong việc khiến Chúa Giê-su thờ phượng nó, thì vương quốc tối tăm và hệ thống tà ác của nó sẽ chiếm lấy tất cả mọi người trên trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã chống lại nó bằng lẽ thật của Lời Chúa (câu 4,8,12) và cuối cùng trao chìa khóa của vương quốc cho tất cả những ai muốn tiếp nhận Ngài. Bây giờ Ngài đã ban cho chúng ta chìa khóa của vương quốc Ngài (Ma-thi-ơ 16:19), chúng ta có thể kích hoạt điều đó và chống lại ma quỷ bằng lẽ thật của Lời Chúa.
Sa-tan đứng sau một hệ thống đang kiểm soát nền kinh tế của thế giới này, các tôn giáo do con người tạo ra và các tiến trình chính trị. Nhưng khi chúng ta có vương quốc Đức Chúa Trời bên trong tấm lòng của mình, chúng ta có thể cai trị mọi thứ mà Sa-tan đã thiết lập.
Sa-tan cũng không muốn bất kỳ ai biết rằng nó đứng sau hệ thống thế giới. Nó giống như kẻ ném đá và giấu tay. Hoặc nó nói với những người bị tổn thương rằng Chúa đã làm họ tổn thương. Ma quỷ là kẻ làm tổn thương mọi người, nhưng hắn chỉ tay vào Chúa để ngăn họ tin cậy Ngài. Sa-tan không muốn người ta rời khỏi vương quốc tối tăm để đến với vương quốc sáng láng.
Hãy nhìn vào con cái Y-sơ-ra-ên. Khi họ cố gắng rời khỏi hệ thống của Sa-tan ở Ai Cập, Pha-ra-ôn đã chống cự bằng tất cả sức mạnh của mình. Tại sao bạn cho rằng hắn không muốn họ rời đi? Đó là vì hắn cần họ xây dựng vương quốc của mình. Pha-ra-ôn không quan tâm đến người Do Thái, và Sa-tan cũng không quan tâm đến mọi người. Sa-tan chỉ sử dụng họ để để xây dựng nước của nó.
Khi chúng ta bước vào vương quốc của Chúa thông qua sự cứu rỗi và được giải thoát khỏi xiềng xích của Sa-tan, đôi khi chúng ta nghĩ rằng những điều tuyệt vời sẽ tự động xảy ra với chúng ta. Chúng ta tin rằng phước lành sẽ đến với chúng ta. Tuy nhiên, để những phước lành đó đến với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa (Phục truyền luật lệ ký 28:2). Chúng ta cần thoát khỏi hệ thống của thế gian và tập chú hoàn toàn vào Chúa và Lời của Ngài, trong đó có các nguyên tắc của vương quốc Ngài.
Chúa không bị layđộng bởi nhu cầu.
Nguyên lý đầu tiên của vương quốc Chúa mà chúng ta cần hiểu là Chúa không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ma-thi-ơ 6:8 chép rằng, “Vậy, các ngươi đừng giống như họ; vì Cha các ngươi biết các ngươi cần gì trước khi các ngươi cầu xin Ngài.”
Chúa biết chúng ta cần gì, nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin Ngài. Chúng ta phải làm gì đó để đáp ứng nhu cầu của mình. Nếu chúng ta không làm phần việc của mình, Chúa sẽ không hành động thay cho chúng ta. Có rất nhiều ví dụ về điều này. Ở một số vùng của Ấn Độ, Châu Phi, Ha-i-ti và trên khắp thế giới, mọi người đang chết đói. Tại sao Chúa không hành động? Đó là vì Ngài không bị layđộng bởi nhu cầu.
Điều gì khiến Chúa hành động? Chúa Giê-su đã nhiều lần phán, “Hỡi những kẻ ít đức tin” (Ma-thi-ơ 6:30; 8:26; 16:8; Lu-ca 12:28). Điều khiến Chúa hành động là đức tin. Ngài thiết kế vương quốc của Ngài để hoạt động bằng đức tin nơi Ngài. Chúng ta cần đức tin để tiếp nhận Ngài khi chúng ta được tái sinh và sau đó tiếp nhận Lời Ngài từ lúc đó trở đi.
Khi Ê-li tìm thấy người phụ nữ và đứa con trai của bà giữa nạn đói, sẵn sàng ăn bữa ăn cuối cùng của họ, ông đã không nói, “Các người đã sống sót suốt thời gian này. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài và lấy cho các người chút thức ăn.” Thay vào đó, ông nói, “trước tiên hãy dùng bột ấy làm cho ta một cái bánh nhỏ, rồi đem ra cho ta; kế sau ngươi sẽ làm cho ngươi và cho con trai ngươi” (1 Các vua 17:13). Ê-li khuyên người góa phụ làm bánh cho ông trước. Bà đã vâng lời người của Đức Chúa Trời. Bà đã bày tỏ đức tin của mình. Nếu bà không gieo một ít hạt giống (hào phóng với tiên tri của Đức Chúa Trời, mặc dù đang thiếu thốn) bày tỏ đức tin của mình nơi Chúa, bà và đứa con trai sẽ chết vào ngày hôm đó (1 Các Vua 17). Đức Chúa Trời không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ngài cần một số hạt giống thể hiện đức tin của chúng ta nơi Ngài.
Không phải là Đức Chúa Trời có ác ý. Mà là Ngài đã thiết lập vương quốc của Ngài dựa trên sự khôn ngoan của Ngài, và chúng ta phải làm việc trong các nguyên tắc của vương quốc Ngài. Chúng ta không cần phải chịu đựng thêm một phút nào nữa mà nhu cầu của mình bị Chúa bỏ quên. Chúng ta có thể làm việc theo hệ thống của Ngài ngay bây giờ bằng cách trước tiên lắng nghe tiếng Chúa và học các nguyên tắc của vương quốc từ Lời Ngài.
Nguyên tắc đầu tiên, một lần nữa, là Đức Chúa Trời không bị lay động bởi nhu cầu. Ngài bị lay động bởi đức tin. Người khác có thể cầu nguyện cho chúng ta, và Đức Chúa Trời sẽ hành động thay mặt chúng ta. Đức Chúa Trời chỉ cần một số đức tin từ một người nào đó để Ngài có thể hành động. Ngài phán, “Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó, đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không hủy diệt nó; song ta chẳng tìm được một ai” (Ê-xê-chi-ên 22:30).
Chúa muốn trì hoãn sự phán xét đối với những người không biết gì hơn, nhưng Ngài cần một người đứng vào khoảng trống để cầu thay xây lại tường thành. Ngài cần đức tin đến từ một người nào đó trên trái đất để làm việc giữa chúng ta.
Đức Chúa Trời Muốn Cung Cấp Nhu Cầu Của Chúng Ta.
“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33).
Nguyên tắc của Ma-thi-ơ 6:33 là gì?
Trước hết tìm kiếm nước Trời, và mọi nhu cầu được Chúa đáp ứng.
Đức Chúa Trời mà chúng ta cần tìm kiếm là Đức Chúa Trời muốn cung cấp nhu cầu của chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ điều gì, người nào hoặc tổ chức nào khác trở thành nguồn cung cấp của chúng ta. Ngài muốn trở thành nguồn cung cấp duy nhất của chúng ta
Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:2-3, Đức Chúa Trời phán, “Ta là Đức Chúa Trời của ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô và nhà nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác trước mặt ta.”
Điều này sẽ xóa tan lập luận rằng chúng ta đã tự đưa mình vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Nếu bạn nghe một số người làm chứng, bạn sẽ nghe họ cảm ơn Chúa vì họ đã tự cứu mình. Tuy nhiên, việc chúng ta đến với Chúa Giê-su là công việc của Đức Chúa Trời. Ngài đã dàn dựng điều đó. Chúa Giê-su đã nói, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta không kéo người ấy đến” (Giăng 6:44).
Sau khi xác định rằng Ngài cứu rỗi và giải cứu chúng ta, trong Xuất Ê-díp-tô ký Chúa tiếp tục:
“Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. 5 Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4-5).
Ngài tự gọi mình là “Đức Chúa Trời kỵ tà/ ghen tuông.” Bản Kinh thánh Living Bible nói rằng, “Ta đòi hỏi sự chú ý và tình yêu trọn vẹn của ngươi.” Còn bản dịch New Living Translation, “Ta sẽ không chia sẻ tình cảm của ngươi với bất kỳ ai khác.” Nghe có vẻ giống như một mối quan hệ nam nữ phải không?
Nếu một ngày nào đó vợ tôi về nhà và nói rằng, “Anh yêu, một người đàn ông đã theo em vào siêu thị và mua cho em một đôi giày.” Tôi sẽ rất tức giận.
Tôi sẽ hỏi, “Ai đã mua cho em?”
Bạn có thể nói rằng tôi là một người chồng hay ghen. Nhưng không muốn bất kỳ ai khác tán tỉnh vợ tôi.
Tương tự như vậy, chúng ta là cô dâu hoàn hảo của Chúa Giê-su. Ngài đã đính hôn với chúng ta. Ngài đang chăm sóc chúng ta và Ngài muốn trở thành người chu cấp duy nhất cho chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ ai khác chăm sóc cô dâu của Ngài.
Hãy nghe Phao-lô giải thích: “vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài. Vậy nên người đàn ông phải lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt. Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Đấng Christ và Hội thánh vậy” (Ê-phê-sô 5:30-32).
Khi nói về Chúa Giê-su và hội thánh, Kinh thánh nói rằng chúng ta là xương của xương Ngài và thịt của thịt Ngài. Đó là một mối quan hệ khá thân mật! Và Tân Lang của chúng ta yêu chúng ta nhiều đến nỗi Ngài đã hy sinh mạng sống của Ngài vì chúng ta. Tất nhiên, Ngài muốn chăm sóc chúng ta thật tốt! Tác giả Thi thiên đã viết, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi thiên 23:1). Chúa Giê-su là người chăn giữ chúng ta. Ngài muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta để chúng ta không thiếu thốn bất cứ điều gì và Ngài không muốn chúng ta quay sang bất kỳ người chăn chiên nào khác.
Chúa là một Đức Chúa Trời kỵ tà/hay ghen tuông. Chúng ta không bao giờ có ý định bị mắc kẹt trong mối quan hệ thân mật với hệ thống của thế gian. Và Chúa Giê-su không muốn thế gian chăm sóc cô dâu của Ngài. Ngài phán, “Đừng đụng đến nàng!” Nếu chúng ta có thể nhận ra điều đó, thì chúng ta sẽ từ bỏ hệ thống của thế gian, và chúng ta chạy đến với Chúa thành tín của mình. Ca thương 3:23 nói, “Sự thành tín của Chúa thật lớn.” Ngài vô cùng thành tín. Ngay cả khi chúng ta không có đức tin và sống xa cách Chúa thì Ngài vẫn thành tín.
Ô-sê và cô dâu của ông: Hình ảnh về Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài
Trong sách Ô-sê, chúng ta đọc về trường hợp của vị tiên tri. Đức Chúa Trời bảo ông kết hôn với một phụ nữ gian dâm. “Khi Đức Giê-hô-va bắt đầu phán cùng Ô-sê, Đức Giê-hô-va bảo người rằng: Hãy đi, lấy một người vợ gian dâm, và con cái ngoại tình; vì đất nầy chỉ phạm sự tà dâm, lìa bỏ Đức Giê-hô-va” (Ô-sê 1:2).
Ô-sê cưới Gô-me, một cô gái điếm. Và rồi cô rời bỏ Ô-sê và lại quan hệ với những người đàn ông khác. Cô ta đã ngoại tình một thời gian rồi bỏ đi. Đức Chúa Trời đã dùng câu chuyện này để cho Y-sơ-ra-ên thấy rằng Ngài là một người chồng ghen tuông, người đã kiên nhẫn với cô ta hơn cả trong những mối quan hệ ngoại tình của cô ta với thế gian. Ngài đã bày tỏ lòng nhẫn nại của Ngài đối với họ, nhưng Ngài cũng cho thấy cuộc sống khốn khổ của Gô-me.
Sống đắc thắng trong vương quốc của Đức Chúa Trời đòi hỏi sự trung tín. Có vẻ như không có gì xảy ra, nhưng bất kể chúng ta đang nhìn thấy và nghe thấy điều gì, chúng ta phải đứng lên và nói rằng, “Đức Chúa Trời tôi sẽ cung cấp mọi nhu cầu của tôi!” (Phi-líp 4:19.) Tất cả những gì chúng ta cần là Lời Chúa, bởi vì Lời Chúa là hạt giống thể hiện đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời. Chúng ta tin cậy Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi.
Ngài phán, “Ngươi chớ thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5). Đây không phải là lời đe dọa, nó là lời hứa. Chúa phán, “Ta sẽ chăm sóc ngươi.”
Sa-tan đã cố gắng khiến Chúa Giê-su tôn thờ nó. Nó giăng bẫy, “Hãy thờ lạy ta, và ta sẽ cho ngươi mọi thứ ngươi cần.” Sa-tan luôn cố gắng khiến mọi người tôn thờ nó để đổi lấy việc đáp ứng nhu cầu của họ. Nó đã đánh cắp ý tưởng đó từ Chúa. Khi chúng ta tôn thờ và phục vụ Chúa. Ngài đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta. Đó là cách vương quốc của Chúa hoạt động.
Sa-tan đã mô phỏng vương quốc bóng tối theo vương quốc ánh sáng. Khi mọi người cúi đầu trước Sa-tan, nó sẽ đáp ứng nhu cầu của họ. Nhưng luôn có sự hủy diệt và cái chết đi kèm sau đó. Vì vậy Chúa ra lệnh cho chúng ta tránh xa hệ thống của thế gian. Ngài biết rằng điều đó sẽ chỉ gây hại cho chúng ta.
Chúa đã phán, “Đừng thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác.” Chúng ta không cần phải cúi đầu. Chúng ta có Đấng chăm sóc và yêu thương chúng ta. Chúng ta không chọn Ngài; Ngài đã chọn chúng ta. Ngài đã chọn chúng ta. Ngài đã nhìn thấy chúng ta khi chúng ta suy sụp và tuyệt vọng. Một số người trong chúng ta trông không được tốt lắm! Tóc chúng ta rối tung, và chúng ta say đến nỗi thậm chí không biết tên của chính mình. Một số người trong chúng ta hút quá nhiều cần sa đến nỗi cơ thể suy sụp. Một số người trong chúng ta đã phạm phải một số sai lầm khủng khiếp, nhưng không có gì trong số đó làm thay đổi được tình yêu của Chúa dành cho. Ngài đã phán, “Ta muốn con.”
Đó chính là tất cả những gì câu chuyện của Ô-sê muốn nói. Câu chuyện này minh họa rõ rang: Chúa phán, “Ta đã cưới một kẻ bội bạc. Ngươi đã quay lưng lại với Ta, nhưng Ta không quay lưng lại với ngươi vì ngay cả khi ngươi không chung thủy, Ta vẫn chung thủy.”
Sau khi Ô-sê cưới Gô-me, bà đã rời bỏ Ô-sê. Ngay cả sau khi có con với ông, bà vẫn ra đường, bán dâm với những người đàn ông khác. Chúa bảo Ô-sê đi đón bà. Có lẽ bà đã bị đánh đập, cho dùng thuốc, ngược đãi và tổn thương, không còn tiền bạc hay lòng tự trọng. Nhưng Ô-sê đã tìm thấy bà và nói, “Thôi nào. Chúng ta hãy trở về nhà. Ta sẽ đem ngươi trở về” (Ô-sê 3)
Đó chính là vương quốc của Chúa. Bất kể hoàn cảnh hay điều kiện của chúng ta như thế nào, Chúa đều đón nhận chúng ta. Ngài muốn chúng ta trung tín với Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi. Tuy nhiên, khi chúng ta phạm lỗi và bỏ đi, Ngài luôn chờ đợi với vòng tay rộng mở. Và khi chúng ta nhận được sự mặc khải về tình yêu thương vô bờ bến của Ngài dành cho chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ muốn dính líu gì đến hệ thống thế gian này nữa. Chúng ta chỉ muốn trông cậy vào Ngài để có mọi điều chúng ta cần trong cuộc sống.
Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô từ chối quì lạy hình tượng
Daniel kể câu chuyện về Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô, những người được cho là phải cúi đầu thờ lạy tượng vàng của vua Nê-bu-cát-nết-sa. “Vua Nê-bu-cát-nết-sa cất tiếng nói cùng họ rằng: Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô, có phải các ngươi cố ý không thờ thần ta và không lạy tượng vàng mà ta đã dựng lên chăng? Vậy bây giờ, khi các ngươi nghe tiếng còi, kèn, đàn cầm, đàn sắt, quyển, sáo và các thứ nhạc khí, mà các ngươi sẵn sàng sấp mình xuống đất để quì lạy pho tượng mà ta đã làm nên, thì được; nhưng nếu các ngươi không quì lạy, thì chính giờ đó các ngươi sẽ phải quăng vào giữa lò lửa hực. Rồi thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?” (Đa-ni-ên 3:14-15).
Nhà vua đang cố gắng khiến mọi người cúi đầu và thờ phượng mình. Tôi nghĩ bạn biết ông ta lấy ý tưởng đó từ đâu! Sa-tan sử dụng hệ thống của thế gian và những người trong đó để cố gắng khiến chúng ta cúi đầu trước nó và thực hiện mong muốn của nó. Nhưng vương quốc của Đức Chúa Trời ở trong chúng ta và nó cai trị, điều khiển mọi phản ứng của chúng ta (Thi thiên 103). Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô biết điều đó. Họ trả lời với vua, “Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng” (câu 17-18).
Khi chúng ta tin vào Chúa đủ để thách thức áp lực của thế gian, vương quốc của Chúa sẽ hoạt động trong chúng ta. Ngài đã giải cứu ba thanh niên trung tín khỏi lò lửa hực. Trên thực tế, Ngài đã hiện diện trong ngọn lửa với họ! Sau đó, họ bước ra khỏi ngọn lửa đó mà thậm chí không có mùi khói. (Đa-ni-ên 3:24-27.) Giống như ba chàng trai trung tín này, Chúa muốn cung cấp tất cả các nhu cầu của chúng ta. Ngài sẽ làm như vậy khi chúng ta chỉ phụ thuộc vào Ngài như ba thanh niên người Hê-bơ-rơ đã làm.
Đức Chúa Trời Đáp Ứng Nhu Cầu Của Áp-ram.
Trong Sáng thế ký 14, chúng ta thấy cháu trai của Áp-ram là Lót gặp rắc rối khi xảy ra cuộc chiến giữa các vua trong vùng. “Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ, rồi đi. Giặc cũng bắt Lót, là cháu của Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài người, rồi đem đi.” (Câu 11-12) Khi Áp-ram phát hiện ra điều đó, ông đã mang theo hơn ba trăm gia nhân được đào tạo để truy đuổi, bắt và đánh bại họ.
Câu 16 nói rằng,
Ông đã đưa cháu trai mình là Lót cùng tài sản, phụ nữ và dân chúng trở về.
Áp-ram và những người của ông không chỉ đưa phụ nữ, đàn ông và trẻ em trở về, mà họ còn thu lại được cả tài sản.
Câu chuyện tiếp tục. Vua của Sô-đôm đã ra đón Áp-ram sau khi thắng trận trở về.
Vua Sô-đôm nói với Áp-ram rằng: “Hãy giao người cho ta, còn của cải thì ngươi hãy giữ lấy.” Áp-ram trả lời:
“Tôi giơ tay lên trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời Chí cao, Chúa Tể của trời và đất, mà thề rằng: Hễ của chi thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói được rằng: Nhờ ta làm cho Áp-ram giàu có” (câu 22-23).
Áp-ram đã tuân theo các quy tắc của vương quốc Chúa. Ông không muốn có vẻ như bất kỳ ai đã làm cho ông giàu có ngoài Chúa, vì Chúa không muốn bất kỳ ai nói rằng họ đã làm cho dân sự của Ngài giàu có. Chúa toàn năng là Đấng sẽ cung cấp mọi thứ cho chúng ta. Ngay sau đó, chúng ta thấy Áp-ram nhận được lời hứa tuyệt vời của Chúa.
Sau những điều này, lời của Chúa đã đến với Áp-ram trong một sự hiện thấy: Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2 Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách. 3 Áp-ram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt-tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. 4 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Áp-ram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5 Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” (Sáng thế ký 15:1-5).
Sau nhiều năm trôi qua và họ vẫn chưa có con trai, Sa-ra đã đến trước mặt Chúa và cố gắng tự mình tìm ra một kế hoạch riêng. Sáng thế ký 16:1-2 tường thuật:
“Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô, tên là A-ga. 2 Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Đức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng. Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai.”
Sa-ra cho rằng Chúa đã ngăn cản bà sinh con, rằng Ngài không muốn đáp ứng nhu cầu của bà. Ngược lại, khi An-ne không thể thụ thai, bà đã thề với Chúa, về cơ bản bà nói rằng nếu Chúa cho bà một đứa con trai thì “tôi sẽ phú dâng nó trọn đời cho Đức Giê-hô-va” (1 Sa-mu-ên 1:11). Kinh thánh nói rằng tử cung của An-ne đã mở ra và sinh ra Sa-mu-ên sau đó. Khi chúng ta không thể tiến xa hơn nữa, chúng ta phải đến với Lời Chúa và cầu xin Đức Thánh Linh chỉ cho chúng ta biết những gì chúng ta cần làm để vương quốc của Chúa hoạt động. Chúng ta cần gieo hạt giống nào? Chúa không giữ lại người thừa kế của chúng ta; Ngài đang chờ chúng ta gieo một hạt giống đức tin.
Sa-ra tiếp tục theo cách riêng của mình, thay vì tìm kiếm con đường của Chúa. Bà nói với Áp-ram đi theo kế hoạch của bà. Áp-ram đã nghe theo tiếng nói sai trái. Ông đã nghe theo Sa-ra thay vì Chúa. Ông đã nghe theo tiếng nói của xác thịt thay vì tiếng nói của Thánh Linh.
“Sau khi Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại xứ Ca-na-an, Sa-rai, vợ người, bắt A-ga, là con đòi Ê-díp-tô mình, đưa cho chồng làm hầu. Áp-ram lại cùng con đòi, thì nàng thọ thai” (Sáng thế ký 16:3-4).
Sa-ra đã cố gắng làm theo cách của riêng mình thay vì chờ đợi Chúa. Đôi khi cách của Chúa mất nhiều thời gian hơn một chút, và điều chúng ta phải làm là chờ đợi Ngài. Nếu Chúa đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
A-ga đã sinh con cho Áp-ram, và tên của đứa trẻ là Ích-ma-ên. Bởi vì Áp-ram và Sa-ra không tin cậy Chúa, họ đã lập ra một kế hoạch nằm ngoài kế hoạch của Chúa. Kết quả là, một sự chia rẽ lớn giữa con người bắt đầu, một sự chia rẽ giữa người Ả Rập (Ishmael) và người Do Thái (Isaac) vẫn còn cho đến ngày nay.
Nếu chúng ta hoàn toàn tin cậy Chúa, chúng ta sẽ được bình an. Khi chúng ta biết mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào, chúng ta không lo lắng về bất cứ điều gì. Tuy nhiên, khi chúng ta lo lắng, chúng ta cố gắng hành động vì lợi ích của chính mình và gây ra những hỗn độn mà chỉ có Chúa mới có thể dọn dẹp.
Chúa đã phán với Áp-ram, “Tên ngươi sẽ không còn là Áp-ram nữa, nhưng bây giờ sẽ là Áp-ra-ham.” Theo nghĩa tâm linh, Ngài đã kết ước với Áp-ram và ban cho ông một cái tên mới. Ngài đã hứa với Áp-ra-ham, “Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi.” (Sáng thế ký 17.) Cuối cùng, khi Áp-ra-ham và Sa-ra được chín mươi chín tuổi, họ có đứa con trai theo lời Chúa hứa là Y-sác.
Chúa được vinh hiển
Chúa đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua đức tin của chúng ta nơi Ngài và Lời Ngài. Ngài không muốn chúng ta tìm cách đáp ứng nhu cầu của mình bằng suy nghĩ xác thịt. Ngài muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta và bày tỏ điều đó trong Đức Thánh Linh. Sau đó, mỗi khi nhu cầu của chúng ta được đáp ứng, Ngài được vinh hiển.
Sa-tan luôn cố gắng giành lấy vinh quang từ dân sự của Chúa. Hắn muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua các phương tiện xác thịt và hệ quả sau đó là đau khổ. Nhưng Chúa muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của Ngài trong vinh quang bởi Chúa Giê-su Christ. (Phi-líp 4:19.) Điều đó có nghĩa là Ngài nhận được vinh quang và chúng ta được ban phước nhiều hơn. Ngài không bao giờ quay lại sau đó để làm hại chúng ta như Sa-tan đã làm.
Chúa vẫn tiếp tục làm việc với Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Chúa cũng sẽ tiếp tục làm việc với chúng ta. Ngài có thể xoay chuyển những mớ hỗn độn mà chúng ta tạo ra khi chúng ta theo đuổi mọi thứ theo cách riêng của mình, nhưng tốt hơn là chúng ta không nên đi theo ý riêng của mình. Khi chúng ta làm việc theo các nguyên tắc của vương quốc và chỉ phụ thuộc vào Ngài, Ngài sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta.
Hầu hết mọi người không có vấn đề gì với sự thịnh vượng, nhưng một số người có vấn đề với việc Chúa cung cấp sự thịnh vượng. Nếu họ có thể nói rằng họ đã tự mình làm được, điều đó khiến họ cảm thấy tốt. Họ sẽ làm theo công thức để đạt được điều đó, chỉ để họ có thể nói rằng cuối cùng họ đã giành được chiến thắng. Họ không hiểu được ân điển của Chúa.
Trước hết, nếu Chúa dẫn dắt một tín đồ thực hiện ba công việc, Ngài sẽ cung cấp sức mạnh và sự khôn ngoan mà họ cần để thực hiện chúng. Khi chiến thắng đến, mọi vinh quang sẽ thuộc về Ngài. Nhưng nhiều lần các tín đồ sẽ giống như Sarai và làm mọi việc theo cách khó khăn. Họ đi vào suy nghĩ và sức mạnh của riêng mình khi Chúa có cách ban ân điển để họ giành chiến thắng.
Chúa chỉ muốn chúng ta biết rằng Ngài là Đấng chu cấp cho chúng ta. Khi tôi đặt tay lên người bệnh, Chúa chứng minh Ngài là Đấng chữa lành cho họ. Có lần tôi cầu nguyện cho một người đàn ông vừa cãi nhau trong gia đình và bị dao đâm vào cánh tay. Anh ta thậm chí không thể cử động tay. Quyền năng của Chúa chạm vào anh ta, và anh ta bắt đầu cử động tay. Với nước mắt chảy dài trên mặt, anh ta nói, “Nhìn này, tôi có thể cử động tay!”
Người đàn ông này đều biết rằng tôi không làm điều đó xảy ra. Chúng ta không thực hiện phép lạ; Chỉ có Chúa mới làm điều đó. Công việc của chúng ta là gieo hạt giống, và công việc của Chúa là đáp ứng nhu cầu. Và khi Ngài đáp ứng nhu cầu, Ngài nhận được tất cả vinh quang.1
Hạt giống đầu tiên là Lời Chúa
Như chúng ta đã thấy trước đây, chúng ta bày tỏ đức tin của mình vào Chúa và chỉ vào Chúa bằng cách tin vào Lời Ngài. Hạt giống đầu tiên mà chúng ta gieo cho mọi nhu cầu của mình là Lời Chúa. Chúng ta phải có Lời Chúa trong mọi điều chúng ta muốn làm trước khi Chúa có thể đến và thực hiện điều đó vì Ngài đang tìm kiếm đức tin. Và chúng ta biết rằng đức tin đến “bởi sự người ta nghe, và người ta nghe khi Lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17).
Lời Chúa thay đổi cái nhìn của chúng ta về chính mình và Đức Chúa Trời. Nó thay đổi những gì chúng ta tin, khiến đức tin trỗi dậy và tin vào Ngài. Và Đức Chúa Trời chỉ có thể làm việc với chúng ta ở mức độ chúng ta tin vào Ngài. Mác 4:14 nói rằng, ” Người gieo giống ấy là gieo đạo/lời.” Chúng ta phải gieo Lời Chúa vào lòng mình để có đức tin nơi Chúa. Gieo là trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta không gieo bất cứ thứ gì, chúng ta sẽ không gặt được điều gì.
“Chúa Giê-su phán rằng: Nước Đức Chúa Trời cũng như một người vải giống xuống đất; người ngủ hay dậy, đêm và ngày, giống cứ nẩy chồi mọc lên, mà người không biết thể nào” (Mác 4:26-27).
Công việc của ma quỉ là đưa chúng ta vào suy nghĩ của chính mình. Nếu nó đưa chúng ta vào suy nghĩ xác thịt, chúng ta không còn ở trong tâm linh hoặc hoạt động trong đức tin hướng về Chúa nữa. Đó là lý do tại sao chúng ta phải ở trong tâm linh. Khi chúng ta ở trong tâm linh, đôi khi chúng ta sẽ di chuyển với tốc độ mà tâm trí chúng ta không thể tính toán được. Chúng ta sẽ di chuyển với tốc độ của tâm linh, chứ không phải tốc độ của tâm trí xác thịt.
Mác 4:28-29 chép rằng, “Vì đất tự sanh ra hoa lợi: ban đầu là cây, kế đến bông, đoạn bông kết thành hột. Khi hột đã chín, người ta liền tra lưỡi hái vào, vì mùa gặt đã đến.”
Khi sự mặc khải và ánh sáng đột phá trong lòng chúng ta, nếu chúng ta không hành động theo Lời Chúa, Sa-tan sẽ đến và cố gắng đánh cắp sự mặc khải đó. Vì vậy, khi chúng ta phát hiện ra rằng Chúa muốn cung cấp cho tất cả các nhu cầu của chúng ta và rằng chúng ta cần gieo một số hạt giống, chúng ta phải bắt đầu gieo hạt ngay! Chúng ta không thể chờ đợi để kiểm tra mọi thứ. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, ánh sáng đó sẽ mờ dần vì chúng ta không thực sự tin cậy vào Chúa mà muốn sử dụng sự tính toán khôn ngoan của chính mình.
- Dr. Bill Winston (2006). The Kingdom of God in you. Harrison House, Tula, Oklahoma.
Thay vì để hệ thống của thế gian điều khiển chúng ta, tại sao chúng ta không bắt đầu để hệ thống của Chúa điều khiển chúng ta? Có một hệ thống ẩn bên trong chúng ta. Nó được thiết lập để sản xuất cho chúng ta nếu chúng ta tuân theo các nguyên tắc của Chúa. Nó được thiết kế để tạo ra cho chúng ta, đưa chúng ta đến hoặc mang đến cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần trên trái đất này – độc lập với những gì đang diễn ra xung quanh chúng ta. Đó là phúc âm của vương quốc Chúa.
Khoảnh khắc chúng ta có nhu cầu không thể đáp ứng được, chúng ta chỉ cần thực hiện các nguyên tắc của vương quốc Chúa. Mác 4:14 nói rằng, “Người gieo giống là gieo đạo/ lời Chúa.”
Hãy nhớ rằng: Đấng đã hứa cùng chúng ta là Đấng thành tín thực hiện điều đó. Sự giải cứu của chúng ta đến từ tâm linh của chúng ta, từ bên trong ra bên ngoài, không phải từ bên ngoài vào trong. Chúa là Đấng thành tín, và khi chúng ta chuyển từ vương quốc bóng tối sang vương quốc ánh sáng, Ngài sẽ cung cấp mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của ở nơi vinh hiển trong Chúa Giê-su Christ. Tất cả những gì chúng ta cần làm là gieo hạt giống đức tin của mình, để Ngài sinh ra trái mà chúng ta cần, và sau đó dâng cho Ngài tất cả những vinh quang.
Chương 6
SỰ LÃNH ĐẠO TRONG VƯƠNG QUỐC
Một nhà truyền giáo đến một vùng đất xa lạ ở Phi Châu. Ông ta nhờ một người thổ dân hướng dẫn đi trong một khu rừng để đến nơi cần đến. Sau nhiều giờ đi trong rừng không có lối mòn, nhà truyền giáo hỏi:
- Tôi không thấy con đường nào cả trong khu rừng này. Anh có chắc là sẽ dẫn tôi đi đúng hướng để đến nơi cần đến.
- Ông đừng lo, tôi chính là con đường. Người thổ dân trả lời.
Người thổ dân biết nơi nhà truyền giáo cần đến, và anh ta là một người bản địa biết rõ các lối đi trong rừng. Và đến cuối ngày nhà truyền giáo đã đến đúng nơi ông mong đợi.
Khi nói đến thế giới của chúng ta, và quốc gia của chúng ta nói riêng, phần lớn đích đến của chúng ta gắn liền với những người phải biết chúng ta cần đi đâu. Nó gắn liền với phẩm chất của các chính trị gia đã đặt mục tiêu lãnh đạo đất nước chúng ta. Nó gắn liền với các nhà lãnh đạo dân sự được giao trách nhiệm trong các cấp chính quyền khác nhau để đưa ra định hướng tạo điều kiện thuận lợi cho một xã hội dân sự có trật tự tốt. Kinh thánh nói rõ rằng khi không có sự lãnh đạo chính trị hợp pháp và có trách nhiệm, một xã hội và công dân của nó sẽ rơi vào hỗn loạn. “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (Các quan xét 17:6; 21:25).
Lãnh đạo là một đặc điểm cơ bản của sự cai trị vương quốc. Lãnh đạo chính trị thường thể hiện trong các chính sách mà các chính trị gia ủng hộ và những gì họ dành phần lớn thời gian để tập trung vào. Nhưng ngoài cách một chính trị gia bỏ phiếu hoặc một nhà lãnh đạo dân sự trình bày hoặc ủng hộ các luật khác nhau, chúng ta cũng nên quan tâm đến con người nữa.
Trong vương quốc của Đức Chúa Trời, có đúng người với đúng chính sách được nối kết lại với nhau là cách một nền văn hóa và một quốc gia tiến triển tốt đẹp. Tuy nhiên, khi hai điều này trở nên rời rạc vì bạn có chính sách sai hoặc những người sai thì bạn đã khiến quốc gia này gia tăng xung đột, hỗn loạn và thậm chí là thoái trào trên quy mô toàn cầu.
Đó là lý do tại sao việc tìm kiếm những người phù hợp có phẩm chất cao và quan điểm về vương quốc để đại diện cho chúng ta với tư cách là chính trị gia và nhà lãnh đạo dân sự lại quan trọng đến vậy. Khi chúng ta xem xét nên đưa ai vào chức vụ hoặc hỗ trợ ai thông qua thời gian, tiền quyên góp hoặc phiếu bầu của mình, chúng ta cần xem xét các chính sách mà họ ủng hộ và liệu những chính sách đó có đạt được mục tiêu duy trì một môi trường an toàn, công bằng, chính trực và có trách nhiệm để tự do phát triển hay không. Và trong khi chúng ta có tiếng nói về cách các chính trị gia có thể phục vụ và trong khả năng nào, chúng ta cũng cần nhớ rằng Kinh thánh nói rõ rằng khi nói đến Chúa, Ngài quyết định các kết quả. Châm ngôn 8:15-16 nói rằng, “Nhờ ta, các vua cai trị, Và những quan trưởng định sự công bình. Nhờ ta, các quan trưởng, người tước vị, Và các quan xét thế gian đều quản hạt.”
Cuối cùng, Chúa sắp đặt những người cai trị là ai, bởi vì chính phủ là thể chế của Ngài. Đây là lý do tại sao Chúa đã chỉ thị các nhà lãnh đạo khiêm nhường tìm kiếm Ngài và Lời Ngài để biết cách cai trị dân chúng đúng đắn (Phục truyền luật lệ ký 17:18-20). Điều quan trọng nhất mà một nhà lãnh đạo chính trị có thể làm là thiết lập và khuyến khích công dân hoạt động theo tiêu chuẩn Kinh thánh.
Trên thực tế, trong Rô-ma 13, các nhà lãnh đạo chính trị dân sự được gọi là “đầy tớ của Chúa”. Họ được gọi là “chức việc của Đức Chúa Trời” ba lần chỉ trong bảy câu đầu tiên. Hãy nhớ rằng, đây là trường hợp khi nói về chính quyền La Mã. Phao-lô không nói về chính quyền hay sự lãnh đạo của Cơ đốc giáo. Đó là xã hội thế tục được nhắc đến trong Rô-ma 13. Đức Chúa Trời thường gọi các nhà lãnh đạo dân sự là tôi tớ của Ngài. Họ là những người hầu việc Ngài, những người sẽ phản ánh sự cai trị của Ngài trên mỗi quốc gia.
Do đó, một nhà lãnh đạo dân sự càng gần với tính cách và năng lực của Đức Chúa Trời, cũng như với các nguyên tắc cai trị của Đức Chúa Trời, thì xã hội sẽ càng có trật tự. Ngược lại, các nhà lãnh đạo càng có tính cách và năng lực xa cách với chính sách Kinh thánh, thì quốc gia đó càng xa cách Chúa và trật tự thiêng liêng của Ngài dành cho xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ có nhiều sự hỗn loạn hơn trong đất nước. Nhận ra Chúa không chỉ có nghĩa là sử dụng danh Ngài, cầu nguyện và trích dẫn ngẫu nhiên các câu Kinh thánh trong các bài phát biểu chính trị. Điều đó có nghĩa là cho phép thế giới quan của Chúa ảnh hưởng và tác động đến chính sách của nhà cầm quyền.
Kinh thánh nói gì về chủ đề này?
“Đức Giê-hô-va phán thể nầy cùng Si-ru, là người xức dầu của Ngài, ta đã cầm lấy tay hữu người, đặng hàng phục các nước trước mặt người, và ta sẽ tháo dây lưng các vua; đặng mỡ các cửa thành trước mặt người, cấm không được đóng lại: Ta sẽ đi trước mặt ngươi, ban bằng các đường gập ghềnh; phá vỡ các cửa bằng đồng, bẻ gãy then gài bằng sắt” (Ê-sai 45:1-2)
Ấy chính ta đã dấy người lên trong sự công bình, và sẽ ban bằng mọi đường lối người. Người sẽ lập lại thành ta, và thả kẻ bị đày của ta, không cần giá chuộc, cũng không cần phần thưởng, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. (Ê-sai 45:13)
Trong suốt Kinh thánh, chúng ta đọc về việc Chúa chọn các nhà lãnh đạo dân sự để làm theo ý muốn Ngài, cũng như các nhà lãnh đạo dân sự bị hạ xuống (Ê-sai 45:1-5). Ngài liên tục thay đổi chu kỳ lãnh đạo để làm điều tốt hoặc để phán xét. Thông thường, sự phán xét đến từ lòng dân chúng – những công dân đã quay lưng lại với Chúa. Khi điều này xảy ra ở mức độ thường thấy trong nền văn hóa ngày nay, Chúa cho phép những nhà lãnh đạo gian ác hoặc xấu xa nắm giữ các vị trí cai trị. Theo cách này, sự phán xét của Ngài được ban hành đối với quốc gia như một nỗ lực để thu hút mọi người ăn năn và khơi dậy tấm lòng hướng về Ngài.
Châm ngôn 29:2 nói như thế này: “Khi người công bình gia tăng, dân sự vui mừng; nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự rên xiết.” Khi lãnh đạo là xấu xa và đồi bại, thì luật pháp sẽ không đi theo các nguyên tắc của Kinh thánh, và công dân, cũng như xã hội nói chung, sẽ phải chịu đau khổ.
Khi nhìn vào nhiều nhà lãnh đạo được bầu tại Hoa Kỳ ngày nay, có thể dễ dàng thấy rằng hệ thống chính phủ thuộc về Chúa. Nhưng bất kể những gì chúng ta thấy phản ánh trong tính cách và chính sách của giới lãnh đạo dân sự, chúng ta phải tự điều chỉnh mình với quan điểm chính xác của Kinh thánh về chính trị.
Để làm như vậy, chúng ta giải thích về mặt thần học về cách nguyên tắc lãnh đạo hoạt động trong sự quản lý của Chúa. Bởi vì giống như một nhà thờ có thể có một nhóm các chấp sự, mục sư hiệu quả kém và một nhà thờ khác có các mục sư có hiệu quả và chất lượng. Những phẩm chất này dựa trên cách những cá nhân này xem xét vai trò của họ với tư cách là người hoạch định chính sách.
KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO DỰA TRÊN GIAO ƯỚC
Để hiểu tại sao điều này lại quan trọng như vậy, chúng ta phải xem xét lại nguyên tắc của giao ước. Chúa vận hành thế giới của Ngài thông qua các giao ước. Xin nhắc lại, giao ước là mối quan hệ ràng buộc về mặt pháp lý đã được Chúa thiết lập. Bạn càng hoạt động hoặc hoạt động đồng bộ với Chúa và các quy tắc của Ngài, dù là một nhà lãnh đạo hay thậm chí là một nền văn hóa, thì bạn càng tiến bộ trong xã hội.
Giao ước giống như một quả bóng đá trên sân bóng đá. Mọi thứ phải được căn chỉnh phù hợp với quả bóng. Nếu có thứ gì đó không được căn chỉnh phù hợp – ví dụ, cầu thủ bóng đá đứng trước (hoặc chạy trước) vị trí của quả bóng trên sân về phía cầu môn thì đó là lỗi. Tùy thuộc vào đội mà cầu thủ đó chơi, hành vi đó có thể được gọi là “việt vị” hoặc “xâm phạm”. Tương tự như vậy, nếu một cầu thủ không xử lý được một quả bóng đá và làm rơi nó, thì đó sẽ trở thành một điều tệ hại. Khi quả bóng đá chạm vào vạch vôi, thì đó là dấu hiệu của một cú chạm bóng. Khi một quả bóng đá đi gần cầu môn, thì nó dễ trở thành một cú làm bàn. Nói cách khác, mọi vị trí trên sân phụ thuộc vào vị trí của cầu thủ khác trong mối quan hệ với quả bóng. Tương tự như vậy, trong vương quốc, mọi chức vụ phụ thuộc vào vị trí của một hay nhiều chức vụ khác trong mối quan hệ với giao ước.
Điều này đúng với gia đình. Điều này đúng với nhà thờ. Điều này cũng đúng với các thể chế. Chính phủ rơi vào đấu trường của các thể chế này, và nhờ ân điển chung của Chúa, Ngài đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người và các quốc gia được hưởng lợi từ sự hướng dẫn, định hướng và mệnh lệnh của Ngài. Do đó, giống như quả bóng bầu dục quyết định xem một đội hoặc một cầu thủ có phù hợp với các quy tắc của lưới sắt hay không, cách các nhà lãnh đạo dân sự hoạt động, cả ở nơi riêng tư và nơi công cộng, quyết định liệu một quốc gia có phù hợp với các quy tắc của Chúa hay không.
Do mối liên hệ chặt chẽ này giữa sự ưu ái hoặc phán xét của Chúa và hành vi, tính cách và chính sách của các nhà lãnh đạo dân sự, điều quan trọng là chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo phù hợp với Chúa. Kinh thánh cho chúng ta biết trong Đa-ni-ên 2:21 rằng sự thành công của các nhà lãnh đạo dân sự phụ thuộc vào Chúa và những gì Ngài cung cấp cho họ thông qua sự khôn ngoan. Chúng ta đọc, “Chính Ngài là Đấng thay đổi thời đại và mùa; Ngài phế truất các vua và lập các vua; Ngài ban sự khôn ngoan cho người khôn ngoan và kiến thức cho người hiểu biết.” Đức Chúa Trời quyết định sự thành công hay thất bại của các nhà lãnh đạo. Và Ngài làm như vậy dựa trên các quy tắc của giao ước của Ngài,
Đó là lý do tại sao chúng ta không thể nói về chính phủ hoặc chính trị mà không nói về Đức Chúa Trời và vai trò của Ngài liên quan đến các nhà lãnh đạo dân sự. Nguyên tắc đại diện, là điều mà một nhà lãnh đạo dân sự đảm nhận khi được bầu, là một yếu tố quan trọng đối với giao ước trong Kinh thánh. Điều này có nghĩa là trong trật tự phân cấp giao ước của Đức Chúa Trời, người có thẩm quyền và chức năng cao hơn bạn cũng đại diện cho bạn. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời kêu gọi những người chồng phục tùng thẩm quyền thiêng liêng hợp pháp (Tít 2:1, 6), những người vợ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chồng mình (Ê-phê-sô 5:22-24), các thành viên nhà thờ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của ban lãnh đạo nhà thờ (Hê-bơ-rơ 13:17) và công dân phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chính quyền dân sự (1 Phi-e-rơ 2:13).
Khi một nhà lãnh đạo dân sự đại diện cho bạn vì người đó đại diện cho quận, thành phố, quận, trường học, tiểu bang hoặc quốc gia của bạn, họ sẽ đưa ra quyết định thay mặt bạn. Bạn không còn có tiếng nói trong những quyết định này về mặt lập pháp khi bạn chuyển giao đại diện chính phủ cho một nhà lãnh đạo được bầu.
Ví dụ, nếu tổng thống hoặc Quốc hội nói rằng chúng ta sẽ tham chiến, bạn không thể nói rằng chúng ta không tham chiến. Đúng, bạn có thể phản đối quyết định của họ, nhưng quyết định của họ vẫn là quyết định có hiệu lực. Bạn có thể không bỏ phiếu để tham chiến, nhưng vì nhà lãnh đạo được bầu của bạn đại diện cho bạn, nên quyết định tham chiến được đưa ra thay cho bạn. Nước Mỹ tồn tại như một đại diện hệ thống mà chúng ta bầu ra các nhà lãnh đạo dân sự để phản ánh các giá trị của chúng ta trên đất nước. Những nhà lãnh đạo dân sự này đại diện cho chúng ta thay mặt cho quốc gia. Đó là cách Chúa thiết lập chính phủ để hoạt động theo cách đại diện. Ngài cũng thiết lập các gia đình để làm việc theo cách đó, trong đó người cha hoặc người chồng đại diện cho gia đình về mặt tâm linh trước mặt Chúa (1 Cô-rinh-tô 11:3; Sáng thế ký 18:19; Xuất Ê-díp-tô Ký 34:23-24). Tương tự như vậy, sự lãnh đạo thuộc linh trong một hội thánh đại diện cho hội chúng trước mặt Chúa (Hê-bơ-rơ 13:17). Tuy nhiên, chỉ vì Chúa thiết lập những người đại diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống này không có nghĩa là họ thực hiện tốt vai trò của mình. Đó là lý do tại sao việc cầu nguyện cho những người đại diện cho bạn lại quan trọng đến vậy, bởi vì nếu và khi họ khiêu khích sự phán xét của Chúa, thì thường thì sự phán xét đó cũng sẽ lan sang những người mà họ đại diện. Ví dụ, một thế hệ dân Y-sơ-ra-ên đã không vào được đất hứa là do tầm nhìn hạn hẹp và ảnh hưởng của những người đại diện của họ. Chúng ta đọc Kinh thánh để thấy điều này rõ hơn:
“Trước mặt
dân Y-sơ-ra-ên, các người đó phao phản xứ mình đã do thám mà rằng: Xứ mà chúng
tôi đã đi khắp đặng do thám, là một xứ nuốt dân sự mình; hết thảy những người
chúng tôi đã thấy tại đó, đều là kẻ hình vóc cao lớn. Chúng tôi có thấy kẻ
cao lớn, tức là con cháu của A-nác, thuộc về giống giềnh giàng; chúng tôi thấy
mình khác nào con cào cào, và họ thấy chúng tôi cũng như vậy” (Dân số ký 13:32-33).
“Các người đó phao phản xứ mình” đã dẫn đến một
kết quả đáng thất vọng cho tuyển dân lúc bấy giờ!
Sự lãnh đạo là rất quan trọng. Sự lãnh đạo kém sẽ để lại hậu quả lâu dài.
Hãy xem xét A-đam chẳng hạn. Rô-ma 5 cho chúng ta biết rằng “trong A-đam, mọi người đều chết.” Lý do tại sao toàn thể nhân loại bị đặt trên con đường chết về thể xác và xa cách Chúa là do A-đam. Người đại diện ban đầu của chúng ta trước mặt Chúa đã chọn cách không vâng lời Chúa và kết quả là dẫn đến hậu quả mà tất cả chúng ta vẫn đang phải trải qua cho đến tận bây giờ.
Bởi vì A-đam đã thất bại trong vai trò đại diện cho loài người, ông đã truyền đạt cho mỗi người chúng ta kết quả của sự thất bại của mình. A-đam nên là người mở mắt cho tất cả chúng ta về lý do tại sao việc lựa chọn người đại diện một cách khôn ngoan lại quan trọng đến vậy.
Mặt khác, chúng ta có một người đại diện khác: Chúa Giê-su Christ là người đã không thất bại. Chúa Giê-su đã hoàn toàn thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời và trong việc áp dụng lẽ thật của Ngài. Khi một người chấp nhận Chúa Giê-su Christ là người gánh tội lỗi và đại diện cá nhân của họ trước Đức Chúa Trời, họ sẽ nhận được những lợi ích mà Chúa Giê-su đã bảo đảm trên thập tự giá. Người đại diện rất quan trọng. Chúng ta không bao giờ nên coi nhẹ khái niệm bỏ phiếu hoặc ủng hộ các ứng cử viên chính trị hoặc dân sự, bởi vì một khi họ đã chắc chắn nắm giữ vị trí đó, tất cả chúng ta đều phải chịu những lợi ích hoặc hậu quả của tính cách và các quyết định của họ.
Việc hiểu chính trị thông qua thế giới quan của vương quốc là rất quan trọng đối với mọi công dân. Quá nhiều người không hiểu được mối liên hệ giao ước giữa các đại diện dân sự và Chúa, và do đó không tham gia vào quá trình lựa chọn những nhà lãnh đạo này một cách khôn ngoan. Chúa mong muốn ban phước cho các quốc gia có những nhà lãnh đạo tuân theo sự cai trị của Ngài. Ông đã làm rõ ràng về cách một quốc gia và cư dân của quốc gia đó có thể đạt được những phước lành mà họ mong muốn. Ông không giấu chúng ta những đường lối của Ngài hay giữ bí mật con đường dẫn đến lợi ích của Ngài. Phục truyền luật lệ ký 29:9 nêu rõ như sau: “Vậy, hãy giữ những lời của giao ước này để làm theo, hầu cho các ngươi được thịnh vượng trong mọi việc mình làm.”
Nếu bạn thực sự muốn cầu nguyện “Chúa ban phước cho nước Mỹ” và thấy kết quả của lời cầu nguyện đó, thì bạn cần đảm bảo rằng giới lãnh đạo ở đất nước chúng ta được định vị để nhận được phước lành của Chúa trong mọi việc họ làm và nói. Là đại diện của chúng ta, họ đóng vai trò chuyển giao ân huệ của Chúa hoặc chuyển giao sự phán xét của Ngài cho toàn thể công dân.
NHU CẦU VỀ NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO CÓ TRÁCH NHIỆM
Hội thánh Chúa trên đất tác động đến bản chất chính trị của một quốc gia bao gồm tác động đến những người được trao quyền, không chỉ vì chính sách của họ mà còn vì tính cách và phẩm chất cá nhân. Phước lành chảy qua nguyên tắc đại diện lấy tổng thống hoặc nội các chính phủ làm trung tâm khi những người đại diện quyết định làm việc theo giao ước với Chúa. Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm tham gia vào chính trị ở một mức độ nào đó và để tiếng nói và giá trị của chúng ta được biết đến. Chúng ta có trách nhiệm này vì mỗi người chúng ta sẽ trải nghiệm phước lành hoặc sự phán xét được chuyển đến cho chúng ta thông qua những người đại diện chính trị của mình. Phiếu bầu của chúng ta rất có ý nghĩa. Có một câu nói hay: Dân sự như thế nào, thì chính quyền như thế ấy. Những nhà nghiên cứu bên ngoài Cơ đốc giáo nhìn thấy một thực trạng: Tất cả mọi chế độ xã hội đều là sản phẩm do con người tạo nên, vì vậy chế độ tốt đẹp, lương thiện hay gian manh, ác độc đều là tấm gương phản chiếu sự suy nghĩ, tinh thần và học thức của người dân trong chế độ đó.
Kinh thánh nói gì về điều này?
Sau-lơ trở thành vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên là do tuyển dân của Chúa muốn như vậy. Và khi họ muốn thì Chúa để cho điều đó xảy ra. Khi tuyển dân muốn Sau-lơ làm vua, thì về thực tế là họ đã từ chối không muốn Đức Chúa Trời cai trị họ. Chúng ta thấy gì ở đây? Kết thúc triều đại của Sau-lơ là một bi kịch.
Thật không may, nhiều Cơ đốc nhân sẽ nói về sự đồng thuận với chính sách của một chính trị gia trong khi đồng thời bỏ qua việc đối xử với họ như một con người. Nhưng theo kế hoạch giao ước của Chúa, tính cách và việc ra quyết định song hành với nhau. Nếu những người đại diện của chúng ta muốn thiết lập thành công một kênh mà phước lành của Chúa sẽ chảy qua, họ phải tập trung vào cả chính sách và các giá trị cá nhân, nhân cách của riêng họ.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký cho chúng ta biết những kiểu nhà lãnh đạo mà chúng ta phải tìm kiếm và ủng hộ khi lựa chọn hoặc hỗ trợ sự lãnh đạo dân sự của mình. Có một số phẩm chất nhất định sẽ hữu ích trong việc thúc đẩy phước lành của Chúa trên đất nước. Chúng ta đọc về một số người trong số họ trong Xuất Ê-díp-tô ký 18:21, trong đó có nói rằng,
“Ngoài ra, ngươi phải chọn trong số tất cả những người nam có năng lực, kính sợ Đức Chúa Trời, những người chân thật, ghét lợi bất chính; và ngươi sẽ đặt những người này lên làm người lãnh đạo của hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm mươi và hàng chục người.”
Dựa trên đoạn văn này, trước hết, chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là những nhà lãnh đạo coi trọng Đức Chúa Trời. Một nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời ám chỉ một người không chỉ tin vào Đức Chúa Trời mà còn tìm cách tìm hiểu những gì Đức Chúa Trời phán về một chủ đề để thực hiện ý muốn của Ngài trong một vấn đề. Một người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ tích cực tìm kiếm quan điểm của Đức Chúa Trời. Kính sợ Đức Chúa Trời không có nghĩa là nhắc đến tên của Đức Chúa Trời trong bữa sáng hoặc tiệc chiêu đãi hoặc trong khi vận động tranh cử. Cũng không có nghĩa là nói rằng, “Xin Chúa ban phước cho nước Mỹ.” Kính sợ Đức Chúa Trời xuất hiện khi một chính trị gia mang quan điểm của Chúa để áp dụng vào các hành động hoặc chính sách và luật pháp hiện hành. Một chính trị gia kính sợ Chúa sẽ tôn trọng Chúa.
Chúng ta có thể giải thích khái niệm kính sợ Chúa này nếu so sánh nó với điện. Bạn cần thận trọng với điện vì nó có thể mang lại lợi ích lớn cho bạn khi bạn làm vậy. Mặt khác, nếu bạn chọn cắm tua vít vào ổ cắm điện đang hoạt động, điện sẽ làm bạn bị thương. Bạn phải thận trọng với điện, thậm chí sợ sức mạnh của điện, nếu bạn muốn tiếp cận những lợi ích của điện đồng thời tránh được những nguy hiểm của nó.
Khi một quốc gia có những nhà lãnh đạo không tôn trọng Chúa, thì sự giúp đỡ mà quốc gia đó nhận được từ vương quốc thông qua họ và đến với người dân lại trở thành lời nguyền rủa cho vùng đất đó. Trong Kinh thánh, chúng ta đọc về nhiều vùng đất bị nguyền rủa vì những nhà lãnh đạo từ chối kính sợ Chúa và tôn trọng Ngài. Là những Cơ đốc nhân, chúng ta cần bảo đảm rằng những nhà lãnh đạo đại diện của chúng ta phải chịu trách nhiệm trước ý muốn và đường lối của Chúa. Như Thi thiên 2:10 đã nói, “Vậy bây giờ, hỡi các vua, hãy tỏ ra sáng suốt; hỡi các quan xét của thế gian, hãy chịu sự răn bảo.” Các nhà lãnh đạo chính phủ được kỳ vọng sẽ cai trị dựa trên các tiêu chuẩn của Chúa. “Nhờ ta, các vua cai trị, và những quan trưởng định sự công bình” (Châm ngôn 8:15).
Khi một nhà lãnh đạo không kính sợ Chúa, Chúa có thể truất phế nhà lãnh đạo đó. Và những ai ủng hộ ông ta sẽ có bài học cho mình.
Một trong những minh họa tuyệt vời nhất trong Kinh thánh về điều đó là Nê-bu-cát-nết-sa. Chúng ta đọc về ông trong sách Đa-ni-ên. Nhà vua cai trị với quyền lực lớn. Ông cai trị quá dễ dàng và quá lâu đến nỗi điều đó khiến ông trở nên kiêu ngạo. Hiện nay lịch sử vẫn đang tái diễn điều này ở một số quốc gia.
Và điều gì đã xảy ra
sau đó?
“Nê-bu-cát-nết-sa đi dạo trong hoàng cung
Ba-by-lôn, thì cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn
mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai
nghi của ta sao? Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống
rằng: Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi
ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc
phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết
rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai
tùy ý. Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa,
vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần
sương móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì
giống như móng loài chim chóc. Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây,
Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ
Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền
Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia. Hết thảy
dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ
binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi
rằng: Ngài làm chi vậy? Trong lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được
sự vinh hiển của ngôi nước ta, sự oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị
viên và đại thần ta lại chầu ta. Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy
nghi quyền thế ta càng thêm. Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn
vinh, và làm cả sáng Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chân thật, các đường
lối Ngài đều công bình; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống”
(Đa-ni-ên 4:29-37).
Sự lãnh đạo vương quốc theo gương Chúa Giê-su.
Lãnh đạo là người phục vụ.
Một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất trong cuộc đời của Chúa Giê-su là khi Ngài rửa chân cho các môn đệ trong Giăng 13. Khi kết thúc việc này, Chúa phán với họ:” Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau “. Nhà lãnh đạo lớn tập trung vào việc phục vụ những người theo họ. Nhà lãnh đạo lớn là người phục vụ người khác.
Kinh thánh nói về
Ngài:
“Con người đã đến, không phải để người ta hầu
việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc
nhiều người” (Ma-thi-ơ 20:28).
Còn Phao-lô thì sao?
Phao-lô viết cho hội thánh Cô-rinh-tô: “Hãy bắt
chước tôi, như chính tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy” (1 Cô-rinh-tô 11:1).
Cuộc đời và chức vụ của Phao-lô được ghi trong
sách Công Vụ. Là một người Pha-ri-si nhiệt thành, ông dũng mãnh chống lại sự
lan tràn của Cơ đốc giáo. Phao-lô (trước đó được gọi là Sau-lơ) chính là
kẻ khủng bố Đạo Chúa trong thời kỳ đầu tiên. Khi Đức Chúa Giê-su hiện ra với
ông trong Công Vụ chương 9, tâm trí ông được biến đổi. Từ đây, Phao-lô sống
chết cho Tin Lành của Chúa Giê-su, ông trở thành nhà truyền giáo và thần học
gia trứ danh sau đó. Phao-lô là mẫu người lãnh đạo được thúc đẩy bởi một ý thức
rõ ràng về mục đích Chúa kêu gọi ông. Ông là người lãnh đạo có một ngọn lửa
cháy trong tim và cảm thấy bắt buộc phải thực hiện những mục tiêu cho
Chúa. Không có chỗ cho sự thờ ơ, trễ nãi đối với ơn kêu gọi trong cuộc đời
của một người lãnh đạo thuộc loại này.
Và Phi-e-rơ. Vị sứ đồ đứng lên từ thất bại.
Phi-e-rơ, người môn đệ nổi tiếng nhất của Chúa Giê-su, chối Ngài ba lần trong khi Chúa Giê-su bị bách hại. Chúa Giê-su đã tiên đoán ông sẽ làm điều đó, mặc dù Phi-e-rơ khẳng định ông sẽ không bao giờ chối Chúa Giê-su cho dù phải chết. Khi gà gáy (những gì Chúa Giê-su phán sẽ xảy ra), Phi-e-rơ nhận ra hành động của ông là sai lầm và khóc lóc thảm thiết. Thế nhưng, trong Công vụ 2, chúng ta thấy Phi-e-rơ giảng bài giảng đầu tiên cho một đám đông hàng ngàn người. Trước đó ông đã từng chối Chúa trước mặt họ. Và kết quả là ba ngàn người thêm vào hội thánh. Nhà lãnh đạo lớn không nản lòng khi họ thất bại. Họ không đắm mình trong sự tự thương hại và bỏ cuộc nửa đường. Họ phục hồi từ sự ăn năn và đứng lên lần nữa với Chúa.
Mẫu người lãnh đạo của Giăng Báp-tít: không e ngại gọi đúng tên, bộc lộ bản chất của người đối diện.
Giăng Báp-tít trong Ma-thi-ơ chương 3, làm phép báp-tem cho người dân và rao giảng về sự đến của Chúa Giê-su. Khi một nhóm kiêu căng các quan chức tôn giáo đến nhận phép báp-tem, ông gọi chúng là: “dòng dõi rắn lục”. Người lãnh đạo không sợ gọi đúng tên bản chất người đối diện. cho dù họ là nhà cung cấp, nhân viên, hoặc thậm chí là khách hàng. Nhà lãnh đạo thẳng thắn, trung thực với những người họ tiếp xúc. Người lãnh đạo theo kiểu này không cần màu mè, gọi đích danh bản chất của người đối diện.
Chúng ta cũng được kêu gọi trở thành người lãnh đạo theo tinh thần của vương quốc Đức Chúa Trời. Khi chúng ta thực hành sự lãnh đạo vương quốc trong đời này, nó cũng như tiền vị cho sự lãnh dạo trong đời hầu đến. Kinh thánh nói gì?
“Vương quốc của thế gian đã trở thành vương quốc của Chúa chúng ta và của Ðấng Christ của Ngài; Ngài sẽ trị vì đời đời vô cùng” (Khải huyền 1:15).
“Lời nầy chắc chắn lắm: Ví bằng chúng ta chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài; lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị” (2 Ti-mô-thê 2:11-12).
Chương 7
MỐI LIÊN QUAN GIỮA VƯƠNG QUỐC, Y-SƠ-RA-ÊN VÀ HỘI THÁNH
J trùng lặp!
Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về vương quốc của Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8: 12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ đồ của Chúa chúng ta đi khắp đế quốc La Mã để rao giảng về Vương quốc và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su đi khắp thế giới để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. Họ được giải thoát khỏi quyền lực của bóng tối và được chuyển vào Vương quốc của Con Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là, họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời và họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được đảm bảo sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su thực sự đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài đóng và mở trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được đóng và mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở; nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này.
Lẽ thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong chân không mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su. Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.”
Dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trong Thời đại này là Hội thánh bao gồm phần lớn là dân ngoại; nhưng dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc sẽ đạt đến sự viên mãn sẽ bao gồm cả Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 11:12). Tuy nhiên chỉ có một Vương quốc duy nhất, và một dân sự duy nhất (công dân của Vương quốc).
Rất thường xuyên trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời, Hội thánh và Y-sơ-ra-ên, chúng ta quên mất sự thật mà đối với chúng ta là quan trọng nhất: Vương quốc của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ mang lại sự cứu rỗi cho Y-sơ-ra-ên và sẽ đưa Y-sơ-ra-ên vào Vương quốc đã mang lại sự cứu rỗi cho chúng ta. Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới thông qua các môn đồ của Chúa Giê-su Christ, những người đã tiếp nhận Vương quốc và tạo nên một dân tộc mới cho Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh. Vương quốc của Chúa đã chinh phục vương quốc của Sa-tan trong nhân loại, và sứ mệnh của Chúa Giê-su là giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối; và cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và các thế lực bóng tối vẫn tiếp diễn khi hội thánh mang tin lành về Vương quốc của Chúa đến các quốc gia trên trái đất.Về một phương diện khác, Trong khi Vương quốc của Chúa sẽ không được hiện thực hóa như một trạng thái phước lành hoàn hảo cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm, Vương quốc của Chúa đang hoạt động trên thế giới và đang tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tử với cái ác. Hội thánh là công cụ của cuộc đấu tranh này. Do đó, xung đột với thế gian phải luôn là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của hội thánh miễn là thời đại này còn tồn tại. Lịch sử loài người sẽ nhận ra một phần nào đó về cuộc sống và phước lành của Vương quốc của Chúa vì một cộng đồng mới đã được hình thành trong xã hội loài người.
Hội thánh là cộng đồng của Vương quốc của Chúa và sẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại cái ác của Sa-tan trên thế giới. Những công dân của Vương quốc không thể không gây ảnh hưởng trong lịch sử loài người vì họ là ánh sáng của thế gian và muối của đất (Ma-thi-ơ 5:13-16). Là ánh sáng, nó phải chiếu sáng; và chừng nào muối còn là muối, nó phải là chất bảo tồn cho một thế giới băng họai. Do đó, sứ mệnh của Hội thánh không chỉ là sử dụng chìa khóa của Vương quốc để mở cửa cho cả người Do Thái và người ngoại cánh cửa vào cuộc sống vĩnh cửu là món quà của Vương quốc Chúa; mà còn là công cụ của sự cai trị năng động của Chúa trên thế giới để chống lại cái ác và những kẻ phản bội như Sa-tan dưới mọi hình thức biểu hiện của chúng.
Khi dân sự của Chúa không còn nhìn thấy lẽ thật này, chúng ta đang phản bội bản chất của mình là Hội thánh. Chúng ta là tâm điểm của cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và điều ác của Sa-tan. Về cơ bản, đây là cuộc xung đột trong thế giới tâm linh. Nhưng những thế lực tâm linh của sự dữ của Sa-tan và Vương quốc của Chúa thể hiện trong các lĩnh vực ứng xử và mối quan hệ của con người. Do đó, chúng ta phải thúc đẩy cuộc chiến chống lại các thế lực bóng tối ở bất cứ nơi nào chúng ta tìm thấy chúng cho đến khi bình minh và ánh sáng của sự hiểu biết về Chúa sẽ tràn ngập trái đất.
J
Khía cạnh khó khăn nhất của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là mối quan hệ của nó với Y-sơ-ra-ên và Hội thánh. Khó khăn nằm ở thực tế là mối quan hệ này không được nêu rõ trong Kinh thánh nhưng phải suy luận ra. Do đó, những người nghiên cứu Kinh thánh đã đưa ra những cách giải thích khác nhau.
Các chương trước đã trình bày luận điểm rằng Vương quốc của Chúa trong Tân Ước là công trình cứu chuộc của Chúa hoạt động trong lịch sử để đánh bại kẻ thù của Ngài, mang đến cho con người những phước lành của triều đại thần thánh. Cách tiếp cận này cho phép chúng ta giải thích nhất quán câu hỏi về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh trong Tân Ước.
Không thể phủ nhận rằng Chúa Giê-su đã ban Vương quốc cho Y-sơ-ra-ên. Khi Ngài sai các môn đồ đi truyền giáo, Ngài đã bảo họ không được đi giữa dân ngoại mà “hãy đến với những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 10: 6). Chúa Giê-su đã từ chối một người phụ nữ Ca-na-an bằng những lời này, “Ta chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 15:24). Hơn nữa, Chúa chúng ta đã nói về người Do Thái như là “con cái của Vương quốc” (Ma-thi-ơ 8:12), mặc dù họ đã từ chối Đấng Mê-si và Vương quốc của Đức Chúa Trời. Họ là con cái của Vương quốc vì chính Y-sơ-ra-ên là tuyển dân mà Đức Chúa Trời đã chọn và đã hứa ban cho họ những phước lành của Vương quốc. Vương quốc thuộc về họ theo quyền được Đức Chúa Trời chọn. Vì vậy, Chúa Giê-su đã hướng chức vụ của Ngài đến họ và ban cho họ những điều đã được hứa. Nhưng khi Y-sơ-ra-ên từ chối Vương quốc, những phước lành đáng lẽ phải thuộc về họ đã được ban cho những người ngoại tiếp nhận chúng.
Điều này được thấy trong chuỗi các câu trong Ma-thi-ơ 11. “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít, nhưng mà kẻ rất nhỏ hèn trong nước thiên đàng còn được tôn trọng hơn người. Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy” (câu 11-12).Thời đại của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc khi Giăng Báp-tít thi hành chức vụ. Kể từ đó, Vương quốc đã hoạt động giữa loài người.
Điều này là ý nghĩa có khả năng nhất của Ma-thi-ơ 11:12-13. Câu 13 nêu rõ rằng “Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy.Vì hết thảy các đấng tiên tri và sách luật đã nói trước cho đến đời Giăng.” và câu 12 nói rằng, “Từ thời Giăng Báp-tít cho đến bây giờ, vương quốc thiên đàng bị hãm ép, và những kẻ hung bạo đã chiếm lấy nó bằng vũ lực.” Đó là bản dịch hiệu đính làm rõ hơn ý nghĩa của câu này.
Vương quốc của Đức Chúa Trời, như chúng ta đã thấy, là triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời đang hoạt động giữa loài người; và đây là ý nghĩa của Ma-thi-ơ 11:12. Tuy nhiên, thế hệ Y-sơ-ra-ên đó đã không tiếp nhận công việc của Vương quốc Đức Chúa Trời, khi Giăng Báp-tít rao giảng về sự ăn năn để bước vào vương quốc. Họ từ chối lời cảnh báo của Giăng Báp-tít. Và họ cũng từ chối lời mời gọi tương tự của Chúa Giê-su sau đó. Do đó, chỉ có sự phán xét dành cho thế hệ đó. “Vì dân các thành mà Đức Chúa Giê-su đã làm rất nhiều phép lạ rồi, không ăn năn, nên Ngài quở trách rằng…” (Ma-thi-ơ 11:20).
Chúng ta đọc tiếp, “Khốn nạn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn nạn cho mầy thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và Si-đôn, thì hai thành đó thật đã mặc áo gai, đội tro, ăn năn từ lâu rồi. Vậy nên ta bảo bay, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn bay. Còn mầy, Ca-bê-na-um là thành đã được cao tới trời, sẽ hạ xuống tới âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa mầy, đem làm trong thành Sô-đôm, thì thành ấy còn lại đến ngày nay. Vậy nên ta rao bảo rằng, đến ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn mầy” (Ma-thi-ơ 11:21-24)
Một tai họa khủng khiếp được tuyên bố trên các thành phố của Y-sơ-ra-ên như Cô-ra-xin và Bết-sai-đa. Chúa Giê-su đã xuất hiện trong các thành phố của họ, đuổi quỷ, giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan và rao giảng rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ. Tuy nhiên, Y-sơ-ra-ên đã không đáp lại. Do đó, “vào ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn cho họ.
Lời mời nhận lãnh các phước lành của Vương quốc được đưa ra cho những ai tiếp nhận nó cách cá nhân. Chúa Giê-su phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Hãy gánh lấy ách của ta và học theo ta; vì ta nhu mì và khiêm nhường, thì các ngươi sẽ tìm được sự yên nghỉ cho linh hồn mình” (Ma-thi-ơ 11:28-29).
ĐƠN VỊ NHẬN ĐƯỢC SỰ CỨU RỖI TRONG TÂN ƯỚC LÀ CÁ NHÂN
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã đối xử với Y-sơ-ra-ên chủ yếu như một gia đình và một quốc gia và ban cho dân sự Ngài cả phước lành vật chất và thuộc linh. Khi Đức Chúa Trời lập giao ước với Áp-ra-ham, Áp-ra-ham đã lấy tất cả các thành viên nam trong gia đình mình và cắt bì cho họ, do đó đưa họ vào trong các điều khoản và phước lành của giao ước (Sáng thế ký 17: 22-27).
Lời giảng dạy của Chúa Giê-su về Vương quốc của Đức Chúa Trời không nói đến một vương quốc chính trị hữu hình, cũng không liên quan đến các phước lành của quốc gia hay vật chất. Người Do Thái muốn một vị vua chính trị lật đổ kẻ thù của họ; nhưng Chúa Giê-su đã từ chối một vương miện trần gian (Giăng 6:15). Chúa Giê-su nói chuyện với các cá nhân; và các điều kiện của mối quan hệ mới với Đức Chúa Trời chỉ là những quyết định cá nhân và bởi đức tin. Lẽ thật này được nêu rõ trong chức vụ chuẩn bị của Giăng Báp-tít, ông đã nói với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo rằng dòng dõi của Áp-ra-ham phải kết quả xứng đáng với sự ăn năn, nếu không sẽ bị chặt bỏ. “Giăng thấy nhiều người dòng Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến chịu phép báp-têm mình, thì bảo họ rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn giận ngày sau? Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Áp-ra-ham là tổ chúng ta; vì ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Áp-ra-ham được. Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt, thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma-thi-ơ 3:7-10).
Các phước lành thiêng liêng của kỷ nguyên mới sẽ được ban cho từng cá nhân chứ không phải trên cơ sở gia đình. Ngay cả những người tự coi mình là con cái của giao ước cũ – là giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham cũng phải trải qua sự ăn năn cá nhân, chịu phép báp têm để được tha tội và bước vào vương quốc. Chúa Giê-su cũng làm rõ điều này khi Ngài tuyên bố, “Chớ tưởng rằng Ta đến để đem hòa bình cho thế gian; Ta đến không phải để đem hòa bình, mà là để đem gươm giáo. Vì Ta đến để phân rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, con dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta sẽ là người nhà mình” (Ma-thi-ơ 10: 35-36). Đơn vị gia đình không còn là nền tảng của mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người nữa. Đức tin cá nhân thường chia cắt các thành viên trong gia đình và thậm chí phá vỡ mối quan hệ huyết thống là nền tảng cơ bản của mối quan hệ giữa con người với Vương quốc của Đức Chúa Trời.
Người Do Thái nói chung đã từ chối mối quan hệ mới này. Tuy nhiên, có một số người đã đáp lại và trở thành môn đồ của Chúa chúng ta và do đó trở thành con cái đích thực của Vương quốc Đức Chúa Trời. Những người này đã trở nên những hạt nhân của Hội thánh Tân ước.
HỘI THÁNH ĐƯỢC HÌNH THÀNH
Chương 16 sách Ma-thi-ơ kể lại mục đích của Chúa chúng ta trong việc hình thành nên dân mới của Chúa, tức là Hội thánh. Điều quan trọng là Chúa Giê-su không thể nói gì về mục đích cứu chuộc của Ngài là đưa dân mới của Chúa vào hiện thực cho đến khi các môn đồ nhận ra rằng Ngài thực sự là Đấng Mê-si.
Lời xác nhận về chức vụ Đấng Mê-si của Ngài đồng thời cũng là lời tuyên xưng về sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời, vì sứ mệnh của Đấng Mê-si là mang Vương quốc Đức Chúa Trời đến với con người. Tại thời điểm này, chúng ta phải hiểu rằng đối với các môn đồ, có một vấn đề trong việc công nhận chức vụ Đấng Mê-si của Chúa chúng ta cũng như có một vấn đề trong việc họ công nhận sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã khám phá ra rằng kỳ vọng phổ biến về sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời có nghĩa là sự kết thúc của Thời đại và sự biểu hiện của sự cai trị của Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh quang, khi mọi điều ác sẽ bị thanh trừng khỏi trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã dạy rằng Vương quốc đã đến nhưng dưới một hình thức mới và bất ngờ. Mặc dù thời đại cũ vẫn tiếp diễn, Vương quốc Đức Chúa Trời đã chinh phục vương quốc của Sa-tan để giải cứu con người khỏi sự cai trị của nó. Đây là điều bí ẩn, sự tiết lộ mới về mục đích thiêng liêng trong sứ mệnh của Chúa chúng ta.
Vấn đề tương tự này cũng liên quan đến việc tiết lộ chức vụ Đấng Mê-si của Chúa chúng ta. Đối với người Do Thái, bao gồm cả các môn đồ của Chúa Giê-su, Đấng Mê-si được mong đợi là một vị Vua từ dòng dõi Đa-vít đánh bại kẻ thù. Hoặc Ngài sẽ là một đấng siêu nhiên từ trời đến trái đất với quyền năng và vinh quang lớn lao để tiêu diệt kẻ ác và đưa Vương quốc của Đức Chúa Trời đến (xem Đa-ni-ên 7). Trong cả hai trường hợp, sự xuất hiện của Đấng Mê-si sẽ có nghĩa là sự kết thúc của thời đại này và sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh hiển.
CHỨC VỤ CỦA CHÚA GIÊ-SU KHI NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ NHẤT
Tuy nhiên Chúa Giê-su không xuất hiện như một vị Vua vĩ đại chinh phục hay một Người từ trời xuống cách siêu phàm. Ngài là một con người ở giữa loài người trong sự khiêm nhường và yếu đuối (theo cách nhìn của con người). Mọi người không thể hiểu Ngài là Đấng Mê-si của họ mặc dù Ngài đã thực hiện giữa họ những công việc kỳ diệu. Có một lần, họ nghĩ rằng Ngài thực sự có thể là Đấng Mê-si, và họ đã cố gắng ép buộc Ngài làm Vua. Sau khi cho năm ngàn người ăn, với năm cái bánh và hai con cá để nuôi sống một đám đông, họ đã đến để bắt ép Ngài làm Vua. “Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Giê-su đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là Đấng tiên tri phải đến thế gian. Bấy giờ Đức Chúa Giê-su biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi” (Giăng 6:14-15).
Tuy nhiên, đó không phải là sứ mệnh của Chúa chúng ta. Sứ mệnh của Ngài, cũng như chức vụ Đấng Mê-si của Ngài, là một “bí ẩn”; không phải là để chấm dứt Thời đại tà ác và mở ra Thời đại sắp tới. Mà là để mang các quyền năng của Thời đại tương lai đến với những người ở giữa
Thời đại gian ác hiện tại; và sứ mệnh này liên quan đến cái chết của Ngài. Do đó, khi đám đông cố gắng tôn Ngài làm vua, Ngài đã rút lui. Đây là bước ngoặt trong chức vụ của Ngài; và sau đó, “nhiều môn đồ của Ngài đã rút lui và không còn đi với Ngài nữa” (Giăng 6: 66). Vì họ cho rằng Ngài không phải là Đấng Mê-si mà họ đang tìm kiếm. Ngài đã nói rằng họ phải ăn thịt Ngài và uống huyết Ngài (Giăng 6: 53). Điều này có nghĩa là gì? Họ không thể hiểu lời Ngài về thịt Ngài mà Ngài sẽ ban cho để thế gian được sống (Giăng 6: 51). Sự thật là, người Do Thái vào thời Chúa chúng ta không hiểu chương 53 của sách Ê-sai. Họ không biết rằng nó có liên quan đến Đấng Mê-si. Họ chỉ đang tìm kiếm một Vua chiến thắng hoặc một Con Người từ trời xuống đầy uy lực, chứ không phải một Tôi Tớ Chịu Khổ. Do đó, họ đã quay lưng và từ chối theo Ngài. Ngay cả khi họ từ chối lời giảng dạy của Ngài về Vương quốc vì đó không phải là điều họ đang tìm kiếm, thì họ cũng từ chối địa vị Đấng Mê-si của Ngài vì Ngài không phải là vị vua chinh phục mà họ mong muốn.
Tuy nhiên, cuối cùng,
nhóm mười hai sứ đồ thân cận bắt đầu nhận ra rằng mặc dù Vương quốc không hiện
diện với quyền năng mạnh mẽ, mặc dù Chúa Giê-su không phải là Vua theo cách
người ta nghĩ về Ngài, nhưng Ngài vẫn là Đấng Mê-si và Vương quốc thực sự hiện
diện trong con người và sứ mệnh của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của lời tuyên
xưng của Phi-e-rơ tại Sê-sa-rê Phi-líp. Chúa Giê-su nhận ra rằng các môn đồ đã đi đến
một điểm quan trọng về sự hiểu biết cơ bản, và Ngài hỏi các môn đồ rằng Ngài là
ai. Cuối cùng, Phi-e-rơ đã nói thay cho những người khác: “Ngài là Đấng
Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Chúng ta thường
không nhận ra rằng Phi-e-rơ và những người khác khó khăn như thế nào để nhận ra
địa vị Đấng Mê-si của Chúa Giê-su vì nó hoàn toàn khác biệt so với bất kỳ điều
gì họ mong đợi. Đó thực sự là một sự nhận thức mà con người chỉ có thể nhận ra
thông qua chính sự mặc khải của Đức Chúa Trời “Hỡi
Si-môn, con Giô-na, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi
biết điều nầy đâu, bèn là Cha ta ở trên trời vậy. Còn ta, ta bảo ngươi rằng:
Ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội thánh ta trên vầng đá nầy…” (Ma-thi-ơ
16:17-18).
Tên Si-môn được đổi thành Phi-e-rơ – có nghĩa là một viên đá nhỏ. Và ông sẽ được
Chúa sử dụng như một viên đá nhỏ được xây dựng trên một vầng đá lớn (là chính
Chúa Giê-su) để hình thành hội thánh.
Một khi họ đã nhận ra rằng Ngài là Đấng Mê-si, mặc dù trong một vai trò mới và bất ngờ, Chúa Giê-su đã chỉ dẫn họ về mục đích tiếp theo của Ngài. Mục đích của Ngài không phải là khôi phục quốc gia Y-sơ-ra-ên. Ngược lại, Ngài sẽ tạo ra một dân tộc mới. “Còn Ta bảo ngươi, ngươi là Phi-e-rơ, trên vầng đá nầy Ta sẽ xây dựng Hội thánh Ta, và các cửa âm phủ (quyền lực của sự chết) sẽ không thắng được Hội thánh. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa của vương quốc thiên đàng cho ngươi, và bất cứ điều gì ngươi buộc dưới đất sẽ bị buộc trên trời, và những gì ngươi mở dưới đất sẽ được mở trên trời” (Ma-thi-ơ 16:18-19).
Ý nghĩa của “vầng đá” mà Chúa Giê-su xây dựng Hội thánh của Ngài đã được tranh luận sôi nổi. Cho dù vầng đá đó là đức tin của Phi-e-rơ vào Đấng Mê-si và thần tính của Đấng Christ cho dù đó là chính con người của Đấng Christ, hay có một ý nghĩa nào khác, thì Phi-e-rơ, với tư cách là người phát ngôn cho nhóm 12 sứ đồ và của Hội thánh trong những năm đầu tiên. Không có bằng chứng nào trong Tân Ước cho thấy Phi-e-rơ được trao một thẩm quyền chính thức mà ông có thể truyền lại cho người khác (như theo quan điểm của người Công giáo). Tuy nhiên, trên thực tế, Hội thánh được “xây dựng trên nền tảng của các sứ đồ và các tiên tri, chính Chúa Giê-su Christ là đá góc nhà” (Ê-phê-sô 2: 20); và chúng ta có thể gọi Phi-e-rơ là khuôn mặt đại diện của nhóm 12 sứ đồ mà Hội thánh được dựng nên trên đó.
Trong mọi trường hợp, Chúa chúng ta chỉ ra mục đích của Ngài là xây dựng Hội thánh của Ngài. Dạng cụ thể của cụm từ này rất quan trọng. Từ Hy Lạp ekklesia, là từ được sử dụng phổ biến nhất trong Cựu Ước để chỉ dân Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Chính việc sử dụng từ này cho thấy rằng Chúa Giê-su có mục đích tạo ra một dân tộc mới để thay thế dân Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả lời tuyên bố về Đấng Mê-si của Ngài và lời Ngài giảng về Vương quốc Đức Chúa Trời. Sự ứng nghiệm của lời hứa này bắt đầu vào Lễ Ngũ Tuần khi Đức Thánh Linh được đổ ra để làm phép báp têm cho những người theo Chúa Giê-su vào thân thể của Đấng Christ và do đó về mặt lịch sử đã khai sinh ra Hội thánh đầu tiên. “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa” (1 Cô-rinh-tô 12:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ HỘI THÁNH
Mối quan tâm hiện tại của chúng ta là tìm hiểu về mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Hội thánh. Chúa Giê-su đã hứa sẽ trao cho Phi-e-rơ, với tư cách là đại diện của các sứ đồ và Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng. Chúng ta đã nhận thấy rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết có nghĩa là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời giữa loài người; và thứ hai là nơi mà loài người trải nghiệm các phước lành thông qua sự cai trị của Đức Chúa Trời.1
- George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
Chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng trong tương lai, tức là quyền năng mở hoặc đóng cánh cửa dẫn đến các phước lành của Thời đại sắp đến sẽ được trao cho các sứ đồ của Hội thánh. Vương quốc Đức Chúa Trời không còn hoạt động trên thế giới thông qua Y-sơ-ra-ên nữa; mà thay vào đó, nó hoạt động thông qua Hội thánh.
Sự hiểu biết này được chứng minh bằng câu nói của Chúa Giê-su trong Lu-ca 11:52. Chúa Giê-su đã lên án các thầy thông giáo vì họ đã “cướp mất chìa khóa của sự hiểu biết; chính các ngươi đã không vào, mà lại ngăn cản những người muốn vào”. Chìa khóa của sự hiểu biết, chìa khóa mở cánh cửa của Vương quốc Chúa, đã được giao cho các nhà lãnh đạo của dân Do Thái (các chức phẩm của Do Thái giáo). Chìa khóa này là sự hiểu biết và diễn giải đúng đắn về Cựu Ước, lẽ ra phải dẫn dắt người Do Thái nhận ra chức vụ của Chúa Giê-su, sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời và sự ứng nghiệm của những lời hứa. Phao-lô đã bày tỏ sự thật tương tự khi ông nói rằng Đức Chúa Trời đã giao phó cho Y-sơ-ra-ên những lời sấm truyền của Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:2). Tuy nhiên, các thầy thông giáo đã lấy đi chìa khóa tri thức; họ đã diễn giải Kinh thánh theo cách rời xa Đấng Christ thay vì nhận ra Ngài là Đấng đã đến làm ứng nghiệm các lời tiên tri. Vì vậy, họ từ chối bước vào vương quốc phước lành của mà Chúa Giê-su mang đến, và họ cản trở những người muốn bước vào.
Vào một dịp khác, Chúa Giê-su đã nói với những nhà lãnh đạo tôn giáo này, “Những người thâu thuế và phường đĩ điếm vào vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi” (Ma-thi-ơ 21:31).Trên thực tế, họ đứng sang một bên và theo dõi những người thu thuế và phường đĩ điếm bước vào Vương quốc và thậm chí còn cố gắng ngăn cản họ bước vào.
Chìa khóa tri thức này vốn được giao phó cho Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu Ước, giờ đây được Chúa chúng ta giao phó cho các sứ đồ và Hội thánh. Sự kiện này được dạy rõ ràng trong dụ ngôn về những người được thuê làm vườn nho trong Ma-thi-ơ 21:33-42. Đức Chúa Trời đã giao phó vườn nho của Ngài cho Y-sơ-ra-ên. Thỉnh thoảng Ngài sai các tôi tớ của Ngài, các tiên tri, đến để tính sổ, nhưng “những người làm vườn nho bắt các tôi tớ của Ngài, đánh người này, giết người kia, và ném đá người nọ”. Cuối cùng, Ngài sai Con Ngài đến, nghĩ rằng họ sẽ tôn kính và thừa nhận. “Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia tài nó. Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi (Ma-thi-ơ 21:38-39).
Chính Chúa Giê-su đã giải thích dụ ngôn này một cách rõ ràng: “Ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21: 43).
VỊ TRÍ CỦA Y-SƠ-RA-ÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Đây là một tuyên bố rõ ràng. Y-sơ-ra-ên đã là những người sở hữu Vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là cho đến thời điểm Đấng Christ giáng sinh, hoạt động cứu chuộc của Đức Chúa Trời trong lịch sử đã được truyền qua quốc gia Y-sơ-ra-ên và các phước lành của vương quốc đã được ban cho dân tộc này. Con cái Y-sơ-ra-ên thực sự là con cái của Vương quốc. Người ngoại bang chỉ có thể chia sẻ những phước lành này bằng cách bước vào mối quan hệ với Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, khi đến lúc Đức Chúa Trời thể hiện hoạt động cứu chuộc của Ngài theo một cách mới mẻ và tuyệt vời và Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến thăm con người qua Con Đức Chúa Trời, mang đến cho họ một thước đo đầy đủ hơn về các phước lành của sự cai trị thiêng liêng, Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả Vương quốc và Đấng đem Vương quốc đến. Do đó, Vương quốc trong biểu hiện mới của nó đã bị tước khỏi Y-sơ-ra-ên và trao cho một dân tộc mới là hội thánh.
Tới đây có một câu hỏi quan trọng khác: Có phải hội thánh đã thay thế vị trí của Y-sơ-ra-ên? Các lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên có bị mất hiệu lực không?
Mục sư, nhà chú giải Kinh thánh David Hocking đã viết trong sách Thần học thay thế:
GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VỚI Y-SƠ-RA-ÊN LÀ MỘT GIAO ƯỚC VÔ ĐIỀU KIỆN.
Một giao ước vô điều kiện có thể được định nghĩa như là một hành động tối cao của sự cai trị tuyệt đối từ Đức Chúa Trời, nhờ đó Ngài bắt buộc phải thực hiện những lời hứa, sự ban phước cho tuyển dân ở dưới giao ước.
Những giao ước vô điều kiện được thực hiện một cách đơn phương và đặc điểm của nó là lời hứa từ Đức Chúa Trời: Ta sẽ… chắc chắn Ngài sẽ làm chính xác những gì Ngài đã hứa. Đó chính là sự thành tín của Đức Chúa Trời bảo đảm cho những lời hứa của Ngài.
Giao ước quan trọng nhất của Đức Chúa Trời là Ngài làm cho Áp-ra-ham trở nên tổ phụ của tất cả những người đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời. Sáng thế ký 12:1-3 cho chúng ta biết những chi tiết của giao ước không điều kiện nầy:
Vả, Đức Giê-hô-va có
phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha
ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi
danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và
các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.
Sáng thế ký 15:18 đề cập một lần nữa giao ước vô điều kiện của Đức Chúa Trời về một vùng đất:
Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ song Nil ở tại xứ Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát,
Trong Sáng thế ký 17: 9-14 dấu hiệu của dòng dõi Áp-ra-ham là phải chịu phép cắt bì. (Điều này bày tỏ đức tin của những người làm cha mẹ vâng phục lời Đức Chúa Trời làm phép cắt bì cho những bé trai khi chúng được tám ngày tuổi). Trong Sáng 17:7, chúng ta được biết rằng đây là một giao ước đời đời. Và trong câu 8 nhấn mạnh rằng: Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời.
Có nhiều điều Y-sơ-ra-ên đã làm trong quá khứ là không đúng. Tội lỗi và sự không vâng lời của họ khiến họ thường xuyên bị Đức Chúa Trời phán xét ( Lê-vi-ký 26:40-43; Thi 89:30-32). Nhưng không một tội nào trong quá khứ của họ sẽ hủy bỏ giao ước vô điều kiện và đời đời của Đức Chúa Trời dành cho họ.
Tiến sĩ Arnold Fruchtenba trong tác phẩm Thần học Y-sơ-ra-ên đã đưa ra 5 điểm về giao ước của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên (một giao ước vô điều kiện và đời đời):
- Đó là một giao ước hoàn toàn sáng tỏ theo từng
chữ.
2. Một giao ước đời đời.
3. Giao ước nầy không bị hủy bỏ bởi tội lỗi và sự bất tuân của Y-sơ-ra-ên.
4. Nó được thiết lập với một dân tộc đặc biệt là Y-sơ-ra-ên.
5. Hầu hết những điều khoản của nó không có hiệu lực ngay tức thì. (Phải trải qua nhiều thế hệ)
Vào thời điểm giao ước được ký hay đóng ấn, có ba điều đã xảy ra: Một số điều khoản có hiệu lực ngay tức khắc; Một số có hiệu lực trong một tương lai gần; Một số có hiệu lực trong một tương lai xa.
Giao ước giữa Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham là một giao ước đời đời, không thể hủy bỏ được. Nó được củng cố qua Y-sác (Sáng 26:2-4, 24) và con trai của Y-sác là Gia-cốp (Sáng 28:13-15; 35:10-12) và rồi được thực hiện cho 12 con của Gia-cốp, mà sau nầy trở thành 12 chi phái Y-sơ-ra-ên (Sáng 49:28) khi Đức Chúa Trời nhớ lại giao ước của Ngài (Xuất-ê-díp-tô ký 2:24-25; 6:2-8).2
- David Hocking. Replacement Theology Thần học thay thế. huongdionline.com. Ngày truy cập: 6 tháng 5 năm 2025
“Trên đá này, Ta sẽ xây dựng Hội thánh của Ta.” Trong câu nói này, từ “Hội thánh” vẫn chưa có ý nghĩa rõ ràng mà nó có được sau Lễ Ngũ tuần. Như chúng ta đã chỉ ra, từ này có nghĩa là dân sự của Chúa. Dân tộc mới này là “dòng giống được lựa chọn, chức tư tế hoàng gia, dân thánh” mà Phi-e-rơ đã nói đến (1 Phi-e-rơ 2: 9). Vương quốc của Chúa hiện nay không thuộc về dòng giống Áp-ra-ham mà thuộc về “dòng giống được lựa chọn”, vì “những người có đức tin là con cháu của Áp-ra-ham” (Ga-la-ti 3: 7). Đó không phải là quyền sở hữu của chức tư tế Y-sơ-ra-ên, vì Đấng Christ đã khiến những người tạo nên Hội thánh của Ngài trở thành “các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời và Cha của Ngài” (Khải huyền 1: 6). Bây giờ, Chúa không còn đối phó với một dân tộc theo xác thịt, mà với một dân tộc thánh, Hội thánh, trên cơ sở đức tin cứu rỗi cá nhân nơi Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời.
Mối quan hệ giữa Hội thánh và Vương quốc của Đức Chúa Trời phải được thiết lập rõ ràng. Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết là luật cứu chuộc thiêng liêng được biểu hiện trong Đấng Christ, và thứ hai là phạm vi mà các phước lành của luật lệ thiêng liêng có thể được trải nghiệm. Những sự phân biệt này đã được phát triển cẩn thận trong các chương trước. Là luật cứu chuộc thiêng liêng của Đức Chúa Trời, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến giữa loài người để đánh bại Sa-tan và để giải thoát con người khỏi sự thống trị của quyền lực ma quỷ (Ma-thi-ơ 12:28). Vì đây là một thế giới hiện tại mà những phước lành này được hưởng, nên con người giờ đây có thể bước vào Vương quốc của Chúa. Kỷ nguyên của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc với Giăng Báp-tít; từ thời điểm đó, Vương quốc của Chúa đã được rao giảng và tất cả những ai nhận được thông báo đều mạnh mẽ, thậm chí “bạo lực”, bước vào Vương quốc (Lu-ca 16:16). Tất cả những ai đã nhận được tin mừng cứu chuộc này đều đã được “giải thoát… khỏi quyền thống trị của bóng tối (xem 2 Cô-rinh-tô 4:4) và được chuyển… đến vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VƯƠNG QUỐC ĐẤNG CHRIST
Vương quốc của Chúa đồng thời là Vương quốc của Đấng Christ (Ê-phê-sô 5:5); vì Vương quốc của Đức Chúa Trời, triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời, được biểu lộ giữa loài người qua con người của Đấng Christ, và chính Đấng Christ phải trị vì cho đến khi Ngài đặt mọi kẻ thù dưới chân Ngài (1 Cô-rinh-tô 15:25). Thật vậy, nếu có bất kỳ sự phân biệt nào giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, chúng ta phải nói rằng Vương quốc của Đấng Christ bao gồm giai đoạn từ khi Ngài đến trong xác thịt cho đến khi kết thúc triều đại một ngàn năm của Ngài. Và “cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực” (1 Cô-rinh-tô 15:24).
Vương quốc của Đức Chúa Trời, với tư cách là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, đã tạo ra Hội thánh và hoạt động thông qua Hội thánh trên thế giới. Khi các môn đồ của Chúa đi khắp các làng mạc của Palestine, họ tuyên bố rằng trong sứ mệnh của họ, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần những ngôi làng này (Lu-ca 10:9). Họ đã thực hiện các dấu hiệu của Vương quốc, chữa lành người bệnh, đuổi quỷ, do đó giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan (câu 9, 17). Bất kỳ thành phố nào từ chối họ thì cũng từ chối Vương quốc của Chúa và tự dành cho mình một sự phán xét đáng sợ, vì trong sứ mệnh của các môn đồ, họ cảnh báo cho những nơi từ chối Phúc âm: “vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi” (câu 11). Do đó, Vương quốc của Chúa đã hoạt động giữa loài người không chỉ trong chức vụ của Chúa Giê-su mà còn thông qua các môn đồ của Ngài khi họ mang lời và các dấu hiệu của Vương quốc đến các thành phố của Ga-li-lê.
NHIỆM VỤ CỦA HỘI THÁNH LÀ RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC
Tương tự như vậy, Vương quốc của Chúa, hoạt động cứu chuộc và quyền năng của Chúa, đang hoạt động trên thế giới ngày nay thông qua Hội thánh của Chúa Giê-su Christ. Hội thánh là sự hiệp thông của các môn đồ của Chúa Giê-su, những người đã tiếp nhận sự sống của Vương quốc và có nhiệm vụ rao giảng Phúc âm về Vương quốc trên khắp thế giới. Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về vương quốc của Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8: 12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ giả của Chúa chúng ta đi khắp thế giới La Mã để rao giảng về Vương quốc và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su đi khắp thế giới để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là, họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời vì họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được bảo đảm sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài ràng buộc trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được ràng buộc trên thiên đàng; và những gì họ cởi mở trên đất, tức là những người mà họ cởi mở khỏi tội lỗi của họ, sẽ được cởi mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở; nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này. Sự thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong chân không mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su.
Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính những câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.” Bài ngợi ca mới này được bốn con sanh vật hai mươi bốn trưởng lão xác định tất cả những người được cứu chuộc là một Vương quốc. Chỉ theo nghĩa này: những người được cứu chuộc là một vương quốc vì họ sẽ trị vì trên đất. Vương quốc của Đức Chúa Trời trong câu này không phải là lĩnh vực của sự cai trị của Đức Chúa Trời; đó là chính sự cai trị của Đức Chúa Trời, một sự cai trị được chia sẻ với những người đầu phục chính mình cho Tin lành về nước Đức Chúa Trời.
Khải Huyền 1: 6 được giải thích theo ánh sáng của câu này. Hội thánh vừa là chức tư tế vừa là vương quốc. Những người được cứu chuộc chia sẻ đặc quyền của Thầy tế lễ thượng phẩm vĩ đại của họ là bước vào nơi chí thánh và thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ là các thầy tế lễ. Hội thánh cũng chia sẻ đặc quyền của Chúa và Vua của họ. Họ được trao quyền cai trị với Chúa Giê-su. Họ là một vương quốc, một quốc gia của các vị vua.
“Do đó, Hội thánh không phải là Vương quốc của Chúa; Vương quốc của Chúa tạo ra Hội thánh và hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh. Do đó, con người không thể xây dựng vương quốc nhưng họ có thể rao giảng và công bố về nó; họ có thể tiếp nhận hoặc từ chối nó. Vương quốc. Vương quốc của Chúa trong Cựu Ước được thể hiện ở Y-sơ-ra-ên hiện đang hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh.”3
- George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
Do đó, chỉ có một dân của Chúa. Điều này không có nghĩa là các thánh đồ Cựu Ước thuộc về Hội thánh và chúng ta phải nói về Hội thánh trong Cựu Ước. Công vụ 7:28 thực sự có nói đến ” “trong dân hội tại nơi đồng vắng, đã ở với thiên sứ, là đấng phán cùng người trên núi Si-na-i, và với tổ phụ chúng ta, người lại nhận lấy những lời sự sống đặng trao lại cho các ngươi.”; nhưng từ ở đây không mang hàm ý là hội thánh như trong Tân Ước mà ám chỉ “hội chúng” trong đồng vắng. Hội thánh nói đúng ra đã có ngày sinh nhật của mình vào ngày Lễ Ngũ Tuần, vì Hội thánh bao gồm tất cả những người đã được báp têm bởi một Thánh Linh để trở thành một thân thể (1 Cô-rinh-tô 12:13), và công việc báp têm của Thánh Linh này bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
PHAO-LÔ NÓI VỀ CÂY Ô-LI-VE TRONG RÔ-MA 11
Khi chúng ta nói về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh, chúng ta phải xem luận giải của sứ đồ Phao-lô về chủ đề này về cây ô-li-ve trong Rô-ma 11. Chỉ có một cây ô-li-ve đó là dân sự của Đức Chúa Trời. Trong Cựu Ước, các nhánh của cây là dân Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, vì sự vô tín, một số nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy và không còn thuộc về cây nữa (câu 16). Chúng ta biết từ các câu rằng không phải tất cả các nhánh đều bị bẻ gãy, vì “có một số còn sót lại, được chọn bởi ân điển”. Một số người Do Thái đã chấp nhận Đấng Mê-si và sứ điệp của Ngài về Phúc âm của Vương quốc. Chúng ta phải nhớ rằng Hội thánh đầu tiên bao gồm những người Do Thái tin Chúa; nhưng họ đến với Hội thánh không phải vì họ là người Do Thái mà vì họ là những người tin Chúa.
Khi những nhánh tự nhiên này bị bẻ gãy, những nhánh khác được lấy từ một cây ô-li-ve hoang và trái với bản chất được ghép vào cây ô-li-ve (câu 17, 24). Điều này ám chỉ đến những người Ngoại đã tiếp nhận Phúc âm của Vương quốc, “dân tộc khác” (Ma-thi-ơ 21: 43) mà Chúa chúng ta đã nói đến. Các nhánh tự nhiên bị bẻ gãy đã bị chặt khỏi cây vì sự vô tín; và các nhánh hoang dã được ghép vào vì đức tin của họ (câu 20). Toàn bộ quy trình này là “trái với tự nhiên”; tức là, nó không phải là điều mà người ta mong đợi khi đọc Cựu Ước. Theo quan điểm của Cựu Ước, người ta sẽ không bao giờ biết rằng dân sự của Đức Chúa Trời bao gồm phần lớn là Dân Ngoại và rằng phần lớn dân tộc Do Thái sẽ bị bẻ gãy. Bản chất hỗn hợp này của Hội thánh thực sự là một điều bí ẩn khác, một sự tiết lộ sâu hơn về mục đích cứu chuộc của Đức Chúa Trời mà chưa được tiết lộ cho các tiên tri Cựu Ước (Ê-phê-sô 3:3).
Trong thời Cựu Ước, cây ô liu – dân sự của Đức Chúa Trời – bao gồm con cái của Y-sơ-ra-ên. Dân ngoại chỉ bước vào các phước lành của dân sự Đức Chúa Trời khi họ chia sẻ các điều khoản của giao ước với Y-sơ-ra-ên. Trong sự quản lý của Tân Ước, các nhánh tự nhiên, Y-sơ-ra-ên, đã bị bẻ gãy phần lớn khỏi cây vì sự vô tín và các nhánh hoang dã từ Dân Ngoại đã được ghép vào, thông qua đức tin. Nhưng chỉ có một cây, một dân của Đức Chúa Trời, trước hết gồm người Y-sơ-ra-ên và sau đó là những người ngoại bang và người Do Thái tin đạo. Không thể nghĩ đến hai dân của Đức Chúa Trời mà qua đó Đức Chúa Trời thực hiện hai mục đích cứu chuộc khác nhau.
Tuy nhiên, tình trạng hiện tại của cây ô-li-ve không phải là công việc cuối cùng của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Phao-lô viết, “Về phần họ, nếu không ghì mài trong sự chẳng tin, thì cũng sẽ được tháp; vì Đức Chúa Trời có quyền lại tháp họ vào. Nếu chính ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-li-ve hoang thuận tánh mình, mà được tháp vào cây ô-li-ve tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy là nhánh nguyên sẽ được tháp vào chính cây ô-li-ve mình! Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết sự mầu nhiệm nầy, e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ; vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (Rô-ma 11:23-26).
Hình dạng cuối cùng của cây ô-li-ve sẽ không phải là cây có nhiều nhánh hoang dã, tức là dân ngoại. Y-sơ-ra-ên – những nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy vì vô tín vẫn chưa tin và được ghép lại vào cây ô-li-ve. Đây là một “huyền nhiệm” khác, một mục đích cứu chuộc khác của Đức Chúa Trời mà không được tiết lộ cho các tiên tri nhưng giờ đây đã được tiết lộ qua các sứ đồ. Sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên và việc họ bị dân sự của Đức Chúa Trời từ chối chỉ là một phần và tạm thời; nó sẽ kéo dài cho đến khi toàn thể dân ngoại gia nhập. Đức Chúa Trời có mục đích mang sự cứu rỗi cho dân ngoại và Ngài đã sử dụng sự vô tín của Y-sơ-ra-ên để hoàn thành mục đích cứu chuộc này. Nhưng khi mục đích của Ngài với các nhánh hoang dã đã hoàn thành, Ngài sẽ quay lại với các nhánh tự nhiên; tấm màn che mắt họ sẽ được cất khỏi (2 Cô-rinh-tô 3:16) và họ sẽ tin và được ghép lại vào dân sự của Đức Chúa Trời. Như vậy “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu.”
TOÀN THỂ DÂN Y-SƠ-RA-ÊN SẼ ĐƯỢC CỨU
Hoàn toàn không thể hiểu “toàn thể Y-sơ-ra-ên” ám chỉ đến Hội thánh dựa trên bối cảnh và diễn biến suy nghĩ của Phao-lô trong đoạn Kinh văn này. Chắc chắn, có một ý nghĩa rất thực tế trong đó Hội thánh là Y-sơ-ra-ên, con cháu của Áp-ra-ham, chịu phép phép cắt bì thật (Ga-la-ti 3:7; Rô-ma 2:28; 4:1, 12, 16). Vậy thì, điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã mãi mãi từ bỏ Y-sơ-ra-ên. Phao-lô phủ nhận điều này một cách dứt khoát. Trước hết, có một phần còn sót lại về mặt thuộc linh – những nhánh tự nhiên không bị bẻ gãy vì chúng đã tiếp nhận Đấng Christ (Rô-ma 11:1-6). Nhưng thứ hai, sẽ có một số người tiếp nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu rỗi từ phía Y-sơ-ra-ên. Phao-lô có thể nói rằng “toàn thể Y-sơ-ra-ên”, tức là Y-sơ-ra-ên nói chung, sẽ được cứu.
Sự cứu rỗi tương lai của Y-sơ-ra-ên này được phản ánh trong một vài câu nói của Chúa Giê-su Khi Ngài khóc thương Giê-ru-sa-lem không lâu trước khi Ngài chết, Ngài đã kêu lên,
“Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang! Vì, ta bảo, các ngươi sẽ không thấy ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma-thi-ơ 23:37-39). Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của Y-sơ-ra-ên, đã từ chối các tiên tri mà Đức Chúa Trời đã sai đến, cho đến khi cuối cùng, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến. Chúa Giê-su mong muốn quy tụ Y-sơ-ra-ên vào trong các phước lành của Vương quốc Đức Chúa Trời nhưng Y-sơ-ra-ên không nghe; Con Ngài đã bị từ chối. Do đó, sự phán xét giáng xuống Y-sơ-ra-ên và Thành phố Thánh Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy. Sự phán xét của Vương quốc Đức Chúa Trời thường được thể hiện trong lịch sử. Tuy nhiên, sự hoang tàn của Giê-ru-sa-lem này đã được thực hiện theo lịch sử vào năm 70 sau Công nguyên khi đền thờ bị phá hủy và thành phố bị người La Mã tàn phá. Trong tương lai, khi Y-sơ-ra-ên sẽ nhận ra Đấng Christ là Đấng Mê-si của mình và nói rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Một lần nữa, trong lời tường thuật của Lu-ca về Bài giảng trên Núi, dự đoán cả sự hủy diệt lịch sử của Giê-ru-sa-lem và ngày tận thế, chúng ta đọc rằng Chúa Giê-su đã nói về Thành Thánh, “Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp, cho đến khi thời kỳ của dân ngoại được trọn” (Lu-ca 21: 24). Sự phán xét của Chúa sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và dân tộc Do Thái cho đến khi “thời kỳ của dân ngoại”, tức là sự viếng thăm của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành. Khi mục đích của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành, vì vậy câu này ngụ ý, Giê-ru-sa-lem sẽ không còn bị giày đạp nữa. Sẽ có sự phục hồi của Y-sơ-ra-ên; “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu.”
CHỈ CÓ MỘT VƯƠNG QUỐC DUY NHẤT
Một sự kiện rất quan trọng khi nghiên cứu Tân Ước: sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên là một phần thiết yếu trong mục đích cứu chuộc duy nhất của Đức Chúa Trời. Công việc của Đức Thánh Linh trong việc hình thành Hội thánh và sự viếng thăm thiêng liêng trong tương lai của Y-sơ-ra-ên qua đó các nhánh tự nhiên được ghép lại vào cây ô liu không nên được coi là hai mục đích riêng biệt và không liên quan mà là hai giai đoạn của mục đích cứu chuộc duy nhất của Đức Chúa Trời thông qua Vương quốc của Ngài. Chỉ có một cây ô-li-ve và chỉ có một Vương quốc của Đức Chúa Trời. Các giai đoạn cuối cùng của triều đại của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ mà qua đó Ngài sẽ đặt mọi kẻ thù dưới chân Ngài (1 Cô-rinh-tô 13:23) sẽ bao gồm sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên. Dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trong Thời đại này là Hội thánh bao gồm phần lớn là dân ngoại; nhưng dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc sẽ đạt đến sự viên mãn sẽ bao gồm Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 11:12). Nhưng chỉ có một Vương quốc và chỉ có một dân tộc – là công dân của Vương quốc.
Rất thường xuyên trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời, Hội thánh và Y-sơ-ra-ên, chúng ta quên mất sự thật mà đối với chúng ta là quan trọng nhất: Vương quốc của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ mang lại sự cứu rỗi cho Y-sơ-ra-ên và sẽ đưa Y-sơ-ra-ên vào Vương quốc đã mang đến sự cứu rỗi cho chúng ta. Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới thông qua các môn đồ của Chúa Giê-su Christ, những người đã tiếp nhận Vương quốc và tạo nên một dân tộc mới cho Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh. Vương quốc của Chúa đã chinh phục vương quốc của Sa-tan trong nhân loại, và sứ mệnh của Chúa Giê-su là giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối; và cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và các thế lực bóng tối vẫn tiếp diễn khi hội thánh mang tin lành về Vương quốc của Chúa đến các quốc gia trên trái đất.Về một phương diện khác, Trong khi Vương quốc của Chúa sẽ không được hiện thực hóa như một trạng thái phước lành hoàn hảo cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm, Vương quốc của Chúa đang hoạt động trên thế giới và đang tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tử với cái ác. Hội thánh là công cụ của cuộc đấu tranh này. Do đó, xung đột với thế gian phải luôn là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của hội thánh miễn là thời đại này còn tồn tại. Lịch sử loài người sẽ nhận ra một phần nào đó về cuộc sống và phước lành của Vương quốc của Chúa vì một cộng đồng mới đã được hình thành trong xã hội loài người.
Hội thánh là cộng đồng của Vương quốc của Chúa và sẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại cái ác của Sa-tan trên thế giới. Những công dân của Vương quốc không thể không gây ảnh hưởng trong lịch sử loài người vì họ là ánh sáng của thế gian và muối của đất (Ma-thi-ơ 5:13-16). Là ánh sáng, nó phải chiếu sáng; và chừng nào muối còn là muối, nó phải là chất bảo tồn cho một thế giới băng họai. Do đó, sứ mệnh của Hội thánh không chỉ là sử dụng chìa khóa của Vương quốc để mở cửa cho cả người Do Thái và người ngoại cánh cửa vào cuộc sống vĩnh cửu là món quà của Vương quốc Chúa; mà còn là công cụ của sự cai trị năng động của Chúa trên thế giới để chống lại cái ác và những kẻ phản bội như Sa-tan dưới mọi hình thức biểu hiện của chúng.
Khi dân sự của Chúa không còn nhìn thấy lẽ thật này, chúng ta đang phản bội bản chất của mình là Hội thánh. Chúng ta là tâm điểm của cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và điều ác của Sa-tan. Về cơ bản, đây là cuộc xung đột trong thế giới tâm linh. Nhưng những thế lực tâm linh của sự dữ của Sa-tan và Vương quốc của Chúa thể hiện trong các lĩnh vực ứng xử và mối quan hệ của con người. Do đó, chúng ta phải thúc đẩy cuộc chiến chống lại các thế lực bóng tối ở bất cứ nơi nào chúng ta tìm thấy chúng cho đến khi bình minh và ánh sáng của sự hiểu biết về Chúa sẽ tràn ngập trái đất.
Chương 8
VƯƠNG QUỐC VÀ XÃ HỘI
Ở đây chúng ta đối mặt với nhiệm vụ có lẽ là khó khăn nhất trong luận văn này, nỗ lực liên hệ ý tưởng trong Kinh thánh về vương quốc với xã hội loài người như chúng ta biết ngày nay trong “ba thế giới”. Trong nhiệm vụ này, sự cám dỗ luôn là bắt đầu với một khía cạnh của thế giới này – ví dụ, đói nghèo, áp bức, giàu có, căng thẳng ở Trung Đông hoặc giữa thế giới Cộng sản và phương Tây, sau đó tìm cách làm cho học thuyết trong Kinh thánh phù hợp hoặc đồng ý với phân tích của chúng ta về một vấn đề nhất định. Ví dụ, nhiều Cơ đốc nhân “bảo thủ” chân thành rơi vào cái bẫy nhấn mạnh quá mức vai trò của Nhà nước Israel trong sự cai trị thế giới của Chúa ngày nay, trong khi nhiều Cơ đốc nhân “tự do” chân thành lại kết hợp các kế hoạch của Chúa với kế hoạch của những người theo chủ nghĩa xã hội hoặc những người cách mạng theo chủ nghĩa Marx.
Nhận thức rằng tôi đang bước vào một lĩnh vực chưa được khám phá kỹ lưỡng hoặc có ít sự đồng thuận, tôi sẽ xem xét các chủ đề sau. Đầu tiên, tôi sẽ tìm cách trình bày học thuyết về sự cai trị của Chúa như là Vua trên thế giới và lịch sử của nó. Thứ hai, tôi sẽ trình bày vương quốc của Chúa như là mục tiêu của sứ mệnh. Và thứ ba, tôi sẽ đưa ra các đề xuất liên quan đến mối quan hệ của vương quốc của Chúa đối với các mối quan tâm xã hội, chính trị và kinh tế ngày nay.
VUA CỦA CÁC QUỐC GIA
Dưới sự đe dọa của cuộc xâm lược từ một trong những đế chế lớn của Cận Đông cổ đại hoặc chiến tranh với một trong những quốc gia nhỏ lân cận, người Israel trung thành tin cậy vào CHÚA là Vua của các quốc gia. Họ khẳng định, “Tôi ngước mắt lên núi. Sự giúp đỡ tôi đến từ đâu? Sự giúp đỡ tôi đến từ CHÚA, là Đấng đã dựng nên trời và đất.” Và, “Chúa sẽ gìn giữ ngươi khi ra vào từ nay cho đến đời đời” (Thi thiên 121:1, 8). Ngoài ra, người Israel trông cậy vào CHÚA là Đấng cai trị vô hình đối với lịch sử của chính họ với tư cách là một dân tộc và biết rằng Chúa đã hành động thay mặt họ, cả trong phước lành và trong sự phán xét (Thi thiên 91:1-7; Phục truyền luật lệ ký 8:3).
Tương tự như vậy, Cơ Đốc nhân hiện đại, khi đối mặt với hàng loạt tin tức từ khắp nơi trên thế giới, tin cậy vào CHÚA là Đấng cai trị trên mọi sự. Họ biết rằng vào đúng thời điểm Chúa đã định, Con vĩnh cửu đã trở thành con người: “Khi kỳ hạn đã trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến…” (Ga-la-ti 4:4). Và với những người được cứu chuộc trên thiên đàng, họ vui mừng rằng “Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng của chúng ta đang trị vì” (Khải Huyền 19:6).
Chúa đang kiểm soát lịch sử của các quốc gia, và Ngài sẽ khép lại lịch sử vào đúng thời điểm Ngài đã định. Đây là đức tin của Kinh thánh, nhưng đó là đức tin không thể giải thích đầy đủ vì bằng chứng rất phức tạp và chỉ có chính Chúa mới biết. Do đó, trong Kinh thánh, sự cai trị của Chúa được trình bày là vượt quá sự hiểu biết của con người. Qua Ê-sai, CHÚA đã phán, “Ý tưởng của ta không phải là ý tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của ta” (55:8). Sau khi suy ngẫm về sự cai trị của Chúa trong lịch sử
Phao-lô thốt lên, “Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thật sâu nhiệm thay! Sự phán xét của Ngài không ai dò thấu được, đường lối Ngài không ai hiểu thấu!” (Rô-ma 11:33). Người viết Thi thiên được soi dẫn, nghĩ về sự giải cứu vĩ đại khỏi Ai Cập, một ví dụ tuyệt vời về sự cai trị của Đức Chúa Trời, đã hát, “Đường lối Chúa ở giữa biển, lối đi của Chúa ở giữa các vùng nước lớn; nhưng dấu chân Chúa không ai thấy” (Thi thiên 77:19). Ở đây, bằng một bức tranh đơn giản về những bước chân, sự huyền bí liên quan đến hoạt động của Đức Chúa Trời được trình bày.
Thứ hai, sự cai trị của Đức Chúa Trời được trình bày là không thể bị cản trở, chế ngự hoặc khuất phục. “Ngôi của Ngài được lập nên từ xưa” và “các mạng lệnh của Ngài rất chắc chắn” (Thi thiên 93:2, 5). Tuy nhiên, như Ê-sai 53 và Tân Ước đã nêu rõ, sự bất khả chiến bại của Chúa đạt được theo cách liên quan đến sự sỉ nhục của Con Đức Chúa Trời đời đời (xem Lu-ca 24:26; Công vụ 2:23; 4:27, 28). Chiến thắng thiêng liêng không đạt được bằng cách chiến thắng những đối thủ yếu đuối, mà bằng cách chịu đau khổ cùng và vì họ.
Thứ ba, sự cai trị của Chúa thường được trình bày mà không tôn trọng những gì mà người hiện đại gọi là nguyên nhân chính và nguyên nhân phụ. Gióp thấy hoạt động của Chúa ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của ông, mặc dù ông nhận thức được những yếu tố chắc chắn của Satan và con người. Ông nói:
Tay Chúa đã nắn nên và tạo nên tôi; và bây giờ Chúa lại quay lại và hủy diệt tôi. Hãy nhớ rằng Chúa đã tạo nên tôi từ đất sét; và Ngài sẽ biến tôi thành bụi đất một lần nữa sao? Ngài chẳng đổ tôi ra như sữa và làm tôi đông lại như phô mai sao?
Tương tự như vậy, người viết Thi thiên thấy những thay đổi trong tự nhiên là do Chúa gây ra trực tiếp:
Tiếng Đức Giê-hô-va bẻ gãy cây hương nam: Phải Đức Giê-hô-va bẻ gãy cây hương nam Li-ban, 6 Ngài khiến nó nhảy như bò con, Li-ban và Si-ri-ôn nhảy như bò tót tơ.
(Thi thiên 29:5, 6)
Hơn nữa, chúng ta lưu ý rằng các sự kiện trong lịch sử được coi là có thể truy nguyên trực tiếp đến Chúa. Sau đây là một số câu trích từ sách Châm ngôn:
Lòng người toan tính đường lối mình, nhưng CHÚA chỉ dẫn các bước của người.
Lòng vua như dòng nước trong tay CHÚA; Ngài xoay hướng nó theo ý muốn của Ngài.
Không có sự khôn ngoan, không có sự hiểu biết, không có lời khuyên nào có thể chống lại CHÚA. Ngựa được chuẩn bị cho ngày chiến trận, nhưng chiến thắng thuộc về CHÚA.
Bài ca của Môi-se trong Xuất Ê-díp-tô ký 15 là minh họa đầy đủ cho niềm tin này rằng Chúa cai trị trực tiếp trong sự phán xét và ban phước. Và trong Tân Ước, Phao-lô khẳng định rằng các chính quyền của con người được Chúa chỉ định (Rô-ma 13:1).
Nói tất cả những điều này không phải là phủ nhận rằng Kinh thánh trình bày những con người thực sự đang hành động và sống trong những tình huống thực tế. Chỉ đơn giản là khẳng định rằng những người có đức tin trong thời Kinh thánh có cảm giác về quyền tối cao của Chúa đến mức họ nhìn thấy hoạt động của Ngài ở mọi thời điểm và mọi cấp độ. Họ khẳng định điều này mà không phủ nhận rằng Chúa thường hành động thông qua những gì chúng ta gọi là các sự kiện tự nhiên hoặc những con người cụ thể. Một ví dụ điển hình là lịch sử cá nhân của Joseph. Các anh trai của ông đã bán ông làm nô lệ và do đó ông đã bị đưa vào Ai Cập, dường như bị gia đình ông ta đánh mất. Tuy nhiên, điều được cho là hành động xấu xa, Chúa đã biến thành phương tiện ban phước cho các con trai của Gia-cốp (Sáng thế ký 50:20).
Mặc dù quyền cai trị phổ quát của Chúa là điều không thể hiểu được, nhưng các khía cạnh của nó lại rõ ràng hơn trong lịch sử của Israel cho đến thời Chúa Giê-su hơn là trong lịch sử thế giới kể từ thời Chúa Giê-su. Lý do cho điều này là chúng ta có văn bản về mối quan hệ giao ước của Chúa với Israel, và từ đó chúng ta có thể học được nhiều điều về quyền cai trị của Ngài trong thời Cựu Ước. Ngược lại, chúng ta không có chìa khóa tương đương để mở khóa ý nghĩa của các sự kiện trong lịch sử hiện đại khi dân được Chúa chọn không được tìm thấy ở một quốc gia, mà ở nhiều quốc gia. Đây là lý do tại sao rất khó để đưa ra câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi “Chúa đang làm gì trên thế giới ngày nay?” Nhiều Cơ đốc nhân hiện đại đặt ra câu hỏi này khi họ muốn biết ý muốn của Chúa đối với xã hội nói chung là gì và họ nên làm gì để làm việc cho Chúa. Một câu trả lời tạm thời sẽ được đưa ra sau trong chương này.
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng sự xuất hiện của vương quốc tương lai của Chúa trong cuộc đời và chức vụ của Chúa Giê-su Christ đã có những tác động quan trọng trong lịch sử thế giới. Ví dụ, hãy lấy trường hợp giao thông trên một con đường đông đúc bị tắc nghẽn trong khi một người bị thương đang được chăm sóc và xe cứu thương đang chờ đợi. Hoặc lấy ví dụ về lời kêu gọi được đưa ra (khi tôi viết) thông qua truyền hình, báo chí, v.v. để cứu trợ những người đau khổ và nạn đói ở Campuchia và Thái Lan. Có lẽ giao thông sẽ không dừng lại và sẽ không có lời kêu gọi nào được đưa ra nếu vương quốc của Chúa không đi vào lịch sử loài người trong Con Chúa nhập thể.
Sự xuất hiện của lời tuyên bố và sự hiện diện của Cơ đốc giáo đã mang đến cho lịch sử loài người một ý tưởng mới về ý nghĩa của việc làm người. Giá trị của cuộc sống cá nhân mà
Kito giáo khẳng định đã được các xã hội loài người tiếp nhận (thường là đáng tiếc, không có phúc âm). Do đó, về nguồn gốc, toàn bộ phong trào đòi quyền con người, quyền công dân và quyền tự do của các dân tộc thuộc địa hoặc bị nô dịch có thể bắt nguồn từ việc công bố vương quốc của Chúa.
Có thể đưa ra những ví dụ khác về những tác động lớn.
Một ví dụ là hôn nhân, tình dục và đời sống gia đình (mặc dù hiện nay có thể đang suy giảm ở phương Tây) ban đầu được tôn vinh nhờ tác động của phúc âm. Hai ví dụ nữa là việc phi thiêng liêng hóa Nhà nước và các quyền năng của tự nhiên. Nguyên tắc Giê-su giáo rằng “chúng ta phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời loài người” cuối cùng đã có tác dụng khiến Nhà nước và vua trở nên phàm trần, không phải là thần thánh; về lâu dài, nó cũng phục vụ cho việc đưa ra ý tưởng về sự khoan dung như một nguyên tắc chính trị. Và việc khai thác thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của nhân loại chỉ có thể thực hiện được vì lời tuyên bố của Cơ đốc giáo đã xóa bỏ những ý tưởng cổ xưa liên quan đến các thế lực thần thánh trong tự nhiên.
Tuy nhiên, nơi mà vương quốc của Chúa có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến xã hội loài người, vương quốc của Satan không ở đâu xa, tìm cách thay đổi hướng đi và nội dung của những gì đã đạt được. Điều này, cùng với điểm xa hơn về bản chất tội lỗi của nhân loại, giải thích tại sao nhiều điều và phong trào tốt đẹp và cao quý có thể dễ dàng trở thành phương tiện để tuyên bố quyền tự chủ và ích kỷ của con người thay vì sự cai trị nhân từ, tối cao của Chúa.
Quay trở lại với những gì được khẳng định rõ ràng trong Kinh thánh, chúng ta phải lưu ý rằng một phần trong sự trình bày về Chúa Giê-su là Đấng Messiah và Chúa được tôn vinh là sự cai trị của Ngài đối với vũ trụ. Sau khi phục sinh, chính Chúa Giê-su đã nói: “Mọi quyền hành trên trời và dưới đất đã được trao cho tôi” (Ma-thi-ơ 28:18). Giăng giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên Con của Đức Chúa Trời được tôn cao, Đấng chắc chắn sẽ chiến thắng kẻ thù của Ngài vì Ngài là “Chúa của các chúa và Vua của các vua” (Khải Huyền 17:14). Và Phao-lô nói về Đấng Christ đang ngồi bên phải Đức Chúa Trời ở những nơi trên trời, “cao hơn mọi quyền cai trị, mọi thẩm quyền, mọi thế lực và mọi quyền thống trị, và cao hơn mọi danh được xưng ra, không những trong thời đại này mà cả trong thời đại sắp đến; và Ngài đã đặt mọi vật dưới chân Ngài và lập Ngài làm đầu trên mọi vật cho Hội thánh…” (Ê-phê-sô 1:21, 22).
Quy tắc của Đấng Christ này không được coi là tồn tại song song hoặc tách biệt với quy tắc quan phòng chung của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Thay vào đó, kể từ khi Đấng Christ thăng thiên, quy tắc của Đức Chúa Trời duy nhất đã được tập trung và cụ thể hóa trong Đấng Christ, Ngôi thứ hai của Ba Ngôi đã mang lấy bản chất con người. Vì lý do này, vào cuối thời đại này, mọi lưỡi sẽ “xưng nhận rằng Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa, để tôn vinh Đức Chúa Trời, là Cha” (Phi-líp 2:11). Do đó, nói về quy tắc của Chúa Jêsus được tôn cao hay quy tắc của Đức Chúa Trời hay quy tắc của Đức Chúa Cha trên vũ trụ là nói về cùng một thực tại thiêng liêng.
Khi kết thúc phần này, chúng ta cần khẳng định một lần nữa rằng quy tắc tối cao của Đức Chúa Trời trên vũ trụ và lịch sử của nó là một quan điểm cơ bản của Cơ đốc giáo không thể bị loại bỏ mà đồng thời mất đi một phần lớn lẽ thật được mặc khải. Đức Chúa Trời đã tạo ra vũ trụ có liên quan trực tiếp đến lịch sử của nó, và Ngài sẽ đưa nó đến kết luận của riêng mình, đó là vương quốc của Chúa. Chắc chắn là chân lý thiêng liêng được trình bày trong các bức tranh thuộc về các nền văn minh cổ đại, nhưng nhiệm vụ của chúng ta là tìm cách hiểu chúng và sau đó dịch chúng bất cứ khi nào có thể thành các hình thức tư tưởng hiện đại.
Sứ mệnh là công việc của Chúa Ba Ngôi, trong đó Ngài truyền lệnh cho dân sự được cứu chuộc của Ngài, tức là Hội thánh, phải tham gia (Ma-thi-ơ 28:19). Nó bắt đầu trong đời sống tình yêu nội tại của Chúa Ba Ngôi khi Chúa Cha sai Chúa Con và khi Chúa Cha và Chúa Con sai Chúa Thánh Thần vào thế giới tội lỗi (Giăng 3:16; 16:7-11; v.v.). Sứ mệnh là công việc mà Chúa Giê-su, Con Nhập thể, đã tham gia hoàn toàn (Lu-ca 4:18, 19), và bao gồm cả việc công bố và chứng kiến sự xuất hiện của vương quốc Đức Chúa Trời trong kinh nghiệm của con người. Sứ mệnh là mang vương quốc của Đức Chúa Trời ân điển vào cuộc sống con người. Sống dưới vương quốc ân điển của Đức Chúa Trời là được trọn vẹn khi quyền lực của Sa-tan và tội lỗi bị phá vỡ. Sứ mệnh ngày nay không chỉ đơn thuần là việc phái “các nhà truyền giáo” ra nước ngoài hoặc tổ chức một chiến dịch truyền giáo ngay tại quê nhà. Đó là toàn bộ thông điệp và hoạt động của dân sự Chúa dù họ ở Châu Mỹ, Châu Phi hay Châu Âu; đó là hành động cùng Chúa trong mối quan hệ của Ngài với thế giới.
Bản thân Phi-e-rơ, người rất gắn bó với sứ mệnh, đã nói về việc chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Phi-e-rơ 3:13). Niềm hy vọng này là bản tóm tắt về niềm hy vọng của các tiên tri trong giao ước cũ. Có lẽ chúng ta có thể dịch niềm hy vọng này sang các thuật ngữ hiện đại như sau: Giáo hội hy vọng và cầu nguyện cho trật tự mới của thực tại đã được mặc khải trong Chúa Giê-su Christ và sẽ hiện diện trọn vẹn sau khi Ngài tái lâm. Nó sẽ bao gồm mối quan hệ hoàn hảo giữa con người và Chúa; giữa các giới tính, thế hệ và chủng tộc; và giữa con người với phạm vi mới mà họ đang sống.
Nhận ra rằng chỉ có Chúa mới có thể mang vương quốc của Ngài đến và chiến thắng vương quốc của bóng tối và tội lỗi,
Giáo hội trong sứ mệnh theo Chúa Giê-su và sống trong quyền năng của Thánh Linh để công bố sự xuất hiện của vương quốc ở đây và bây giờ, và để trải nghiệm sự trọn vẹn của cuộc sống hiện đang được thể hiện một phần trong sự mong đợi về sự viên mãn của thời đại sắp đến.
Sứ mệnh, có vương quốc là mục tiêu của nó, sẽ có bốn phần cần thiết sau đây. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng tất cả những điều này phải được tiến hành cùng một lúc, theo gương của Chúa Giê-su, người đã rao giảng, dạy dỗ, tha thứ tội lỗi, đuổi quỷ và chữa lành người bệnh (xem Lu-ca 4:17.).
Trước hết, chắc chắn sẽ liên quan đến việc đưa mọi người đến để tuyên xưng rằng Chúa Giê-su là Vua và là phương tiện duy nhất để vào vương quốc (Giăng 14:6). Không thể có vương quốc của Đức Chúa Trời ở đây và bây giờ trừ khi Chúa Giê-su Christ hiện diện bởi Thánh Linh. Vì vậy, theo cách có ý nghĩa đối với người nghe ở nơi và văn hóa của họ; câu chuyện về Chúa Giê-su đã chết và sống lại để sống mãi mãi phải được công bố. Chúa Giê-su sẽ được ban cho thế giới, nhưng được ban cho theo cách của Người, không phải theo cách của chúng ta. Chúa không chấp thuận và hiếm khi ban phước cho những nỗ lực của chúng ta nhằm thao túng Tin Mừng theo ý tưởng của riêng chúng ta về những gì nó nên như thế nào. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Cha rao giảng về Chúa Con trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, thông qua các sứ giả được Người chọn. Chỉ có thông điệp này, về lâu dài, thực sự là thông điệp về sự cứu rỗi, giải thoát và toàn vẹn. (Nhiệm vụ này có nghĩa là những người rao giảng không chỉ cần biết chính xác Tin Mừng của Kinh thánh là gì mà còn cần biết cách tốt nhất để
truyền đạt nó trong một bối cảnh văn hóa cụ thể.) Thứ hai, việc kêu gọi những người xưng nhận Chúa Giê-su là Chúa thực sự ăn năn và cải đạo sẽ không bị bỏ qua. Ăn năn bao gồm một sự thay đổi triệt để về tâm trí đối với Chúa và thế giới của Người, trong khi cải đạo bao gồm một sự thay đổi triệt để về phong cách sống. Do đó, trong trường hợp những người lớn cải đạo sang Chúa Giê-su, cần phải có sự thay đổi rõ ràng về tính cách của những người liên quan. Ở một quốc gia mà tôn giáo chính không phải là Cơ đốc giáo và ví dụ như Ấn Độ giáo, một thay đổi rõ ràng trong phong cách sống sẽ là tham dự nhà thờ Cơ đốc giáo chứ không phải đền thờ địa phương. Nhưng nó sẽ đi sâu hơn thế nhiều và sẽ liên quan đến việc đánh giá lại cuộc sống trong gia đình và trong xã hội địa phương.
Nhưng còn về sự cải đạo trong xã hội phương Tây, nơi ít nhất cũng có sự đồng ý danh nghĩa với Cơ đốc giáo thì sao? Chắc chắn ở đây sự ăn năn và cải đạo thực sự sẽ được nhìn thấy trong một phong cách sống khác, một phong cách sống không bị chi phối bởi việc theo kịp những người hàng xóm, bằng cách khuất phục trước áp lực của quảng cáo và bằng cách thụ động chấp nhận quan điểm phổ biến và thống trị của nền văn hóa. Do đó, trong một gia đình Cơ đốc giáo tận tụy, thái độ đối với và việc sử dụng thực phẩm, phương tiện công nghệ, tivi, điện thoại, ô tô, kỳ nghỉ, giáo dục, công việc và cuộc sống gia đình sẽ phản ánh rằng vương quốc đã đến. Mọi thứ sẽ được coi là thuộc về Vua và do đó được sử dụng để phục vụ Ngài. Rất nhiều Cơ đốc nhân phương Tây dường như tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Messiah mà không ăn năn và cải đạo. Cuộc sống hàng ngày của họ dường như chỉ khác với những người hàng xóm của họ ở một khía cạnh, đó là họ đi nhà thờ vào Chủ Nhật. (Nhiệm vụ ăn năn và cải đạo này chắc chắn cần phải được đặt thường xuyên trong tâm trí chúng ta; các mục sư và giáo viên sẽ cần hướng dẫn các Cơ đốc nhân hiểu được ý nghĩa thực sự của việc sống cuộc sống Cơ đốc trong thế giới phương Tây hiện đại.)
Thứ ba, sứ mệnh của hội thánh Chúa sẽ bao gồm việc tiến hành chiến tranh chống lại mọi thứ làm ô uế con người và khiến họ trở thành nô lệ cho các thế lực của sự dữ trên thế giới. Mặc dù vô hình, những thế lực này nằm trong tay Satan và chúng hoạt động thông qua các khía cạnh của xã hội và văn hóa loài người.
Phao-lô mô tả chúng một cách sống động trong Ê-phê-sô 6:10-20. Ở một nơi trên thế giới, chúng có thể nuôi dưỡng sự ngu dốt, bệnh tật, nghèo đói và phân biệt đối xử, trong khi ở một nơi khác, chúng có thể khuyến khích chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, tuyên truyền sai lệch, chủ nghĩa toàn tính dục và sự tôn thờ ảo tưởng về sự giàu có và sức mạnh của khoa học và công nghệ. Do đó, trong một khu vực và nền văn hóa nhất định, các nhà thờ phải nhận ra những gì Sa-tan đang làm để trói buộc mọi người vào sự phục vụ xấu xa của hắn, và khi họ công bố phúc âm, họ phải kêu cầu Chúa và làm việc để giải thoát mọi người khỏi xiềng xích của Sa-tan. Vì vậy, các nhà thờ sẽ nhất thiết phải tham gia vào các nhiệm vụ giáo dục, chữa lành, lập kế hoạch xã hội và cải cách. Cách họ tham gia sẽ liên quan đến bản chất của xã hội cụ thể mà họ là nhân chứng của vương quốc Đức Chúa Trời. Không có bản thiết kế đơn giản nào có thể áp dụng cho mọi thời đại và mọi nơi. Chúa Giê-su và chức vụ của Ngài cung cấp mô hình thực sự.
Lấy lời của Ê-sai làm của riêng mình, Chúa Giê-su nói:
“Thánh Linh của Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi để rao giảng tin mừng cho người nghèo. Ngài đã sai tôi đi rao truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm đẹp lòng Chúa” (Lu-ca 4:18, 19).
Ở đây, sự công bố và hoạt động được kết hợp trong danh và quyền năng của CHÚA. Theo sự hiểu biết này về chức vụ của Đấng Mê-si và theo sự khuyên bảo thực tế trong các Thư của Tân Ước, các hội thánh tham gia vào công cuộc truyền giáo nên tự động tham gia vào việc giới thiệu tích cực các bằng chứng về sự hiện diện của vương quốc Đức Chúa Trời. Ví dụ, trong hội thánh địa phương, không một cá nhân hay gia đình nào được phép nghèo khi những người khác đã
nhiều và dư dả (xem Gia-cơ 5:11E). Ngoài ra, không có sự phân biệt chủng tộc nào được thực hiện, vì làm như vậy không chỉ phủ nhận nguyên tắc sáng tạo (tức là chúng ta được tạo ra theo hình ảnh của Chúa), mà còn phủ nhận nguyên tắc cứu chuộc (tức là chúng ta là một trong Đấng Christ Ga-la-ti 3:28).
Thứ tư, sứ mệnh của hội thánh Chúa sẽ có nghĩa là cầu nguyện cho mọi người trên thế giới và những nhu cầu hiển nhiên của họ. Họ không cầu nguyện cho chính mình, và do đó, dân sự của Chúa phải cầu thay cho họ. Phao-lô thúc giục rằng “hãy cầu nguyện, cầu xin, chuyển cầu và tạ ơn cho mọi người, cho các vua và tất cả những người ở địa vị cao, để chúng ta có thể sống một cuộc sống bình lặng và yên ổn, tin kính và tôn trọng trong mọi cách” (1 Ti-mô-thê 2:1, 2).
VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA VÀ HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI/CHÍNH TRỊ
Những người theo đạo Chúa quan tâm đến công lý trên thế giới tin rằng Chúa đang hành động trong xã hội loài người để mang lại công lý của Người. Do đó, họ cho rằng, nhiệm vụ của nhà thờ là phải nhận ra hoạt động này của Chúa và tham gia vào công việc của Người.
Cựu Ước làm rõ và Tân Ước xác nhận rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của công lý. Danh từ tiếng Do Thái mishpat xuất hiện 389 lần trong Cựu Ước và có ba loại nghĩa. Nó được sử dụng để chỉ tính cách và bản chất của chính Chúa: “Sự công chính và công lý là nền tảng của ngai vàng Chúa…” (Thi thiên 89:14). Nó được sử dụng để chỉ điều mà tính cách và luật pháp của Chúa đòi hỏi ở con người: “Chúa đòi hỏi gì ở ngươi ngoài việc làm điều công bình, yêu sự nhân từ và bước đi khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi?” (Mi-chê 6:8). Và nó được sử dụng để chỉ điều mà người nghèo, người bị tước đoạt và người bị áp bức phải được hưởng và là con cái của Chúa họ nên có “Ngươi không được làm sai lệch công lý đối với người nghèo trong vụ kiện của họ” (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:6). Vì vậy, công lý là một chủ đề phong phú trong Kinh thánh. Nó truyền tải ý tưởng rằng hành động của Chúa luôn đúng vì chúng xuất phát từ tình yêu thánh thiện và ý tưởng xa hơn rằng Chúa đòi hỏi tất cả những gì đúng đắn theo tình yêu thánh thiện phải thắng thế trong mọi mối quan hệ của con người.
Chính vì những cân nhắc như ý tưởng về công lý mà Hendrikus Berkhof đã viết: “Trong cuộc đấu tranh cho một sự tồn tại đích thực của con người, cho sự giải thoát khỏi đau khổ, cho sự nâng cao của những người kém phát triển, cho sự cứu chuộc những người bị giam cầm, cho sự ổn định của các khác biệt về chủng tộc và giai cấp, cho sự phản đối hỗn loạn, tội phạm, đau khổ, bệnh tật và sự ngu dốt nói tóm lại, cuộc đấu tranh cho cái mà chúng ta gọi là sự tiến bộ – một hoạt động đang diễn ra trên khắp thế giới để tôn vinh Chúa Giê-su. Đôi khi nó được thực hiện bởi những người biết và mong muốn nó; nó thường được thực hiện bởi những người không quan tâm đến nó, nhưng công sức của họ chứng minh rằng Chúa Giê-su thực sự đã nhận được một cách khách quan đầy đủ – tất cả quyền năng trên trái đất” (Christ the Meaning of History, trang 173).
Loại tuyên bố này thách thức chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ý tưởng về vương quốc của Chúa và sự công chính/công lý; nó cũng gợi ý cho chúng ta về những gì Chúa đang làm trên thế giới.
Từ giáo lý cho rằng Chúa là Đấng cai trị mọi quốc gia và là Đấng phán xét công chính, chúng ta có thể khẳng định rằng Ngài đòi hỏi và mong đợi những tiêu chuẩn đạo đức nhất định giữa mọi dân tộc và quốc gia. Những yêu cầu của Chúa được nêu trong Torah cho một xã hội công bằng ở Israel đã được tóm tắt đầy đủ như sau trong The Church and Its Social Calling (1979), trang 73:
1. Con người và tài sản của mọi người đều phải được bảo đảm.
2. Mọi người đều phải nhận được thành quả lao động của mình.
3. Mọi người đều được bảo vệ khỏi sự vu khống và cáo buộc sai trái.
4. Mọi người đều được tự do ra tòa và được xét xử công bằng.
5. Mọi người đều được chia sẻ hoa lợi của đất đai.
6. Mọi người, từ người thấp hèn nhất đến người ngoại kiều, đều được chia sẻ phần còn lại hàng tuần của ngày sa-bát của Chúa.
7. Phẩm giá và quyền trở thành người được giải phóng và tôi tớ của Yahweh của mọi người Israel đều được tôn trọng và bảo vệ.
8. Gia tài thừa kế của mọi người Israel ở vùng đất hứa đều được bảo đảm.
9. Không phụ nữ nào bị lợi dụng trong địa vị thấp kém của họ trong xã hội.
10. Không ai, dù tàn tật, nghèo đói hay bất lực, bị áp bức hay bóc lột.
11. Không ai được đứng trên luật pháp, ngay cả vua.
12. Vị trí mà Chúa ban cho mỗi người trong cơ thể xã hội phải được tôn trọng.
13. Hình phạt cho hành vi sai trái không được quá lớn đến mức thủ phạm bị mất nhân tính.
14. Quan tâm đến phúc lợi của các sinh vật khác phải được mở rộng sang thế giới động vật.
Những yêu cầu này có thể được coi là minh họa cho ý nghĩa của tình yêu thương đối với người lân cận (Lê-vi Ký 19:18, 34). Các tiên tri của Y-sơ-ra-ên đã lên án sự gian ác, nghèo đói, đói khát, vô đạo đức, vô tín, lừa dối và đồi trụy không chỉ ở Y-sơ-ra-ên mà còn ở các quốc gia xung quanh (xem, ví dụ, Ê-sai 13-19 và A-mốt 1:3-15). Phao-lô cũng làm như vậy (Rô-ma 1:18ff.). Vì vậy, việc kêu gọi một quốc gia (bằng các phương tiện và phương pháp thích hợp) ít nhất là một nền đạo đức cơ bản duy trì trung thực, liêm chính, trung thành, công lý và thương xót. Đạo đức cơ bản này cũng sẽ bao gồm mối quan tâm giúp đỡ người nghèo, người bị tước đoạt và người bị ruồng bỏ trong một xã hội, một sự nhấn mạnh được tìm thấy trong Luật pháp của Moses (Phục truyền luật lệ ký 24:14ff.), Thi thiên (ví dụ: 146:5ff.), và các tiên tri (ví dụ: lời của Nathan với David, 2 Samuel 12), cũng như trong Tân Ước (James 1:27; Matthew 25:34ff.).
Từ học thuyết về vương quốc hoàn hảo trong tương lai của Chúa sẽ đến vào cuối thời đại này, cũng như từ các mô tả về vương quốc công lý của Đấng Messiah (Isaiah 11), có lẽ có thể suy ra rằng những gì Chúa mong muốn và chắc chắn sẽ thực hiện vào thời điểm tận thế, chắc chắn Ngài phải muốn (ít nhất là một phần) trong thời điểm hiện tại. Vì vậy, nếu có công lý, hòa bình, tình yêu, sự hòa hợp và sự công chính hoàn hảo trong các mối quan hệ của vương quốc tương lai của Chúa, thì Chúa chấp thuận và hỗ trợ mọi động thái trong xã hội loài người, dù chỉ yếu ớt, theo hướng này. (Tôi thừa nhận rằng dòng lý luận này không được dạy rõ ràng trong Kinh thánh và việc suy luận từ những gì sẽ xảy ra thành những gì nên xảy ra có thể không hợp lệ. Tuy nhiên, tôi tin rằng điều này đáng để cân nhắc và không nên nhanh chóng bị loại trừ.)
Ngoài những gì liên quan đến ý tưởng về vương quốc của Chúa, còn có hai nguyên tắc khác xác nhận và củng cố niềm tin rằng các nhà thờ và/hoặc các Cơ đốc nhân cá nhân có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy công lý trong xã hội loài người. Nguyên tắc đầu tiên trong số này là học thuyết cơ bản rằng con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa (Sáng thế ký 1:27). Bất kể ý nghĩa đầy đủ của học thuyết này là gì, thì nó chắc chắn bao gồm ý tưởng rằng được Chúa tạo ra và yêu thương, một con người nên được đối xử trong xã hội theo cách công nhận mối quan hệ của mình với Chúa. Nói tóm lại, con người phải được đối xử công bằng và không bị đối xử như nạn nhân, bị phân biệt đối xử, bị ngược đãi, bị biến chất, phi nhân tính hóa hoặc bị lạm dụng. Thứ hai là giáo lý cho rằng Con vĩnh cửu của Chúa đã mang lấy nhân tính của chúng ta. Việc Người làm như vậy mang lại phẩm giá vô biên cho bản chất con người mà chúng ta không thể bỏ qua.
Do đó, có vẻ khá rõ ràng rằng Chúa cam kết tăng cường công lý trong xã hội loài người và Người mong đợi những người ở trong vương quốc của Người tìm cách thúc đẩy công lý đó khi họ tham gia vào sứ mệnh truyền giáo cho thế giới. Ở các quốc gia phương Tây, điều này chắc chắn sẽ liên quan đến việc các Giê-su hữu thâm nhập vào xã hội ở mọi cấp độ và tìm cách giới thiệu và nuôi dưỡng bằng tấm gương và lời nói những đức tính vững chắc về lòng trung thành, sự trung thực, v.v.
Ngoài ra, điều này sẽ liên quan đến việc sử dụng mọi phương tiện hợp pháp có sẵn để đưa luật pháp của đất nước phù hợp với các nguyên tắc đạo đức cơ bản. Trong một số trường hợp, điều này sẽ liên quan đến việc thay đổi cấu trúc của xã hội.
Đứng nhìn và cho phép cái gọi là nhà nước và xã hội thế tục gia tăng, về lâu dài, là nói lời tạm biệt với công lý thực sự trong xã hội. Giáo hội Cơ đốc không gì khác hơn là muối của đất (thêm hương vị cho xã hội bằng đức hạnh thực sự) và ánh sáng của thế gian (dẫn dắt xã hội đến với sự hiểu biết về ý muốn của Chúa). Trong nhiệm vụ này chắc chắn có chỗ cho những tuyên bố công khai của các giáo hội và các nhà lãnh đạo về một vấn đề đạo đức, ví dụ như phân biệt chủng tộc, phá thai và an tử. Tuy nhiên, không có gì có thể có ảnh hưởng lớn như tấm gương và lời chứng của toàn thể cộng đồng Cơ đốc sống theo phúc âm trên thế giới, và của các cá nhân hoặc nhóm thâm nhập vào xã hội trong công việc hàng ngày và thực hành sự tham gia vào các lĩnh vực chính trị và xã hội.
Có những nguy hiểm mà các Cơ đốc nhân cá nhân và hơn thế nữa là các nhà thờ hoặc tổ chức Cơ đốc giáo phải đối mặt khi họ tham gia vào chính trị. Một trong những nguy hiểm đó, mặc dù là một nguy hiểm xa vời đối với những người theo đạo Tin lành, là sự chính trị hóa trong
mà phúc âm của vương quốc trở thành một phương tiện biện minh cho một triết lý chính trị cụ thể. Người ta thường thấy rằng một số hoạt động chính trị được Hội đồng Giáo hội Thế giới ủng hộ dường như là triết lý tự do phương Tây hoặc triết lý Marxist trong trang phục Giê-su giáo. Tương tự như vậy, một số hoạt động chính trị truyền giáo của Mỹ dường như là bảo thủ và cánh hữu, ủng hộ “nguyên trạng”.
Một vấn đề thực sự ở đây là các vấn đề của chính trị quốc tế hiện đại – ví dụ, vai trò của tập đoàn đa quốc gia, việc áp đặt lệnh trừng phạt đối với một quốc gia, bản chất của sự phát triển, thỏa thuận về giải trừ vũ khí hoặc về việc sử dụng năng lượng nguyên tử – đòi hỏi phải đưa ra những phán đoán mà dường như Cơ đốc nhân với tư cách là Cơ đốc nhân có rất ít hoặc có lẽ không có gì để nói. Đáng tiếc là xu hướng là rửa tội cho một cách tiếp cận cụ thể đối với những vấn đề này dưới danh nghĩa của Chúa Giê-su và sau đó gọi cách tiếp cận đó là cách tiếp cận của Cơ đốc giáo. Tuy nhiên, một mối nguy hiểm không nên gây ra sự rút lui ngay lập tức. Nhận thức rằng việc thuộc về vương quốc có trách nhiệm xã hội, các Giê-su hữu nói chung cần phải suy nghĩ sâu sắc và rõ ràng hơn về cách đưa chúng vào hành động.
Tiếp theo, chúng ta cần khẳng định rằng công lý thực sự không thể được thúc đẩy tách biệt khỏi động lực cốt lõi của sứ mệnh, nếu không nó sẽ mất nền tảng trong vương quốc của Chúa và tìm kiếm một nền tảng khác trong một trong những triết lý nhân đạo của thời đại. Khi đó, nó sẽ không còn là công lý của Chúa nữa.
Nói như vậy không phải là phủ nhận rằng nhiều tổ chức giáo dục, y tế và cứu trợ khác nhau tham gia vào công việc mà Chúa chấp thuận; cũng không phải là phủ nhận rằng các Giê-su hữu trong sứ mệnh sẽ cảm thấy cần phải làm việc và hỗ trợ các tổ chức như vậy. Con người được tạo ra trong Chúa hình ảnh và, mặc dù là tội nhân, vẫn thường mong muốn những điều tốt đẹp, đúng đắn và đẹp đẽ. Vì vậy, mong muốn giúp đỡ những con người đau khổ là có thật và đúng đắn, và Chúa trong sự quan phòng của mình, như Tiến sĩ Berkhof đã nêu bật, sử dụng mong muốn này và các tổ chức này để phục vụ các tạo vật của mình. Công lý của Chúa thường được thực hiện bằng những phương tiện khiến chúng ta ngạc nhiên, đặc biệt là trong những tình huống khẩn cấp do bão, núi lửa, bệnh dịch, v.v. tạo ra. Vào những lúc như vậy, những người theo đạo Thiên chúa sẽ vui vẻ làm việc với tất cả những người khác muốn giảm bớt đau khổ. Tuy nhiên, trong viện trợ lâu dài, khi một triết lý sống phản Giê-su giáo có thể bắt đầu xuất hiện, thì những người theo đạo Thiên chúa có thể chọn không làm việc với các tổ chức cứu trợ cụ thể; nhưng chắc chắn họ chỉ có thể làm điều này nếu họ hoàn toàn tham gia vào một công việc tương tự và tốt hơn được truyền cảm hứng từ tình yêu của Chúa. Vì trong số tất cả mọi người, những người theo đạo Thiên chúa có động lực lớn nhất để tham gia vào việc mang lại công lý và lòng thương xót cho xã hội loài người; họ là tôi tớ của Chúa công lý và tình yêu, Đấng sẽ phán xét họ qua hành động của họ (Ma-thi-ơ 25:31ff.).
KẾT LUẬN
Chương này đã nêu ra đủ loại vấn đề và câu hỏi khó khăn. Đồng thời, có những chủ đề tích cực chạy qua chương này. Trước hết, Chúa là Đấng cai trị lịch sử thế giới và Ngài sẽ đưa lịch sử đến hồi kết của riêng Ngài. Đây là nguồn tin tưởng và an toàn cho hội thánh và tín đồ. Thứ hai, phúc âm về vương quốc không chỉ là lời kêu gọi tin tưởng cá nhân vào Chúa và vào Chúa Giê-su, mà còn là lời kêu gọi thay đổi triệt để (ăn năn) về thái độ và lối sống. Đây là nguồn thách thức đối với cả Hội thánh và gia đình Cơ đốc giáo. Thứ ba, việc rao giảng về vương quốc cho mọi người phải tính đến những tình huống thực tế mà họ đang sống, để sự giải phóng của vương quốc sẽ được trải nghiệm theo những cách cụ thể. Đây là kêu gọi toàn bộ phúc âm được công bố trong toàn bộ quyền năng của Thánh Linh bởi một cộng đồng sống theo phúc âm. Và thứ tư, trở thành môn đồ của vương quốc mang đến những trách nhiệm xã hội phải được thực hiện trong quá trình theo đuổi công lý trong xã hội loài người. Đây là một nhiệm vụ cần phải được thực hiện, và phải được thực hiện với sự chuẩn bị và chăm sóc tuyệt vời.
Đây là một tuyên bố về trách nhiệm xã hội của Cơ đốc giáo được trích từ Giao ước Lausanne (1974):
Chúng tôi khẳng định rằng Chúa vừa là Đấng Tạo hóa vừa là Đấng Phán xét của mọi người. Do đó, chúng ta nên chia sẻ mối quan tâm của Ngài đối với công lý và sự hòa giải trong toàn xã hội loài người và giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức. Bởi vì nhân loại được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, nên mọi người, bất kể chủng tộc, tôn giáo, màu da, văn hóa, giai cấp, giới tính hay tuổi tác, đều có phẩm giá nội tại mà vì thế họ phải được tôn trọng và phục vụ, chứ không phải bị bóc lột. Ở đây, chúng tôi cũng bày tỏ sự ăn năn vì sự sao nhãng của mình và đôi khi coi công tác truyền giáo và mối quan tâm xã hội là hai điều loại trừ lẫn nhau. Mặc dù sự hòa giải với con người không phải là sự hòa giải với Chúa, cũng không phải là chủ nghĩa truyền giáo hành động xã hội, cũng không phải là sự cứu rỗi giải phóng chính trị, tuy nhiên chúng tôi khẳng định rằng truyền giáo và sự tham gia chính trị xã hội đều là một phần trong bổn phận Cơ đốc của chúng ta. Vì cả hai đều là những biểu hiện cần thiết của giáo lý về Chúa và con người, tình yêu của chúng ta đối với người lân cận và sự vâng phục của chúng ta đối với Chúa Giê-su Christ. Sứ điệp cứu rỗi cũng ngụ ý một sứ điệp phán xét mọi hình thức xa lánh, áp bức và phân biệt đối xử, và chúng ta không nên sợ lên án cái ác và bất công ở bất cứ nơi nào chúng tồn tại. Khi mọi người tiếp nhận Chúa Giê-su, họ được tái sinh vào vương quốc của Người và phải tìm cách không chỉ thể hiện mà còn truyền bá sự công chính của Người giữa một thế giới bất chính. Sự cứu rỗi mà chúng ta tuyên bố phải biến đổi chúng ta trong toàn bộ trách nhiệm cá nhân và xã hội của chúng ta. Đức tin không có việc làm là chết.
Tuyên bố này là một khởi đầu tuyệt vời để thúc đẩy suy nghĩ nghiêm túc về vương quốc của Chúa và xã hội, và như vậy tôi giới thiệu nó cho độc giả của tôi.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Một hội thánh địa phương nên áp dụng hình thức lối sống chung nào để phản ánh trên thế giới tư cách thành viên của mình trong vương quốc của Chúa? Và một gia đình Cơ đốc nên áp dụng lối sống nào để tôn vinh Chúa Giê-su là Vua trong điều kiện hiện đại?
2. Vì CHÚA đòi hỏi công lý trong xã hội loài người, khi nào thì hội thánh có quyền quyết tâm nỗ lực thay đổi các cấu trúc cơ bản của xã hội để xóa bỏ những bất công như đói nghèo, phân biệt đối xử về giai cấp/chủng tộc/đẳng cấp, v.v.?