THẦN HỌC THAY THẾ.
Định nghĩa đơn giản nhất của thần học thay thế là ám chỉ đến tất cả những ai tin rằng Hội Thánh đã thay thế Y-sơ-ra-ên trong những lời tiên tri của Đức Chúa Trời. Lý lẽ của điều nầy là: Tình trạng không vâng phục và tội lỗi của Y-sơ-ra-ên đã làm họ đánh mất đặc quyền được kể như một dân tộc để nhận lãnh đất mà Đức Chúa Trời đã hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
Một số người tin rằng Hội Thánh đã làm ứng nghiệm đầy trọn những lời tiên tri chỉ về Y-sơ-ra-ên, vì vậy Y-sơ-ra-ên của ngày hôm nay không còn ý nghĩa gì với các lời tiên tri nữa. Một số khác tin rằng Y-sơ-ra-ên hôm nay là một nhà nước thế tục và đó không phải là Y-sơ-ra-ên thật trong thời kỳ cuối cùng.
Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời không bao giờ quên tuyển dân của Ngài là Y-sơ-ra-ên. Và sự thành lập quốc gia Y-sơ-ra-ên vào năm 1948 chính là ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh. Chúng ta ủng hộ Y-sơ-ra-ên có quyền tồn tại như một quốc gia, họ nhận lãnh đất hứa từ nơi Chúa ban cho dòng dõi vật lý của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Chúng ta không bảo vệ hay phán xét nhà nước Do Thái không tin kính thời hiện đại. Chúng ta tôn trọng những ai không đồng ý với chúng ta, nhưng chúng ta sẽ không thỏa hiệp trong vấn đề này.
TẠI SAO THẾ GIỚI CĂM GHÉT Y-SƠ-RA-ÊN ?
Nhiều Cơ đốc nhân tin rằng Hội Thánh đã thay thế Y-sơ-ra-ên trong các lời tiên tri của Đức Chúa Trời. Vì thế họ không còn căm ghét Y-sơ-ra-ên hay người Do Thái nữa. Nhưng có một sự thật hiển nhiên dành cho tất cả những ai nghiên cứu lịch sử của thế giới đều thấy rằng nó có một điểm liên quan nào đó với Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên bị căm ghét và bị qui lỗi cho nhiều vấn đề trên thế giới nầy. Những chứng cứ trong lịch sử Hội Thánh đã nói lên điều đó. Y-sơ-ra-ên bị kết án, khủng bố và hàng triệu người Do-Thái đã bị sát hại, và tệ hại hơn người ta đã lợi dụng danh nghĩa của Đức Chúa Trời để làm những điều như thế.
CHỦ NGHĨA BÀI (bài xích, tẩy chay) DO THÁI LÀ GÌ?
Chủ nghĩa bài Do Thái ám chỉ đến tất cả những hành động chống lại, tẩy chay người Do Thái.
Theo Kinh Thánh Sa-tan ghét người DoThái và quốc gia Y-sơ-ra-ên ( Khải 12).
Chủ nghĩa bài Do Thái đã được dự báo trong Phục truyền luật lệ ký 28:65-67 “Trong các nước ấy, ngươi không được an tịnh, bàn chân ngươi không được nghỉ ngơi; nhưng tại đó Đức Giê-hô-va sẽ ban cho ngươi một tấm lòng run sợ, mắt mờ yếu, và linh hồn hao mòn. Sự sống ngươi vẫn không chắc trước mặt ngươi; ngày và đêm ngươi hằng sợ hãi, khó liệu bảo tồn sự sống mình. Bởi cớ sự kinh khủng đầy dẫy lòng ngươi, và bi cảnh mắt ngươi sẽ thấy, nên sớm mai ngươi sẽ nói: Chớ chi được chiều tối rồi! Chiều tối ngươi sẽ nói: Ước gì được sáng mai rồi!” Đức Chúa Trời cho phép cách hợp pháp sự phán xét trên tuyển dân bội nghịch và không vâng lời.
Đáng tiếc thay một số hành động bạo tàn chống lại người Do Thái được thực hiện trong danh nghĩa của Cơ Đốc Giáo. Nó bắt đầu từ các giáo phụ được tôn kính trong Hội Thánh. Họ đã phớt lờ đi các phần Kinh Thánh dạy rõ ràng về quốc gia Y-sơ-ra-ên.
Nhưng thực ra chủ nghĩa bài Do Thái đã bắt đầu rất sớm trong Sáng thế ký 3:15 “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người”.
Trước thời kỳ Hội Thánh không bao lâu, Kinh Thánh đã ghi lại chủ nghĩa bài Do Thái đã khởi phát từ một người tên là Ha-man. Ông ta đã lên một kế hoạch hủy diệt toàn bộ dân Do Thái. Nhưng Ê-xơ-tê, một thiếu nữ Do Thái xinh đẹp đã can thiệp vào kế hoạch nầy và đem đến một kết quả ngược với sự mong đợi của Ha-man.
Những nhà lãnh đạo của Hội Thánh thời kỳ đầu tiên cho rằng Hội Thánh đã thay thế Y-sơ-ra-ên trong chương trình của Đức Chúa Trời, và từ đó thái độ thù địch Y-sơ-ra-ên càng gia tăng hơn nữa trong chính họ.
Họ kết luận rằng phước hạnh mà Đức Chúa Trời hứa ban cho Y-sơ-ra-ên đã được hoán chuyển sang Hội Thánh (còn sự rủa sả thì không! ). Họ giải thích các phần Kinh Thánh liên quan đến Y-sơ-ra-ên chỉ còn ý nghĩa biểu tượng chứ không theo nghĩa gốc ban đầu. Họ thừa nhận người Do Thái đã đóng đinh Chúa Jesus ( nhầm lẫn những người lãnh đạo Do Thái gian ác với những người bình thường). Họ bỏ qua những tư liệu lịch sử quí giá về những thầy tế lễ gian ác đương thời với Đức Chúa Jesus mà một vài người trong số họ không phải là người Do Thái. Một giáo phụ của Hội Thánh trong thế kỷ thứ 4 là John Chrysostom, được mệnh danh là giám mục với cái miệng vàng rất nổi tiếng, đã xử dụng tài hùng biện của mình thuyết giảng với Hội Thánh: Người Do Thái là kẻ vô lại nhất trong tất cả mọi người. Họ là những người dâm đãng, tham lam, và keo kiệt. Họ là kẻ đã phản bội, giết chết Đấng Christ. Họ thờ lạy ma quỉ, tôn giáo của họ là bệnh hoạn. Họ là những kẻ hạ sát Đấng Christ…và không có sự chuộc tội nào có thể thực hiện được, không có sự xá tội hay tha thứ nào cả. Các cơ đốc nhân có lẽ sẽ không bao giờ từ bỏ việc trả thù đối với người Do Thái và bọn Do Thái phải sống trong tình trạng nô lệ mãi mãi. Đức Chúa Trời luôn luôn căm ghét người Do Thái. Tất cả mọi tín hữu cơ đốc phải giữ một quan điểm là bài Do Thái ( Bài thuyết pháp 4,1).
Bài thuyết pháp nầy trở thành tiếng vang trong lịch sử Hội Thánh sau đó. Thật không có gì đáng ngạc nhiên khi chiến dịch thập tự chinh hứa hẹn sự sống đời đời và xóa nợ cho những ai sát hại người Do Thái.
Vào thế kỷ 16, lòng căm thù người Do Thái của Martin Luther đã áp đảo sự sống tâm linh của ông và kết quả là ông ta nhiệt thành theo đuổi chủ nghĩa bài Do Thái. Trong một quyển sách nhỏ tựa đề: Người Do Thái và sự dối trá của họ, ông viết: “Các bạn hữu cơ đốc hãy biết điều nầy, các bạn không có kẻ thù nào lớn hơn là người Do Thái”. Ông kêu gọi nô dịch hóa người Do Thái, ông cho rằng họ là con cái của ma quỉ và không nên để cho họ tiếp xúc với các cơ đốc nhân. Ông yêu cầu phải đốt sạch các nhà hội của người Do Thái trên thế giới, các sách vở của họ phải bị phá hủy, nhà cửa của họ phải bị hoang phế, tiền bạc, kim loại quí của họ phải bị tước đoạt, các thầy giảng của họ phải bị ngăn cấm, không cho phép dạy dỗ, và lưỡi của họ phải bị cắt khỏi cổ họng của họ. ( Sách Giáo khoa Do Thái, quyển số 11, Nhà xuất bản Keder, trang 584-585 ). Hai ngày sau khi viết những lời nầy, Martin Luther đã chết. Hitler – trùm Phát xít Đức đã trưng dẫn những lời của M. Luther và tiến hành cuộc đại tàn sát tiêu diệt hơn sáu triệu người Do Thái trong những năm sau đó.
Y-SƠ-RA-ÊN VÀ LIÊN HIỆP QUỐC
Chúng nó toan mưu độc hại dân sự Chúa,
Bàn nghị nhau nghịch những kẻ Chúa che giấu.
Chúng nó nói rằng: Hãy đến tuyệt diệt chúng nó đến nỗi không còn làm nước,
Hầu cho danh Y-sơ-ra-ên không còn được kỷ niệm nữa.
Vì chúng nó một lòng bàn nghị nhau,
Lập giao ước nghịch cùng Chúa
(Thi thiên 83: 3-5)
A.M. Rosenthal nguyên chủ bút tờ Thời báo New York, đã viết trong bài báo của mình vào ngày 10, tháng 10, năm 1997: “Ngay sau khi Iraq đòi hỏi loại bỏ những viên chức người Mỹ ra khỏi nhóm điều tra về vũ khí của Liên Hiệp Quốc và đe dọa bắn hạ các máy bay do thám của Mỹ, thì Liên Hiệp Quốc quyết định đưa Y-sơ-ra-ên vào danh sách các quốc gia cần phải quan tâm trong chương trình nghị sự của họ”. Từ thời điểm đó cho đến hiện nay, Y-sơ-ra-ên luôn bị Liên Hiệp Quốc kết án.
Người Pa-le-xtin đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc xem xét lại tư cách thành viên của Y-sơ-ra-ên và yêu cầu quân đội Y-sơ-ra-ên triệt thoái ra khỏi Bờ Tây (thuộc xứ Giu-đa và Sa-ma-ri). Họ cũng yêu cầu Liên Hiệp quốc tước bỏ bất cứ quyền kiểm soát nào mà Y-sơ-ra-ên áp đặt lên thành phố Giê-ru-sa-lem.
Mặc dù không phải là một nhà nước có chủ quyền, và thậm chí không có cả dân bản địa, người Pa-le-xtin tạm thời bằng lòng với tình trạng của mình với tư cách quan sát viên và đòi hỏi được đề bạt lên tư cách thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc.
Y-sơ-ra-ên thường xuyên tấn công và làm hỏng đi tiến trình hòa bình với Pa-le-xtin. Đáp lại phía Pa-le-xtin từ chối thực thi các điều kiện đòi hỏi của hiệp ước hòa bình. Vấn đề chính là những hành động khủng bố chống lại người dân Y-sơ-ra-ên phải chấm dứt trước khi có bất kỳ một cuộc đàm phán nào có thể cải thiện được tình hình.
Y-sơ-ra-ên đã từng bị kết án trên 100 lần từ Liên Hiệp Quốc. Y-sơ-ra-ên là quốc gia duy nhất không được cho phép làm ủy viên luân phiên của Hội đồng bảo an. Tuy nhiên họ được cho phép trở nên một bộ phận của Hội đồng bảo an (giống như Iran, Syria, Libya và nhiều nước khác).
Không nghi ngờ gì nữa, nhiều quan sát viên khu vực trung đông đều có cái nhìn chung: thế lực đối lập với Y-sơ-ra-ên chính là Hồi Giáo. Những người Hồi giáo đều nhất quán là phải hủy diệt nhà nước Y-sơ-ra-ên và họ ủng hộ cho tất cả những ai có quan điểm như thế.
HUYỀN THOẠI VÀ SỰ THẬT VỀ Y-SƠ-RA-ÊN VÀ TRUNG ĐÔNG.
Đế quốc La-mã đã làm tan lạc, xua đuổi người Do Thái ra khỏi quê hương của họ ngay từ thế kỷ đầu tiên.
Không đúng! Cho mãi đến khi người Hồi Giáo tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược vào thế kỷ thứ 7, thì người Do Thái mới bị trục xuất, giết chết hay lẩn trốn khỏi quê hương. Trước đó khi Đế quốc La-mã giết chết và trục xuất trên một triệu người Do Thái, thì dân số Y-sơ-ra-ên lúc đó vẫn còn khoảng ba triệu.
Người Do Thái định cư trở thành quốc gia Y-sơ-ra-ên sau thế chiến thứ hai và sau chiến dịch tàn sát người Do Thái của Hitler. Kết quả của việc nầy dẫn đến người A-rập dời đến phía tây của sông Jordan.
Không đúng! Công cuộc định cư của người Do Thái đã tiếp tục trong suốt 12 thế kỷ. Thời điểm trở về định cư quan trọng nhất vào khoảng năm 1850. Phong trào Si-ôn – phục quốc Do Thái đã khởi phát vào năm 1894. Những khu đất được mua (với giá rất cao) từ những người Thổ nhĩ kỳ mà họ không ở thường xuyên trên những khu đất đó, điều nầy được tiếp tục cho mãi đến khi đế chế Ottoman tan rã sau thế chiến thứ nhất.
Người Do Thái đã lấy những khu đất của người A-rập, và rồi họ đã cải thiện những khu đất nầy trở thành các nông trang màu mỡ xanh tươi và những nông trường cam quít đầy trái.
Không đúng! Vào năm 1874 Samuel Manning đã viết: Vùng đất nầy hoang vắng, không có người cư trú. Mark Twain trước đó vào năm 1867 cũng viết: Xứ Pa-le-xtin mặc áo tang và rắc tro lên đầu sám hối…bị ruồng bỏ và vô duyên.
Carl Hermann Voss đã viết trong sách Những khó khăn của Pa-le-xtin hôm nay. Trong chương Y-sơ-ra-ên và các nước chung quanh (Trang 13, nhà xuất bản Boston năm 1953) ông bình luận: Trong suốt 12 thế kỷ, từ cuộc xâm chiếm của người A-rập cho đến thế kỷ thứ 17 khi người Do Thái trở về vào năm 1880, xứ Pa-le-xtin bị bỏ trống hoang vắng.
Không hề có bất cứ một cư dân nào người A-rập định cư ở Bờ tây sông Jordan trước cuộc xâm lược của Hồi giáo vào thế kỷ thứ 7.
Tại Hội nghị Versailles (được tài trợ bởi Hội quốc liên) để bàn về những vấn đề của bản tuyên ngôn Balfour 1917, vua Faisal cai trị miền Đông khu vực sông Jordan đã hoan nghênh người Do Thái trở về định cư trên cả hai phía của sông Jordan, ông cho rằng điều nầy sẽ góp phần phát triển cho vùng đất nầy. Tổng số dân của vùng nầy ( về sau đã trở nên quê hương của người Do Thái) lúc bấy giờ chưa tới 400.000 người.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng náo động tại khu vực Trung Đông chính là sự chiếm chỗ của nhà nước Do Thái trên mảnh đất của người Pa-le-xtin.
Thêm lần nữa, lời phát biểu nầy cũng không đúng. Bất cứ ai am hiểu về Trung đông khi đọc lịch sử của nó đều kết luận rằng cái gọi là vấn đề Pa-le-xtin không phải là nguyên nhân cơ bản cho tình trạng sôi động trong khu vực. Thế kỷ thứ 20 đã chứng kiến trên ba triệu người chết vì tình trạng bạo lực của chính cộng đồng A-rập.
Chế độ cai trị của Hồi Giáo trong khu vực Trung đông không làm cho người ta trở thành bạn hữu nhưng trở thành kẻ thù của nhau. Khi nghiên cứu Kinh Thánh, hầu hết những người cai trị này không phải là dòng dõi của Áp-ra-ham hay Ích-ma-ên. Họ không thuộc về A-rập, nhưng họ đã lợi dụng những ngộ nhận nầy.
(Còn nữa)
David Hocking
Translated by Hon Pham