Trang Chủ CÁC SÁCH BIÊN DỊCH Lời Chúa Trong Tân Ước

Lời Chúa Trong Tân Ước

1110
0
SHARE

                                        Suy Ngẫm Tân Ước Với Warren W. Wiersbe          

Nguyên tác: New Testament WORDS For Today

Tác giả: Warren W. Wiersbe

Translated by Tuong Vi – Vinh Hien

 

Lời Nói Đầu

“Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời, vì đã được ơn nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh em; nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà rao giảng trong Hội thánh, để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời bằng tiếng lạ.” (1 Cô-rinh-tô 14:18-19)

Nếu bạn biết cách chọn lựa các từ ngữ, thì chỉ cần năm từ ấn tượng có thể diễn đạt các ý tưởng làm thay đổi cuộc sống.

Thomas Jefferson đã viết năm từ sau đây trong bản Tuyên ngôn độc lập: Mọi người (sinh ra) đều bình đẳng (All men are created equal). Về sau Abraham Lincoln đã trích dẫn năm từ này trong bài diễn văn nổi tiếng Gettysburg Address.

“Một cảnh tượng ghê gớm đang ám ảnh Âu Châu” (A specter is haunting Europe) là những từ mà Karl Mark và Friedrich Engels sử dụng để mở đầu trong bản Tuyên ngôn cộng sản. Nội dung của nó đã làm rung chuyển một phần của thế giới.

Vào ngày 18 tháng 6 năm 1940, Thủ tướng Winton Churchill đã làm say mê dân chúng nước Anh với một bài diễn văn được kết luận bằng năm từ khó quên: “Chúng ta hãy tự mình gánh vác bổn phận, và hãy chịu trách nhiệm trước lịch sử. Nếu Khối Liên Hiệp Anh và Đế chế của nó tồn tại trong một ngàn năm, con người trên thế giới vẫn sẽ nói: ‘Đây là khoảng thời gian thành công vĩ đại nhất của họ.’ – This was their finest hour.”

Kinh Thánh là “lời sống và linh nghiệm” (Hê-bơ-rơ 4:12) chứa đựng nhiều lời công bố bao gồm năm từ – mà Đức Thánh Linh có thể truyền cảm hứng để dẫn dắt chúng ta trong thế giới hỗn loạn ngày nay. Trong quyển sách này tôi sẽ chia sẻ sự suy ngẫm cá nhân trên nền tảng một trăm cụm từ ngắn trong Tân ước của bản Kinh Thánh New King James Version.

Tôi tin rằng khi bạn suy ngẫm Lời Chúa và xem xét những điều tôi chia sẻ, Đức Thánh Linh sẽ soi sáng, khích lệ bạn khám phá ý chỉ của Đức Chúa Trời và vui thích thực hiện nó.

 

Warrren W. Wiersbe

 

Bài 1

 Song Giô-sép không hề ăn ở với Ma-ri cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là Jesus.

Ma-thi-ơ 1:25

Đức Chúa Trời không hề làm điều gì một cách vội vàng, Ngài đã dẫn dắt nhiều người đến các nơi khác nhau làm những điều khác nhau chuẩn bị con đường cho sự sinh ra của Chúa Jesus tại Bết-lê-hem.  Và khi thời điểm của Ngài đã đến, sứ đồ Phao-lô viết, “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp,” (Ga-la-ti 4:4-5). Trong Ma-la-chi 1:11. Đức Chúa Trời đã hứa rằng danh Ngài sẽ “lớn ở giữa các dân,” và bây giờ Đấng Christ đã đến để hoàn thành lời hứa đó (Giăng 17:4). Danh đầu tiên và cuối cùng trong Tân Ước là danh Jesus theo Ma-thi-ơ 1:1 và Khải huyền 22:21. Ở giữa hai câu Kinh Thánh này, danh Jesus được đề cập hơn chín trăm lần. Trong chương đầu tiên của Ma-thi-ơ, danh Jesus được liên kết với hai danh khác: Christ và Em-ma-nu-ên. Tên chính thức của Ngài là Christ, nghĩa là “được xức dầu” và tên này nhắc nhở chúng ta Chúa Jesus là tiên tri, thầy tế lễ, và vua. Trong quốc gia Hê-bê-rơ, một người có các chức vụ này luôn được xức bằng một loại dầu đặc biệt. Em-ma-nu-ên nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”, cho chúng ta biết Chúa Jesus là Đức Chúa Trời và Ngài luôn luôn ở cùng với dân Ngài. Jesus, tên Ngài có nghĩa “Đấng cứu rỗi”. Chúng ta hãy suy nghĩ về danh Jesus này.

 

Jesus là danh được xức dầu thần thượng. Thiên sứ viếng thăm Ma-ri và bảo nàng gọi con nàng là Jesus (Lu-ca 1:31); và trong giấc mơ của Giô-sép, thiên sứ cũng ban cho ông cùng một mạng lệnh (Ma-thi-ơ 1:21), rồi ông vâng phục Chúa (câu 25). Khi đứa trẻ chịu cắt bì, danh Jesus được đặt cho đứa trẻ (Lu-ca 2:21). Danh Jesus có nguồn gốc từ tiếng Hê-bơ-rơ Yehoshua, nghĩa là “Chúa Đấng cứu rỗi.” Cụm từ “Ngài sẽ cứu dân Ngài” trong Ma-thi-ơ 1:21 không chỉ để cập đến sự cứu rỗi của người Do Thái nhưng cũng đến với tất cả những ai tin nơi Chúa Jesus.

 

Jesus là một danh tôn quý. Danh này cũng thuộc về Hô-sê, một trong mười hai người do thám xứ Ca-na-an, nhưng Môi-se đổi tên Hô-sê thành Giô-suê (Dân số ký 13:8, 16). Trong thời gian đi trong đồng vắng, Giô-suê là người hỗ trợ đặc biệt của Môi-se và là tướng của đạo quân. Đức Chúa Trời làm cho ông trở nên người kế tục Môi-se dẫn dân sự vào miền đất hứa. Nhưng tên Giê-hô-sua cũng thuộc về một thầy tế lễ thượng phẩm, người mà phục vụ dân sót Do Thái trở về đất thánh sau khi lưu đày tại Ba-by-lôn (A-ghê 1:1). Bởi vì tài năng vượt trội của hai người này, một tướng quân và một thầy tế lễ thượng phẩm, nên nhiều đứa trẻ Do Thái được đặt tên là Giô-suê, mà trong tiếng Hy lạp là Jesus.

 

Jesus là một danh quyền năng. Thật là một tin tốt lành: Chúa Jesus là Đấng cứu rỗi tội nhân! “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công vụ 4:12). Nhưng xa hơn nữa, Ngài là chủ và là bạn của những người tin! Dân Ngài có đặc ân cầu nguyện trong uy quyền của danh Ngài. “Các ngươi nhân danh ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con.  Nếu các ngươi nhân danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho” (Giăng 13:13-14). Trong danh Jesus chúng ta có uy quyền để rao giảng Phúc âm (Lu-ca 24:47), cơ hội nhóm lại thờ phượng Chúa với các môn đồ khác (Ma-thi-ơ 18:20), và đặc ân để chịu khổ vì danh Ngài (Công vụ 5:41; 1 Phi-e-rơ 4:14).

 

Tuy nhiên Jesus cũng là một danh bị lạm dụng. Nhiều người dùng danh Ngài để thề thốt hoặc họ sử dụng danh Chúa trong sự bất kính. Nhưng với chúng ta là những con cái của Đức Chúa Trời, chúng ta phải bày tỏ danh Jesus bởi các việc làm tốt, đời sống tin kính và lời nói ân hậu.

Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jesus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống.

Phi-líp 2: 9-10

                                                         

Bài 2

“Khi vào đến nhà, các bác sĩ thấy con trẻ cùng Ma-ri, mẹ Ngài, thì sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài.” Ma-thi-ơ 2:11

Chúng ta thường hát “ba vua hành khúc” trong mùa lễ Giáng sinh, nhưng các bác sĩ phương đông không phải là ba vị vua, đúng hơn họ là những nhà chiêm tinh giải nghĩa giấc mơ. Chúng ta không biết có bao nhiêu bác sĩ trong câu chuyện này. Đức Chúa Trời đã dẫn dắt họ qua một ngôi sao huyền nhiệm tới ngôi nhà tại Bết-lê-hem nơi một gia đình tin kính đang cư ngụ để tôn thờ Cứu Chúa vừa mới ra đời. Hãy suy xét một vài yếu tố trong sự kiện trọng đại này.

Tính kiên định. Chúng ta không biết các bác sĩ đến từ quốc gia nào, mặc dầu nhiều học giả tin rằng họ đến từ Persia (Iran ngày nay). Không nghi ngờ gì, họ phải là một đoàn người với nhiều lạc đà đi theo đã khuấy động cả Giê-ru-sa-lem và làm kinh ngạc vua Hê-rốt. Họ phải đi bộ trong nhiều ngày, với một đoàn người tháp tùng, trải qua nhiều thử thách để đến được đích. Vài học giả tin rằng có thể họ đã di chuyển khoảng một năm. Dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay có thể tương giao với Đấng cứu rỗi trên ngai ân điển bất cứ lúc nào, và chúng ta biết rằng Ngài luôn ở với chúng ta (Ma-thi-ơ 28:18-20; Hê-bơ-rơ 13:5), nhưng vào thời của các bác sĩ, muốn diện kiến Đấng Mê-si không phải là việc dễ dàng. Chúng ta cần ân điển của Chúa và tính kiên định cá nhân để theo đuổi đời sống Cơ đốc. Hê-bơ-rơ 6:12 khuyên bảo chúng ta không nên “trễ nải, nhưng cứ học đòi những kẻ bởi đức tin và lòng nhịn nhục mà được hưởng lời hứa.”

Sự hướng dẫn. Sẽ không có sự di chuyển nếu như bạn không biết nơi bạn phải đi, nhưng Chúa đã ban cho các bác sĩ sự hướng dẫn qua một ngôi sao đặc biệt. Là những người quan sát các từng trời, các bác sĩ đã tìm thấy ngôi sao dẫn đường hoàn hảo. Và khi họ đến Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ căn cứ vào Mi-chê 5:2 bảo họ đi tới Bết-lê-hem, và sau đó tại Bết-lê-hem ngôi sao dẫn đường lại hiện ra và đưa họ đến đúng ngôi nhà. Chúng ta phải bước theo Chúa từng bước mỗi ngày. Đức Chúa Trời không gởi cho các bác sĩ một bản đồ; Ngài dẫn họ mỗi một ngày và họ đã đến nơi đúng thời điểm. Đức Chúa Trời có thể sử dụng hoàn cảnh, con người, và Lời Ngài để chỉ đường Ngài muốn cho chúng ta đi, và chúng ta phải đồng ý với Ngài. Hãy nghiêm túc với việc đọc Lời Chúa! Nếu chúng ta dành thời gian hằng ngày suy gẫm Kinh Thánh, Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta lời hứa, sự cảnh tỉnh, hoặc mạng lệnh vào thời điểm chúng ta cần.

 

Địa vị cao trọng. Các bác sĩ là những người giàu sang và có địa vị cao trọng, trong khi hầu hết Cơ đốc nhân là những người bình thường sống cuộc đời giản dị, nhưng tất cả đều có đặc ân thờ phượng Chúa Jesus và phụng sự Ngài! Đức Chúa Trời không thiên vị bất kỳ con người nào (Công vụ 10: 34-35). Chúng ta có thể không có những của dâng phong phú để dâng lên Ngài, nhưng nếu chúng ta dâng lên Ngài những gì từ trong lòng mình, Ngài sẽ chấp nhận và ban phước. Chúa Jesus chấp nhận bữa ăn của cậu bé nhỏ (Giăng 6:8-11), cũng như là bình dầu đắt tiền của Ma-ri (12:1-8), và cả hai của dâng đó đều mang lại phước hạnh cho người khác. Dường như các của dâng từ các bác sĩ dành cho Chúa Jesus chính là nguồn tài chánh để Giô-sép và gia đình trốn qua Ai-cập, trang trải cuộc sống của họ tại đây.

Sự tôn kính. Sau khi vào nhà, các bác sĩ “sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài” (Ma-thi-ơ 2:11). Những người ngoại bang này bởi việc làm bày tỏ rằng Vua của Do thái sẽ mang đến sự cứu rỗi đến cho các nước của thế gian (4:15-16; 12:15-21). Tiệc mừng ngày sinh hằng năm của Đấng Christ phải bao gồm việc cảm tạ Quà Tặng của Đức Chúa Trời đã ban cho toàn thế gian. Đó phải là thời gian để thờ phượng và ngợi khen Chúa, và chúng ta phải dâng những của lễ lên cho Chúa Jesus như các bác sĩ đã làm từ nhiều thế kỷ trước.
Các bác sĩ đã không trở lại với vua Hê-rốt hay các thầy tế lễ, họ đã tìm được Vua Jesus và không cần điều gì khác hay ai khác nữa. Đừng có đi xa khỏi Vua! Giống như các người chăn “trở về, làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều mình đã nghe và thấy” (Lu-ca 2:20), các bác sĩ cũng không ngại loan báo lời tốt lành tại quê nhà rằng Đức Chúa Trời đã ban cho thế gian một Đấng Cứu rỗi, và danh Ngài là Jesus. Chúng ta hãy bước theo gương mẫu này.

 

“Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa.”
1 Ti-mô-thê 6:15

 

 

Bài 3

“Lúc ấy, Giăng Báp-tít đến giảng đạo trong đồng vắng xứ Giu-đê, rằng: Các ngươi phải ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần.” Ma-thi-ơ 3: 1-2

 

Sự xuất hiện thình lình của Giăng Báp-tít làm dân sự hoang mang và gây khó hiểu cho giới lãnh đạo Do Thái (Giăng 1:14-28). Nếu các thầy tế lễ nhớ những gì mà các tiên tri đã nói, họ sẽ biết được Giăng là ai và ông đến để làm điều gì (Ê-sai 40:3-5; Ma-la-chi 3:3; 4:5-6). Chúa Jesus phán về Giăng Báp-tít, “trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít” (Ma-thi-ơ 11:7-15). Chắc chắn sứ điệp của Giăng Báp-tít là vĩ đại nhất vào thời đó, vì ông rao giảng Đấng Mê-si được hứa sắp đến và vương quốc của Ngài. Ông kêu gọi mọi người ăn năn vì tội lỗi của họ và chào đón Đấng cứu rỗi. Giăng là một gương mẫu tốt cho chúng ta về một đầy tớ trung tín.

 

Giăng xuất hiện vì ông được sai đến từ Chúa. “Có một người Đức Chúa Trời sai đến, tên là Giăng” (Giăng 1:6). Từ được dịch là “sai đến” cho chúng ta một từ khác liên quan “sứ đồ” có nghĩa là “người được ủy thác bởi vua và được uy quyền để phát ngôn cho vua”. Công tác của Giăng là chuẩn bị con người cho chức vụ của Chúa Jesus. Tình trạng thuộc linh của người Do Thái lúc bấy giờ thì suy thoái và Giăng kêu gọi họ phải ăn năn về tội mình và trở lại với Chúa. Bởi vì Giăng là một tôi tớ dũng cảm của Chúa, ông không hề sợ hãi về những gì con người có thể chống nghịch ông. Ông có một đời sống cầu nguyện và khắc khổ trong đồng vắng. Ông giống như tiên tri Ê-li can đảm đối đầu với vua A-háp, các tiên tri Ba-anh và đã chiến thắng họ trên núi Cạt-mên (1 Các vua 17-18).  Điều duy nhất để có uy quyền và chiến thắng là được sai đến bởi Đức Chúa Trời và làm công tác Ngài đã chỉ định cho chúng ta.

 

Giăng chia sẻ sứ điệp mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông. Có nhiều từ trong Tân Ước chỉ về  rao giảng, và một trong những từ được dùng có nghĩa là: “thông báo một sứ điệp chính thức.” Ngày nay, các viên chức chính quyền có nhiều cách để truyền thông với người dân, nhưng trong thời của Giăng, người loan tin sẽ phát ngôn các sứ điệp. Vì người Do Thái bị mù lòa thuộc linh với ánh sáng của Chúa, nên Giăng là chứng nhân về sự sáng của Chúa Jesus (Giăng 1:7-8). Vào lúc này dân sự đang lang thang trong đồng vắng tôn giáo giống như người Do Thái thời Cựu Ước, và Giăng đã chọn bối cảnh trong đồng vắng gần sông Giô-đanh để làm chứng nhân cho Chúa. Nhưng một trong những điểm đặc biệt nhất về Giăng Báp-tít đó là ông không làm bất kỳ phép lạ nào (Giăng10: 40-42). Công tác của Giăng được hoàn tất bởi việc rao giảng Lời, giống như công tác của chúng ta ngày nay. Đừng bao giờ đánh giá thấp quyền năng của việc công bố Lời Đức Chúa Trời.

 

Chức vụ chủ yếu của Giăng là tôn cao Chúa Jesus Christ. Ông nói, “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Giăng 3:30). Ông tôn thờ Chúa Jesus và từ chối chính mình. “Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Jesus Christ, tức là Chúa; và vì tình yêu mến Đức Chúa Jesus mà chúng tôi xưng mình là tôi tớ của anh em” (2 Cô-rin-tô 4:5). Chúa Jesus Christ là Lời hằng sống (Giăng 1:1-2, 14), và Giăng Báp-tít công bố ông chỉ là “tiếng của người kêu trong đồng vắng” (Giăng 1:19-24). Bạn có thể nghe âm thanh, nhưng bạn không thể thấy nó nếu bạn không có những dụng cụ đặc biệt. Giăng chỉ là “đuốc đã thắp và sáng” (Giăng 5:35), nhưng Chúa Jesus là sự sáng ( Giăng 1:6-9; 8:12). Giăng giảng về Chúa Jesus như là chàng rể, còn Giăng chỉ là người dự lễ cưới ( Giăng 3:29). Thiên sứ đã phán với cha của Giăng rằng con ngươi sẽ là lớn (Lu-ca 1:15), nhưng Giăng nhận biết rằng Chúa Jesus là Đấng lớn hơn.

Khi chúng ta tìm kiếm đường lối để phụng sự Chúa, chúng ta phải chắc rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi và sai chúng ta đi. Chúng ta hãy rao truyền sứ điệp mà Ngài đã ban và bảo đảm rằng sứ điệp đó tôn cao Chúa Jesus Christ. Chúa Jesus khen ngợi Giăng vì ông không phải là cây sậy bị gió rung hay là người mặc áo tốt đẹp nhưng là một đầy tớ hết lòng của Chúa (Ma-thi-ơ 11:7-15). Ngài có thể phán như thế về chúng ta?

“Hầu cho cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng.” Cô-lô-se 1:18

 

Bài 4

 

“Tức thì có tiếng từ trên trời phán rằng: Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng.”
Ma-thi-ơ 3:17

 

Đức Chúa Cha xác nhận tình yêu của Ngài đối với Đức Chúa Con. Khi Chúa Jesus đến sông Giô-đanh để chịu Giăng Báp-tít làm phép báp-tem, Giăng đã nhận ra Ngài. Ông biết rằng Chúa Jesus không có tội để phải chịu phép báp-tem, vì thế Giăng từ chối, nhưng Chúa Jesus khẳng định phải vâng theo ý chỉ của Cha. Hầu hết các học giả Tân Ước đều đồng ý rằng báp-tem trong Tân Ước là dìm mình vào nước, minh họa cho sự chết, chôn, và phục sinh. Từ “chúng ta” trong câu 15 không hàm ý chỉ về Chúa Jesus và Giăng, nhưng về Đức Chúa Cha, Đức Chúa Jesus và ĐứcThánh Linh là Đấng sẽ “làm trọn mọi việc công bình” trong sự chết, chôn, và sự phục sinh của Con Đức Chúa Trời. Chúa Jesus phán về báp-tem này trong Lu-ca 12:50, “Có một phép báp-têm mà ta phải chịu, ta đau đớn biết bao cho đến chừng nào phép ấy được hoàn thành!” Đây là lần đầu tiên trong ba lần mà Đức Chúa Cha xác nhận tình yêu đối với Con Ngài (tình yêu gắn liền với sự chịu khổ), và cả ba lần đều liên quan đến thập tự giá. Lần thứ hai tại Núi hóa hình (Ma-thi-ơ 17: 1-7) và lần thứ ba sau khi Chúa Jesus vào thành Giê-ru-sa-lem (Giăng 12: 12-32). Khi chúng ta đối mặt với đồi Calvary, Cha của chúng ta bày tỏ tình yêu Ngài với chúng ta.

 

Satan đặt câu hỏi về tình yêu của Đức Chúa Cha. Sau khi Chúa Jesus chịu báp-tem, Ngài được Thánh Linh dẫn vào đồng vắng để chịu ma quỉ cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11). Chúa Jesus kiêng ăn bốn mươi ngày đêm, và khi thân thể vật lý Ngài đã suy yếu Satan đến tấn công Ngài qua ba lần đề nghị. Trước hết, Satan trưng dẫn lời mà Đức Chúa Cha đã phán từ trời trước đó trong Ma-thi-ơ 3:17, nó đặt vấn đề: “Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi” (Ma-thi-ơ 4:3). Khi cám dỗ chúng ta, một trong những chiến lược của Satan là làm cho chúng ta nghi ngờ về tình yêu của Cha thiên thượng. Khi Satan khiến chúng ta nghi ngờ về điều này, nó sẽ dễ dàng phá hủy đức tin, hi vọng và tình yêu của chúng ta. Satan có ý nói, “Jesus, tại sao ngươi phải chết trên thập tự giá? Đức Chúa Trời há yêu ngươi sao? Hãy thờ phượng ta, ta sẽ cho ngươi các vương quốc của thế gian và ngươi sẽ không phải chịu khổ” (câu 9). Bất cứ khi nào bạn bị cám dỗ, đừng bao giờ chất vấn tình yêu của Đức Chúa Cha. Nếu Chúa Jesus là Đấng cứu rỗi của bạn, thì bạn được “chấp nhận trong Con yêu dấu” (Ê-phê-sô 1:6).

 

Đức Chúa Con bày tỏ tình yêu thần thượng tại đồi Calvary. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8). Thập tự giá là bằng chứng lớn nhất về tình yêu của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết Đức Chúa Trời yêu chúng ta, không phải bởi vì chúng ta khỏe mạnh, giàu có, và vui hưởng một đời sống dễ dàng, nhưng bởi vì Ngài phán như vậy trong Kinh Thánh. Sự thật là Chúa Cha yêu chúng ta cũng như Ngài yêu chính Con Ngài. Chúa Jesus cầu nguyện với Cha, “và cho thế gian biết chính Cha đã sai Con đến, và Cha đã yêu thương họ cũng như Cha đã yêu thương Con” (Giăng 17:23). Là người được tuyển chọn của Đức Chúa Trời, bạn là con yêu dấu của Đức Chúa Cha (Cô-lô-se 3:12). Chúng ta thảy đều là con cái của Đức Chúa Trời, là “anh em yêu dấu của Chúa” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13), điều này không dựa vào cảm giác của chúng ta đau đớn như thế nào, hay cảm thấy khó chịu với hoàn cảnh. Khi chúng ta nghi ngờ về tình yêu của Đức Chúa Trời, hãy nhìn lên thập tự giá.

 

Tình yêu của chúng ta đối với người khác chứng minh tình yêu của Đức Chúa Trời đối với họ. Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu qua dân sự của Ngài. Thế giới hư mất này sẽ không thể tin vào Giăng 3:16 nếu các Cơ đốc nhân không chịu vâng theo 1 Giăng 3:16 – “Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống; chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy.” Cơ đốc nhân là những ống dẫn, không phải trũng chứa nước. Khi Đức Thánh Linh hành động trong và qua chúng ta, chúng ta dễ dàng chia sẻ tình yêu của Đức Chúa Trời với người khác. “Nhưng trái của Thánh Linh ấy là tình yêu” (Ga-la-ti 5:22). Tình yêu không phải là một vở kịch mà chúng ta có thể diễn như các nghệ sĩ sân khấu. Tình yêu là kết quả của công tác Thánh Linh bên trong chúng ta, nó sống động, tỏa hương, nuôi dưỡng mọi người và tái sản sinh những bông trái khác.

 

“Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ.”
1 Cô-rin-tô 13:8

 

 

Bài 5

“Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn.”

Ma-thi-ơ 5:48

 

Không thể nào! Đây là phản ứng trước hết của chúng ta đối với câu này, bởi vì từ trọn vẹn gây khó chịu cho chúng ta là những con người sa ngã vào tội lỗi. Chúng ta cố gắng làm điều tốt nhất, nhưng thật khó để nói việc gì đó là “trọn vẹn”. Nếu chúng ta  trọn vẹn, vậy tại sao lại có lời cầu nguyện này, “Xin tha các sự quá phạm của chúng tôi” trong bài cầu nguyện mẫu của Chúa dạy các môn đồ? Cha thiên thượng của chúng ta muốn chúng ta sẵn sàng cho sự trọn vẹn bởi vì Ngài không thể làm điều chi khác hơn là điều tốt nhất cho con cái Ngài. Dưới đây là vài hướng dẫn giúp chúng ta theo đuổi sự trọn vẹn. 

 

Mục tiêu của đời sống Cơ đốc là sự tin kính (godliness), và sự tin kính đơn giản nghĩa là “giống như Đức Chúa Trời” (God-likeness). Ngày 3 tháng 3 năm 1085, nhà truyền giáo Henry Martyn đã ghi chép như sau trong chuyến hành trình của mình: “công việc quan trọng trong đời sống tôi là được thánh hóa linh hồn mình.” Ông đã đúng khi viết điều này. Sứ đồ Phao-lô khuyên dạy Ti-mô-thê luyện tập sự tin kính (1 Ti-mô-thê 4:7) và giảng “đạo lý theo sự tin kính” (6:3). Từ được dịch là trọn vẹn trong Ma-thi-ơ 5:48 nghĩa là “trọn lành, trưởng thành trong tính cách.” Một bác sĩ nhi khoa khám đứa bé ba tháng tuổi và nói, “Đứa trẻ này thì trọn vẹn.” Tất nhiên, đứa trẻ không trọn vẹn vì nó chỉ có thể ăn, ngủ, và khiến cho người khác phục vụ nó – nhưng sau một thời gian sống trong thế giới, nó sẽ đạt đến thời điểm để phát triển. Cơ đốc nhân có thể là nạn nhân của việc không phát triển nếu như khước từ: Kinh Thánh, cầu nguyện, thờ phượng và phục vụ (Hê-bơ-rơ 5:12-6:1). “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” được nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh (Lê-vi ký 11:44-45; 19:2; 20:7; 1 Phi-e-rơ 1:15-16). Mục tiêu của đời sống chúng ta là sự tin kính, nó là chìa khóa cho các phước hạnh khác. 

 

Gương mẫu của sự tin kính là Chúa Jesus Christ. “Đức Chúa Jesus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta” (Lu-ca 2:52). “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jesus Christ” (2 Phi-e-rơ 3:18). Chúa Jesus muốn các môn đồ Ngài trở nên các con trưởng thành của Đức Chúa Trời và không bị dồi dập như các con trẻ (Ga-la-ti 4:4-7). Cha mẹ vui mừng khi các con đủ trưởng thành để tự chăm sóc các nhu cầu của chúng, và chúng cũng có thể nhận lấy trách nhiệm cá nhân về các vấn đề. Khi chúng ta được sinh lại trong gia đình của Đức Chúa Trời, Chúa bắt đầu hành động trong chúng ta để chuyển tải cho chúng ta sự sống và giao phó những công tác phục vụ. Ngài tiếp tục hành động đem chúng ta tiến tới sự trưởng thành thuộc linh (Phi-líp 1:6; Ê-phê-sô 2:10). Sứ đồ Phao-lô khao khát chúng ta “trở nên toàn vẹn và trọn niềm vâng phục mọi ý muốn của Đức Chúa Trời” (Cô-lô-se 4:12). Chúng ta sẽ không có mối liên hệ thân mật với Cơ đốc nhân khác trừ khi chúng ta đang có mối liên hệ sâu đậm với Đấng Christ (1 Cô-rin-tô 11:1). 

 

Động cơ theo Chúa là tình yêu. Tình yêu Cơ đốc nghĩa là chúng ta đối xử với người khác như Cha trên trời đối xử với chúng ta, không phải giống như kẻ thù đối xử với chúng ta. Khi kẻ thù phỉ báng chúng ta, chúng chỉ làm đau đớn chính chúng nó. Khi chúng ta đáp lại yêu thương thay vì oán ghét, chúng ta đang lớn lên trong Chúa và Ngài sẽ đổi lời rủa sả của kẻ thù thành phước hạnh cho chúng ta (Phục truyền 23:5). Tình yêu thương xây dựng, nhưng oán ghét phá đổ. Tình yêu của chúng ta đối với Đấng Christ khiến chúng ta có thể kinh nghiệm tình yêu Ngài dành cho chúng ta và chia sẻ tình yêu đó cho người khác, đặc biệt những người không xứng đáng. Cách chúng ta đối xử với người khác không phụ thuộc vào cách họ đối xử với chúng ta nhưng theo cách Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta. Ngài ban cho họ ánh sáng mặt trời, mưa, giống như ban cho chúng ta, vì vậy có thể nào chúng ta cho họ bão tố? Nếu chúng ta đang trở nên trọn vẹn, hoàn hảo và trưởng thành trong Đấng Christ, chúng ta cũng phải chịu khổ như Ngài đã chịu khổ và phục vụ người khác để tôn vinh Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể không thích người phỉ báng chúng ta, nhưng với sự giúp đỡ của Thánh Linh chúng ta có thể yêu thương họ. Rô-ma 12:17-21 là mạng lệnh chúng ta phải bước theo, và nếu chúng ta vâng lời, chúng ta sẽ trưởng thành trong hành vi, tính cách và càng trở nên giống như Chủ mình.

 

“Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác.”

Rô-ma 12:21

 

Bài 6

 “Vậy, khi ngươi bố thí, đừng thổi kèn trước mặt mình, như bọn giả hình làm trong nhà hội và ngoài đường, để được người ta tôn kính. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, bọn đó đã được phần thưởng của mình rồi.”

Ma-thi-ơ 6:2

Một người hoạt động cho cộng đồng từng nói với tôi, “Hãy nhớ rằng hầu hết mọi người anh gặp đều có một ký hiệu vô hình xung quanh cổ của người đó: HÃY LÀM CHO TÔI CẢM THẤY MÌNH ĐẶC BIỆT.” Chú ý đến con người bởi tình yêu Cơ đốc là một việc đúng đắn cần làm, miễn là động cơ của chúng ta thuần khiết, nhưng nếu quan tâm đến người khác để nhận được sự khen ngợi và ghi nhận của họ thì vượt ra ngoài vấn đề của chúng ta. Cách tiếp cận như vậy thuộc về các thầy thông giáo và Pha-ri-si vào thế kỷ thứ nhất. Bố thí cho người nghèo, cầu nguyện, kiêng ăn là những sự thực hành tôn giáo của người Do Thái, và Chúa Jesus khuyên họ đừng “đừng thổi kèn lớn tiếng cho chính mình” khi họ làm các điều đó. Người đáng tôn trọng, sẽ được tôn trọng, nhưng tìm kiếm lời ca tụng hay tìm kiếm sự chú ý cho các thực hành tôn giáo của chúng ta thì không phải là phong cách sống của Cơ đốc nhân. Có ba nguồn của sự ngợi khen, nhưng Chúa Jesus chỉ tán thành một cách và đó là cách mà chúng ta phải thực hành.

  1. Chúng ta có thể kích hoạt sự ngợi khen từ người khác.Các thầy thông giáo và Pha-ri-si tôn trọng và khen ngợi lẫn nhau nhưng họ đã quên đi điều quan trọng là nhận được lời khen ngợi đến từ Chúa (Giăng 5:44; 12:43). Tóm lại, họ quan tâm đến sự nổi tiếng hơn là nhân cách. Điều này không giống như Chúa Jesus nói về việc thổi kèn, bởi vì không người Do Thái nào được phép thổi kèn trong nhà hội. Đúng hơn, Ngài đang minh họa về hành động không đúng đắn trong việc gây cho người khác chú ý đến các “thành tích” của chúng ta. Khi con người cảm thấy sức ép để khen ngợi người khác, sự ngợi khen của họ bị trói buộc, không thành thực. Nếu tìm kiếm sự khen ngợi của loài người là mục đích của bạn, thì bạn có thể nhận lấy phần thưởng từ con ngưới – nhưng đó là sự kết thúc của phần thưởng thuộc linh. Bạn không thể nhận lấy phần thưởng hai lần, nhận lấy phần thưởng từ loài người và bạn sẽ không nhận phần thưởng từ Đức Chúa Trời.
  2. Chúng ta có thể sản xuất sự ngợi khen cho chính mình.Tôi được cảnh báo không cho tay tả biết việc làm của tay hữu (Ma-thi-ơ 6:3). Tại sao? Bởi vì nếu làm vậy, tôi sẽ ngay lập tức vỗ ngực xưng danh chính mình. “Vì ai tự nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên” (Lu-ca 14:11). Kinh Thánh ghi nhận nhiều bi kịch của con người khi niềm kiêu hảnh thổi phồng bản ngã của họ. Đa-vít đã hạ mình và trở nên vua của Israel, trong khi vua Sau-lơ tự cao và mất đi vương miện. Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã nói những lời này, “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao?” (Đa-ni-ên 4:30). Điều gì xảy ra cho ông sau đó? Ông phải sống như một con thú trong bảy năm kế tiếp. Sự kiêu hãnh của Môi-se khi đập hòn đá tại Ca-đe thay vì nói cùng hòn đá, phải trả giá bằng việc mất đi vinh hạnh dẫn dân sự vào miền đất hứa (Dân số ký 20:1-13). Niềm kiêu hãnh của Phi-e-rơ về lòng trung thành của ông với Chúa Jesus mang đến kết quả là ông chối Chúa ba lần (Giăng 13:36-38). Người nông dân giàu có khoe sự thành công của mình đã chết trong chính đêm đó (Lu-ca 12:13-21), và người Pha-ri-si cầu nguyện nơi đền thờ chỉ là người tự cao tự đại, rồi khi trở về nhà thì tình trạng còn tệ hơn lúc trước khi lên đền thờ (Lu-ca 18:9-14).
  3. Chúng ta chỉ có thể nhận sự ngợi khen từ Đức Chúa Trời.Điều quan trọng đó là động cơ của chúng ta phải thuần khiết, vì Chúa nhìn vào tấm lòng của chúng ta. Ban cho là hành động đúng đắn. Đức Chúa Trời truyền lệnh dân sự Ngài phải ban cho; chúng ta phải giúp những người đang thiếu thốn. Tuy nhiên chúng ta ban cho không phải vì chúng ta muốn nhận lấy phần thưởng nhưng là tôn vinh Chúa, đáp ứng các nhu cầu cho những người kém may mắn, và xây dựng đức tính Cơ đốc. Đức Chúa Trời không cần ban thưởng cho chúng ta, vì chúng ta mắc nợ Ngài sự vâng lời; nhưng qua ân điển, Ngài chọn chúng ta để ban thưởng. Ngày kia tại thiên đàng chúng ta sẽ đặt các phần thưởng của mình nơi chân Chúa Jesus (Khải. 4:10). Vì mọi điều tốt đẹp đều ra từ lòng rộng rãi của Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia

 

“Vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến,

Và những vật chúng tôi đã dâng cho Chúa chẳng qua là đã thuộc về Chúa.”

1 Sử ký 29:14

 

 

Bài 7

 

“Hỡi kẻ ít đức tin, loài cỏ ngoài đồng, là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thể ấy thay, huống chi là các ngươi!”

Ma-thi-ơ 6:30

Mọi người đều có đức tin vào một người nào đó hay vào điều gì đó, bất chấp họ cố gắng tránh né điều này. Nếu bạn đồng ý nhận một ngân phiếu hay là gởi tiền vào ngân hàng, bạn có đức tin vào ngân hàng. Nếu bạn đưa cho dược sĩ một đơn thuốc và sau đó lấy thuốc uống, bạn đang vận dụng đức tin. Lái xe trên đường hay thậm chí là bước vào thang máy và ấn nút cũng đòi hỏi đức tin. Yếu tố quan trọng nhất là đối tượng của đức tin. Và đối tượng đức tin của chúng ta chính là Đức Chúa Trời toàn năng. Đức tin Cơ đốc là đang sống với niềm tin rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ mọi lời hứa của Ngài, bất luận hoàn cảnh tình huống xảy ra chung quanh ta như thế nào. Chúng ta bước đi, làm việc và chiến trận bởi đức tin.

Mọi tín đồ thật đều có một mức lượng của đức tin (Rô-ma 12:3), và mức lượng đó có thể được gia tăng khi chúng ta bước đi với Chúa, thậm chí là đạt đến trình độ “đức tin lớn” (Ma-thi-ơ 8:10; 15:28). Trong câu Kinh thánh Ma-thi-ơ 6:30, Chúa Jesus trách các môn đồ “ít đức tin”, một cụm từ mà Chúa hay sử dụng. Nếu bạn xem xét câu Kinh thánh trên, bạn sẽ khám phá vài tính cách “ít đức tin” của các môn đồ.

Người ít đức tin thì dễ lo lắng, đây cũng là thông điệp của câu Kinh Thánh trên. Nếu đức tin của chúng ta không được áp dụng trong các hoạt động hằng ngày, nó sẽ không hành động trong những sự thử thách lớn của chức vụ hay chiến trận thuộc linh của chúng ta. Đức tin trong Đức Chúa Trời là bí quyết để có một tấm lòng không lo lắng (Ma-thi-ơ 6:25-34). Nếu chúng ta mong đợi vui hưởng sự bình an của Ngài, thì mọi sự của chúng ta  phải được mang đến với Chúa qua lời cầu nguyện (Phi-líp 4:6-7). Hội thánh đầu tiên nhấn mạnh đến sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo (Công 6:4), cả hai mục vụ này đều yêu cầu đức tin và giúp xây dựng đức tin.

 

Người ít đức tin thì dễ kinh sợ. Một cơn bão bất người thổi đến biển hồ Ga-li-lê và các môn đồ kinh hãi, nhưng Chúa Jesus đang ngủ! (Ma-thi-ơ 8:23-27). Họ đánh thức Chúa và kêu lớn, “xin cứu chúng tôi với, chúng tôi hầu chết!” Chúa Jesus làm tan cơn bão trên biển nhưng Ngài không thể làm tan nỗi sợ hãi trong lòng họ. Vấn đề của họ là ít đức tin, và điều này cũng có thể là vấn đề của bạn. C. H.  Spurgeon đã từng nói, “Ít đức tin sẽ mang linh hồn bạn lên thiên đàng, nhưng đức tin lớn sẽ mang thiên đàng vào trong lòng bạn.”

 

Người ít đức tin thì lưỡng lự. Theo sách Ma-thi-ơ 14:22-23, Chúa Jesus cố tình để các môn đồ đi thuyền trên biển Ga-li-lê khi có bão, trong khi Ngài ở lại đằng sau. Giữa đêm, Ngài bước đi trên mặt biển đến cùng họ.  Phi-e-rơ kêu lên, “Lạy Chúa, nếu phải Chúa, xin khiến tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa” (c.28). Chúa Jesus phán một lời: “Hãy lại đây!” và Phi-e-rơ đi bộ trên mặt nước mà đến cùng Chúa Jesus. Nhưng kh1 Phi-e-rơ không nhìn xem Chúa Jesus và bắt đầu thấy sóng lớn, rồi cảm nhận cơn gió mạnh. Điều gì xảy ra? Ông hòng sập xuống nước! Ông kêu lớn, “Chúa ơi, xin cứu lấy tôi!”  Chúa Jesus giải cứu ông (c. 30-31). Hãy nhớ rằng, Phi-e-rơ biết rõ về nước cũng như bạn biết về các lối đi trong sân sau nhà mình, nhưng ông trở nên sợ hãi và bước đi giữa hai luồng ý tưởng: tiếp tục đi hay rơi xuống nước?  Hãy cảnh giác về trạng thái “phân tâm” (Gia-cơ 1:8). Đây là cảnh ngộ của người ít đức tin.

Chúa Jesus đã ví sánh đức tin với hạt cải, một trong những hạt giống nhỏ nhất (Ma-thi-ơ 17:20). Nhưng kích thước của hạt cải thì không quan trọng, sự sống bên trong mới đáng kể. Đức tin giống như hạt giống nhỏ bé, nhưng nếu hạt giống được vun trồng trong lòng và được chăm sóc, nó sẽ sinh ra một cây lớn. Kinh Thánh là “lời của đức tin” (1 Ti-mô-thê 4:6), và nếu chúng ta càng ăn uống lẽ thật của Đức Chúa Trời, thì đức tin của chúng ta sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Khi chúng ta trưng dẫn các lời hứa của Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện, đức tin của chúng ta sẽ trưởng thành.

“Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy.”

Ma-thi-ơ 9:29

 

Bài 8

 

“Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít.”

Ma-thi-ơ 7:13-14

Sau một đêm cầu nguyện, Chúa chúng ta đã chọn mười hai môn đồ và giảng một bài mà chúng ta gọi là bài giảng trên núi. Trong bài giảng đó Ngài bày tỏ sự công bình thật và sự công bình riêng của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si (Ma-thi-ơ 5:20). Các cộng đồng Cơ đốc ngày nay có những Cơ đốc nhân giả mạo, do đó bài giảng này cũng được áp dụng cho chúng ta. Phép ẩn dụ về cửa và đường giúp chúng ta suy xét chính mình để xem chúng ta có thật sự biết Chúa hay không.

 

Đặc ân của sự chọn lựa. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, và Chúa không “gây áp lực” để chúng ta phải vâng phục Ngài. Trong Kinh Thánh, Ngài bày tỏ những lẽ thật căn bản mà chúng ta cần biết và khích lệ chúng ta đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu khước từ ý chỉ của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm về điều đó. Một số người thì không sẵn sàng đưa ra quyết định và chạy từ vấn đề này sang vấn đề khác, họ để người khác quyết định cho mình. Nhưng những quyết định sống còn thì giống như viên đạn được bắn ra trong những tình huống không thể chờ đợi và thật nguy hiểm nếu trì hoãn. Mọi người có thể cầu nguyện hay tư vấn cho chúng ta, nhưng chúng ta phải đưa ra quyết định cho vấn đề của mình. Không có chỗ cho sự trung lập hay thỏa hiệp. Chúng ta có thể từ bỏ những hành lý thế tục để đi vào cổng hẹp dẫn đến đường hẹp, hoặc chúng ta nắm giữ mọi thứ và bước vào cửa rộng dẫn đến đường rộng. Chúng ta phải đưa ra quyết định và chúng ta sẽ kinh nghiệm kết quả của nó.

 

Sự nguy hiểm của ảo tưởng. Bước vào cửa hẹp và bước đi trên con đường hẹp nghĩa là chúng ta phải bỏ lại mọi điều mà không phù hợp với phong cách sống Cơ đốc. Chúa Jesus miêu tả điều này là “mang lấy thập tự giá ngươi”, nhưng chúng ta không thể mang lấy thập tự giá và đồng thời cũng mang hành lý thế tục cùng một lúc. Chúng ta cần phải cảnh giác những điều hư ảo trong thế giới. Nó xuất hiện như là cửa rộng dễ dàng bước vào, nhưng đó chỉ là hư ảo. Chúa Jesus phán trong Lu-ca 13:24 “Hãy gắng sức vào cửa hẹp”; và từ được dịch là “gắng sức” cho chúng ta một từ Tiếng Anh khác là “chịu khổ”. Nó là bức tranh về một vận động viên điền kinh dùng tất cả những gì anh (cô) ta có và trả mọi giá để chiến thắng cuộc đua. Từ khi bắt đầu đến khi hoàn tất, đời sống Cơ đốc không phải là đời sống dễ dàng, phải “trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời.” (Công 14:22). Đường rộng lớn dường như là đường dễ đi, nhưng đường này dẫn đến sự hư mất. Những điều hư ảo của thế giới sẽ dẫn bạn lạc lối. Hãy thận trọng.

 

Lời hứa của sự sống. Sự chọn lựa mà chúng ta chọn là vấn đề sống hoặc chết. Chúa Jesus phán, “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10). Con đường đi thì khó khăn, nhưng nó là lối duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Sự vui mừng của tội lỗi không kéo dài mãi mãi (Hêb. 11:25), nhưng sự vui mừng của sự sống đời đời không có kết thúc. Thật là một bi kịch khi chúng ta đi đến gần đoạn cuối cuộc đời và khám phá rằng chúng ta không có sự sống!

“Có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người, nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo sự chết.” Câu này được tìm thấy trong Châm ngôn 14:12 và 16:25, vì vậy câu này rất quan trọng. Đức Chúa Trời đặt trước mặt chúng ta hai con đường: con đường khó khăn của sự sống và con đường dễ dàng của sự chết và hư mất. Lời khuyên của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta là, “Chọn sự sống” (Phục. 30:19).

“Chúa sẽ chỉ cho tôi biết con đường sự sống;

Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc,

Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng.”

Thi thiên 16:11

 

Bài 9

 

“Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.”

Ma-thi-ơ 7:7

Trừ khi chúng ta là dân sự của Đức Chúa Trời chuyên tâm học về sự cầu nguyện, chúng ta sẽ không thể nào tiến lên trưởng thành thuộc linh hay có một chức vụ hiệu quả để dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời. “Hỡi anh chị em, dù chúng ta thích hay không thích, hãy nhớ rằng, cầu xin là quy luật của vương quốc.” Ngày nay, những lời này của C. H. Spurgeon giảng trong sáng Chủ nhật ngày 1 tháng 10 năm 1882 tại Hội thánh  Metropolitan Tabernacle, London vẫn còn đúng. Sứ đồ Gia-cơ cũng nói, “anh em chẳng được chi, vì không cầu xin” (Gia-cơ 4:2).

 

Nhưng cầu nguyện thì lớn hơn nhiều với việc cầu xin và nhận lãnh, dù đây là yếu tố cần thiết. Cầu nguyện cũng là tìm kiếm và tìm thấy. Cầu nguyện không chỉ là trò chuyện với Đức Chúa Trời về mọi nhu cầu của chúng ta. Cầu nguyện là một hành trình với Đức Chúa Trời mà trong hành trình đó Ngài bày tỏ chính Ngài và nguồn tài nguyên của Ngài cho chúng ta. Chúa Jesus phán, “hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta” (Ma-thi-ơ 11:29). Học điều gì?  Chúng ta học sự vĩ đại trong những thuộc tánh của Đức Chúa Trời và những điều không dò lường được trong sự giàu có của Ngài. Nếu sự tương giao với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện của chúng ta chỉ bao gồm “xin Chúa ban cho con điều này và điều kia,” chúng ta thật đáng thương. Chúng ta cần phải cầu nguyện như Môi-se “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài” (Xuất 33:18), và như Đa-vít, “Đức Giê-hô-va ôi! Tôi sẽ tìm mặt Ngài” (Thi 27:8). Khi chúng ta cầu nguyện theo bài cầu nguyện mẫu của Chúa dạy, yêu cầu đầu tiên của chúng ta trước khi chúng ta cầu xin “ban cho chúng tôi” là tập trung vào: “Danh Cha được thánh; Nước Cha được đến; Ý Cha được nên” (Ma-thi-ơ. 6:9-10). Đây là những thứ tự ưu tiên.

 

Câu hỏi đầu tiên Chúa Jesus hỏi môn đồ là, “Các ngươi tìm chi?” (Giăng 1:38), và ngày nay Ngài cũng hỏi chúng ta như vậy. Nếu chúng ta không biết điều chúng ta đang tìm kiếm, thì cuộc hành trình của chúng ta sẽ lãng phí thời gian. “Còn ngươi, ngươi còn tìm việc lớn cho mình hay sao? Chớ có tìm kiếm” (Giê 45:5). Hãy chắc rằng, “mọi điều đó” thì quan trọng và Đức Chúa Trời biết chúng ta cần chúng (Ma-thi-ơ 6:32). Tuy nhiên chúng ta phải nhớ đến thứ tự ưu tiên thuộc linh: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (c.33). “Mọi điều đó” thì ích lợi bên ngoài, nhưng nước Đức Chúa Trời và công bình của Ngài là chính yếu. Đức Chúa Trời là “Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêb 11:6). Giống như cha mẹ yêu thích dành thời gian cho con cái mình để chia sẻ tình yêu và sự hiểu biết, Cha thiên thượng cũng đẹp lòng khi chúng ta ở riêng với Ngài, suy xét lời Ngài, thờ phượng Ngài, và mở lòng mình ra trong sự đầu phục Ngài trọn vẹn.

 

Bạn đã bao giờ thực hiện tiến trình cầu nguyện qua Các Phước Lành trong Ma-thi-ơ 5:1-12? Thật là những lời dạy đầy ý nghĩa! Những lời giáo huấn sâu sắc này thì giống như chiếc gương giúp chúng ta xem xét chính mình, và sau đó chúng ta trở nên các tấm gương phản chiếu ra sự vĩ đại những thuộc tính của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nhìn xem vẻ đẹp của Chúa Jesus, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời chiếu soi trên chúng ta và chúng ta trở nên giống Ngài càng hơn (2 Côr 3:18)! Khi bạn cầu nguyện theo Kinh Thánh trong Các Phước Lành Ma-thi-ơ 5:1-12, cũng hãy làm như thế  với một chương Thi Thiên, như Thi Thiên 15 hoặc 19. Chúng ta sẽ khám phá những gì Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta về: chính Ngài, con người chúng ta, ân điển Ngài ban cho chúng ta trong những giờ phút thử thách và mọi lúc? Một trong những sự suy gẫm sâu sắc nhất là các lời cầu nguyện ở trong tù của sứ đồ Phao-lô (Êph. 1:15-23; 3:14-21; Phil 1:3-11; Côl 1:9-12).

 

Chúa của chúng ta cũng phán “hãy gõ, và cửa sẽ mở”, và từ “cửa” chỉ về cửa của công tác đang được Chúa mở ra. Trong Kinh Thánh, một “cửa mở” nói đến cơ hội cho công tác truyền giáo. Phao-lô viết, “vì tại đó có một cái cửa lớn mở toang ra cho công việc tôi,” (1 Côr 16:9; Côl 4:3; Khải 3:8). Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta để chúng ta cũng chia sẻ ơn phước cho người khác. Điều gì chúng ta giữ, nó có thể mất, tuy nhiên những gì chúng ta ban cho, sẽ được giữ lại đến đời đời. Khi chúng ta cầu xin, chúng ta nhận lãnh; khi chúng ta tìm kiếm, chúng ta lớn lên; và khi chúng ta gõ, chúng ta ban cho. Đây là sự cân bằng của đời sống Cơ đốc.

 

“Ta đã mở trước mặt ngươi một cái cửa không ai đóng được.”

Khải huyền 3:8

 

 

Bài 10

“Thầy đội thưa rằng: Lạy Chúa, tôi chẳng đáng rước Chúa vào nhà; xin Chúa chỉ phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành.”

Ma-thi-ơ 8:8

 

Khi Chúa Jesus không phải đi lại nhiều trong chức vụ, Ngài chọn Ca-bê-na-um làm “tổng hành dinh” để dừng chân. Đây là thành phố quê hương của Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ, và Giăng. Nó cũng là hải cảng chính của các ngư dân tại vùng biển Ga-li-lê được vây quanh là những nông trang đầy cây trái. Ca-bê-na-um nằm trên một con đường giao thông quan trọng, do đó nó không phải là thị trấn bình thường nhưng là một thành phố quốc tế nhộn nhịp, vì vậy chính quyền Rô-ma đã cho quân đội đồn trú ở đó. Trong bốn sách Phúc Âm và Công Vụ, chúng ta thấy có bảy thầy đội của quân lính Rô-ma. Tất cả họ là những người đáng kính trọng đã đối xử tử tế với Chúa Jesus và các môn đồ khác. Có ba câu hỏi đến với với tâm trí tôi trong câu chuyện về Chúa Jesus và thầy đội.

 

   Những người bạn nhìn chúng ta như thế nào? Thầy đội này đặc biệt tử tế với người Do Thái tại Ca-bê-na-um và cũng là người đã xây nhà hội cho họ. Khi các trưởng lão nhà hội mang lời yêu cầu của thầy đội đến với Chúa Jesus, họ trông mong Ngài đến nhà thầy đội và chữa lành cho đứa đầy tớ. Họ thuyết phục Ngài về trường hợp của thầy đội bằng cách nói là thầy đội đã xây nhà hội cho họ và vì thế xứng đáng để nhận được sự giúp đỡ (Lu-ca 7:3-5). Nhưng thầy đội nói, “tôi chẳng đáng!” Các trưởng lão Do Thái biết điều này: theo phong tục của họ, người Do Thái sẽ bị ô uế nếu bước vào nhà người ngoại bang, mặc dù điều này sẽ không ngăn cản Chúa Jesus thực hiện phép lạ chữa lành. Tuy nhiên thầy đội ngoại bang này biết về Chúa Jesus nhiều hơn các trưởng lão biết, chúng ta nghe ông nói, “Vì tôi cũng ở dưới quyền người khác” (Ma-thi-ơ 8:9). Chú ý từ cũng. Ông tin rằng Chúa Jesus hành động dưới uy quyền của Đức Chúa Trời. Đây là một lời phát biểu khác thường từ một viên sĩ quan quân đội La-mã.

 

   Chúng ta nhìn thấy chính mình như thế nào? Thầy đội không tự tôn cao chính mình. Ông thừa nhận ông có uy quyền khi thuận phục các quan cấp trên và Sê-sa. Nhưng uy quyền của ông không có khả năng để chữa lành đứa đầy tớ yêu dấu sắp chết. Chắc chắn là thầy đội biết về các phép lạ Chúa đã làm ở những nơi khác. Một sĩ quan La-mã có thể ra một mệnh lệnh trong vùng đất ông chinh phục, nhưng thầy đội này không lạm dụng điều đó. Giống như Cọt-nây trong Công vụ chương 10, ông dùng quyền của mình để giúp người khác, và không phô bày ra sự “vĩ đại” của chính mình. Ở đâu có những con người khiêm nhường, hạ mình, thì Chúa đến “làm tươi tỉnh thần linh của những kẻ khiêm nhường, và làm tươi tỉnh lòng người ăn năn đau đớn” (Ê-sai 57:15). “Khi kiêu ngạo đến, sỉ nhục cũng đến nữa; nhưng sự khôn ngoan vẫn ở với người khiêm nhượng” (Châm 11:2). Sự khiêm nhường của thầy đội đã mang đến cho ông một lời khen ngợi từ Chúa Jesus!

 

Chúa Jesus nhìn thấy chúng ta như thế nào? Chúa Jesus biết về tình yêu của người thầy đội dành cho đứa đầy tớ, và những gì ông nói chứng tỏ ông tin vào quyền năng trong lời phán của Chúa Jesus. Nhưng Chúa Jesus không nói đến thành tích xây dựng nhà hội hay lòng rộng rãi của thầy đội. Đúng hơn, Ngài rất ấn tượng về đức tin của viên sĩ quan này. Thầy đội có thể học được bài học đức tin sau khi nghe tin   Chúa có thể chữa lành từ xa cho con trai một người được tôn trọng tại Ca-bê-na-um (Giăng 4:46-54)? Vì vậy ông thưa với Chúa, “xin Chúa chỉ phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành.” Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời tạo dựng vũ trụ chỉ bằng lời phán. “Vì Ngài phán, thì việc liền có; Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi 33:9). Chúa Jesus rất ấn tượng với đức tin của người ngoại bang này! Ngài cũng có ấn tượng tốt với đức tin của người đàn bà tại Ca-na-an (Ma-thi-ơ 15:28) nhưng Ngài “lấy làm lạ” với những người Do Thái vô tín ở Na-xa-rét (Mác 6:1-6).

Ngày hôm nay Đức Chúa Trời đang có kế hoạch sử dụng chúng ta để giúp đỡ đời sống của nhiều người ở những nơi chốn mà chúng ta chưa biết. Nếu chúng ta bước đi trong ý chỉ Ngài, chúng ta sẽ chia sẻ nguồn phước hạnh của Chúa cho người khác. Chúng ta có ở dưới quyền bính Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài? Nếu thật vậy, hãy sẵn sàng cho một phép lạ trong cuộc đời mỗi chúng ta.

 

“Ngài ra lệnh chữa họ lành.”

Thi thiên 107:20

 

Bài 11

 

“Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn.”

Ma-thi-ơ 9:36

 

Con mắt chúng ta thường nhìn những điều mà lòng mình ưa thích. Trẻ con nhìn vào cửa hàng kẹo và đồ chơi, trong khi cha mẹ chúng chú ý hàng “giảm giá”. Riêng tôi thì quan tâm đến cửa hàng sách, vợ tôi tìm kiếm cửa hàng thời trang. Còn khi Chúa Jesus nhìn thấy đoàn dân đông, Ngài “động lòng thương xót”, Ngài đến để cứu họ.

 

Lòng thương xót. Từ này trong Tiếng Anh ra từ Tiếng La-tinh nghĩa là “cùng chịu khổ, cùng chịu đựng sự đau đớn với người khác.” Từ Hi-lạp “lòng thương xót” trong câu Kinh Thánh trên thì sâu sắc hơn bởi vì nó chỉ về các cơ quan bên trong cơ thể đang chuyển động không ngừng. Một người có lòng thương xót thường bị tác động rất mạnh và cảm nhận được nỗi đau mà người khác đang chịu. Phúc Âm Ma-thi-ơ ghi lại ít nhất ba lần Chúa Jesus động lòng thương xót đối với đoàn dân (9:36; 14:14; 15:32), và Ngài cũng có cảm giác đó với:  hai người mù (Ma-thi-ơ. 20:34), người bại (Mác 1:41), người bị quỉ ám (Mác 5:18), người đàn bà góa đáng thương (Lu-ca 7:13), và đứa trẻ bị quỉ ám (Mác 9:22). Có ba ẩn dụ mà Chúa Jesus nói về lòng thương xót (Ma-thi-ơ. 18:27; Lu-ca 10:33; 15:20). Trong câu Kinh Thánh Ma-thi-ơ. 9:36-37, Chúa thấy đoàn dân đông như là các con chiên đi lang thang bị ngược đãi. Ngài cũng thấy đoàn dân đông giống như cánh đồng lúa sẵn sàng cho mùa gặt. Những con chiên đi lang thang và bị thú hoang tấn công. Đồng lúa chín vàng bị hoang phí vì thiếu những thợ gặt có lòng thương xót.  Những yếu tố này có cảm động lòng chúng ta?

 

Cầu thay. Phương cách mà Đức Chúa Trời mong đợi chúng ta thực hiện cho những tình huống đau lòng là cầu nguyện (Ma-thi-ơ 9:38). Chúng ta cầu xin Đức Chúa Trời sai những công nhân có lòng thương xót để chăm sóc cho bầy chiên và cánh đồng. Lần cuối cùng chúng ta cầu xin Đức Chúa Trời dấy lên những thợ gặt là khi nào? Chúng ta có cầu xin Ngài kêu gọi họ từ những người trong gia đình chúng ta? Bác sĩ gia đình đã nói với mẹ tôi là bà không thể nuôi tôi quá hai tuổi bởi vì tôi gặp vấn đề về máu, nhưng lời tiên đoán của ông ta không đúng. Tại sao? Bởi vì tôi có một người ông hết lòng cầu nguyện cho sức khỏe của tôi và mỗi thế thệ trong gia đình chúng tôi phải có một người đi ra rao giảng Tin lành, và thật đã có. Tôi cầu nguyện hằng ngày để Chúa sai con gặt vào mùa gặt của Ngài, và tôi luôn luôn thêm lời này: “xin Chúa hãy gọi người nào đó từ gia đình chúng con” – và Ngài đã làm như vậy. Lòng thương xót và cầu thay luôn luôn là hai người bạn song hành.

 

Sự hiến dâng. Khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện để Đức Chúa Trời sai phái con gặt, chúng ta phải nhớ rằng Ngài thường trả lời trong và xuyên qua người cầu thay (Êph. 3:20). Chắc chắn Môi-se đã cầu nguyện để Đức Chúa Trời giải cứu dân Ngài ra khỏi ách nô lệ ở Ai-cập, và Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông trở thành người đảm trách công tác giải phóng dân sự. Nê-hê-mi đã khóc than cầu nguyện cho tình trạng của Giê-ru-sa-lem, và Đức Chúa Trời đã sai phái ông trong tư cách một quan chức chính quyền để xây lại các tường thành của nó (Nê-hê-mi 1-2). Chúa đã gọi Phao-lô và Ba-na-ba trong buổi nhóm kiêng ăn cầu nguyện để giảng Tin lành cho dân ngoại bang (Công 13:1-3). Do đó, khi chúng ta cầu nguyện, trước hết chúng ta phải dâng chính mình cho Chúa; nếu không, chúng ta có lẽ chỉ đang cầu nguyện với môi miệng chứ không phải xuất phát từ lòng của chúng ta. Nếu tôi không sẵn sàng phụng sự trong ý chỉ của Chúa, thì việc tôi cầu nguyện để người khác phục vụ Ngài là đúng sao?

Thầy tế lễ thượng phẩm chí cao của chúng ta có lòng thương xót và quan tâm chúng ta (Hêb. 4:15-16), và chúng ta phải có lòng thương xót đối với người khác. Hãy bắt đầu tại phòng riêng cầu nguyện cho gia đình và hàng xóm của chúng ta, rồi chúng ta có thể cầu thay cho hội thánh, các thánh đồ và các tội nhân trên khắp đất. Nghĩa của từ “lòng thương xót” được tìm thấy trong một hình thức khác trong Ê-phê-sô 4:32 (“lòng mềm mại”), Phi-líp 2:1 (“lòng yêu mến”), Cô-lô-se 3:12 (“thương xót”), và 1 Phi-e-rơ 3:8 (“lòng mềm mại”), và tất cả được bổ túc thêm vào lòng thương xót. Chúng ta không bao giờ giống Chúa Jesus cho đến khi chúng ta có lòng thương xót.

 

“Chúa ôi! Tôi nài xin Chúa hãy lắng tai nghe lời cầu nguyện của kẻ tôi tớ Ngài và lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài vẫn vui lòng kính sợ danh Ngài.”

Nê-hê-mi 1:11

 

 

Bài 12

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.”

Ma-thi-ơ 11:28-30

Các nhà sử học đã có một vài khó khăn khi suy nghĩ đặt tên cho các thời đại trong lịch sử loài người. Chúng ta có “thời đại sử dụng Aspirin, thời đại ám thế, thời đại trung cổ, thời đại ánh sáng” và một vài cái tên khác. Nhưng tôi nghĩ cái tên tốt nhất cho giai đoạn từ Thế chiến thứ hai đến bây giờ nên là “Thời đại bất an.” Đối với tôi thời đại này xuất hiện kể từ khi  con người không được an nghỉ, họ sử dụng thuốc an thần, sự giúp đỡ tâm lý, và nhiều thiết bị khác để thoát khỏi những rắc rối và áp lực cuộc sống. Bạn có thể đến hiệu thuốc và mua thuốc ngủ nhưng bạn không thể mua giấc ngủ, và bạn mua sự giải trí nhưng nó chỉ tạm bợ và sau đó bạn thường cảm thấy bất an hơn khi bạn bắt đầu. Chỉ có một sự yên nghỉ được kể là yên nghỉ đó là sự yên nghỉ mà Chúa Jesus ban cho chúng ta trong câu Kinh Thánh trên. Ngài mời gọi chúng ta nhận lấy sự yên nghỉ qua ba bước đơn giản của đức tin.

 

Tiếp nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của bạn và nhận lãnh yên nghỉ. Lời mời đơn giản của Ngài là hãy đến – không phải là đi, làm việc, mua, hay cố gắng – và khi chúng ta đến trong đức tin, Ngài ban cho chúng ta yên nghỉ. Sự yên nghỉ này là một món quà, nhưng giá của nó là sự sống của Chúa khi Ngài chết trên thập tự giá vì chúng ta. Kinh thánh gọi sự yên nghỉ này là “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rôm. 5:1), nghĩa là tất cả các tội của chúng ta được tha, tội trong quá khứ, hiện tại, và tương lai (Côl. 2:13), và chúng sẽ không bao giờ có hiệu lực với chúng ta. Trong nguyên ngữ Hi-lạp, từ “gánh nặng” chỉ về một con tàu chở hàng, là một cách diễn đạt tốt về các gánh nặng mà con người đang cố gắng mang vác ngày nay. Thật là một sự bảo vệ tuyệt vời mà chúng ta có với Chúa Jesus là Cứu Chúa chúng ta.

 

Dâng mọi sự cho Chúa Jesus là Chủ của bạn và yên nghỉ. “Hãy gánh lấy ách của ta” giống như là hoán đổi gánh nặng cho người khác, và nhớ một điều: Chúa Jesus đảm bảo rằng ách của Ngài dễ chịu và gánh Ngài nhẹ nhàng. Từ dễ chịu có nghĩa là “thích hợp, thoải mái.” Nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa ban cho chúng ta sự an toàn, nhưng nương dựa nơi Ngài như là Chủ  ban cho chúng ta trách nhiệm. Đây là “sự bình an của Đức Chúa Trời” (Phil. 4:6-7). Bởi vì chúng ta mang ách chung với Chúa Jesus, Ngài giúp chúng ta mang gánh nặng. Mọi người mà bạn gặp thì đang mang một loại ách nào đó, vài trách nhiệm là gánh nặng của họ, và hầu hết họ cố gắng mang nó một mình. Người nào nhận biết Chúa Jesus là Chủ thì biết rằng Ngài là Đấng mang gánh nặng, không phải thay cho chúng ta, nhưng mang gánh nặng với chúng ta. Có Đức Chúa Trời là sự yên nghỉ không có nghĩa là chúng ta qua đời; không, chúng ta tìm thấy sự yên nghỉ trong đời này, sự tươi mới mỗi ngày giữ chúng ta tiến lên thay vì lo cho cuộc sống và công việc. Chúa ban ân điển rời rộng và là Chủ yêu thương biết cách lên kế hoạch cho mỗi ngày để công việc của chúng ta sẽ xây dựng chúng ta, nó mang phước hạnh đến cho người khác và tôn vinh Đức Chúa Trời.

 

Làm bạn với Chúa Jesus và tìm thấy sự yên nghĩ sâu xa trong tình yêu Ngài. Chúng ta phải tiến lên từ sự an toàn và trách nhiệm đến sự thâm giao với Chúa. Chúa Jesus nói “ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta.” “Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm; nhưng ta đã gọi các ngươi là bạn hữu ta, vì ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều ta đã nghe nơi Cha ta” (Giăng 15:14-15). “Ngài bày tỏ cho Môi-se đường lối Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên biết các công việc Ngài” (Thi. 103:7). Dân Y-sơ-ra-ên biết Đức Chúa Trời đang làm gì, nhưng Môi-se biết tại sao Ngài đang làm những việc đó. Khi chúng ta có mối tương giao sâu đậm với Chúa Jesus trong Lời Ngài, chúng ta sẽ lớn lên trong sự thông biết Đức Chúa Trời và ý chỉ Ngài dành cho chúng ta. Chúng ta không thể kiểm soát thế giới xung quanh, nhưng với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể kiểm soát thế giới bên trong chúng ta và kinh nghiệm “sự bình an của Đức Chúa Trời, vượt quá mọi sự hiểu biết” (Phil. 4:7). Công thức này sẽ giúp bạn: Cứu Chúa + Người Chủ + Người Bạn = Yên nghỉ?

 

“Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jesus Christ chúng ta.”

Rô-ma 5:1

 

Bài 13

“Chủ đáp rằng: Ấy là một kẻ thù đã làm điều đó.”

Ma-thi-ơ 13:28

Hãy thận trọng! Là Cơ đốc nhân chúng ta đang ở trong chiến trận thuộc linh, không phải trong sân chơi, bởi vì chúng ta có một kẻ thù bên ngoài cố gắng đánh bại chúng ta và phá hủy công việc của Chúa. Những bức tranh biếm họa về Satan thường được vẽ trong truyện tranh và hoạt hình, nhưng chắc chắn nó không phải là một tạo vật mặc  áo choàng màu tím với một cái đuôi và  chĩa ba. Khi suy nghĩ về các  tên của Satan và danh xưng của nó, bạn  phải nghiêm túc với kẻ ác này. Nó là ma quỉ, kẻ phá hủy (Khải. 9:11), kẻ kiện cáo (10:12), kẻ thù nghịch (1 Phi. 5:8), chúa của đời này (2 Côr. 4:4), kẻ nói dối và giết người (Giăng 8:44), chúa của thế gian (14:30), và những tên gọi khác. Chúa Jesus đã đối diện với Satan trong đồng vắng và chiến thắng nó tại đó (Ma-thi-ơ. 4:1-11), nhưng sự chiến thắng rõ ràng của Chúa chúng ta trên ma quỉ là  tại thập tự giá (Côl. 2:13-15). Mọi Cơ đốc nhân đều dự phần chia sẻ  cả hai sự chiến thắng này nếu họ bước theo gương mẫu của Đấng Christ và qua việc tuyên xưng đức tin vào sự chiến thắng của Ngài.

 

Hãy cảnh giác! Satan là kẻ giả dối. Jesus, Chúa của mùa gặt là Đấng đặt để dân sự Ngài ở bất cứ nơi đâu mà Ngài muốn họ sinh trái. Bởi vì chúng ta là hạt giống của Chúa và đại diện của Ngài, chúng ta có sự sống của Ngài bên trong và Ngài muốn chúng ta phải sinh trái và nhân rộng ra. Chúng ta phải sẵn lòng chết đối với tội lỗi và thế giới để dâng chính mình hoàn toàn cho Đấng Christ. Tuy nhiên ở bất cứ nơi nào Chúa Jesus trồng những tín đồ thật, thì kẻ ác cũng sẽ đến và trồng những tín đồ giả mạo. Nếu có  con cái của Đức Chúa Trời, thì cũng có con cái của kẻ ác (Ma-thi-ơ. 3:7; Giăng 8:44). Cơ đốc nhân giả mạo là người thực hành các nghi lễ tôn giáo nhưng chưa bao giờ được sinh lại (2 Côr. 11:13-15). Họ là người giảng phúc âm giả (Gal. 1:6-9) để sản sinh sự công chính giả (Rô. 10:1-4). Thậm chí họ cũng có hội thánh giả (Khải. 2:9; 3:9). Dân sự của Đức Chúa Trời phải cảnh giác để phát hiện những kẻ giả mạo này và bảo đảm rằng chúng không len lỏi vào vị trí lãnh đạo của hội thánh (1 Phi-e-rơ 2:1). Chúng ta phải cảnh giác, vì khi  người làm vườn ngủ một chút thì kẻ ác đã lẻn vào trồng giống giả bên trong. Chúng ta phải thận trọng, hình ảnh này không phải là việc ngủ vật lý nhưng là việc ngủ thuộc linh.

 

Luôn sẵn sàng! Chúa Jesus muốn trồng chúng ta ở nơi mà chúng ta sẽ sinh trái vì vinh hiển của Ngài. Trong ẩn dụ về người gieo giống, đất đại diện cho các loại tấm lòng khác nhau, nhưng trong ẩn dụ này, “ruộng là thế gian” (Ma-thi-ơ. 13:38). Chúa Jesus là người gieo và là chủ của cánh đồng, và Ngài trồng dân sự Ngài ở nơi mà Ngài muốn họ kết quả. “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều”(Giăng 12:24). Có thể Chúa đã trồng bạn ở trường học, văn phòng, một ngôi làng hẻo lánh… nhưng cho dù bạn được Ngài trồng ở đâu, hãy chắc rằng bạn được “châm rễ và lập nền trong Ngài” (Cô. 2:7), “châm rễ và lập nền trong tình yêu” (Êph.3:17). Một người bạn của tôi mà bây giờ đã yên nghỉ trong Chúa, phải ở trong bệnh viện vài tuần trước đây, và suốt thời gian đó đã dẫn dắt một số nữ y tá về với Đấng Christ. Hãy trổ hoa ở bất cứ nơi nào bạn được trồng!

 

Được bảo đảm! Các đầy tớ trong ẩn dụ này muốn lấy ra những cây lạ, nhưng người chủ bảo họ đừng làm vậy vì có thể phá hủy mùa vụ. Chúng ta phải cẩn thận không đi lòng vòng vào trong những hoạt động khác và đánh mất mùa vụ của Chủ. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà có cả sự thật và giả dối, và chỉ một mình Chúa Jesus có thể giúp chúng ta sống đạo để người khác nhận ra sự biểu lộ về Chúa từ chúng ta và được thuyết phục để tin vào Đấng cứu rỗi. Hãy kiên trì trong công tác chứng đạo. Người làm nông kiên nhẫn chờ đợi cho hạt giống nảy mầm và sau cùng là sinh trái. Chúng ta được bảo đảm rằng mùa vụ đến chúng ta sẽ có mùa gặt bội thu nếu chúng ta không ngã lòng bỏ cuộc trong công tác phục vụ Chúa.

 

“Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy.”

Ga-la-ti 6:7

 

Bài 14

“Đức Chúa Jêsus vừa nghe tin ấy, liền bỏ đó xuống thuyền, đi tẽ ra nơi đồng vắng. Khi đoàn dân biết vậy, thì từ các thành đi bộ mà theo Ngài.”

Ma-thi-ơ 14:13

Khi Chúa Jesus bắt đầu chức vụ công khai, có một đoàn dân đông theo Ngài, và nhiều lần Ngài phải lánh đi khỏi đoàn dân. Tôi ghi nhận có ít nhất tám lần mà Chúa Jesus phải lánh khỏi đoàn dân và đi tách ra một mình hoặc đi với các môn đồ của Ngài: 1/ Sau khi Chúa nhận báp-tem (Ma-thi-ơ 3:13-14). 2/ Sau một ngày bận rộn với chức vụ (Mác 1:32-35).  3/ Sau khi chữa lành người bại (Mác 1:40-45). 4/ Sau cái chết của Giăng Báp-tít (Ma-thi-ơ. 14:1-13).  5/ Sau khi cho năm ngàn người ăn (Giăng 6:1-15).   6/ Trước khi kêu gọi mười hai sứ đồ (Lu-ca 6:12-16).  7/ Sau khi các sứ đồ tường trình về chức vụ của họ (Mác 6:30-32).  8/ Trước sự hoạn nạn và sự chết của Ngài (Ma-thi-ơ. 26:36-45).

Sự báp-tem của Chúa là dấu hiệu chỉ ra sự khởi đầu cho chức vụ. Đức Chúa Cha phán lời xác nhận và Đức Thánh Linh ban cho Ngài quyền năng. Nhưng sau đó Đức Thánh Linh dẫn Chúa Jesus vào đồng vắng kiêng ăn bốn mươi ngày và chiến thắng kẻ ác. Những thì giờ sâu nhiệm thuộc linh của chúng ta phải cân bằng với những ngày u ám của sự hy sinh khổ nạn. Sau một đêm bận rộn với sự chữa lành tại Ca-bê-na-um, Chúa Jesus cần một giấc ngủ ngắn rồi thức dậy rất sớm để cầu nguyện và chuẩn bị cho một ngày bận rộn khác. Chúng ta phải bắt đầu mỗi ngày bằng hành động biệt riêng thì giờ với Đức Chúa Trời (Ê-sai 40:31; 50:4-7).

Chúa Jesus chữa lành người bại, truyền lệnh cho người này không được nói cho người khác biết, nhưng người này đã nói cho mọi người về Chúa Jesus. (Hãy đối chiếu: Chúa Jesus bảo chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người và chúng ta không nói gì cả!). Chúa Jesus đến nơi vắng vẻ cho sự tĩnh nguyện với Đức Chúa Cha, nhưng đoàn dân bằng mọi giá tìm kiếm Ngài. Chúa Jesus là một đầy tớ phục vụ, không phải là một người tìm kiếm sự nổi tiếng. Ngài biết động cơ trong lòng của dân chúng trong việc theo Ngài. Khi chúng ta cảm thấy thành công, đó là lúc chúng ta nên ở một mình với Đức Chúa Trời.

Cái chết của Giăng Báp-tít đụng chạm mạnh mẽ đến Chúa Jesus, và Ngài đi lên núi  suy nghĩ về sự kiện đó. Ngài biết sự chết của Ngài cũng gần kề. Dân sự của Đức Chúa Trời là con người và cần phải đi qua các nỗi khổ đau. Chúa Jesus cầu nguyện một mình suốt đêm trước khi chọn mười hai sứ đồ (Luca. 6:12-16), và chúng ta phải dành nhiều thời gian hơn tìm kiếm ý chỉ của Đức Chúa Cha lúc chúng ta phải đưa ra những quyết định trong thời khắc khủng hoảng. Khi các sứ đồ trở về  thuật lại mục vụ đầu tiên của họ, Chúa Jesus đã dẫn họ đến nơi đồng vắng để họ có thể nghỉ ngơi, phục hồi sự tươi mới cho đời sống thuộc linh. Vance Havner đã từng nhắc nhở, “Nếu chúng ta không biệt riêng thì giờ để nghỉ ngơi thì lúc nào chúng ta cũng sẽ bận rộn.”  Đôi khi chúng ta cần một kỳ nghỉ hay  một giấc ngủ ngắn. Đây cũng là một hành động thuộc linh.

Kinh nghiệm của Chúa Jesus trong vườn Ghết-sê-ma-nê trước khi Ngài bị bắt đã chuẩn bị cho sự đau đớn tận cùng của Ngài trên con đường khổ nạn:  sự nhạo báng, đòn roi từ kẻ thù, và sau cùng là bị đóng đinh. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể kinh nghiệm nỗi khổ mà Ngài đã từng chịu đựng, nhưng chúng ta có thể bước theo gương mẫu về việc Ngài khước từ tất cả ý riêng trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Chúa Jesus đã nhận chén đau thương và uống nó, Ngài cầu nguyện, “Chẳng phải theo ý con bèn là ý Cha được nên.” Mọi con cái cái Đức Chúa Trời phải có những kinh nghiệm Ghết-sê-ma-nê và có thể tìm thấy sự chiến thắng qua sự cầu nguyện và vâng phục.

Trong những thử thách khó khăn của đời sống Cơ đốc, chúng ta không nên cố gắng trốn thoát như Đa-vít (Thi 55:6-7) và Giê-rê-mi (Giê 9:2) đã làm. Chúng ta phải lánh khỏi đám đông một thời gian để sau đó chúng ta có thể trở lại với họ trong sức mới của chức vụ. Phần quan trọng nhất của đời sống Cơ đốc là phần mà chỉ có Đức Chúa Trời thấy: thời gian của chúng ta ở riêng với Chúa.

 

“Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va

Thì chắc được sức mới;

Cất cánh bay cao như chim ưng,

Chạy mà không mệt nhọc,

Đi mà không mòn mỏi.”
Ê-sai 40:31

 

 

Bài 15

Ngài phán rằng: “Hãy đem chúng đến đây cho Ta.”

Ma-thi-ơ 14:18

Từ “chúng” trong câu Kinh Thánh trên chỉ về năm ổ bánh và hai con cá trong tay cậu bé mà Anh-rê tìm thấy trong đám đông (Anh-rê có ân tứ trong việc kết nối đám đông với Chúa Jesus. Xem Giăng 1:40-42; 12:20-26). Nhưng làm sao các môn đồ có thể cho năm ngàn người ăn với một ít thực phẩm như vậy? Thậm chí Anh-rê còn hỏi, “nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?” (Giăng 6:9). Các môn đồ không có đủ tiền để mua thức ăn, do đó họ kết luận rằng cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này là bảo dân chúng đi về. Nhưng Chúa không tán thành việc đó vì Ngài thương xót đoàn dân đông. Trong đời sống Cơ đốc và chức vụ của tôi, khi mà nguồn cung ứng thực tế rất ít nhưng đòi hỏi thì cao, Chúa thường xuyên phán với tôi, “Con hãy cho họ ăn” (Ma-thi-ơ 14:16). Và Chúa Jesus luôn “biết điều Ngài sẽ làm rồi” (Giăng 6:6), sau đó nhu cầu đã được cung ứng. Chúng ta phải làm gì để nhận được sự chu cấp của Ngài?

 

Hãy chắc chắn rằng tấm lòng của bạn ngay thẳng. Trọng tâm của mọi vấn đề nằm ở tấm lòng. Chúa Jesus có lòng thương xót đoàn dân đang đói và Ngài không bằng lòng để họ ra về. Tôi thường nói vui với các khóa sinh truyền giáo rằng cách giải quyết tốt nhất các nan đề của hội thánh là giải tán tất cả mọi người. Thật là dễ để chăm sóc cho một tòa nhà trống rỗng! Nhưng chức vụ thật thì bao hàm con người, và chúng ta phải học yêu mọi người. Chúa không bao giờ để các đầy tớ vâng lời Ngài thất vọng rơi vào hoàn cảnh mà họ không thể xử lý được. Ngài có mặt ở đó để huấn luyện và giúp đỡ họ.

 

Khảo sát nguồn cung ứng. Khi Anh-rê thấy cậu bé mang theo bữa ăn trưa, ông đã phạm lỗi lầm khi đo lường nhu cầu của đoàn dân đông với chỉ một phần ăn từ cậu bé, thay vì ngửa trông nơi thầy của mình. Phần ăn trưa của cậu bé thì nhỏ nhưng Đức Chúa Trời thì lớn! Không phải là vấn đề chúng ta nghĩ chúng ta có quá ít, chúng ta phải nhớ rằng Chúa vui thích dùng những điều nhỏ mọn, những sự yếu ớt và “những sự không có” (1 Côr 1:27-28) để hoàn thành những điều lớn lao vì vinh hiển Ngài.

 

Dâng tất cả những gì bạn có cho Chúa Jesus. Năm ổ bánh và hai con cá trong tay cậu bé chỉ là một phần ăn trưa, và khi trong tay của Anh-rê cũng chỉ là một phần đóng góp nhỏ – nhưng khi ở trong tay của Chúa Jesus, chúng trở nên một phép lạ. “Hãy đem chúng đến cho Ta” là một trong những lời khuyên mời ân điển nhất trong Kinh Thánh. Bất kể chiến trận nào hay nan đề gì bạn đang chiến đấu, hoặc gánh nặng nào bạn đang mang vác, hãy đặt chúng vào trong tay của Chúa và sau đó làm điều Ngài chỉ dạy. Phép lạ không xảy ra trong tay của các môn đồ nhưng trong tay của Chúa Jesus. Quyền năng thần thượng làm cho thức ăn thêm lên và bàn tay con người phân phát thức ăn.

 

Nhin lên trời. Đây là sự thực hành của người Do Thái lúc ăn, họ nhìn lên trời và chúc phước Đức Chúa Trời về sự cung ứng của Ngài. “Xin ban cho chúng con đồ ăn hằng ngày” là một yêu cầu của chúng ta khi ngày mới bắt đầu, và chúng ta nói “Cảm tạ Chúa” khi chúng ta ngồi xuống để ăn. Chỉ một cử chỉ đơn giản ngước nhìn lên, Chúa Jesus nhắc nhở đám đông nơi mà thức ăn đang đến. Vinh hiển quy về Đức Chúa Trời!

 

Cộng tác trong sự phụng sự. Có nhiều thức ăn để ăn và các môn đồ đã làm tốt việc của họ. Họ cũng đã nhặt đầy mười hai giỏ bánh thừa. (Không bao giờ là lãng phí một phép lạ! Tôi chắc rằng họ cũng cho cậu bé thức ăn để mang về nhà.) Đám đông rất ấn tượng trước việc Chúa làm, và họ muốn tôn Ngài là vua, nhưng Chúa Jesus lánh đi lên núi và cầu nguyện (Giăng 6:15).

Khi chúng ta gặp rắc rối với những điều quá lớn cho chúng ta, hãy vâng theo tiếng phán của Chúa Jesus: “Hãy đem chúng đến cho Ta.” Chúng ta không phải là nhà sản xuất, chúng ta là những người phân phối.

 

“Vậy, ngươi sẽ ăn no nê, và ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì cớ xứ tốt tươi mà Ngài đã ban cho.”

Phục truyền 8:10

 

Bài 16

“Còn ta, ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội thánh ta trên đá nầy, các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó.”

Ma-thi-ơ 16:18

Đây là lần đầu tiên từ hội thánh xuất hiện trong Tân Ước. Từ câu Kinh Thánh này cho đến Khải Huyền 22:16, từ hội thánh hiện ra 114 lần. Sự giới thiệu hội thánh lần đầu tiên chỉ ra một số đáp ứng từ những người yêu Đấng Christ và hội thánh Ngài (cả hội thánh địa phương và hội thánh hoàn vũ). Hãy suy xét đến những đáp ứng sau đây:

 

Khích lệ – Đấng Christ đang xây dựng. Thay vì những hỗn độn và suy thoái của lịch sử loài người trong thế giới ngày nay mà chúng ta thấy, Chúa Jesus đang xây dựng hội thánh Ngài. Satan, ma quỉ là một kẻ hủy diệt (Khải 9:11), nhưng Đấng Christ, người thợ mộc là một nhà xây dựng. Từ hội thánh trong Tân Ước không chỉ về một tòa nhà vật lý, nhưng được gọi là “nhà hội thánh.” Từ hội thánh chỉ về sự nhóm lại của những người được cứu chuộc tập trung một nơi để thờ phượng Chúa, khích lệ lẫn nhau, và tìm kiếm phương cách để rao truyền tin lành khắp thế giới.

 

Kinh ngạc– Đấng Christ đang xây dựng hội thánh. Đấng Christ là nền tảng và là đá góc nhà của hội thánh (1 Côr 3:11; Êph 2:20) và các tín hữu là những viên đá sống (1 Phi-e-rơ 2:5). Bất cứ nơi nào có một tội nhân tiếp nhận Đấng Christ thì một viên đá mới được thêm vào trong cấu trúc hội thánh. Không cần biết điều gì đang và sẽ xảy ra cho thế giới này, nhưng hội thánh thì không thể bị phá hủy và nó tồn tại mãi mãi. Những gì chúng ta làm để phụng sự Chúa Jesus và hội thánh cũng sẽ còn đến đời đời. Vậy đừng khinh thường điều này. Cộng đồng hội thánh là một nhóm người hiệp nhất. “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jesus Christ, anh em thảy đều làm một” (Ga-la-ti 3:28).

 

Nhận thức – Đây là hội thánh của Đấng Christ. Tôi thường xuyên nghe mọi người nói, “đây là hội thánh của tôi” – nhưng hội thánh không phải của họ; hội thánh thuộc về Đấng Christ. Ngài đã chuộc hội thánh bằng huyết Ngài (Công 20:28). Thật kỳ lạ khi một giáo đoàn quên mất điều này và để cho Đi-ô-trép, kẻ ưng đứng đầu hội thánh điều hành hội thánh” (3 Giăng 9-11). Một số mục sư đã đau đớn khi thấy “các kẻ ưng đứng đầu hội thánh” kiểm soát và phân bổ các chức vụ. Mỗi thành viên của hội thánh phải tìm ra ân tứ của mình và vận dụng nó đem vinh hiển về cho Chúa. Hãy nói lẽ thật trong tình yêu (Êph 4:15) khi cần thiết để phê phán hoặc thực hiện các sự thay đổi. Mỗi “viên đá sống” trong hội thánh phải ở  đúng vị trí, hoặc nó sẽ trở nên đá vấp phạm và là nguồn của mọi rắc rối. Chỉ duy Đức Thánh Linh dùng Lời của Đức Chúa Trời, có thể trao uy quyền trên những người lãnh đạo mà hội thánh cần. Đức Chúa Trời sẽ làm điều đó khi chúng ta cầu nguyện và tra cứu Kinh Thánh hằng ngày.

 

Thành tựu– Đấng Christ sẽ hoàn tất công việc với hội thánh. Thế giới, xác thịt, và ma quỷ không thể ngăn cản Chúa Jesus trình diện hội thánh “trước mặt vinh hiển Ngài cách rất vui mừng, không chỗ trách được” (Giu-đe 24). Hội thánh ngày nay là “công việc (của tay Chúa) đang ở trong một tiến trình,” nghĩa là hội thánh chưa đạt đến trọn vẹn, nhưng một ngày kia trong thiên đàng hội thánh sẽ “đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy” (Êph 5:27). “Vết” ra từ sự ô uế và “nhăn” ra từ sự hư hoại, cả hai sẽ không còn nữa khi chúng ta đối diện Đấng Christ. Khi Môi-se hoàn thành việc xây đền tạm và Sa-lô-môn hoàn tất đền thờ, Đức Chúa Trời ngự đến trong sự vinh hiển lớn. Nhưng khi Chúa Jesus kết thúc công tác với hội thánh Ngài, hội thánh sẽ đi ra khỏi thế gian và về trời chia sẻ vinh hiển của Đấng Christ. Thật là một cảnh tượng đầy phấn khích cho chúng ta!

Đấng Christ yêu hội thánh, và mỗi tín hữu cũng phải như vậy.

 

[Hội thánh Ngài] thánh sạch không chỗ trách được.

Ê-phê-sô 5:27

 

Bài 17

“Người trẻ đó thưa rằng: Tôi đã giữ đủ các điều nầy; còn thiếu chi cho tôi nữa?” Ma-thi-ơ. 19:20

Thăm dò. Những người giàu có và tự cao không nghĩ rằng họ thiếu bất cứ điều gì. Những người thấp kém thì cho rằng họ thiếu thốn mọi thứ. Nhưng chàng thanh niên giàu có này là một trường hợp đặc biệt. Anh ta có mọi thứ bao gồm tài sản và một đời sống “sùng đạo” theo tôn giáo, nhưng tất cả những điều đó vẫn không làm anh thỏa mãn. Như vậy thì ý nghĩa của đời sống nằm ở đâu? Người thanh niên này có danh tiếng, tiền của, sự ngưỡng mộ của mọi người…nhưng rõ ràng anh ta không có sự bình an bên trong. Anh ta có thể đã nghe Chúa Jesus giảng dạy trong đền thờ và một vài nơi khác, vì vậy anh đã tìm đến với Chúa Jesus và đưa ra một câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm việc lành chi cho được sự sống đời đời?” Bất luận động cơ bên trong của anh là gì, Chúa chúng ta đã hướng dẫn anh đến với các điều răn của Do thái giáo. Người thanh niên hỏi: “Những điều răn gì?“ Và Chúa Jesus đã phán, “Đừng giết người; đừng phạm tội tà dâm; đừng ăn trộm cắp; đừng làm chứng dối; Hãy thảo kính cha mẹ; và hãy yêu kẻ lân cận như mình.” Luật pháp – điều răn ở đây không phải là những thứ anh ta có thể chọn một vài điều này và bỏ những điều kia. Tân ước dạy: “Vì người nào giữ trọn luật pháp, mà phạm một điều răn, thì cũng đáng tội như đã phạm hết thảy” (Gia cơ 2:10). Luật pháp là tấm gương soi, chỉ cho chúng ta thấy những khiếm khuyết của mình, nhưng chàng thanh niên này lại không thấy chính mình có khiếm khuyết nào! Anh ta không biết rằng: “căm ghét anh em mình cũng giống như phạm tội giết người, hay là nhìn phụ nữ mà ham muốn thì cũng giống như phạm tội tà dâm” (Ma-thi-ơ. 5:21-30).

 

Giải quyết vấn đề. Chúa Jesus đưa ra một giải pháp để giải quyết vấn đề của anh ta: người thanh niên này tham lam và vật chất đang chiếm hữu, chi phối anh ta. Nếu người trai trẻ biết 10 điều răn, thì dĩ nhiên anh ta nhớ điều này: “Ngươi chớ tham lam…” (Xuất 20:17). Và điều răn này có thể thuyết phục, dẫn anh ta đến với sự thay đổi tâm trí. Chúa Jesus đã đưa ra ba chỉ dẫn mang tính thách thức: 1/ bán hết gia tài. 2/ Chia gia tài cho người nghèo. 3/Hãy theo ta. (Ma-thi-ơ. 19:21). Trong một trường hợp khác, Chúa Jesus cũng phán: “Hãy giữ cẩn thận chớ hà tiện gì hết; vì sự sống của người ta không phải cốt tại của cải mình dư dật đâu.” (Lu-ca 12:15). Người thanh niên trong câu chuyện này giống với nhiều người ngày hôm nay. Anh ta có đầy đủ nguồn dự trữ trong cuộc hành trình đi qua đời này, nhưng thiếu hụt trầm trọng nguồn dự trữ cho cuộc hành trình thuộc linh về đến đời sau. Anh ta tích trữ cho mình tài vật đời này, nhưng sẽ chết đói ở đời sau. Khi Chúa Jesus đưa ra lời thách thức, chàng thanh niên đã thối lui vì anh có “nhiều của cải lắm”. Anh ta không dám đánh đổi những gì đang nắm giữ để theo đuổi một tương lai chưa biết trước.

 

Bỏ lỡ, đánh mất cơ hội. Người thanh niên “nghe xong lời nầy, thì đi, bộ buồn bực..” Anh ta không nói gì cả sau khi nghe Chúa chỉ dẫn, nhưng thái độ của anh đã nói lên tất cả. Lúc đầu có thể anh nhiệt tình, hăng hái đi theo Chúa để nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lúc này anh buồn bã và thất vọng. Anh đã mất đi sự giàu có thật và đời sống ý nghĩa trong Christ, bằng hành động từ chối ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu anh bằng lòng dâng nộp đời sống và của cải của mình cho Chúa, chắc chắn anh sẽ kinh nghiệm niềm vui của sự tha tội và một đời sống mới đầy phấn khởi trong Christ. Nhưng với một quyết định sai lầm, anh đã trở về nhà và tiếp tục hưởng thụ đời sống cũ. Chúa Jesus có thể đã khiến cho các môn đồ bối rối khi Ngài phán: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người giàu vào nước thiên đàng là khó lắm.” (Ma-thi-ơ. 19:23). Vào lúc đó quan điểm truyền thống của người Do Thái cho rằng: người giàu là dấu hiệu của ân điển Đức Chúa Trời ở cùng họ. Người thanh niên giữ lại tiền của nhưng anh ta mất Chúa Jesus. Anh ta đánh mất đặc ân được trở nên môn đồ của Vua muôn vua. Có thể anh ta tiếp tục gia tăng của cải của mình, nhưng hành trình thuộc linh của anh hoàn toàn bế tắc.
Các môn đồ hỏi Chúa: “Vậy thì ai được cứu rỗi?” Chúa Jesus trả lời rõ ràng rằng, chúng ta không được cứu dựa vào tiền bạc, việc lành hay bất cứ “chiến công” nào khác. Sự cứu rỗi là của Đức Chúa Trời và chỉ có Ngài mới làm được. Cái giá của sự cứu rỗi là Chúa Jesus đã từ bỏ mạng sống Ngài vì chúng ta. Sự cứu rỗi có sẵn trong Chúa Jesus. Trong Ngài chúng ta có tất cả mọi điều – không thiếu bất cứ điều chi.

 

“Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta.”
(2 Phi-e-rơ 1:3)

 

 

Bài 18   

Phi-e-rơ thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ tất cả mà theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được gì?” Ma-thi-ơ. 19:27.

Câu hỏi trên đây của Phi-e-rơ nghe có vẻ ích kỷ, nhưng thực ra không phải vậy khi chúng ta nhìn vào ngữ cảnh của câu hỏi này. Vị sứ đồ dùng từ “chúng con” ở đây – như vậy ông đề cập đến mười một sứ đồ khác cùng trong nhóm với ông. Nhóm mười hai người này đều có những rắc rối phức tạp riêng cho mỗi cá nhân. Trong câu chuyện kỳ trước, chúng ta thấy người thanh niên giàu có đã thất vọng quay lưng bỏ đi, sau khi nghe Chúa Jesus chỉ dạy. Còn ở đây các sứ đồ đã bỏ mọi thứ để đi theo Chúa Jesus. Nếu người thanh niên giàu có rất khó để vào được nước trời. Vậy thì có hy vọng nào cho nhóm mười hai người này vốn là những người rất bình thường trong xã hội đương thời? Chúa chúng ta đã ban lời hứa chắc chắn cho những ai theo Ngài: “Thật, Ta bảo các con, đến thời đại muôn vật đổi mới, khi Con Người sẽ ngự trên ngai vinh quang của Ngài, thì các con là những người đã theo Ta, cũng sẽ ngồi trên mười hai ngai, để xét đoán mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Bất cứ người nào vì danh Ta từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, người ấy sẽ nhận được gấp trăm lần hơn, và thừa hưởng sự sống đời đời.” (Ma-thi-ơ 19:28-29). Và trong Ma-thi-ơ 5:3, “Phước cho những người nghèo khó tâm linh, Vì vương quốc thiên đàng thuộc về họ!” Tổng hợp tất cả những sự kiện này (bao gồm những chuyện ngụ ngôn Chúa dạy theo sau) sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn quan trọng về sự phục vụ Chúa.

Hãy cẩn thận, không chú ý vào chính bản thân mình. Văn hóa của thế gian đối với công tác phục vụ là: Tôi sẽ nhận được gì? Tuy nhiên, với dụ ngôn về những người làm công trong vườn nho được Chúa phán dạy trong Ma-thi-ơ. 20:1-16 nhắc nhở chúng ta những bài học sau đây:
– Hợp đồng làm việc (bao gồm chế độ tiền công) đã được thỏa thuận giữa người chủ và các công nhân làm việc từ sáng sớm.
– Những công nhân được thuê trễ hơn sau đó vẫn nhận được tiền công giống như những người làm việc từ sáng sớm. Lời hứa ban đầu dành cho những người được thuê này là: “Các anh hãy vào vườn nho của tôi, tôi sẽ trả công phải chăng cho.”
Bài học nào ở đây? Không nên ganh tị với những người được kêu gọi làm việc ở những giờ cuối, vì Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn so với nhu cầu thực của chúng ta. Ngài vốn rời rộng trong sự ban cho mặc dù chúng ta không xứng đáng. Chúng ta thường có khuynh hướng đòi hỏi Chúa ban cho những gì chúng ta muốn theo ý riêng. Nhưng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta theo nhu cầu chính đáng của chúng ta, và sự ban cho của Ngài là tốt đẹp và phù hợp với chúng ta hơn cả (Ma-thi-ơ 7:11). Nếu chúng ta chỉ chăm về chính mình, chúng ta dễ dàng trở nên miếng mồi của Satan. Ma quỉ đã lừa dối tổ phụ đầu tiên phạm tội: “các ngươi sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.” Và hậu quả của lời nói dối này là sự chết. Còn lời hứa của Chúa thì không phải như vậy. Hãy tin cậy Ngài.
Tránh tập chú vào những người khác. Những công nhân làm việc trong vườn nho từ sáng sớm nghĩ rằng họ sẽ nhận được tiền công nhiều hơn những người được thuê sau đó. Họ đã có ý nghĩ sai trật. Vì hợp đồng đã được thỏa thuận trước đó, và người chủ trả công cho họ theo đúng hợp đồng. Bạn và tôi đều có đủ lý do để so sánh chính mình với người khác. Trong Giăng 21, Phi-e-rơ đã phạm một lỗi lầm tương tự sau khi Chúa phục sinh. Phi-e-rơ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, còn người nầy, về sau sẽ ra thế nào? Đức Chúa Jesus đáp rằng: Nếu ta muốn người cứ ở cho tới khi ta đến, thì can hệ gì với ngươi? Còn ngươi, hãy theo ta.” Nhìn vào người khác có thể cám dỗ chúng ta ghen tị với họ, hoặc kiêu hãnh về chính mình. Cả hai điều này là tội lỗi. Phao-lô nhắc chúng ta rằng mỗi người sẽ nhận lãnh phần thưởng khi chúng ta đứng trước ngai phán xét của Đấng Christ (1 Côr. 3:8).
Tập chú tấm lòng và tâm trí của chúng ta vào Chúa Jesus và thực hiện ý muốn Ngài. Khi chúng ta tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa, chúng ta cũng tiếp nhận từ Chúa mọi điều chúng ta cần cho đời sống Cơ đốc. Đức Chúa Trời đã không tiếc chính Con Ngài, nhưng ban Con ấy cho chúng ta. Vì vậy chúng ta có thể tin cậy Ngài đáp ứng cho chúng ta mọi nhu cầu khác. Điều này không tùy thuộc vào những gì chúng ta làm cho Chúa. Những của dâng mà chúng ta dâng lên cho Đức Chúa Trời bao nhiêu đi nữa thì cũng không so sánh được với của lễ hy sinh của Chúa Jesus đã làm vì chúng ta. Chúng ta không sống trên những lời giải thích hay trên những hợp đồng, nhưng là trên những lời hứa của Đức Chúa Trời. Ngài đã “xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Ê-phê-sô 1:3). Và lời hứa của Ngài là: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.” (Ma-thi-ơ. 7:7). Phi-e-rơ đã đi từ chỗ: “chúng con sẽ được gì?” đến chỗ: “điều ta có thì ta cho ngươi.” (Công vụ 3:6). Và ông đã qui vinh hiển về cho Chúa.

“Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?”
Rô-ma 8:32

 

Bài 19

“Người chỉ nhận một ta-lâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra; nên tôi sợ mà đi giấu ta-lâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa.” (Ma-thi-ơ. 25:24-25)
Những gì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta, Ngài không muốn nhận trở lại. Ngài muốn chúng ta sử dụng những khả năng, tài vật của Ngài ban cho để thực hiện ý muốn Ngài và mở rộng vương quốc thiên đàng. Cha mẹ trên đất của chúng ta sẽ rất hạnh phúc khi nhìn thấy con cái thành đạt ước nguyện của họ. Cũng vậy, Cha thiên thượng sẽ rất vui mừng khi chúng ta thực hiện và hoàn thành ý muốn Ngài.

 

Chúng ta được sinh ra và có những khả năng nhất định. Một số người có nhiều khả năng, trong khi một số khác có ít hơn. Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ nêu rõ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.” Tuy nhiên điều này có nghĩa là bình đẳng trong luật pháp quốc gia và trong lăng kính của Đức Chúa Trời, chứ không phải trong ánh mắt của người khác. Khi chúng ta được tái sinh, Thánh Linh của Chúa ban cho chúng ta những ân tứ – những ân tứ này được nối kết với những khả năng sẵn có của chúng ta. Đức Chúa Trời là người thợ gốm thiên thượng biết nơi nào chúng ta có thể phục vụ Ngài tốt nhất. Ngài trông đợi chúng ta vận dụng đức tin và chính Ngài sẽ giúp chúng ta làm công việc của mình hiệu quả nhất.
Chúng ta được ban cho những cơ hội để nối kết những khả năng và ân tứ với nhau. Câu chuyện về các đầy tớ và những ta-lâng minh họa cho điều này (Ma-thi-ơ. 25). Khi chúng ta trung tín thực hiện ý muốn Chúa với những ta-lâng của mình, Đức Chúa Trời có thể mở rộng những mục vụ của chúng ta. Đa-vít bắt đầu công việc của mình là một người lính hầu, đánh đàn giúp vua Sau-lơ mỗi khi nhà vua bị tà linh khuấy rối. Sau đó ông trở nên một chiến sĩ, rồi thăng tiến thành sĩ quan đánh thắng nhiều trận chiến quan trọng. Cuối cùng ông lên làm vua, trở thành tổng tư lệnh quân đội với những chiến thắng vang dội khắp nơi. Nếu chúng ta trung tín, Chúa có thể cho chúng ta được thăng tiến từ những vị trí bình thường nhất lên đến những vị trí cao hơn và trở thành người lãnh đạo trong một phạm vi lớn hơn. Mỗi một lần nhận được một trọng trách trong công việc sẽ đem đến cho chúng ta những cơ hội để trưởng thành. Hãy nhìn vào câu chuyện trong Ma-thi-ơ 25. Người nhận được một ta-lâng, anh ta có ý nghĩ mình không quan trọng và vì vậy không làm gì cả – anh ta đem chôn giấu ta-lâng. Hậu quả là anh ta bị quở trách và đánh mất phần thưởng mà lẽ ra anh ta nhận được. Con người này đã coi thường khả năng và cơ hội của anh ta. Anh ta sợ người chủ thay vì vâng lời (một thái độ không nên có). Anh ta đã bỏ mất một cơ hội để được trưởng thành và thăng tiến trong mục vụ.

 

Chúng ta phải nhận lấy trách nhiệm. Nhiều người trong Kinh Thánh đã do dự, không nhất quyết trước kế hoạch của Đức Trời cho đời sống họ. Trong số đó có Môi-se, Ghi-đê-ôn, Giê-rê-mi…và Đức Chúa Trời biết những toan tính trong lòng của họ. Không làm gì cả thì coi như phạm tội. Hãy chú ý trong Ma-thi-ơ. 25: 31-46, “những con dê” bị để sang bên trái. Vì sao? Vì đây là những đầy tớ không làm gì cả để đáp ứng nhu cầu của người khác. Tội của sự chểnh mảng, bỏ lơ nhiệm vụ của mình cũng giống như tội thực hiện mạng lệnh Chúa giao một cách khinh suất. Người đầy tớ nhận được một ta-lâng lẽ ra phải cảm ơn Chủ và đi ra làm lợi ta-lâng đó. Người Chủ ra đi xa nhà một thời gian khá dài, vì vậy anh ta có nhiều cơ hội để đầu tư cho ta-lâng của mình, nhưng anh đã không làm gì cả. Anh ta rõ ràng là một đầy tớ biếng nhác. “Kẻ biếng nhác tự nghĩ mình khôn ngoan, hơn bảy người đáp lại cách có lý.” (Châm ngôn 26:16). Một người nào đó đã nói: “Trách nhiệm của chúng ta là trách nhiệm mà Đức Chúa Trời đã giao phó.” Và trách nhiệm đầu tiên của chúng ta phải là: “Vâng, thưa Chúa con xin vâng lời.”

 

Chúng ta phải đối diện với sự tính sổ. Đây là một vấn đề nghiêm túc trong công tác của chúng ta. Vì trách nhiệm sẽ dẫn đến sự tính sổ. “Vì chúng ta hết thảy sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 14:10). Vấn đề nằm ở chỗ: Không tùy thuộc vào chúng ta đã nhận bao nhiêu ta-lâng, nhưng là chúng ta có trung tín với ta-lâng Chúa đã ủy thác hay không? Chúng ta có sử dụng khả năng và cơ hội để làm vui lòng Chúa? “Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành.” (1 Cô 4:2). Chúng ta sẽ không thành công trong một phương diện giống nhau, nhưng là thành công trong kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho riêng chúng ta để dâng vinh hiển về cho Ngài. Chúa Jesus là vị Chủ yêu thương và Ngài biết những gì chúng ta có thể làm tương ứng với khả năng của chúng ta. Vì vậy đừng bao giờ sợ hãi khi biết được kế hoạch của Ngài. Winton Churchill đã nói, “Chúng ta xây dựng cuộc sống qua những gì chúng ta nhận được. Chúng ta cũng xây dựng cuộc sống bằng những gì chúng ta cho đi.” Vì vậy hãy dâng điều tốt nhất của bạn cho Chúa Jesus. Và đó mới chính là cuộc sống thực.

 

Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều; và ai đã được giao cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều hơn.”
(Lu-ca 12:48)

 

Bài 20

“Vua sẽ trả lời rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.” (Ma-thi-ơ. 25:40).

Khi tiếp xúc với một tín hữu hay một người chưa tin, chúng ta cũng phải phản chiếu hình ảnh của Chúa Jesus bên trong chúng ta. Vì tín hữu là một người có sự sống của Chúa Jesus và người chưa tin là người mà Chúa chúng ta đã chết thế cho. Nếu Chúa Jesus ở bên trong chúng ta, khi đó chúng ta sẽ cư xử với người khác (dù họ có là tín hữu hay không) giống như cách chúng ta cư xử với chính Chúa. Nếu lẽ thật này không được chúng ta áp dụng trong nghệ thuật giao tiếp với tha nhân, khi đó chúng ta là ai?
Có sự vui mừng thật và phần thưởng cho những ai bước theo khuôn mẫu: làm một điều gì đó ích lợi cho người khác với một ý thức rõ ràng là vì Chúa. Một ngày kia Chúa Jesus sẽ ban thưởng cho những ai trung tín phục vụ Ngài và người khác vì danh Chúa. Chúng ta phục vụ người khác không phải vì họ xứng đáng được phục vụ. Hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời đã đối xử rất nhân từ với chúng ta không phải vì chúng ta xứng đáng. Nếu chú trọng câu hỏi này: “Có xứng đáng hay không?” thì chúng ta chỉ xứng đáng bị Chúa kết án mà thôi. Vì vậy hãy làm những gì mà Chúa muốn chúng ta làm theo lời dạy của Ngài.
Niềm vui và phước hạnh của Cơ đốc nhân là làm những điều tốt cho người khác. Trong một phương diện ngược lại, nếu chúng ta mang danh là Cơ đốc nhân mà không làm bất cứ điều gì cả thì sẽ là một thảm họa. Tội lỗi của sự chểnh mảng – không làm tròn phận sự, cũng giống như khi biết điều tốt mà không làm. “Kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội.” (Gia-cơ 4:17)
Câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân lành (Lu-ca 10:25-37) là một ngụ ngôn sinh động cho bài học hôm nay. Tên cướp trong câu chuyện “giựt lột hết (trấn lột người bị nạn), đánh cho mình mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết.” Rõ ràng đó là hành động tội lỗi. Nhưng thầy tế lễ và người Lê-vi “lại gần nạn nhân, thấy, rồi đi qua khỏi” cũng phạm tội. Vì họ không làm gì cả để giúp người bị nạn. Có thể hai ông này phớt lờ sự cáo buộc của lương tâm, và họ có nhiều lý do để bào chữa cho hành động của mình. Tác giả Nguyễn Luận có một bài thơ sau đây:

Trên con đường mòn của thành phố quê hương.
Có một người trong cơn đại nạn.

Thầy tế lễ đi qua, kẻ xấu số rơi vào dĩ vãng.
Trên bục giáo đường, ông giải nghĩa tình thương.
Thầy thông giáo đi qua, chân vội bước lên đường.
Để kịp ngày mai, ông giảng bài đạo đức.

Người Sa-ma-ri, một đời cơ cực
Trở về quê, dừng lại ở bên đường.
Cúi xuống ôm người, truyền hơi ấm yêu thương
Vét sạch hầu bao, đắp lên trái tim già cạn máu.

Giữa ngã ba đường:
– Không bục giảng – không đền thờ – không ngôi báu
Tôi thấy người, hình ảnh Chúa Yêu Thương. 

 

Thầy tế lễ đi ngang qua nạn nhân, ông này suy nghĩ: “Có thể kẻ cướp vẫn còn quanh đây, ta phải nhanh chân lên cho kịp giờ dâng tế lễ ở đền thờ, kẻo bị liên lụy. Đi ở đàng sau mình còn có một người Lê-vi nữa, thôi hãy để anh này giúp người bị nạn.” Rồi đến lượt người Lê-vi đi tới, “Thầy tế lễ đi trước mình đã không làm gì cả để giúp đỡ nạn nhân này. Đây là công việc của mình sao?” Thế là cả hai “ung dung” lên đường bỏ mặc nạn nhân đáng thương.
Chúng ta có thể là một trong hai mẫu người này: 1/ Giúp đỡ người khác. 2/ Không làm gì cả để giúp đỡ tha nhân.
Với tư cách là dân sự của Đức Chúa Trời, chúng ta phải dâng hiến chính mình cho Chúa, rồi chuẩn bị để phục vụ người khác. “Trước hết anh em đã dâng chính mình cho Chúa, và sau lại cho chúng tôi, theo ý muốn Đức Chúa Trời.” (2 Côr. 8:5). Đức Chúa Trời đã trang bị và làm phong phú cho chúng ta để chúng ta có thể giúp đỡ người khác theo nhu cầu thực của họ. “Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc lành.” (2 Côr. 9:8). Khi Đức Chúa Trời sai phái Chúa Jesus đến trần gian – Ngài đã ban cho chúng ta điều tốt nhất. “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Rô-ma 8:32). Như vậy chúng ta còn thiếu điều gì nữa? “Mọi sự đều thuộc về anh em.” (1 Côr. 3:31). Từ lời hứa này chúng ta có thể cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những phương tiện để trợ giúp người khác. Cơ đốc nhân là người “ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có; ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự!” (2 Côr. 6:10) “Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính.” (1 Phi-e-rơ 1:3). Vấn đề là: Không phải chúng ta nghèo trong cái nhìn chật hẹp của mình, nhưng chúng ta được giàu có bao nhiêu trong Chúa Jesus?
Trên thiên đàng bạn sẽ có sự ngạc nhiên thú vị, khi làm điều lành để giúp người khác trong danh Chúa Jesus. “Nếu các ngươi tiếp đãi anh em mình mà thôi, thì có lạ gì hơn ai? Người ngoại há chẳng làm như vậy sao?” (Ma-thi-ơ. 5:47). Vì vậy đừng giống như thầy tế lễ và người Lê-vi trong ngụ ngôn trên. Chúa Jesus là khuôn mẫu cho chúng ta bước theo, và Ngài sẽ cung ứng đúng nhu cầu khi chúng ta cần nó. Luôn nhớ rằng: Trước tiên hãy dâng chính mình cho Đức Chúa Trời, và rồi sẵn sàng phục vụ người khác.

“Tôi từng bày bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.” (Công 20:35).

 

Bài 21

“Sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.” (Ma-thi-ơ. 26:32)
Một trong những lời hứa khích lệ nhất mà Chúa Jesus dành cho các môn đồ là Ngài đi trước chúng ta. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời đi trước tuyển dân và dẫn dắt họ vượt qua đồng vắng vào miền đất hứa. Sau khi họ đã vào trong Ca-na-an, Đức Chúa Trời dẫn dắt Giô-suê lãnh đạo tuyển dân, đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác. Sau đó Giô-suê đã phân chia cho các chi phái Israel những phần đất trong Ca-na-an làm sản nghiệp.

Tiên tri Giê-rê-mi đã nói: “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình.” (Giê. 10:23). Kẻ thù của chúng ta sẽ vui mừng biết bao khi dân sự Chúa bước đi theo đường lối riêng của mình, khi ấy họ chắc chắn sẽ thất bại trong việc tìm kiếm sự hướng dẫn và ban phước của Đức Chúa Trời. Sách Châm Ngôn nhắc nhở: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con; Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.” (Châm. 3:5-6).
Chúa Jesus là Đấng chăn chiên – chúng ta là chiên của Ngài. Người chăn chiên luôn đi trước bầy chiên để dẫn dắt chúng. “Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. Nhưng chiên chẳng theo người lạ; trái lại, nó chạy trốn, vì chẳng quen tiếng người lạ. … Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha. (Giăng 10:4-5; 27). Làm thế nào chúng ta có thể nghe được tiếng của Đấng chăn chiên? Có thể nghe được tiếng Chúa qua những yếu tố sau: 1/ Đọc Kinh Thánh. 2/ Cầu nguyện. 3/ Nhạy cảm với tiếng phán của Đức Thánh Linh bên trong chúng ta xuyên qua những hoàn cảnh. 4/ Chúa có thể dùng những Cơ đốc nhân khác để bày tỏ ý muốn Ngài cho chúng ta.
Tôi nhớ lại trong kinh nghiệm của mình thường xuyên có bốn yếu tố này giúp tôi nghe được tiếng Chúa. Một Cơ đốc nhân chân thật sẽ nghe được tiếng Chúa phán và không bị dẫn đi lạc lối từ những giáo sư giả.

Bạn có biết rằng Chúa Jesus đã đi trước chúng ta về thiên đàng để sắm sẵn cho chúng ta một chỗ ở? Chúa Jesus cũng đã đi trước chúng ta vào trong nơi thánh, để mở một lối đi cho những người theo Ngài: “Chúng ta giữ điều trông cậy nầy như cái neo của linh hồn, vững vàng bền chặt, thấu vào phía trong màn, trong nơi thánh mà Đức Chúa Jêsus đã vào như Đấng đi trước của chúng ta, vì đã trở nên thầy tế lễ thượng phẩm đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc. (Hêb. 6: 19-20).
Vào ngày Lễ chuộc tội hằng năm của tuyển dân, thầy tế lễ thượng phẩm trong Cựu Ước sẽ đi qua bức màn che, vào bên trong nơi chí thánh, lúc đó không có ai được đi theo. “Mỗi năm một lần chỉ một mình thầy tế lễ thượng phẩm vào, chẳng bao giờ mà không đem huyết dâng vì chính mình và vì sự lầm lỗi dân chúng.” (Hêb. 9:7). Còn trong thời Tân Ước thì sao? Satan thường lừa dối là bạn sẽ không bao giờ được vào thiên đàng. Lúc đó hãy nói cho nó biết là Chúa Jesus đã có mặt ở đó rồi, Ngài đã đi trước đến đó và chúng ta chỉ cần đi theo Ngài – là Đấng đã mở ra một lối đi để chúng ta bước vào nơi thánh. Chúa Jesus làm gì ở thiên đàng? Ngài đã trở nên thầy tế lễ thượng phẩm cầu thay cho chúng ta trước ngôi thi ân. Nhờ Ngài chúng ta nhận được ân điển đáp ứng cho mỗi nhu cầu. Theo Giăng 14:2-4 Chúa Jesus phán với chúng ta: “Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó. Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa.”

Chúa Jesus cũng đi trước chúng ta ở bất cứ nơi nào mà chúng ta được sai đi để phục vụ Ngài. “Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người.” (Ma-thi-ơ. 4:19). Môn đồ của Chúa Jesus giống như những ngư phủ đánh bắt cá. Các ngư dân đánh bắt cá sống rồi sau đó làm cho chúng chết. Còn “tay đánh lưới người” là những ngư phủ thuộc linh đánh bắt những “con cá đang chết trong một thế giới sa bại” nhưng muốn sống. Chúa Jesus đã dự bị cho chúng ta một lĩnh vực nào đó để chúng ta phục vụ Ngài. Cho dù các bạn có được huấn luyện về công tác truyền giáo hay tốt nghiệp ở một Trường Kinh Thánh hay không, thì hãy nhớ rằng Chúa Jesus luôn đi trước để dẫn dắt. Chúng ta cần sự sửa soạn của Đức Chúa trời cho mỗi mục vụ tương lai.

Sứ đồ Giăng thưa cùng Chúa rằng: “Lạy thầy, chúng tôi từng thấy có người lấy danh thầy mà trừ quỉ, thì chúng tôi đã cấm, vì họ không theo chúng ta. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đừng cấm làm chi; vì chẳng ai cùng trong một lúc, vừa nhân danh ta làm phép lạ, vừa nói xấu ta được. Hễ ai không nghịch cùng ta là thuộc về ta. Còn ai nhân danh ta mà cho các ngươi một chén nước, vì các ngươi thuộc về Đấng Christ, quả thật, ta nói cùng các ngươi, người ấy sẽ không mất phần thưởng mình đâu.” (Mác 9: 38-41). Vị sứ đồ quên rằng mỗi tín hữu phải đi theo và bắt chước Chúa Jesus, chứ không phải đi theo những người khác cho dù họ là ai. Phao-lô nói gì? “Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy.” (1 Côr. 11:1). Sự đáp ứng và trách nhiệm của chúng ta là đi theo Chúa Jesus, và không dính vào chuyện của người khác (Giăng 21:19-23). Hãy nhìn xem, tập chú vào Chúa Jesus, đi theo Ngài, phục vụ Ngài.
“Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.”
(Giăng 14:3)

 

Bài 22

“Và hãy đi mau nói cho môn đồ Ngài hay rằng Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Đây nầy, Ngài đi trước các ngươi qua xứ Ga-li-lê; ở đó, các ngươi sẽ thấy Ngài. Ấy, ta đã bảo các ngươi.”
(Ma-thi-ơ. 28:7)

Phụ nữ không được đánh giá cao trong thế kỷ đầu tiên, nhưng họ được Đức Chúa Trời chọn là những người đầu tiên làm chứng nhân cho sự sống lại của Đấng Christ. Ma-ri Ma-đơ-len và một Ma-ri khác là hai phụ nữ cuối cùng trong đám đông đã ra về sau khi chứng kiến cảnh tượng Chúa Jesus bị hành hình trên thập giá. Và bây giờ họ là những người đầu tiên đến viếng thăm phần mộ của Chúa. Họ đến đó từ sáng sớm tinh mơ.Và Chúa đã sống lại từ kẻ chết trước bình minh. Đó là một ngày đặc biệt.

Một trận động đất lớn (Ma-thi-ơ. 28:2). Đức Chúa Trời vẫn đang ngồi trên ngôi, bày tỏ quyền năng và hoàn thành các lời hứa của Ngài. Trước đó Chúa Jesus đã báo trước cho các môn đồ là Ngài sẽ sống lại vào ngày thứ ba sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá (Ma-thi-ơ. 16:21; 17:23; 20:19; 26:32), nhưng không biết tại sao những lời này dường như không đi vào tâm trí của họ. Những trận động đất thường khiến chúng ta nghĩ đến sự phán xét. Nhưng trận động đất ở đây báo hiệu cho sự phục sinh của Vua lớn. Ngài là Đấng bị con người khinh miệt, nhưng bây giờ được vinh hiển qua sự phục sinh và Ngài sẽ thăng thiên về trời, ngồi trên ngai với Cha. Nếu sự kiện ấy không gây nên một chấn động lớn trong lòng đất thì mới là chuyện lạ!

 

Một nỗi sợ lớn. “Những lính canh sợ hãi run rẩy, trở nên như người chết” (câu 4) khi thiên sứ hiện đến trong sự kiện Chúa phục sinh. Thật kịch tính khi cửa mộ mở toang ra. Những gì quân lính La-mã làm để giữ thân xác Chúa Jesus trong phần mộ hoàn toàn bị phá hủy. “Thiên sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá ra mà ngồi ở trên” không phải để Chúa Jesus từ trong mồ đi ra, nhưng để cho các chị em bước vào trong mộ và quan sát. Đối với những ai tiếp nhận Đấng Christ là Cứu Chúa, là Vua của mình thì ngôi mộ trống đã phá vỡ sự sợ hãi của họ. Họ không còn sợ sự chết hay một tương lai vô định bị phán xét. Bởi vì: “Ta sống thì các ngươi cũng sẽ sống.” (Giăng 14:19).

 

Một sự thật lớn. “Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán. Hãy đến xem chỗ Ngài đã nằm.” (Ma-thi-ơ. 28:6). Tin tức tốt lành là “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh thánh.” (1 Côr. 15:1-4). Phép biện luận ở đây: một Cứu Chúa chết không thể ban sự sống cho những tội nhân đang chết. Nhưng Chúa Jesus là Đấng sống. “Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống.” (Công 1:3). Và Chúa khiến họ trở nên những chứng nhân của Ngài (câu 22). Sứ đồ Phi-e-rơ đã giảng về Chúa phục sinh trong ngày Lễ ngũ tuần (Công 2:32). Và ông cũng làm chứng mạnh mẽ về quyền năng Chúa phục sinh khi chữa lành một người què tại đền thờ trong danh Chúa Jesus (Công 3:15). Các chị em đã công bố sự phục sinh của Chúa trước khi những người lãnh đạo trong Do thái giáo và quân đội La mã tuyên truyền lố bịch là thân xác Chúa Jesus đã bị các môn đồ đánh cắp trong ban đêm (Ma-thi-ơ. 28:11-15; Công. 5:27-32). Cảm tạ Chúa. Chúng ta đang hầu việc một Cứu Chúa hằng sống.

Một đặc ân lớn. “Hãy đi mau nói cho môn đồ Ngài hay rằng Ngài đã từ kẻ chết sống lại” (Ma-thi-ơ. 28:7). Thiên sứ đã chỉ cho hai chị em cùng tên Ma-ri ngôi mộ trống, và truyền bảo họ hãy đi rao truyền tin tức vinh diệu này cho các môn đồ. Tấm vải liệm xác Chúa vẫn còn đó, giống như một cái kén của con bướm nhưng không có gì bên trong cả. Tấm vải liệm và ngôi mộ niêm phong không thể giữ được thân xác Chúa phục sinh. Sau đó không lâu Ma-ri Ma-đơ-len và một Ma-ri khác cũng gặp được Ngài tỏ tường (câu 9,10). Đó là bằng chứng sinh động cho sự kiện Chúa phục sinh. Còn sứ đồ Phao-lô thì ao ước có một trải nghiệm mạnh mẽ hơn: “đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài.” (Phi-líp 3:10). Và ông đã thực sự kinh nghiệm điều này.

 

Một sự vui mừng lớn. “Hai người đàn bà đó bèn vội vàng ra khỏi mộ, vừa sợ vừa cả mừng, chạy báo tin cho các môn đồ.” Hai chị em Ma-ri này biết rằng sự hi sinh của Chúa Jesus trên thập tự giá đã được Cha chấp nhận, và bây giờ họ có tin tức tốt lành để công bố cho cả thế giới: Satan đã bị đánh bại và sự chết đã bị chinh phục qua sự phục sinh của Cứu Chúa. Lời hứa của Chúa Jesus dành cho các môn đồ: “Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” (câu 20).  Lời này dẫn chúng ta đến lời chứng tốt nhất: “Chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy.” (Rô-ma 6:4). Với những ai đã dâng nộp đời sống mình cho Chúa Jesus, thì mỗi ngày trôi qua là một ngày trải nghiệm sự phục sinh vinh diệu.

Đây là lúc chúng ta đi ra và nói cho người khác về sự phục sinh của Chúa!

“Những kẻ đem tin tốt, rao sự bình an, đem tin tốt về phước lành, rao sự cứu chuộc, bảo Si-ôn rằng: Đức Chúa Trời ngươi trị vì, chân của những kẻ ấy trên các núi xinh đẹp là dường nào.”

Ê-sai 52:7

 

Bài 23

“Đức Chúa Jêsus động lòng thương xót, giơ tay rờ người, mà phán rằng: Ta khứng, hãy sạch đi.”
(Mác 1:41)

Đức Chúa Jesus dành thời gian để tiếp xúc với từng cá nhân. Ngài đã nói chuyện với Ni-cô đem, người phụ nữ tại giếng Gia-cốp, người trai trẻ giàu có, tên cướp trên thập tự giá… Và trong câu chuyện này Ngài gặp một người phung.
Đức Chúa Jêsus đương ở trong thành kia, có một người mắc bịnh phung đầy mình, thấy Ngài thì sấp mặt xuống đất, mà nài xin rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa khứng, chắc có thể làm cho tôi được sạch! (Lu-ca 5:12).
Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, người bệnh phung bị xếp vào loại thấp kém nhất. Những người này bị xem là ô uế và họ không được phép đến gần những người khác. Khi ra đường họ phải giữ khoảng cách với những người khác ít nhất là 6 feet (tương đương 1,82 met), và từ đằng xa họ phải la lớn lên: “Tránh ra, tôi bị ô uế.” Tuy nhiên Chúa Jesus đã dừng lại trước lời thỉnh cầu của một người phung. Chúa “động lòng thương xót” (Mác 6:34; 8:32). Ngài đụng chạm và chữa lành người này. Bài học nào cho chúng ta ở đây? Hãy dành thời gian bận rộn của mình cho người khác – tiếp xúc, lắng nghe và giúp đỡ họ. Điều này sẽ làm cho chúng ta giống với Chúa Jesus nhiều hơn.

Chúa Jesus đã đáp ứng cho người có nhu cầu về vật lý cũng như người có nhu cầu thuộc linh. Ngài chữa lành người bệnh, ban bánh cho người đói…và thậm chí gọi kẻ chết sống lại. Người bệnh phung “thấy Ngài thì sấp mặt xuống đất, mà nài xin rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa khứng, chắc có thể làm cho tôi được sạch!” Chúa Jesus đã không để cho người này thất vọng.
Chúa Jesus đã đến trần gian đáp ứng cho mọi nhu cầu của con người. Và đây là điều mà Hội thánh của Chúa trong suốt mọi thời đại tiếp tục với các mục vụ của Chúa Jesus trong mọi nơi chốn. Dù bạn làm việc trong trường học, bệnh viện hay bất kỳ một tổ chức, hội đoàn Cơ đốc nào, bạn cũng phải đi theo gương mẫu của Chúa Jesus.

Chúa Jesus không chỉ trả lời sự khẩn cầu của người bị phung, mà Ngài còn trả lời sự thỉnh cầu cho những ai có đức tin. Người phung biết rằng Chúa Jesus có thể chữa lành cho ông. Lý lẽ mà ông đưa ra là: “nếu Chúa khứng (muốn), chắc có thể làm cho tôi được sạch!” (Lord, if you are willing, you can make me clean.) Người phung đã không cầu nguyện theo cách mà người cha có đứa con trai bị quỉ ám trong Mác 9:22 khẩn cầu, “nếu thầy làm được việc gì, xin thương xót chúng tôi và giúp cho!”. Và Chúa Jesus đã trả lời, “Sao ngươi nói: Nếu thầy làm được? Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả.”

Cầu nguyện liên quan đến đến ý muốn và quyền năng của Đức Chúa Trời. “Nầy là điều chúng ta dạn dĩ ở trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin việc gì, thì Ngài nghe chúng ta. Nếu chúng ta biết không cứ mình xin điều gì, Ngài cũng nghe chúng ta, thì chúng ta biết mình đã nhận lãnh điều mình xin Ngài.” (1 Giăng 5:14-15). Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể biết được ý muốn của Chúa? Chính là nhờ Lời Chúa và Đức Thánh Linh. Điều này không có nghĩa là mở ra bất kỳ một trang Kinh Thánh nào, rồi chỉ vào đó một câu để tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa, nhưng là đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày và để Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta qua Lời. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta phải dành thời gian cầu nguyện và chờ đợi để lắng nghe tiếng Chúa. Đôi khi Chúa cũng dùng những Cơ đốc nhân khác để đưa ra lời tư vấn cho chúng ta. Rất nhiều lần Chúa Thánh Linh ban cho tôi sự hướng dẫn để giải quyết một tình huống qua một câu Kinh Thánh từ trong bài giảng. Chúng ta phải cầu nguyện cho những người khác, vì ý chỉ của Chúa là muốn họ được cứu. (1 Tim. 2:4; 2 Phi. 3:9).

Chúa Jesus truyền dạy người bệnh phung: “cấm người đó học chuyện lại với ai” (Lu-ca 5:14) sau khi được chữa lành, nhưng người này đã đi ra làm chứng tin tức tốt lành về trường hợp của anh ta. Anh ta đã không vâng lời Chúa? Tôi nghĩ rằng Chúa tha thứ cho anh ta về sự không vâng lời này. Giám mục Handley Moule đã nói: “Tôi thà làm một người nhiệt thành bày tỏ niềm vui hơn là cố gắng chôn giấu cảm xúc thật của mình.”

Hội thánh ngày nay đang làm điều trái ngược với người bệnh phung trong câu chuyện trên đây. Chúa truyền bảo anh ta im lặng với công chúng, nhưng anh ta đã nói ra điều Chúa làm. Còn Hội thánh được truyền bảo công bố tin tức tốt lành, nhưng chúng ta giữ im lặng? Hội thánh hay người bệnh phung phạm nhiều lỗi hơn trong câu chuyện này? Nếu Chúa Jesus đã làm một vài điều đặc biệt trong cuộc đời bạn, hãy nói điều đó cho người khác biết.

“Vì, về phần chúng tôi, không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe.”
(Công vụ 4:20)

 

 

Bài 24

“Ngài lại phán rằng: Hãy cẩn thận về điều mình nghe. Người ta sẽ đong cho các ngươi bằng lường các ngươi đã đong cho, và thêm vào đó nữa.”  (Mác 4:24)

 

Trong những thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, hầu hết mọi người không có bản sao của Kinh Thánh để đọc như chúng ta hôm nay. Tuy nhiên họ được nghe đọc Lời Chúa và hát các Thi thiên khi họ nhóm họp trong đền thờ hoặc nhà hội. Ngày nay chúng ta có nhiều thuận lợi hơn khi muốn đọc hay nghe lời Thánh Kinh. Có nhiều bản dịch Kinh Thánh khác nhau để chúng ta nghiên cứu và đối chiếu. Có những bản Kinh Thánh được ghi âm trên Ipad, Smart phone  hay các thiết bị nghe nhìn khác. Nếu chúng ta muốn thì sẽ không bao giờ quá trễ để đọc Kinh Thánh một cách có hệ thống. Tuy nhiên ngày hôm nay nhiều người đọc tiểu thuyết, báo chí, xem TV hay làm những việc khác và không còn thời gian để đọc Kinh Thánh. Lời Chúa cảnh báo chúng ta phải cẩn thận về những gì mình xem và nghe mỗi ngày. Tại sao?

Những gì chúng ta chọn lựa để nghe sẽ bày tỏ chúng ta là ai? George H. Morrison, một nhà giảng đạo người Xcốt-len đã nói, “Con người nghe và rồi họ làm theo những gì họ nghe.” Khẩu vị của chúng ta sẽ xác định loại thực đơn chúng ta tìm đến. Nếu chúng ta thực sự nhận biết Chúa Jesus và bước theo Ngài, chúng ta sẽ ham thích bước đi trong lẽ thật giống như Chúa. Khi đó chúng ta sẽ dành thời gian để đọc Kinh Thánh. Chúng ta “vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va. Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm” (Thi. 1:2). Chúa Jesus đã so sánh Đạo của Ngài với những hạt giống (Lu-ca 8:11). Những hạt giống ấy phải được gieo trồng và tưới nước thích hợp trước khi nó bén rễ vào lòng đất và sinh bông trái. Những người mở lòng và tâm trí của mình ra để tiếp nhận các hạt giống độc hại trong thế giới này sẽ đánh mất cơ hội để cho lẽ thật của Chúa phát triển. Vì vậy, “Hãy cẩn thận về điều mình nghe” (Mác 4:24).

Những gì chúng ta chọn lựa để xem và nghe sẽ đem đến hệ quả là chúng ta nhận được hay đánh mất những giá trị nào đó. Trong Kinh Thánh từ “nghe” cũng có nghĩa là “vâng lời”. Chỉ đọc hoặc nghe Lời Chúa mà thôi thì không đủ. Chúng ta cần phải hiểu và vâng theo Lời Chúa. Nếu chúng ta áp dụng như thế, chúng ta sẽ lớn lên trong ân điển và trong sự thông biết Chúa. Nếu chúng ta dành thời gian cho việc nghiên cứu Kinh Thánh và áp dụng nó, Đức Chúa Trời chắc sẽ ban phước cho chúng ta tùy thuộc vào số lượng thời gian mà chúng ta dành cho Ngài. Chúng ta càng dành nhiều thời gian cho Lời Ngài, Đức Chúa Trời sẽ thêm lên cho chúng ta những phước hạnh trong lẽ thật. Nếu dành thời gian cho những điều vô nghĩa trong thế giới này, chúng ta sẽ đánh mất sự giàu có thuộc linh mà lẽ ra chúng ta có. Phao-lô khuyên Ti-mô-thê phải “tập tành sự tin kính” (1 Tim. 4:7). Đức Chúa Trời tôn trọng và làm vinh hiển con cái của Ngài khi họ thực hành sự tin kính.

 

Những gì chúng ta chọn lựa để nghe và xem sẽ quyết định là chúng ta có điều gì để chia sẻ cho người khác. Nếu chúng ta đo lường số lượng thời gian chúng ta dành cho Chúa, Ngài cũng sẽ đo lường những phước hạnh ban cho chúng ta. Vấn đề này được tính theo tỉ lệ thuận. Chúng ta càng đo lường thời gian đọc, nghe và làm theo Lời Chúa càng nhiều, sự chúc phước càng được gia tăng trên chúng ta. Với tư cách là người giảng đạo, thầy giáo hay chứng nhân cho Chúa, chúng ta phải có nguồn dự trữ các phước ơn để chia sẻ cho người khác và đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Qua sự thực hành siêng năng trong nếp sống tin kính, chúng ta từ chối sự khôn ngoan của thế gian và lời nói dối của ma quỉ. Nếu dân sự của Chúa tiếp nhận từ Ngài: sữa, bánh, mật ong và các loại đồ ăn thuộc linh khác, họ sẽ làm nên sự khác biệt trong đời sống và dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời.

 

“Lòng kẻ biếng nhác mong ước, mà chẳng có chi hết;
Còn lòng người siêng năng sẽ được no nê”  (Châm. 13:4).

 

Bài 25

“Ngài nói tỏ tường điều đó với môn đồ. Phi-e-rơ đem Ngài riêng ra, mà can gián Ngài.”
(Mác 8:32)

 

Phi-e-rơ đã nhìn nhận Chúa Jesus là Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời hằng sống. Từ sự nhận thức này, lẽ ra Phi-e-rơ phải sẵn sàng để Chúa Jesus tiếp tục dạy dỗ ông về chính Ngài và thập tự giá. Nhưng ông đã không sẵn lòng. Vì sao? Phi-e-rơ đã lắng nghe tiếng nói của Satan và ông đã can gián thầy của mình bước đi con đường thập tự. Ông đã đứng về phía đối lập với ý chỉ của Đức Chúa Trời khi hành động theo tiếng nói của ma quỉ. Thay vì tiếp tục bước đi trên con đường thuộc linh, Phi-e-rơ đã quay lại theo sự hướng dẫn của Sa-tan. Đây cũng là chiến thuật mà ma quỉ thường sử dụng để lôi kéo chúng ta rời xa kế hoạch của Chúa.

Phi-e-rơ, một môn đồ cố gắng trở nên người lãnh đạo. Ông được kêu gọi để đi theo Chúa Jesus (Ma-thi-ơ. 4:18-22). Điều này có nghĩa là ông cần lắng nghe tiếng Chúa, vâng lời Chúa và tuyệt đối đi theo khuôn mẫu của Ngài. Tuy nhiên ông đã hành động như một người tư vấn cho Chúa, thay vì hiểu biết kế hoạch của Chúa và phục tùng nó. Ông đã nỗ lực ngăn cản Thầy mình vâng phục ý chỉ của Cha. Trong việc này ông đã hợp tác với Sa-tan và đưa ra một đề nghị can ngăn Chúa Jesus từ chối thập tự giá. Phi-e-rơ còn phải học tập thêm nhiều bài học khác để trưởng thành và có khả năng để trở nên người lãnh đạo trong những ngày sắp tới. Những ai muốn lãnh đạo phải biết lắng nghe, học tập đi theo tấm gương của Chúa Jesus. Chúa chúng ta đã dạy, “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình, sứ giả cũng chẳng lớn hơn kẻ sai mình” (Giăng 13:16). Và trong Rô-ma 11:34, “Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?” Đức Chúa Trời không cần những lời đề nghị hay tư vấn của chúng ta. Bài học tốt nhất cho vấn đề này được ghi trong Lu-ca 22:42 khi Chúa Jesus cầu nguyện, “xin ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi!”

 

Phi-e-rơ là một hòn đá xây nhà đã trở nên đá vấp phạm. Trong lần đầu tiên gặp Chúa Jesus, Anh-rê đã giới thiệu Si-môn, người anh em của mình với Chúa. Và Chúa đã đổi tên Si-môn thành Phi-e-rơ nghĩa là một viên đá nhỏ (Giăng 1:40-42; Ma-thi-ơ. 16:18). Về sau Phi-e-rơ đã dùng tên này biểu thị cho tất cả dân sự Chúa (1 Phi. 2:4). Tuy nhiên khi một hòn đá đi ra khỏi vị trí của nó, nó sẽ trở thành đá vấp ngã cho người khác. Điều này diễn tả chính xác hành động can gián của Phi-e-rơ đối với Chúa Jesus. Kh1 Phi-e-rơ nói chuyện một cách riêng tư với Chúa trong câu chuyện này, thì Chúa lại quở trách Phi-e-rơ công khai trước mặt các môn đồ: “Hỡi quỉ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta.” Sa-tan có nghĩa là kẻ đối địch với Đức Chúa Trời. Khi Chúa nói đến Sa-tan, Ngài có ý bảo rằng Phi-e-rơ đã ở vào vị trí chống nghịch với kế hoạch của Chúa – hay có thể nói mạnh hơn là ở vào vị trí của kẻ phản bội. Điều này cũng cảnh báo tất cả chúng ta. Trước đó Phi-e-rơ đã công bố Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời. Lời này ông nói đến từ sự mặc khải thiên thượng. Còn bây giờ khi can gián Chúa Jesus, ông đã nói ra lời của Sa-tan. Điều này giống như từ đỉnh cao rơi xuống vực thẳm. Hãy cẩn thận, trải nghiệm tồi tệ của Phi-e-rơ cũng có thể xảy đến cho tất cả chúng ta. Vì vậy hãy để tâm trí mình tập chú vào những điều ở trên trời (Cô-lô-se 3:13).

 

Phi-e-rơ đã chuyển đổi vị trí từ một người có khải tượng lớn đến một người đánh mất khải tượng. Chúng ta học biết rằng không chỉ một mình Chúa Jesus mang lấy thập tự giá, nhưng mỗi một môn đồ cũng phải vác thập tự giá của mình. Vác thập tự giá có nghĩa là đi thẳng tới chỗ bị đóng đinh. Mỗi ngày môn đồ của Chúa phải sẵn sàng nhận lấy thập tự giá và đóng đinh đời sống cũ. Có nhiều cách để chết, nhưng chúng ta không thể tự đóng đinh chính mình. Chúng ta phải để cho Đức Thánh Linh đồng nhất hóa chúng ta với Christ trong sự đóng đinh. “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi.” (Ga-la-ti 2:20). Phi-e-rơ muốn Chúa Jesus phải tự bảo vệ chính Ngài và tránh đi con đường thập tự giá như Ngài đã thông báo. Ông đã bị Chúa quở trách rất nặng nề về chuyện này, và qua trường hợp của Phi-e-rơ Chúa cũng muốn cảnh báo tất cả chúng ta. “Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại.” (Mác 16:25). Khi Cơ đốc nhân bị lạc hướng đi, thì sẽ đánh mất cơ hội cho nhiều người tìm được lối đi.

Sáu ngày sau đó, Chúa Jesus đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng lên trên núi, và cho họ nhìn thấy sự vinh quang của Ngài (Mác 9:1-13). Tại đây họ được Chúa dạy tiếp tục trong tiến trình của loạt bài học từ sự chịu khổ đến vinh hiển. Về sau chúng ta cũng được Phi-e-rơ luận giải điều này trong thư tín của ông (1 Phi. 1:6-8; 4:13 – 5:10; 2 Phi. 1:16-21). Đừng sợ đối diện với thập tự giá, vì nó dẫn chúng ta đến vương miện Chúa ban. Những gì chúng ta bị mất đi vì cớ Chúa và Tin lành sẽ được trả lại trong ngày vinh hiển của Chúa.

“Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta và đạo Tin lành mà mất sự sống, thì sẽ cứu.” (Mác 8:35)

 

 

Bài 26
“Vừa thấy đàng xa một cây vả có lá, Ngài đến đó xem hoặc có chi chăng; song, tới gần rồi, chỉ thấy có lá mà thôi, vì bấy giờ không phải mùa vả.” (Mác 11:13)

Khi một cây vả có nhiều lá thì đó là dấu hiệu cho biết nó có thể có nhiều trái. Nhưng trong câu chuyện này, cây vả có nhiều lá nhưng tuyệt nhiên không có một trái nào. Chúa Jesus muốn dùng hình ảnh cây vả không trái để dạy các môn đồ và chúng ta những bài học quan trọng.

Bài học đầu tiên dành cho tuyển dân Israel là nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc sinh bông trái. Trong Cựu Ước, các tiên tri thường dùng hình ảnh cây vả và cây nho làm biểu tượng cho tuyển dân Israel. Giê-rê-mi đã so sánh tội lỗi của tuyển dân giống như những trái vả thối rữa (Giê 29:17). Và Ô-sê cũng viết: “Ta đã gặp Y-sơ-ra-ên, như gặp trái nho trong đồng vắng; ta đã thấy tổ phụ các ngươi như trái chín đầu trên cây vả tơ…Ép-ra-im bị đánh; rễ nó đã khô. Chúng nó sẽ không ra trái nữa; dầu đẻ ra, ta cũng sẽ giết trái thương yêu của bụng chúng nó.” (Ô-sê 9:10, 16). Vào thời của Giô-ên, các con châu chấu đã tàn phá mùa màng của tuyển dân, Đức Chúa Trời gọi họ là “cây nho ta và cây vả ta.” (Giô-ên 1:7). Sự mô tả thông thường nhất về sự thịnh vượng của tuyển dân là họ được ngồi bình yên dưới cây nho và cây vả của mình (1 Các vua 4:25; Mi-chê 4:4). Tuy nhiên, tuyển dân trong thời Chúa Jesus thay đổi nhiều. Điều này đã khiến Chúa chúng ta khóc về thành Giê-ru-sa-lem và Israel vì họ có những lễ nghi tôn giáo nhưng không còn sinh bông trái nữa. Sự thờ phượng của tuyển dân giống như cây vả có nhiều lá nhưng không có trái. Chúa Jesus đã cảnh báo những người lãnh đạo tôn giáo thời đó: “nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó.” (Ma-thi-ơ. 21:43). Tôi tin rằng từ “một dân khác” mà Chúa nói ở đây chính là Hội thánh (1 Phi-e-rơ 2:9). Thế nhưng, chúng ta tự hỏi xem, liệu chúng ta có đang kết quả hay cũng giống như tuyển dân Israel, có nhiều lá nhưng chẳng có trái nào!

Bài học thứ hai Chúa Jesus muốn dạy ở đây là chúng ta hãy cầu nguyện trong sự tin chắc. Các môn đồ đã nghe Chúa rủa sả cây vả. Và sáng hôm sau trên đường từ Bê-tha-ni đến Giê-ru-sa-lem họ nhìn thấy cây vả hôm qua đã khô tới rễ. Điều Chúa muốn dạy ở đây? “Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời” (Mác 11:22). Ngài bảo họ rằng: “nếu các ngươi có đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì chẳng những các ngươi làm được điều đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu các ngươi biểu hòn núi nầy rằng: Hãy cất mình lên và quăng xuống biển, điều đó cũng sẽ làm được.” (Ma-thi-ơ. 17:20; 21:21). Hãy khắc ghi trong tâm trí là Chúa Jesus sống bởi đức tin (chứ không chỉ là quyền năng phép lạ) trong những năm trên đất. Ngài đã cầu nguyện với Cha, Ngài tùy thuộc vào Đức Thánh Linh, Ngài công bố lời hứa của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng phải làm như thế. Tôi không bao giờ quên những lời của Vance Havner đã nói trong một kỳ hội thảo dựa trên Hêb. 11:24-29: “Môi-se nhìn thấy điều mà người khác không thấy được. Ông chọn điều không thế lực nào tiêu diệt được, và biến điều bất khả thi thành điều có thể.” Và chúng ta cũng vậy? Trong suốt những năm qua, vợ chồng chúng tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa Trời thực hiện những điều lớn lao trong cuộc đời của các thánh đồ, vì họ cầu nguyện và tin cậy vào Ngài. Hội thánh ngày hôm nay vẫn đang cầu nguyện trong đức tin và trông đợi Chúa làm những việc vĩ đại?

Bài học thứ ba được nối kết với bài học thứ hai, ấy là chúng ta phải trung thực với Đức Chúa Trờikhi cầu nguyện. Có bất cứ điều gì cay đắng, căm hờn một ai đó còn tồn tại trong tấm lòng của chúng ta? Phải giải quyết điều này trên căn bản lẽ thật để Chúa đáp lời cầu xin của chúng ta. Những người lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem âm mưu với nhau để giết Chúa. Họ đúng hay sai khi mặc chiếc áo tôn giáo trong kế hoạch này? Sự tin kính thực sự có gắn liền với ý tưởng giết người trong lòng? Chúa Jesus đã dạy rõ ràng vấn đề của tội lỗi bên trong tấm lòng (Ma-thi-ơ. 5: 21-30) và chúng ta cần nhớ những gì Chúa phán. Chúng ta phải quyết định tha thứ và làm điều đúng cho người khác, nếu chúng ta trông đợi Chúa trả lời sự cầu nguyện. “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi.” (Thi. 66:18). Và “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra.” (Châm. 4:23).
Chúa Jesus vẫn đang tìm kiếm bông trái trong đời sống mỗi Cơ đốc nhân. Ngài đã ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần trên hành trình theo Chúa. Chúng ta có đang ở trong Ngài, sanh bông trái và vận dụng đức tin dời núi?

 

“Hãy cứ ở trong ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi. Như nhánh nho, nếu không dính vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng cứ ở trong ta, thì cũng không kết quả được.”
(Giăng 15:4)

 

Bài 27

“Ấy cũng như một người kia đi đường xa, bỏ nhà, giao cho đầy tớ mỗi đứa cai quản một việc, và cũng biểu đứa canh cửa thức canh.” (Mác 13:34)

Từ buổi ban đầu Đức Chúa Trời giao việc quản trị trong vườn Ê-đen cho A-đam và Ê-va. Hai người này bận rộn với công việc Chúa giao và vui hưởng cảnh vườn địa đàng. Nhưng sau khi tổ phụ của loài người phạm tội, họ bị đuổi ra khỏi vườn. Hậu quả là công việc, đời sống của họ và hậu tự theo sau đã trở nên vô cùng vất vả. Trong văn cảnh này, chúng ta có thể học được ít nhất bốn điều sau:

Chịu trách nhiệm về ân tứ và công việc của bạn. Những người trưởng thành chấp nhận những khả năng và những khiếm khuyết của họ. Họ vui thích với công việc Chúa giao. Đức Chúa Trời rất khôn ngoan, và Ngài chuẩn bị cho chúng ta những ân tứ để phục vụ tại nơi Ngài chỉ định. Khi chúng ta để cho Chúa hướng dẫn, Ngài sẽ dùng chúng ta đáp ứng nhu cầu của người khác. Và với trình tự này, chúng ta sẽ được trưởng thành trong mục vụ. Chúa Jesus đã so sánh làm việc với ăn uống: “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” (Giăng 4:34). Khi thi hành mục vụ được nối kết đúng đắn với người được sai đi – thì đó sẽ là niềm vui, chứ không phải hình phạt. Thi hành mục vụ là ân tứ của Chúa ban cho để phục vụ. Vì vậy người được sai đi cần nỗ lực trong ơn Chúa để vượt lên chính mình – thi đua với chính bản thân, chứ không phải cạnh tranh với người khác. Tất cả chúng ta đều lao tác cho Đức Chúa Trời và muốn Ngài được vinh hiển.

Phục vụ Chúa cách trung tín từ trong tấm lòng. Sứ đồ Phao-lô dạy chúng ta, dù ở địa vị tôi tớ hay là chủ nhân thì cả hai đều có chung một Chủ ở trên trời (Ê-phê-sô 6:5-9). Chúa Jesus ở thiên đàng vẫn đang phục vụ liên tục Hội thánh Ngài trên đất. Và chúng ta có thể đến với Ngài bất cứ lúc nào để nhận lãnh ân điển trong thì giờ có cần (Hêb. 4:14-16). Nếu bạn là chủ một công ty, bạn phải phục vụ công nhân của bạn như thể đang phục vụ Đấng Christ. Những công nhân và các đồng nghiệp có thể nhìn thấy những biểu hiện bên ngoài của bạn khi bạn phục vụ những người cấp dưới, nhưng Chúa nhìn thấy động cơ bên trong của bạn (1 Sam. 16:7). Chúa thấy rõ những ngõ ngách bên trong tấm lòng mà con người không thấy. Đức Chúa Trời không phải là vị Chủ nhân khó tính áp đặt những gánh nặng trên lưng chúng ta. Chúng ta được yên nghỉ trên lời hứa của Ngài trong chuyện này. “Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.” (Ma-thi-ơ. 11:28-30).

Hoàn thành tốt các mục vụ mà Chúa giao cho bạn. Trong tư cách thầy tế lễ thượng phẩm, Chúa Jesus đã thưa với Cha: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.” (Giăng 17:34). Và trong Giăng 19:30, “Mọi việc đã được trọn.” Chúa Jesus đã khởi đầu và kết thúc tốt những gì Cha ủy thác. Môi-se đã hoàn tất việc xây dựng đền tạm (Xuất. 40:33) và Sa-lô-môn hoàn tất việc xây dựng đền thờ (1 Các vua 6:9). Còn sứ đồ Phao-lô đã viết trong 2 Tim 4:7, “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin.” Tất cả chúng ta phải cầu nguyện: “Xin Chúa cho chúng con có một kết thúc tốt lành.” Phao-lô đã khích lệ gia đình A-chíp, “Hãy cẩn thận về chức vụ mà ngươi đã nhân danh Chúa nhận lãnh, để làm cho thật trọn vẹn” (Côl. 4:17). Một số người đã khởi đầu hành trình thuộc linh rất tốt, nhưng thất bại vì đã không có một kết thúc tốt (Sau-lơ là một ví dụ).

Thức canh và mong chờ. Không ai biết được ngày nào Chúa trở lại. Điều quan trọng là chúng ta nên nói với chính mình: “Có thể Chúa sẽ trở lại hôm nay.” Chúa Jesus truyền bảo chúng ta phải thức canh chờ đợi. Điều này không có nghĩa là đứng yên dưới đất ngước nhìn lên trời (Công vụ 1:4-10), nhưng là tỉnh thức thuộc linh, sẵn sàng đón Chúa trở lại. Thái độ của chúng ta sẽ không tiêu cực thụ động trong điều này. Cuối cùng chúng ta sẽ gặp Chúa mặt đối mặt và nhận vinh hiển từ nơi Ngài.

Hãy biết rõ ân tứ và công việc Chúa giao cho bạn. Hãy gắng hết sức để làm đẹp lòng Chúa. Trách nhiệm này không chỉ dành cho những nhân sự hầu việc Chúa trọn thời gian, nhưng cũng là của tất cả chúng ta.

“Điều mà ta nói cùng các ngươi, ta cũng nói cho mọi người: Hãy tỉnh thức!” (Mác 13:37)

 

Bài 28

“Ngài phán cùng ba người rằng: Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.” (Mác 14:34)

Hướng dẫn viên du lịch ở Giê-ru-sa-lem có thể chỉ cho bạn ba nơi khác nhau trên núi Ô-li-ve, là những nơi Chúa Jesus có thể đã cùng với các môn đồ Ngài ở đó. Chính xác là nơi nào? Điều này có quan trọng không? Chúng ta sẽ không chú tâm nhiều đến những địa điểm trên núi Ô-li-ve mà Chúa đã trải qua, nhưng tập chú của chúng ta sẽ là bài học thuộc linh ở đây. Vì vậy câu hỏi ý nghĩa sẽ là: Chúa Jesus đã làm gì ở đó, và điều này có ý nghĩa gì cho Hội thánh ngày hôm nay?

Hình ảnh đầu tiên là khu vườn. Vào thời điểm đó Chúa Jesus đang trên đường tới đồi Calvary để chết vì tội lỗi của nhân loại. Chúng ta nhớ rằng tội lỗi đầu tiên đã bước vào lịch sử loài người trong một khu vườn (Sáng. 3). Từ buổi bình minh, tổ phụ loài người được Chúa cung ứng mọi nhu cầu trong khu vườn đó, và họ vui hưởng phước hạnh của thiên đàng. Tất cả những gì họ phải làm là vâng phục ý chỉ của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên A-đam đầu tiên đã không vâng lời Chúa – và hệ quả là ông mang sự chết vào trong thế giới. Nhưng A-đam sau cùng là Chúa Jesus đã “vâng phục Cha cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2:8; 1 Côr. 15:45), và qua sự chết của Ngài chúng ta được ơn cứu rỗi. Chúa Jesus được chôn ở một ngôi mộ trong khu vườn, không cách xa lắm với nơi Ngài bị đóng đinh (Giăng 19:41-42).
Khu vườn nơi Chúa cầu nguyện được gọi là vườn Ghết-sê-ma-nê, có nghĩa là “dầu ép Ô-li-ve”. Điều này nói lên sự đau khổ (hay thương khó). Trái Ô-li-ve phải được đưa lên bàn ép, để cho ra dầu làm khoan khoái con người. Và đó là hình ảnh của Chúa Jesus. Trước khi lên thập tự giá, Ngài đã truyền bảo các môn đồ: “Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.” (Mác 14:34). Nhà bình luận Kinh Thánh Charles B. Williams nói rằng Thiên đàng là thành phố trong một khu vườn xinh đẹp, nhưng nếu Chúa Jesus không nếm trải Ghết-sê-ma-nê và đồi Gô-gô-tha, chúng ta sẽ không có lối để vào Thiên đàng.

Điều này dẫn chúng ta đến hình ảnh thứ hai – chén. Trong Kinh Thánh uống một chén có nghĩa là chấp nhận những gì đã được dành cho người đó. Đôi khi đó là cái chén phước hạnh, nhưng đôi khi nó lại là cái chén của sự đau khổ và đoán phạt. Cái chén mà Cha thiên thượng chuẩn bị cho Con Ngài là chén đau thương. Nhưng đối với những ai đặt lòng tin cậy nơi Chúa Jesus thì đó là chén phước hạnh của sự cứu rỗi. Chúa Jesus đã cầu nguyện: “A-ba, lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn.” (Mác 14:36). Vấn đề là cái chén ở đây được tổng hợp bởi ý chỉ của Cha và sự sẵn sàng của Con khi Chúa Jesus tiếp nhận nó. Chúa Jesus biết những lời tiên tri này chỉ về Ngài: “Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì.” (Ê-sai 53:3). Trong chức vụ trên đất, Chúa Jesus đã trải nghiệm niềm vui (Lu-ca 10:21), nhưng Ngài phải chịu thương khó khi bị bắt bớ và trải qua 6 giờ đau đớn thảm khốc trên cây thập tự. Ngài không chỉ nếm trải sự đau khổ nhưng Ngài còn mang nó lên thập tự giá. “Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Đức Chúa Trời đánh và đập, và làm cho khốn khổ.” (Ê-sai 53:4). Chúng ta phải hiểu rằng bất cứ chén đau thương nào mà chúng ta uống, thì Chúa Jesus đã từng uống. Nhờ đó Ngài có thể ban cho chúng ta ân điển đúng thời điểm chúng ta cần. Và rồi chúng ta có thể đi từ đau thương đến phước hạnh, từ thập tự giá sỉ nhục đến mão miện vinh quang. Lời hứa của Chúa là: “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!” (Giăng 16:33). Môn đồ thật là những người “ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng; ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có; ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự!” (2 Côr. 6:10).

Hình ảnh thứ ba trong câu chuyện này là ngủ. Chúa Jesus đem theo với Ngài ba khuôn mặt sáng giá: Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng để cùng cầu nguyện và khích lệ Ngài, nhưng thay vì vậy ba vị sứ đồ đã ngủ! Ngủ trong Kinh thánh hàm ý đến tính thờ ơ thuộc linh. “Vậy, chúng ta chớ ngủ như kẻ khác, nhưng phải tỉnh thức và dè giữ.” (1 Tês. 5:6). Và “Hãy ăn ở như vậy, vì biết thời kỳ đương lúc chúng ta đây: Giờ anh em từ ngủ thức dậy đã đến, bởi sự cứu hiện nay đã gần chúng ta hơn lúc chúng ta mới tin.” (Rôm. 13:11). Có một nhu cầu cho Hội thánh ngày nay là phải cảnh giác và thức canh cầu nguyện. Chúng ta cần được đổ đầy Đức Thánh Linh để tập chú vào “sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo.” (Công. 6:4). Chúa Jesus đang thực hiện chức vụ cầu thay trên thiên đàng, còn chúng ta thì đang ngủ dưới đất này?

“Vậy, các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai, e cho người về thình lình, gặp các ngươi ngủ chăng.” (Mác 13:35-36)

 

Bài 29

“Nhưng Đức Chúa Jêsus chẳng trả lời chi nữa, nên nỗi Phi-lát lấy làm lạ.” (Mác 15:5)

Mỗi một sự kiện xảy ra dưới trời đều có kỳ định. Vua Sa-lô-môn đã viết: “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định…. có kỳ nín lặng, có kỳ nói ra.” (Truyền đạo 3:1, 7)
Hầu hết chúng ta đều biết rằng lúc nào chúng ta nên nói, nhưng chúng ta đã không giữ được im lặng khi cần phải im lặng. Chúa Jesus đã nói và có lúc Ngài đã im lặng, đặc biệt là trong thời gian Ngài bị khủng bố trước giờ lên thập tự giá.

 

Chúa Jesus đã im lặng trước những kẻ buộc tội Ngài. Những người lãnh đạo Do thái giáo, Tòa Công luận của họ liên minh với nhau để tìm cách giết Chúa. Thậm chí họ còn tạo ra những chứng cớ và nhân chứng giả để chống lại Chúa. Những người này cáo buộc Chúa Jesus khi Ngài bị đưa ra trước mặt Phi-lát, nhưng Chúa chúng ta không nói gì cả để biện hộ cho chính Ngài. Tuy nhiên khi thầy cả thượng phẩm thách thức Chúa về nhân thân của Ngài – chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, Ngài đã trả lời. “Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng? Đức Chúa Jesus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống.” (Ma-thi-ơ. 26:62-64). Chúa Jesus không trả lời trước sự cáo buộc của những người lãnh đạo tôn giáo và những kẻ ghét Ngài. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri chỉ về Ngài trong Ê-sai 53: 7, “Người bị hiếp đáp, nhưng khi chịu sự khốn khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng.” Và trong Ma-thi-ơ. 27:12, “Trong lúc các thầy tế lễ cả và các trưởng lão kiện Ngài, Ngài không đối đáp gì hết.” Đấng chăn chiên nhân lành đã bị đối đãi như chiên con được đưa tới hàng làm thịt. Chiên con không thể tự vệ hay nói năng gì trong tình huống đó. Giống như Thầy của mình, chúng ta cũng phải học tập theo gương Chúa Jesus. Hãy để Chúa kiểm soát những lời chúng ta nói, và Ngài ban phước cho những lúc chúng ta im lặng.

 

Chúa Jesus đã im lặng trước mặt vua Hê-rốt (Lu-ca 23: 6-12). Phi-lát là một nhà chính trị khôn ngoan theo cách loài người. Ông ta tìm cách chuyển Chúa Jesus lên vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba, là người đã chém đầu Giăng Báp-tít trước đây. Ông ta không muốn bản thân bị dính líu đến “vụ án” của Chúa. Hê-rốt bối rối khi gặp Chúa Jesus. Nhà vua muốn xem Chúa Jesus làm phép lạ vì ông đã được nghe dân chúng làm chứng về Ngài. Nhưng Chúa Jesus đã không làm phép lạ nào hay nói bất cứ điều gì trước mặt Hê-rốt. Chúa Jesus không phải là một người làm trò vui trong môi trường tôn giáo. Khi Hê-rốt giết Giăng Báp-tít, ông ta đang cố gắng dập tắt tiếng nói của Đức Chúa Trời. Hê-rốt đã từng lắng nghe sứ điệp của Giăng Báp-tít, nhưng ông ta không vâng phục theo Lời Chúa. Và theo trước giả Thi thiên, khi Đức Chúa Trời im lặng, thì điều này xảy ra: “nếu Ngài làm thinh với tôi. Tôi phải giống như những kẻ xuống huyệt chăng.” (Thi 28:1). Lời Đức Chúa Trời là lời sống và đầy quyền năng (Hêb. 4:12). Nếu chúng ta tin và vâng phục Lời Chúa, Lời đó sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống chúng ta. Còn nếu từ chối Lời Chúa, con người sẽ nhận lấy sự chết. Môi-se và A-rôn đã mang Lời Chúa đến cho vua Pha-ra-ôn ở Ai-cập, nhà vua đã cự tuyệt Lời ấy và hậu quả là sự chết đã đến trên quốc gia Ai-cập. Là con cái Đức Chúa Trời chúng ta phải vâng phục Lời Ngài, nếu không lỗ tai thuộc linh của chúng ta sẽ không còn nhạy bén trước tiếng phán của Ngài, và tội bất tuân Lời Chúa sẽ giết chết đời sống thuộc linh và những công tác của chúng ta. Sứ đồ Giăng lưu ý: “có tội dẫn đến sự chết.” (1 Giăng 5:16)

 

Chúa Jesus đã im lặng trước mặt Phi-lát (Giăng 19:9). Chúa Jesus có trả lời vài câu hỏi của Phi-lát, nhưng khi viên quan này hỏi: “Người từ đâu đến?” Chúa Jesus đã im lặng. Trước đó Phi-lát đã sợ hãi khi nghe dân Do thái tố cáo Chúa chúng ta tự xưng là Con Đức Chúa Trời, là Đấng cai trị một vương quốc đặc biệt không thuộc về trần gian. Phi-lát là một nhà chính trị giỏi, nhưng ông không có kiến thức về thần học. Ông không biết Chúa Jesus cai trị một vương quốc thuộc linh đến từ thiên đàng, một vương quốc mà trong tương lai sẽ hủy diệt đế quốc Rô-ma và các đế quốc khác (Đa-ni-ên 2:44). Đế quốc Rô-ma đã tồn tại trên sự dối trá, bạo lực, khủng bố… nhưng Chúa Jesus cai trị vương quốc Ngài bằng lẽ thật, sự sống và tình yêu. Giống như hầu hết những nhà chính trị ngày hôm nay, Phi-lát đã không hiểu được uy quyền và vương quốc thực sự của Chúa Jesus.
Đức Chúa Trời đang phán với cộng đồng Hội thánh ngày hôm nay qua Lời Ngài và Đức Thánh Linh. Chúng ta có đang lắng nghe? “Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!” Lời này được nhắc lại bảy lần trong sách Khải huyền.

 

“Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời;
Vì sự trông cậy ta ở nơi Ngài.” (Thi 62:5)

 

Bài 30

Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi; Chúa ở cùng ngươi.

Lu-ca 1:28

 

Từ “được ơn” cũng được tìm thấy trong Ê-phê-sô 1:6, “…để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta (chúng ta được ơn) cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài!” Chúng ta nhận được ân điển của Đức Chúa Trời không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng vì sự thương xót và tình yêu của Chúa đã ban cho chúng ta cách nhưng không. Trong Chúa Jesus Christ, mỗi tín hữu đã trở thành người “được ơn” của Đức Chúa Trời. “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ (chúng ta được ơn) đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời.” (Ê-phê-sô 1:3). Như vậy người được ơn có ý nghĩa gì với Ma-ri và với chúng ta?

Từ “được ơn” có nghĩa là sự cứu rỗi. Ma-ri vui mừng trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa của bà. “Ma-ri bèn nói rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi.” (Lu-ca 1:46-47). Chúng ta không được cứu thông qua những công đức riêng, nhưng chúng ta được cứu khi đặt đức tin vào Chúa Jesus Christ (Ê-phê-sô 2:8-9). Đó chính là ân điển của Đức Chúa Trời đã mang sự cứu rỗi đến cho chúng ta (Tít 2:11). Trong câu chuyện trên đây, Ma-ri không ngợi khen Môi-se hay luật pháp Môi-se. Không ai được cứu qua việc tuân giữ luật pháp (Ga-la-ti 2:16; 3:11). Ngay cả khi Ma-ri trở thành người mẹ phần xác của Chúa Jesus, bà vẫn cần một Cứu Chúa giống như chúng ta.
Ân điển cũng đổ đầy chúng ta với niềm vui. Là một trinh nữ, Ma-ri nhận thức rằng việc mang thai sẽ gây ra những sự suy đoán khác nhau từ những người dân ở Na-xa-rét, là nơi cô sinh sống. Nhưng Ma-ri sẵn sàng mang lấy áp lực khó khăn đó để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Ma-ri đã nói với thiên sứ: “Tôi đây là tôi tớ Chúa; xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền!” (Lu-ca 1:38). Đầu phục ý muốn Chúa là hành động của đức tin. Điều này sẽ mang đến sự vui mừng sâu xa ở bên trong tấm lòng. Bài ca ngợi Chúa của Ma-ri trong Lu-ca 1: 46-55 nhắc chúng ta nhớ đến bài tôn vinh Chúa của An-ne trong 1 Sa-mu-ên 2: 1-10. Có thể Ma-ri biết bài ca của An-ne? Nếu chúng ta là người được ơn của Chúa, chúng ta sẽ hết lòng hát ca ngợi Ngài (Cô-lô-se 3:16).

Ma-ri là người phụ nữ được ơn của Đức Chúa Trời. Rõ ràng bà có một chỗ đứng đặc biệt trong chương trình cứu rỗi. Tuy nhiên bà cũng nhận ân điển để chịu khổ vì Cứu Chúa Jesus và làm vinh hiển danh Ngài. Đức Chúa Trời phán với Phao-lô: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Côr-rin-tô 12:9). Khi Ma-ri và Giô-sép đưa Hài nhi Jesus lên đền thờ, Si-mê-ôn có ý gì khi ông nói với Ma-ri những lời này trong lúc ông chạy tới bồng ẵm Hài Nhi Jesus?
“Đây, con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc dấy lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi trả; còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi.” (Lu-ca 2:34-35). Và điều này đã xảy ra với Ma-ri sau đó.

Khi Đấng Christ bị treo thân trên thập giá, Ma-ri và Giăng có mặt ở đó. Chúa Jesus đã phán với sứ đồ Giăng, ủy thác cho ông chăm sóc Ma-ri. “Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Jêsus, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài và Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa. Đức Chúa Jesus thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói cùng mẹ rằng: Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi! Đoạn, Ngài lại phán cùng người môn đồ rằng: Đó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy giờ, môn đồ ấy rước người về nhà mình. (Giăng 19:25-27).
Ma-ri, người mẹ phần xác của Chúa Jesus là người duy nhất tại Giê-ru-sa-lem có khả năng “can thiệp” để con của mình thoát khỏi bản án thập tự giá? Nhưng không, bà đã giữ yên lặng vì biết rằng thập tự giá là kế hoạch của Cha thiên thượng dành cho Chúa Jesus.
Có thể vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, mọi thứ xảy ra dường như đang chống lại chúng ta. Những lúc ấy Chúa ban ân điển gia bội để chúng ta tiếp tục bước tới, và giống như Ma-ri – chúng ta sẽ tuôn tràn những lời ca ngợi Chúa về ơn lớn mà Ngài đang làm trên chúng ta.

Ân điển của Chúa cũng ban cho Ma-ri một gia đình thuộc linh. Những ngày sau đó Ma-ri đã cầu nguyện chung với các anh em và chị em của mình. Họ cùng với các thánh đồ cầu nguyện và trông đợi sự thăm viếng của Đức Thánh Linh tại phòng cao trong sách Công vụ. Những người này đã cầu nguyện với Chúa – họ không cầu nguyện với Ma-ri. Ma-ri cũng giống như chúng ta cần cầu nguyện trực tiếp với Đức Chúa Trời, và cần sự đổ đầy Đức Thánh Linh.
“Bấy giờ, các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem; núi ấy cách thành Giê-ru-sa-lem một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát. Khi đã về đến, bèn lên một cái phòng cao kia, là nơ1 Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đe con của Gia-cơ thường ở. Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jesus cùng anh em Ngài.” (Công 1:12-14).

Tất cả chúng ta cần hội thánh như cần một gia đình thuộc linh. Sẽ không có một hội thánh hay một gia đình nào hoàn hảo, nhưng chúng ta cần lẫn nhau, cầu nguyện cho nhau và khích lệ nhau, cùng nhau phụng sự Chúa.
Những lời cuối cùng của Ma-ri được Tân Ước ghi lại trong Giăng 2:5, “Mẹ Ngài nói với những kẻ hầu bàn rằng: Người (Jesus Christ) biểu chi, hãy vâng theo cả.”
Không có lời khuyên nào tốt hơn thế. Nếu mỗi ngày chúng ta đọc Kinh Thánh và vâng lời, áp dụng những gì Chúa dạy, chúng ta sẽ làm nên sự khác biệt.
Giống như Ma-ri, các bạn và tôi là những người được ơn của Đức Chúa Trời. Tạ ơn Chúa.

 

Bài 31
Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm! (Lu-ca 1:45)

Ê-li-sa-bét đã nói với Ma-ri những lời trên. Lúc này bà đang mang thai Giăng Báp-tít. Đức Chúa Trời đã làm điều lớn lao cho cả hai phụ nữ này. Đức Chúa Trời đã thông báo việc diệu kỳ cho Ma-ri không phải vì bà vĩ đại, nhưng vì Ma-ri tin cậy vào một Đấng hằng sống vĩ đại. Nếu mỗi Cơ đốc nhân hôm nay tin cậy vào Chúa giống như Ma-ri, điều kỳ diệu sẽ xảy ra (Lu-ca 1:38). Khi ấy Đức Chúa Jesus sẽ thực hiện lời hứa của Ngài trong Giăng 14:12-14, “kẻ nào tin ta, cũng sẽ làm việc ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa.” Thế giới vô tín sẽ nhìn thấy “những việc lớn hơn” được thực hiện giữa vòng các tín nhân. Nếu chúng ta khao khát làm “những việc lớn hơn” chúng ta phải bước theo khuôn mẫu của Ma-ri.

Có sẵn ân điển để tiếp nhận. Bất cứ khi nào Chúa muốn làm những điều lớn lao, Ngài sẽ bắt đầu với ân điển được ban cho các con cái của Ngài. Ngài ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một đứa con trai trong lúc họ đã cao tuổi để từ đó hình thành nên một dân tộc – đó là ân điển. Ngài kêu gọi Môi-se đứng lên dẫn dắt dân sự ra khỏi Ai-cập đi về miền đất hứa. Ngài cũng trang bị cho ông những kỹ năng và trợ giúp cần thiết để làm một người lãnh đạo – đó là ân điển. Giô-suê nối tiếp chức vụ của Môi-se, đánh bại kẻ thù và tiến vào chinh phục miền đất hứa cũng bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Khi Chúa kêu gọi thì Ngài cũng trang bị những nhu cầu cần thiết để chúng ta có khả năng hoàn thành mục đích của Ngài. Phần của chúng ta là đầu phục lời Chúa và bước đi bởi đức tin. “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jesus Christ.” (Phi-líp 1:6). Khi chúng ta nhận ra sự kêu gọi của Chúa, và ý thức rằng mình không tương xứng với chức vụ ấy thì đó là một tín hiệu tốt. Hãy nói như Phao-lô: “vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ.” (2 Côr. 12:10). Những ai mà cảm thấy mình tương xứng với chức vụ Chúa giao sẽ thất bại. Còn những ai cảm thấy mình không đủ khả năng để đảm trách chức vụ Chúa giao sẽ dâng vinh hiển về cho Chúa. Kinh nghiệm của Phao-lô là: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Côr. 12:9).

 

Có một lời hứa để tin. Tiến sĩ Bob Cook đã từng nói: “Chúng ta không sống trên những lời giải thích về Kinh Thánh, nhưng chúng ta sống trên những lời hứa của Chúa.” Chúng ta không quên câu chuyện của Xa-cha-ri, chồng của Ê-li-sa-bét. “Xa-cha-ri thưa rằng: Bởi sao tôi biết được điều đó? Vì tôi đã già, vợ tôi đã cao tuổi rồi. Thiên sứ trả lời rằng: Ta là Gáp-ri-ên, đứng trước mặt Đức Chúa Trời; Ngài đã sai ta đến truyền cho ngươi và báo tin mừng nầy. Nầy, ngươi sẽ câm, không nói được cho đến ngày nào các điều ấy xảy ra, vì ngươi không tin lời ta, là lời đến kỳ sẽ ứng nghiệm.” Xa-cha-ri bị câm vì không tin, cho đến khi con của ông được sinh ra. Bài ca ngợi Chúa của Ma-ri trong sách Lu-ca hé lộ cho chúng ta biết Ma-ri quen thuộc với bài ca của An-ne trong 1 Sa-mu-ên 2:1-11. Bởi vì “đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô-ma 10:17). D. L. Moody đã nói: “Tôi đóng Kinh Thánh lại và cầu nguyện xin đức tin đến, nhưng nó không đến. Bây giờ tôi mở Kinh Thánh ra, nghiên cứu Lời Chúa thì đức tin tăng trưởng.” Vì vậy chúng ta hãy mở Kinh Thánh ra, nhìn vào những lời hứa của Chúa và cầu nguyện bằng đức tin. Khi Chúa muốn chúng ta làm một điều gì đó, Ngài luôn ban cho chúng ta ít nhất một lời hứa từ Kinh Thánh. Lời này sẽ hành động trong chúng ta.

Có một mục đích để hoàn thành. Ê-li-sa-bét đã nói với Ma-ri: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!” (Lu-ca 1:45). Và những gì xảy ra sau đó đã minh chứng cho lời nói này. Thiên sứ Gáp-ri-ên đã thông báo với Ma-ri, “Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jesus. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng.” (Lu-ca 1:31-33). Jesus nghĩa là Cứu Chúa và Ngài cũng là Vua cai trị. Và Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài trong câu chuyện này. “Về các lời tốt-lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi-tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.” (1 Các vua 8:56). Chúng ta thường nghe nói rằng Đức Chúa Trời không tìm kiếm những phương pháp tốt hơn, nhưng Ngài tìm kiếm những con người tốt hơn dám tin cậy và áp dụng Lời Ngài trong mọi thời đại. Đức tin của Cơ đốc nhân sẽ làm nên sự khác biệt, vì “người công bình thì sống bởi đức tin mình.” (Ha-ba-cúc 2:4). Những gì Chúa kêu gọi chúng ta làm dường như là bất khả thi, nhưng hãy nhớ lời này: “Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được” (Lu-ca 1:37). Ma-ri trong câu chuyện này đã: 1/ Đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời. 2/Kinh nghiệm ân điển của Chúa. 3/Thỉnh cầu Chúa thực hiện lời hứa.
Sau đó Ma-ri vui mừng và ca ngợi Chúa. Chúng ta nhớ lời này trong Thi thiên 106:12, “Bấy giờ họ mới tin lời của Ngài. Bèn hát ngợi khen Ngài.” Thật là phước hạnh cho người nào tin.
“Chẳng ai thánh như Đức Giê-hô-va; Chẳng có Chúa nào khác hơn Ngài!
Không có hòn đá nào như Đức Chúa Trời của chúng ta.” (1 Sa-mu-ên 2:2)

 

Bài 32

“Tay Ngài sẽ cầm nia mà giê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho; nhưng đốt trấu trong lửa chẳng hề tắt.”  (Lu-ca 3:17)

Giăng Báp-tít đang sửa soạn cho tuyển dân nghênh tiếp Chúa Cứu Thế, ông không phải là một “cây sậy bị gió rung” (Ma-thi-ơ. 11:7).  Ông giới thiệu cho dân Y-sơ-ra-ên Chúa Jesus: “Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi.” (Giăng 1:29). Số phận đời đời của tất cả chúng ta tùy thuộc vào sự nhận biết Chiên con. Giăng cũng nói về Đấng cất tội lỗi thế gian đi: “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống.” (Giăng 3:30). Thậm chí ông còn rao giảng về địa ngục. Ông nhìn thấy mùa gặt đến, Chủ mùa gặt sẽ: “Tay Ngài cầm nia mà giê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho; nhưng đốt trấu trong lửa chẳng hề tắt.” (Lu-ca 3:17). Đức Chúa Trời không chuẩn bị địa ngục cho con người, nhưng đó là nơi dành cho Satan và những quỉ sứ của nó (Ma-thi-ơ. 25:41).  Với tư cách là Cơ đốc nhân chúng ta sẽ đáp ứng thế nào với lẽ thật về địa ngục và sự phán xét đời đời?

 

Sự đáp ứng đầu tiên là chúng ta biết ơn Chúa trong sự thờ phượng, vì chúng ta được cứu thoát khỏi cơn thạnh nộ của Ngài. Chắc chắn là chúng ta không xứng đáng làm thành viên trong gia đình của Ngài. Chúng ta được sinh ra là những tội nhân, chúng ta sống như những tội nhân và thậm chí yêu thích tội lỗi. Tuy nhiên Cha thiên thượng đã chọn chúng ta. Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian chết thay cho chúng ta. Đức Thánh Linh làm cho chúng ta nhận biết mình có tội và đem chúng ta đến với Christ trong đức tin. Chúng ta được đóng ấn bởi Đức Thánh Linh cho sự sống đời đời (Ê-phê-sô 1:3-14). Chúng ta không làm gì để xứng đáng nhận sự tha thứ, tuy nhiên Đức Chúa Trời đã yêu thương, tha thứ và ban phước dư đầy cho chúng ta. Chúa Jesus trên thiên đàng đang cầu thay cho chúng ta, và Thánh Linh đang sống bên trong chúng ta. Từ bước đầu tiên cho đến cuối cùng, tất cả chúng ta đều nhờ ân điển Chúa. Khi con người đánh mất điều kỳ diệu của ân điển cứu rỗi, thì đó là lúc họ đi về phía tội lỗi. Charles Wesley đã nói: “Christ đã chết vì tôi là tình yêu kỳ diệu nhất.”

 

Sự đáp ứng thứ hai là chúng ta phải có lòng thương xót trong công tác cá nhân chứng đạo. Sứ đồ Phao-lô nói: “Tôi buồn bực lắm, lòng tôi hằng đau đớn”  bởi vì trong ông có một gánh nặng về những con chiên lạc mất của Y-sơ-ra-ên. Vị sứ đồ cho biết ông: “ước ao có thể chính mình bị dứt bỏ, lìa khỏi Đấng Christ, vì anh em bà con tôi theo phần xác.” (Rô-ma 9:1-9) Điều này làm chúng ta nhớ đến Môi-se, người đã đối nại cùng Chúa: “bây giờ xin Chúa tha tội cho Y-sơ-ra-ên! Bằng không, hãy xóa tên tôi khỏi sách Ngài đã chép đi.” (Xuất. 32:31-35). Cả Môi-se và Phao-lô đều cầu thay cho dân sự của Ngài, và chúng ta cũng vậy – cầu thay cho những ai đang hư mất. Đức Chúa Trời không vui về sự chết của những kẻ ác (Ê-xê-chi-ên 18:23, 32; 33:11). Ngài không muốn cho một ai chết mất (2 Phi-e-rơ 3:9), nhưng “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật.” (1 Tim. 2:4). Chúng ta không cần kết án hay phán xét những người đang bị đùa tới sự chết, nhưng phải chỉ cho họ đến với Chúa Jesus. Bạn có một danh sách những người mà bạn đang cầu thay để họ được cứu?

 

Sự đáp ứng thứ ba là chúng ta vâng lời Chúa trong nếp sống. Chúng ta không cần hỏi: “Lạy Chúa, có phải chỉ ít kẻ được cứu chăng?” (Lu-ca 13:23), nhưng tốt hơn phải biết chắc rằng chúng ta đang vui hưởng sự cứu rỗi. “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp nầy.” (Phục. 29:29). Nếp sống đạo tin kính của chúng ta sẽ là phiên bản của quyển Kinh Thánh mà người chưa tin bị cuốn hút để đọc. Đừng lãng phí thời gian và năng lượng cho những cuộc tranh luận bất tận về thần học và những chủ đề khác trong khi nhiều linh hồn đang chết mất trong thế giới này, chỉ vì họ không biết kế hoạch đơn giản của sự cứu rỗi.

Có thể chúng ta không thích lẽ thật về địa ngục, nhưng hãy nhớ rằng Kinh Thánh bảo đảm cho những người tin là họ sẽ vào thiên đàng (Giăng 14:1-6), và những ai không tin sẽ vào địa ngục – trừ phi họ tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đấng Christ (Giăng 3:14-21). Chúng ta sẽ làm gì cho những người chưa tin?

“Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Giăng 14:6)

 

Bài 33

“Đức Chúa Jêsus thấy đức tin của họ, bèn phán rằng: Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha.” (Lu-ca 5:20)

Chúa Jesus được mọi người mến chuộng khi Ngài khởi sự thi hành các mục vụ trong năm đầu tiên của chức vụ. Luôn có một đám đông đi theo Chúa để được nghe giảng dạy, chữa lành bệnh tật và nhìn thấy các phép lạ. Hãy tưởng tượng là bạn và tôi có mặt trong đoàn dân đông đi theo Chúa Jesus. Chúng ta sẽ học được gì từ Chúa?

Chúa Jesus là một giáo sư. Đoàn dân đông đi theo Chúa Jesus với những động cơ khác nhau. Có người đi theo vì hiếu kỳ muốn xem các phép lạ, có người muốn được Chúa chữa lành. Một số đi theo vì khao khát lẽ thật. Trong khi đó các thầy thông giáo và người Pha-ri-si có mặt trong đoàn dân đông để theo dõi Chúa, soi mói và tìm cách bắt lỗi Ngài. Kinh Thánh ghi: “Đức Chúa Jêsus đang dạy dỗ.” (Lu-ca 5:17) và “Ngài giảng đạo cho họ nghe.” (Mác 2:2). Như vậy chúng ta thấy Chúa giải thích và chờ đợi mọi người áp dụng sự dạy dỗ của Ngài. Nếu chúng ta đến với Chúa bằng một tấm lòng chuẩn bị đón nhận, khi ấy chúng ta có thể học và áp dụng các bài học Ngài dạy. Nếu chúng ta vâng theo lời Chúa dạy, phước hạnh sẽ được gia bội trên đường chúng ta đi. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma-thi-ơ. 5:6)

 

Chúa Jesus là Đấng chữa lành. Kinh Thánh nói về Ngài: “quyền phép Chúa ở trong Ngài để chữa lành các bịnh.” (Lu-ca 5:17). Trong Lu-ca chương 5 kể một câu chuyện về một người bại được những người thân khiêng đến. Người bại này được Chúa chữa lành vì những người khiêng bệnh nhân có đức tin nơi Chúa. Tuy nhiên, chúng ta đọc thấy Chúa Jesus không làm nhiều phép lạ ở Na-xa-rét là quê hương của Ngài: “Ở đó, Ngài không làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin.” (Ma-thi-ơ 13:58). Sự vô tín cản trở các phép lạ. Khi chúng ta đi đến buổi nhóm của hội thánh với một đức tin mở ra trông đợi Chúa làm phép lạ, lúc ấy phép lạ sẽ xảy ra trên chính chúng ta. Còn nếu đến với hội thánh để thờ phượng Chúa với một cái nhìn nghi ngờ và những ý tưởng phê phán chỉ trích điều này điều kia, lúc đó vô hình trung chúng ta đang cản trở công việc của Đức Thánh Linh. Những người có đức tin khi khiêng người bại đến với Chúa. Đám đông cản trở không cho họ đi, họ đã đi bằng một lối khác: trèo lên mái nhà để thòng người bại xuống trước mặt Chúa. Người mà thực sự có đức tin sẽ vượt những trở lực, rào cản và kinh nghiệm phép lạ. Những người như vậy chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng tốt trên người khác và không điều gì có thể trói chân của họ. Xa-chê, một viên chức thu thuế cho chính quyền La-mã cũng đối diện với một vấn đề. Làm thế nào để thấy Chúa Jesus và gặp được Ngài khi mà ông là một người lùn không thể chen lấn với đám đông? Ông đã trèo lên một ngọn cây, và tại đó ông đã nhận được phần thưởng cho mình (Lu-ca 19:1-10). Phép lạ của Chúa không chỉ bày tỏ tình yêu và sự khoan dung của Ngài dành cho tội nhân, nhưng đó cũng chính là ứng dụng thực tế cho những bài giảng của Ngài. Tội lỗi cũng giống như bệnh tật (Ê-sai 1:4-6). Nó khởi đầu với một vài điểm nhỏ rồi lan rộng nhanh chóng cho đến khi nó kiểm soát tội nhân. Điểm đến cuối cùng của nó là sự chết. Trong bài học chúng ta đang nghiên cứu, Chúa Jesus đã nối kết tội lỗi với bệnh tật (tội được tha thì bệnh cũng được chữa lành). Chúa Jesus phán với người bại: “Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha.” hàm ý rằng người này được giải thoát ra khỏi tội mà trước đó anh ta bị giam cầm với nó.

 

Jesus là Cứu Chúa. Chúng ta ghi nhận điểm đầu tiên Chúa Jesus dành cho người bại là sự tha tội. Nếu làm cho một người bệnh khỏe mạnh nhưng không thay đổi tấm lòng và số phận của anh ta, thì người đó vẫn còn là một tội nhân tiếp tục bơi lội trong tội lỗi với một thân thể mạnh khỏe. Vấn đề căn bản sẽ không được giải quyết. Những con người tội lỗi có thể chống cự đấu đá lẫn nhau, họ cũng có thể tha thứ cho một ai đó làm tổn thương họ. Nhưng chỉ duy Đức Chúa Trời có thể tha tội và thanh tẩy một đời sống thực sự ăn năn. Sự tha thứ của Chúa có nghĩa là giải phóng tội nhân ra khỏi nơi cầm buộc của tội lỗi. Khi Chúa Jesus tuyên bố: “Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha.” thì Ngài đã làm cho những người lãnh đạo Do thái giáo thời ấy vấp phạm, vì họ không tin Ngài là Con Đức Chúa Trời. Chúa Jesus dễ dàng nói điều này, nhưng sau đó chính Ngài phải hi sinh trên thập tự như là một giá phải trả cho lời tuyên bố của Ngài. “Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Đức Chúa Trời đánh và đập, và làm cho khốn khổ. Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.” (Ê-sai 53:4-5). Chúa Jesus không chỉ chữa lành người bị liệt, nhưng Ngài còn tha thứ tội lỗi của anh ta. Bạn không thể nhìn thấy tấm lòng bên trong, nhưng bạn có thể nhìn thấy sự chữa lành của thân thể.
Trong Lu-ca 7:36-50, Chúa Jesus cũng phán điều tương tự với người phụ nữ xấu nết: “Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha.” Ngày hôm nay Chúa chúng ta cũng phán điều ấy với những ai tin cậy Ngài. “Hỡi các con cái bé mọn ta, ta viết cho các con, vì tội lỗi các con đã nhờ danh Chúa được tha cho.” (1 Giăng 2:12). Cụm từ “được tha tội” trong ngữ pháp Tiếng Anh hàm ý: bạn đã được tha tội, và bạn luôn luôn sẽ nhận được sự tha tội, mỗi khi bạn ăn năn. Đó là tin tức tốt lành cho chúng ta.
“Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.” (Ê-sai 53:5)

 

 

Bài 34
“Hãy chúc phước cho kẻ rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình.”
Lu-ca 6:28

Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si dạy trong Lê-vi-ký 19:18, “hãy yêu thương người lân cận”. Họ giải thích: Hãy yêu người Do Thái lân cận, và hãy ghét các dân ngoại bang. Nhưng đó không phải là luật pháp mà Môi-se đã viết, cũng không phải là những gì Chúa Giê-su đã dạy trong bài giảng trên núi (Ma-thi-ơ 5) hay trong ví dụ về người Sa-ma-ri nhân lành (Lu-ca 10:25-37). Khi kẻ thù xuất hiện, Cơ đốc nhân nên ghi nhớ và áp dụng ba lẽ thật sau đây.

Nếu là những tín nhân vâng lời Chúa, chúng ta sẽ có kẻ thù. Khi chúng ta thực hành nếp sống đạo tin kính và làm những điều công nghĩa, thì chắc chắn sẽ có một ai đó đối nghịch với chúng ta. Chúa Giê-su phán: “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:10). Ngài đã truyền bảo các môn đồ: “Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi.” (Giăng 15:19). Phao-lô cũng đã viết: “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jesus Christ, thì sẽ bị bắt bớ.” (2 Tim. 3:12). Vị sứ đồ nhắc hội thánh Phi-líp: “Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em, không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa.” (Phi-líp 1:29). Chúa Giê-su đã sống một đời sống hoàn hảo trên đất, Ngài không bao giờ làm hại một con người nào. Tuy nhiên Ngài đã bị một số người căm ghét và cuối cùng họ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Dân sự của TRỜI được ví như là muối của đất và ánh sáng của thế gian. Trong một phương diện, muối làm đau nhói và rửa sạch các vết thương, còn ánh sáng phơi bày ra tội lỗi. Thế gian có thể thích các Cơ đốc nhân thỏa hiệp với họ về những quan điểm thế hạ. Nhưng một Cơ đốc nhân thỏa hiệp với thế giới không phải là điều tốt trong ánh sáng của lẽ thật.

Nếu là những Cơ đốc nhân vâng lời, chúng ta sẽ không tuyên chiến với người khác. “Tôi không thể nhịn được nếu có một ai đó không thích và muốn làm hại tôi. Nhưng tôi có thể chấp nhận nếu như tôi thử làm tổn thương người khác.” Đây là quan điểm phổ biến giữa vòng những người chưa tin Chúa. Những người chưa cải đạo có thể lấy ác trả ác, và lấy thiện trả lành theo cách của trần gian. Tuy nhiên lấy điều thiện báo đáp cho điều ác là hành động theo phong cách của Chúa Giê-su – Ngài là khuôn mẫu tối hậu của chúng ta. “Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình.” (Lu-ca 6:27) không có nghĩa là chúng ta thích kẻ thù, nhưng có nghĩa là chúng ta đối đãi với họ theo cách mà Cha thiên thượng đối đãi với chúng ta. Ngài rất kiên nhẫn với chúng ta. Ngài tha thứ và Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng ta. Đức Chúa Trời cũng ban những cơ hội khác để chúng ta có thể làm tốt hơn những gì cần làm cho người khác. Nếu thực sự yêu thương kẻ thù vì cớ danh Chúa Giê-su, chúng ta có thể lấy thiện báo ác. Chúng ta có thể chúc phước và cầu nguyện cho kẻ thù ngay cả khi họ rủa rả chúng ta (Lu-ca 6:27-28). Chúc phước cho người khác có nghĩa là muốn điều tốt nhất của Đức Chúa Trời đến trên họ và cầu xin Ngài chỉ cho họ thấy ân điển cứu rỗi. Trong Thi thiên chúng ta thấy có những lời rủa sả kẻ thù, nhưng trong Rô-ma 12:9-21 cho biết sự đoán xét người khác không thuộc về chúng ta nhưng đó là công việc của Chúa. Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho kẻ thù (Lu-ca 23:34) và Ê-tiên cũng làm như vậy (Công vụ 7:59-60).

 

Nếu vâng lời Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta chiến thắng. “Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người.” (Rô-ma 12:18). Đôi khi mọi thứ xảy ra rất tệ hại và chúng ta dường như thất bại. Nhưng đừng bỏ cuộc. Hãy tiếp tục yêu thương, tha thứ người khác và làm điều tốt cho họ. Hãy để kết quả thuộc về Đức Chúa Trời. Cha yêu thương không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong trận chiến này. “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo hóa thành tín.” (1 Phi-e-rơ 4:19). Chúa Giê-su ở với chúng ta và chúng ta có thể bước vào trong “sự thông công thương khó của Ngài” (Phi-líp 3:10). Chúa chúng ta đã chiến thắng thế gian (Giăng 16:33). Và nhớ lờ1 Phi-e-rơ dạy cho hội thánh: “anh em vì cớ danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (1 Phi-e-rơ 4:14). Đức Chúa Trời có thể xoay chuyển sự rủa sả thành phước hạnh (Phục. 23:5; Nê-hê-mi 13:2) và Ngài có thể sử dụng nguồn phước của chúng ta theo cách Ngài muốn để tháo những ngòi nổ rủa sả từ phía kẻ thù.
“Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa.”
Gia-cơ 4:6

 

Bài 35

“Ngươi không hôn ta, nhưng người từ khi vào nhà ngươi, thì hôn chân ta hoài.” Lu-ca 7:45

Một lời mời giả dối. Si-môn, một người Pha-ri-si mời Chúa Giê-su đến nhà ăn tối. Chúa chấp nhận lời mời đó. Trong chức vụ của Chúa chúng ta, Ngài đã ngồi ăn chung với nhiều người, kể cả những người đối kháng với Ngài. Chúa Giê-su biết lời mời của Si-môn giả dối, vì người Pha-ri-si luôn tìm cách gài bẫy hoặc chỉ trích Ngài với tầng lớp lãnh đạo của Do Thái giáo mỗi khi có cơ hội. Si-môn đã lộ ra sự giả hình qua cách ông cư xử với Chúa Giê-su. Ông không chào đón Chúa bằng một cái hôn theo phong tục thời đó, không xức dầu lên đầu của Chúa, cũng không chuẩn bị nước cho Chúa rửa chân. Trong Ma-thi-ơ 23 Chúa Giê-su đã gọi người Pha-ri-si là kẻ mù (câu 16-17,24,26). Và từ đó có thể dành cho Si-môn trong câu chuyện này. Si-môn mù lòa về tội lỗi của mình. Anh ta cũng mù lòa – không biết gì cả về sự biến đổi đáng chú ý của người phụ nữ trong câu chuyện. Còn nữa, Si-môn mù lòa về thân vị của Chúa Giê-su. Tuy nhiên Si-môn mời Chúa đến trong bàn ăn của nhà mình. Chúa Giê-su chấp nhận không phải vì tấm lòng hiếu khách của Si-môn, nhưng Ngài đến vì điều đó là một cơ hội tốt cho anh ta. Thỉnh thoảng chúng ta cũng nên đi ăn tối với một ai đó, vì điều này đơn giản là tốt cho người đó.

 

Một hành động đáng kinh ngạc. Khi người phụ nữ bước vào phòng ăn của Si-môn, anh ta có một chút bối rối vì biết rõ lai lịch của người này. Si-môn là một người tự kiêu về đời sống công bình giả tạo của mình. Anh ta hoàn toàn không biết gì về kinh nghiệm ăn năn và tấm lòng tan vỡ của người phụ nữ. Bản thân anh ta vốn xa lạ với những trải nghiệm này! Si-môn chỉ có một nếp sống giả hình bên ngoài, trong khi người phụ nữ kinh nghiệm niềm vui của một đời sống được biến đổi và tha thứ. Người phụ nữ “làm cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh” (2 Cô-rin-tô 7:1) trong khi Si-môn vẫn còn bơi lội trong tội lỗi. Mặc dù người phụ nữ vốn có một quá khứ không có gì tốt đẹp. Còn Si-môn là một người Pha-ri-si chỉ biết chỉ trích người khác mà không bao giờ tha thứ cho họ (Lu-ca 15:25-32). Người phụ nữ không đến nhà Si-môn để ăn một chút gì, bà đến để tuôn đổ lòng kính mến đối với Chúa Giê-su. Nhiều sinh viên Trường Kinh Thánh cho rằng người phụ nữ này đã đáp ứng lời mời của Chúa Giê-su trong Ma-thi-ơ 11:28-30, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.” Mọi điều bà làm cho Chúa Giê-su trong câu chuyện này hoàn toàn đối nghịch với những gì Si-môn đã thể hiện.
Tội của sự chểnh mảng, không làm việc cũng tương tự như tội của sự can phạm. Hành động của người phụ nữ, “khóc, sa nước mắt trên chân Chúa Giê-su, rồi lấy tóc mình mà chùi; lại hôn chân Ngài, và xức dầu thơm cho” nói lên tấm lòng biết ơn của bà muốn tôn vinh Chúa là Cứu Chúa của mình. Còn Si-môn thì không làm gì cả cho Chúa.

 

Một sự mặc khải gây bối rối cho Si-môn. Chúa Giê-su biết Si-môn đang suy nghĩ gì. Ngài dùng một ví dụ để chỉ ra những ý nghĩ sai trật của Si-môn. Đấng chăn chiên nhơn lành luôn bảo vệ bầy của Ngài (Rô-ma 8:41-34). Ngài phán dạy cách rõ ràng cho Si-môn, “Một chủ nợ có hai người mắc nợ: Một người mắc năm trăm đơ-ni-ê, một người mắc năm chục. Vì hai người đều không có chi mà trả, nên chủ nợ tha cả hai. Trong hai người đó, ai yêu chủ nợ hơn? Si-môn thưa rằng: Tôi tưởng là người mà chủ nợ đã tha nhiều nợ hơn. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đoán phải lắm.” Trong câu chuyện này Si-môn không thể không nhận ra bài học Chúa muốn dạy anh ta. Chúng ta có muốn công bố cho mọi người biết tội lỗi của mình tại bàn ăn thông công của hội thánh? Có lẽ là không, nhưng Chúa biết rõ.

Ân sủng của Chúa. Chúa phán với người phụ nữ, “Tội lỗi ngươi đã được tha rồi. .. Đức tin của ngươi đã cứu ngươi; hãy đi cho bình an” (Lu-ca 7:48-50). Đây không phải là một món hàng đắt tiền mà bà đã mua bằng nước mắt hay bình dầu thơm. Đó là bởi đức tin, nhờ ân điển. Hành động của bà dành cho Chúa Giê-su bày tỏ rằng bà đã ăn năn tội tỗi và hoàn toàn tin cậy Chúa. Bà muốn bày tỏ lòng biết ơn, kính mến Chúa, dâng lên Chúa bình ngọc trắng đựng đầy dầu thơm. Đức tin đem sự cứu rỗi đến, và ơn cứu rỗi đem tới sự bình an.
Đức tin, sự bình an, lòng kính mến Chúa và nước mắt. Bạn đã kinh nghiệm điều này?

 

“Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.… vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta.”
Rô-ma 5:1, 5

 

Bài 36

“Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi. Vậy người ấy đi, đồn khắp cả thành mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm cho mình.”  Lu-ca 8:39

Kế đó, ghé vào đất của dân Giê-ra-sê, ngang xứ Ga-li-lê.  Khi Đức Chúa Jêsus lên bờ, có một người ở thành ấy bị nhiều quỉ ám đi gặp Ngài. Đã lâu nay, người không mặc áo, không ở nhà, song ở nơi mồ mả.  Người ấy vừa thấy Đức Chúa Jêsus, thì la lên inh ỏi, và đến gieo mình nơi chân Ngài, nói lớn tiếng rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời Rất Cao, tôi với Ngài có sự chi chăng? Tôi cầu xin Ngài đừng làm khổ tôi.  Vì Đức Chúa Jêsus đương truyền cho tà ma phải ra khỏi người đó mà nó ám đã lâu; dầu họ giữ người, xiềng và còng chân lại, người cứ bẻ xiềng tháo còng, và bị quỉ dữ đem vào nơi đồng vắng.  Đức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Mầy tên gì? Người thưa rằng: Quân đội; vì nhiều quỉ đã ám vào người.  Chúng nó bèn cầu xin Đức Chúa Jêsus đừng khiến mình xuống vực sâu.
 Vả, ở đó có một bầy heo đông đương ăn trên núi. Các quỉ xin Đức Chúa Jêsus cho chúng nó nhập vào những heo ấy, Ngài bèn cho phép.  Vậy, các quỉ ra khỏi người đó, nhập vào bầy heo, bầy heo từ trên bực cao đâm đầu xuống hồ và chết chìm.  Các kẻ chăn heo thấy vậy, chạy trốn, đồn tin ấy ra trong thành và trong nhà quê.
 Thiên hạ bèn đổ ra xem việc mới xảy ra; khi họ đến cùng Đức Chúa Jêsus, thấy người mà các quỉ mới ra khỏi ngồi dưới chân Đức Chúa Jêsus, mặc áo quần, bộ tỉnh táo, thì sợ hãi lắm.  Những người đã xem thấy sự lạ đó, thuật lại cho thiên hạ biết người bị quỉ ám được cứu khỏi thế nào.
 Hết thảy dân ở miền người Giê-ra-sê xin Đức Chúa Jêsus lìa khỏi xứ họ, vì họ sợ hãi lắm. Ngài bèn xuống thuyền trở về.  Người đã khỏi những quỉ ám xin phép ở với Ngài, nhưng Đức Chúa Jêsus biểu về, mà rằng:  Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi. Vậy người ấy đi, đồn khắp cả thành mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm cho mình.” Lu-ca 8:26-29

Có năm lời cầu nguyện trong câu chuyện đáng ghi nhớ trên đây. Ba trong số các lời cầu nguyện này đến từ ma quỉ (Lu-ca 8:28, 31, 32). Một lời cầu nguyện đến từ các cư dân địa phương (câu 37).  Một lời cầu nguyện đến từ người được chữa lành khỏi những quỉ ám (câu 38). Ma quỷ đã nhận được những gì chúng cầu xin và các cư dân địa phương cũng vậy. Nhưng người được chữa lành khỏi ma quỉ không được Chúa trả lời sự cầu xin, mặc dù lời cầu xin của anh ta là một điều tốt. Anh này muốn ở với Chúa Giê-su sau khi được chữa lành, nhưng Chúa bảo anh phải về nhà “thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho anh.” Bây giờ anh đã là một người mới, đã mặc áo quần chỉnh tề với một tâm trí tỉnh táo đang ngồi dưới chân Chúa Giê-su. Tại sao Chúa Giê-su không đáp ứng lời cầu xin của người này và khiến anh ta trở thành một trong những người đi theo Ngài.

Trước tiên, chúng ta cần học biết rằng Chúa Giê-su không “trưng bày” những tín đồ mới như những người giải trí trong một buổi trình diễn. Vài năm trước đây có một phong trào được gọi là sự cải đạo của những người nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Họ cổ xúy “bạn nên tin vào Chúa Giê-su vì những người nổi tiếng này đã tin Chúa”. A. Z. Tozer gọi hiện tượng này là “Cách tiếp cận Wheaties để truyền giáo” bởi vì những người nổi tiếng, đặc biệt là những vận động viên thể hình giành chiến thắng trong các cuộc thi thường có hình của họ quảng cáo trên các hộp ngũ cốc. (Wheaties là một thương hiệu của ngũ cốc ăn sáng General Mills. Nó được biết đến với hình ảnh vận động viên nổi bật ở bên ngoài của gói thực phẩm, và đã trở thành một biểu tượng văn hóa ở Hoa Kỳ.) Tuy nhiên chúng ta biết rằng người nổi tiếng hay thường dân cũng chỉ là những tội nhân. Sự thật là khi một người nào đó giàu có hay nổi tiếng đến với Phúc âm thì cũng không bảo đảm cho bất cứ điều gì.  Phao-lô nhắc chúng ta rằng, “Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng.  Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh.” (1 Côr. 1:26-27) Tôi đã tiếp xúc với một số người nổi tiếng này, và họ đã đưa ra các bằng chứng cho thấy sự cứu rỗi của họ là có thật. Nhưng thật đáng buồn khi thực tế là nhiều người trong số họ đã sa ngã và bị lãng quên sau đó. Lưu ý rằng Phao-lô viết, “không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng.” trong cộng đồng hội thánh. Tỷ lệ của tầng lớp này trong hội thánh không có nhiều.

Chúa Giê-su truyền bảo người được chữa lành hãy về nhà thuật lại mọi điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho anh. Bởi vì mọi người ở nhà đều biết anh rất rõ và họ chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng qua một nhân chứng sống. Họ biết trước đây anh ta bị ma quỉ xiềng xích, còn bây giờ anh ta là một người mới hoàn toàn. Một trường hợp thú vị khác là Chúa Giê-su truyền lệnh cho người phung không giống như người bị quỉ ám sau khi được lành.  Chúng ta đọc lại câu chuyện này: “Có một người phung đến cùng Ngài, quì xuống cầu xin rằng: Nếu Chúa khứng, có thể khiến tôi sạch được.  Đức Chúa Jêsus động lòng thương xót, giơ tay rờ người, mà phán rằng: Ta khứng, hãy sạch đi.  Liền khi đó, phung lặn mất, người trở nên sạch.  Tức thì Đức Chúa Jêsus cho người ra, lấy giọng nghiêm phán rằng:  Hãy giữ, chớ tỏ điều đó cùng ai; song khá đi tỏ mình cùng thầy tế lễ, và vì ngươi được sạch, hãy dâng của lễ theo như Môi-se dạy, để điều đó làm chứng cho họ.”   (Mác 1:40-43).   “Chớ tỏ điều đó cùng ai.” trái ngược với “thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi.”  Từ thuật lại trong câu này mang ý nghĩa công bố lệnh truyền của một vị vua.  Chúa Giê-su đã giao cho người được chữa lành khỏi quỉ ám một sứ mạng công bố tin mừng, và anh đã vâng lời. Nhiều người trong chúng ta sẽ noi theo tấm gương của anh?

Lý do thứ ba mà người này được truyền lệnh về nhà? Anh ta có thể đã có một số vấn đề cần được điều chỉnh. Anh ta đã kết hôn? Anh có một gia đình, hay là đang sống với bố mẹ? Có thể trước đó anh ta đã rời nhà ra đi (hay bị xua đuổi phải ra đi) đã làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình, và bây giờ là lúc anh ta cần phải phục hồi các mối quan hệ cho đúng đắn. Một trong những trách nhiệm đầu tiên của chúng ta sau khi gặp Chúa là “tu bổ lại các vách tường” của các mối quan hệ hoặc phải “hạ các vách tường xuống.”

Tôi cho rằng Đức Chúa Trời cũng sắp xếp cho các tín nhân trong vùng phụ cận giúp đỡ anh ta được nuôi dưỡng trong lẽ thật và lớn lên trong ân điển của Đức Chúa Trời. Mỗi tín nhân mới cần thông công với các tín nhân khác để được giải thích rõ hơn về căn bản của đời sống Cơ đốc. Tôi nhớ lại một ca sĩ nổi tiếng ở vùng Trung Tây đã gọi điện thoại cho tôi sau khi anh tin Chúa: “tôi phải làm gì tiếp theo?” Tôi đã hẹn gặp anh cùng ăn trưa và giới thiệu anh đến với một hội thánh, ở đó sẽ có mục sư giúp đỡ cho anh theo học chương trình môn đồ hóa.  Tuy nhiên, người ca sĩ này đã không theo hướng dẫn của tôi. Anh ta hình thành một tổ chức mới, thực hiện các đĩa CD bài hát của mình theo một hướng khác. Anh ta không bao giờ có thể tăng trưởng đời sống thuộc linh theo đường lối đó. Hội thánh địa phương đã không có liên hệ gì với anh, vì anh không muốn gia nhập. Không bao lâu sau đó anh qua đời. Tôi ước gì anh ta đã nghe theo lời khuyên của tôi.

Phao-lô dạy chúng ta về trách nhiệm đối với gia đình:

“Con cháu trước tiên phải học làm điều thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ.”

1 Ti-mô-thê 5:4

 

Bài 37

“Khi gần đến kỳ Đức Chúa Jêsus được đem lên khỏi thế gian, Ngài quyết định đi lên thành Giê-ru-sa-lem.” Lu-ca 9:51

Nhiều người lang thang trên đường đời sau khi đến với Phúc âm, họ đánh mất mục tiêu mà Đức Chúa Trời đã chọn cho họ. Những người lang thang này thiếu cả động cơ và quyết tâm theo Chúa. Họ cần sự “kiên định” là một đặc trưng của các tín nhân trong hội thánh đầu tiên. “Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện.” (Công vụ. 2:42). Hy vọng của các môn đồ trong thế kỷ thứ nhất là kiên định, “giữ điều trông cậy như cái neo của linh hồn, vững vàng bền chặt.” (Hêb. 6:19), và họ đứng vững trong chân lý của Phúc âm (1 Côr. 15:1-5; 16:13). Khi nói đến tính kiên định theo đuổi mục tiêu, Chúa Giê-su là gương mẫu của chúng ta.

Chúa Giê-su đi theo một lộ trình đã được sắp đặt trước. Chúng ta đọc lại một lời tiên tri về Đấng Mê-si trong Ê-sai 50:7, “Chúa Giê-hô-va sẽ giúp ta, nên ta chẳng bị mắc cỡ; vậy ta làm cho mặt ta cứng như đá, vì biết mình sẽ chẳng có điều chi xấu hổ.” Mọi điều diễn ra trong cuộc đời Chúa Giê-su, từ lúc sinh ra nhập thế làm người cho đến khi chết trên thập giá đều đã được Cha thiên thượng lập trình trước. Trong Phúc âm Giăng, chúng ta thường gặp cụm từ “giờ của Ngài” ám chỉ đến thời điểm Chúa Giê-su chịu chết (2:4;7:6, 8, 30; 8:20; 12:23; 13:1; 16:32; 17:1). Chúa Cứu thế phải chịu chết trong thành thánh Giê-ru-sa-lem: “vì không có lẽ một đấng tiên tri phải chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem.” (Lu-ca 13:33). Sự chết của Ngài được bày tỏ như thế nào trong Thi thiên 22 và được giải thích như thế nào trong Ê-sai 53? Trong suốt nhiều năm của chức vụ tôi đã học câu này: “Chúa sẽ chỉ cho tôi biết con đường sự sống. Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc. Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng.” (Thi. 16:11)

Mỗi người trong chúng ta đều có một lộ trình đã được sắp đặt trước. Mỗi chúng ta có một Giê-ru-sa-lem để đi tới.

Chúa Giê-su đã đi trên một con đường khó khăn.

Sau khi nhận phép báp-tem từ Giăng Báp-tít, Chúa Giê-su được  Đức Thánh Linh đưa vào trong đồng vắng chạm trán với các cám dỗ của Satan (Mác 1:12). Trong lần cám dỗ cuối cùng, Kinh thánh ghi lại: “Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy; mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy.  Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.”

PhuDnl 6:13

(Ma-thi-ơ 4:8-10).

Đây là sự cám dỗ của Satan lôi kéo Chúa Giê-su đi lệch ra khỏi con đường thập tự, nhưng Ngài đã nói “không” với ma quỉ. Sau đó Satan sử dụng Phi-e-rơ để cám dỗ Chúa từ chối thập tự giá: “Hỡi Chúa, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó (Chúa Giê-su phải trải qua khổ nạn và bị giết) sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” (Ma-thi-ơ 16:21-23). Khi Chúa Cứu thế nuôi dưỡng năm ngàn người ăn, đám đông muốn tôn Chúa lên làm Vua. Đây cũng là một cám dỗ khác. Chúa Giê-su đã kiên định với ý muốn và chương trình của Cha dành cho Ngài, Ngài tiếp tục tiến về Giê-ru-sa-lem để hoàn thành chương trình ấy. George Washington Carve đã nói rằng con người nên được đánh giá không chỉ bởi các vị trí họ nắm giữ mà còn bởi những trở ngại họ phải vượt qua để đi tới mục đích cuối cùng.

Chúa Giê-su đi trên một con đường với chiến thắng khải hoàn. Trước khi đi đến Ghết-sê-ma-nê, Chúa Cứu thế đã thưa với Cha, “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.” (Giăng 17:4). Tôi hy vọng tôi có thể thành thật nói như thế khi tôi đi đến cuối cuộc hành trình. Con đường thập giá trông giống như một thất bại sỉ nhục, nhưng đó thực sự là chiến thắng. Tuyển dân Israel đã từ chối Chúa Cứu thế, các lãnh đạo Do Thái giáo đương thời căm ghét Ngài, các môn độ thân tín quay lưng lại với Ngài, và thậm chí Cha thiên thượng cũng ngoảnh mặt đi trong giờ phút Ngài chịu đầy đau thương trên thánh giá. Tuy nhiên Chúa Giê-su đã trung tín cho đến cuối cùng và Ngài công bố: Mọi sự đã được trọn. “Ngài vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá…” (Hêb. 12:1-2). Lời cầu nguyện của Ngài cho chúng ta: “Cha ôi, Con muốn Con ở đâu thì những kẻ Cha đã giao cho Con cũng ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh hiển Cha đã ban cho Con.” (Giăng 17:24). Ngài chia sẻ vinh hiển của Ngài cho tín nhân. “Nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng.” (Giu-đe 24). Ai có thể chú ý đến các chi tiết trong cuộc hành trình thuộc linh của Chúa Cứu thế?

Lời chứng của sứ đồ Phao-lô:

“Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin lành của ơn Đức Chúa Trời.”

Công vụ 20:24

Bài 38

Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình.

Lu-ca 10:2

Tại sao có quá ít thợ gặt? Có phải Chúa Giê-su muốn nói rằng không có ai làm việc cho Ngài hay là cùng làm việc với Ngài? Nếu vậy thì Phao-lô có sai không khi ông viết, “chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời.” (1 Cor. 3:9)? Có phải mùa gặt không quan trọng nên hội thánh đã bỏ qua nó? Ở đây khán giả theo dõi không phải là ít người, cũng không phải ít nhà phê bình và người quan sát; nhưng để chiêu mộ người gieo hạt, người tưới nước, người thu hoạch và các công nhân khác cho mùa gặt không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.

Một trong những lý do thiếu thợ gặt là vì nhiều người của Chúa không thể nhìn thấy. Người của Chúa bị mù và không chú ý đến những cánh đồng đã chín vàng và đang thiếu vắng những người lao động. Họ không vâng lời lệnh truyền của Chúa Giê-su: “Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt.” (Giăng 4:35). Những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt chủ yếu được quyết định bởi những gì chúng ta yêu mến trong tấm lòng. “Ngài ở thuyền bước lên, thấy đoàn dân đông đúc, động lòng thương xót, mà chữa cho kẻ bịnh được lành.” (Ma-thi-ơ 14:14). Trong khi những thợ gặt khác đang lao tác trên cánh đồng truyền giáo thì chúng ta đang chỉ trích họ? Thật đáng hổ thẹn! Chúng ta có lòng thương xót những linh hồn đang đi xuống hỏa ngục hay không?

Vì mù quáng chúng ta thêm lên sự ích kỷ. Hãy đọc lại câu chuyện này: “ Đang khi đi đường, có kẻ thưa Ngài rằng: Chúa đi đâu tôi sẽ theo đó.  Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu.
 Ngài phán cùng kẻ khác rằng: Ngươi hãy theo ta. Kẻ ấy thưa rằng: Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã.  Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời.
 Có kẻ khác nữa thưa rằng: Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước tiên về từ giã người trong nhà tôi.  Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.” (Lu-ca 9:57-62). Trong câu chuyện này có ba người. Hai người tình nguyện theo Chúa, và một người đang lên kế hoạch. Không có ai trong ba người ấy lao tác trên cánh đồng lúa chín vàng. Người đầu tiên không thể từ chối chính mình. Có thể hiểu là anh ta muốn có một ngôi nhà và một chiếc giường tiện nghi, nhưng Chúa Giê-su đã không thu nhận anh ta. Chúa Giê-su không hứa với những ai theo Ngài là họ sẽ có nhà cửa hay các tiện nghi. Người thứ hai không thể vác thập tự giá và chết đi bản ngã. Chắc chắc là chúng ta phải yêu mến cha mẹ và làm điều tốt đẹp cho họ. Nhưng nếu điều đó khiến chúng ta không thể đáp ứng tiếng gọi của Đức Chúa Chúa Trời, thì nó lại là một điều sai. Có phải Chúa Giê-su đã từ biệt Cha thiên thượng và đến trần gian để chịu chết thay cho chúng ta? Người thứ ba đã lên một kế hoạch chia tay với những người thân trước khi anh ta chấp nhận theo Chúa. Chú ý từ “trước tiên” trong câu 61. Chúa Cứu thế cảnh báo người này: “Ai đã tra tay cầm cày còn ngó lại đằng sau thì không….” Sứ đồ Phao-lô bổ túc điều này rõ hơn khi ông viết, “13 Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14 nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phi-líp 3:13-14). Nếu muốn trở thành những công nhân lao tác cho mùa thu hoạch linh hồn, chúng ta phải từ chối chính mình, vác thập tự giá và bước theo Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 16:24)

Đi kèm với sự mù quáng và ích kỷ, một số tín hữu rơi vào tình trạng không cầu nguyện cho mùa thu hoạch của Chúa. Những ai nghiêm túc cầu nguyện cho các thợ gặt, thì chẳng bao lâu sau họ cũng trở nên những thợ gặt.  Môi-se đã cầu nguyện cho tuyển dân Irael bị hà hiếp tại Ai-cập, và rồi Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông đứng lên làm người lãnh đạo để Chúa dùng ông đem tuyển dân ra khỏi Ai-cập.  Nê-hê-mi đã cầu nguyện về sự đổ nát của Giê-ru-sa-lem, và sau đó Đức Chúa Trời đã dùng ông làm người lãnh đạo tuyển dân khôi phục các bức tường và cống thành thánh (Nê-hê-mi 1:4-11).  Hội Thánh đầu tiên đã cầu nguyện, và rồi Chúa sai Phaao-lô và Ba-na-ba ra đi cho sứ mệnh truyền giáo (Công vụ. 13:1-3). Khi ý muốn của chúng ta đầu phục Đức Chúa Trời, Ngài sẽ dùng chúng ta trở nên một phần cho sự trả lời cầu nguyện của chúng ta.  Nhiều Cơ đốc nhân cầu nguyện: “Nước Cha được đến;
Ý Cha được nên, ở đất như trời!” Nếu đây thực sự là lời cầu xin của bạn. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ sử dụng bạn cho mùa gặt linh hồn.

“Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.”

1 Côr. 15:58

Bài 39

Chúa đáp rằng: Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc,  nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.

Lu-ca 10:41-42

Vua Đa-vít viết, “Tôi đã xin Đức Giê-hô-va một điều, và sẽ tìm kiếm điều ấy!” (Thi thiên 27:4). Chúa Giê-su truyền bảo người trai trẻ giàu có, “ngươi vẫn còn thiếu một điều…” (Lu-ca 18:22). Sứ đồ Phao-lô thừa nhận, “Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều…” (Phi-líp 3:13-14). Một người ăn xin mù lòa, sau khi được Chúa Giê-su chữa lành đã nói, “tôi chỉ biết một điều, là tôi đã mù mà bây giờ lại sáng.” (Giăng 9:25). Những lời Chúa Cứu thế phán với Ma-thê trong câu chuyện trên đây có thể áp dụng cho chúng ta. “Có một việc (một điều) cần mà thôi.” Trong thời kỳ này, khi mà tất cả mọi người đều bận rộn với mọi loại công việc khác nhau, chúng ta cần trở nên giống như Ma-ri. Đó là phải dành ưu tiên cho hành động “ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài.” Chúng ta phải dành thời gian lắng nghe Lời Chúa, tiếp nhận lẽ thật. Rõ ràng đây là một việc cần thiết cho linh hồn của chúng ta.

Nếu làm điều này, chúng ta sẽ làm vui lòng Đức Chúa Trời. Có những khoảng thời gian cần phục vụ như Ma-thê, nhưng điều ưu tiên quan trọng trước hết là thờ phượng, học tập dưới chân Chúa Giê-su. Đây là sự chuẩn bị thực sự có thể chấp nhận được cho công tác phục vụ. Ma-ri ở Bê-tha-ni là một người thờ phượng để chuẩn bị cho công tác phục vụ. Trong văn cảnh này, cô ngồi xuống để lắng nghe Lời Chúa. Trong Giăng 11:32, chúng ta đọc thêm về Ma-ri, “Nhưng Ma-ri, lúc đã tới nơi Đức Chúa Jêsus đứng, vừa thấy Ngài, thì sấp mình xuống chân Ngài mà nói rằng…” Và sau đó Ma-ri đã, “lấy một cân dầu cam tùng hương thật, rất quí giá, xức chân Đức Chúa Jêsus, và lấy tóc mình mà lau; cả nhà thơm nức mùi dầu đó.” (Giăng 12:3). Trong thế kỷ thứ nhất, các Ra-bi hiếm khi dạy cho các người nữ. Nhưng Chúa Giê-su đã sẵn lòng dạy Ma-ri, và Ngài cũng sẽ dạy bạn và tôi qua Đức Thánh Linh nếu chúng ta đến ngồi dưới chân Ngài để lắng nghe lời Ngài. Thờ phượng và suy ngẫm phải luôn luôn đi trước sự phục vụ, vì nếu không có Chúa Giê-su, chúng ta không thể làm bất cứ điều gì (Giăng 15:5)

Dành thời gian ở với Chúa Giê-su cũng có nghĩa là làm cho đời sống thuộc linh của chúng ta trở nên sâu nhiệm, phong phú. Ma-thê đã lo lắng về thực phẩm cho thân thể vật lý. Nhưng sự lưu tâm của Ma-ri là thức ăn cho linh hồn. Chúa Giê-su đã dạy, “Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi.” (Giăng 6:27). Lời của Đức Chúa Trời là bánh, sữa, mật cho linh hồn (Phục truyền. 8:3; Thi. 119:103; 1 Phi-e-rơ 2: 2-3; Hêb. 5:12-14). Ma-ri trong câu chuyện này có cùng một ưu tiên giống như Giê-rê-mi (Giê. 15:16), (Gióp 23:12), và Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 4:4). Chúa Giê-su đã cảnh báo chúng ta trong câu chuyện về người gieo giống: “Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín.” (Lu-ca 8:14). Điều cần thiết là chúng ta nuôi dưỡng sự đói khát Lời Chúa và không thay thế nó bằng những điều lo lắng vụn vặt khác. Không trở về với những giá trị hay tiêu chuẩn của đời sống cũ, hãy để Đức Thánh Linh trực tiếp dạy chúng ta từ lời Kinh Thánh. Nên đọc những quyển sách nuôi dưỡng tâm linh, cung cấp sự nghiên cứu Kinh Thánh. Chúng ta không thể thay thế sự học hỏi Lời Chúa và suy ngẫm bằng những phương cách khác.

Ngồi dưới chân Chúa Giê-su cũng có nghĩa là bạn sẽ bị chỉ trích từ người khác. Satan sẽ không lưu tâm đến quyển Kinh Thánh của bạn nằm trên bàn hay trong ngăn kéo. Nó không muốn bạn đem Lời Chúa vào trong tấm lòng của mình và để Lời ấy hành động. Ma-thê đã chỉ trích cô em gái của mình, phàn nàn với Chúa Giê-su và cố gắng bày tỏ quan điểm: “Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi.” Sự chỉ trích thường đến từ những tín nhân nhiều hơn là những người chưa tin. Chúng ta phải chuẩn bị cho mình rơi vào trường hợp như thế. Hãy để Chúa Giê-su bảo vệ chúng ta như Ngài đã bảo vệ Ma-ri. Nơi an toàn nhất của chúng ta là ở dưới chân Chúa Giê-su.

Nhưng phước hạnh là đây: dành thì giờ mỗi ngày ở với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ có được một tầm ảnh hưởng lâu dài trên người khác. Khi Ma-ri xức dầu cho Chúa Giê-su, Ngài đã phán với các môn đồ:  “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin lành nầy được giảng ra, thì cũng thuật lại việc người ấy đã làm để nhớ đến người.” (Ma-thi-ơ 26:13). Tất cả các sự phục vụ của chúng ta, bao gồm sự thờ phượng, cầu nguyện và nhiều mục vụ khác có thể lan ra trên toàn thế giới và sanh bông trái cho cõi đời đời. Nhưng chúng ta sẽ không biết hết về điều đó cho đến khi chúng ta gặp Chúa Giê-su mặt đối mặt. Bây giờ chúng ta phải quyết định lựa chọn điều có vẻ tốt hay là điều tốt nhất? Ma-ri đã lựa chọn đúng và nhận được phước lành từ Đức Chúa Trời.

“Tôi đã chọn con đường thành tín.
Đặt mạng lịnh Chúa trước mặt tôi,

Nguyện tay Chúa sẵn giúp đỡ tôi.
Vì tôi chọn các giềng mối Chúa.”

Thi thiên 119:30, 173

 

Bài 40

Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước thiên đàng.

Lu-ca 12:32

Trong văn cảnh của câu Kinh Thánh trên, Chúa Giê-su dạy về sự lo lắng (Lu-ca 12:22-34). Các môn đồ được Chúa sai phái đi vào một thế giới nhiều khó khăn, là nơi mà những điều ác ngự trị thử thách đức tin của họ. Lo lắng có thể đem đến sợ hãi (Lu-ca 12:4-5), sợ hãi có thể dẫn đến vô tín, và vô tín sẽ dẫn đến thất bại. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh con quạ vốn không gieo không gặt mà Cha thiên thượng còn nuôi nó. Vậy thì tại sao các môn đồ lại phải lo lắng về nhu cầu ăn uống. “Hãy xem con quạ: Nó không gieo, không gặt, cũng không có hầm vựa kho tàng chi, mà Đức Chúa Trời còn nuôi nó; huống chi các ngươi quí hơn chim chóc là dường nào!” (Lu-ca 12:24). Lo lắng là sống theo phong cách của người ngoại bang, kẻ vô tín, người thờ hình tượng (câu 30). Rất hiếm khi Cơ đốc nhân thừa nhận tội lo lắng. Chúng ta thích gọi điều đó là “thập tự tôi phải mang.” Nếu chúng ta thực sự có mối liên hệ mật thiết với Đức Chúa Trời, khi ấy sự lo lắng bị ném xa và chúng ta trải nghiệm sự bình an.

Chúng ta là bạn hữu của Ngài. “Ta nói cùng các ngươi, là bạn hữu ta, đừng sợ…” (Lu-ca 12:4). Trong Phúc âm Giăng, Chúa Giê-su nhấn mạnh điều này một lần nữa: “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.  Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta. Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm; nhưng ta đã gọi các ngươi là bạn hữu ta, vì ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều ta đã nghe nơi Cha ta.” (Giăng 15:13-15). Từ bạn hữu ở đây có nghĩa là một người bạn trên thiên đàng hay một người bạn tại tòa án. Đây là người gần gũi với Vua và chia sẻ các bí mật trong giao ước của Ngài. “Đức Giê-hô-va kết bạn thiết cùng người kính sợ Ngài. Tỏ cho người ấy biết giao ước của Ngài (Thi. 25:14). Đây cũng là lý do khi Chúa Giê-su phán dạy các môn đồ rằng kính sợ Đức Chúa Trời sẽ dẫn đến kết quả là không còn lo lắng nữa (Lu-ca 12:4-7). Kính sợ Đức Chúa Trời sẽ chinh phục các nỗi sợ hãi khác:  “Phước cho người nào kính sợ Đức Giê-hô-va,
Rất ưa thích điều răn Ngài! … Lòng người kiên định, chẳng sợ chi.” (Thi. 112:1, 8)

Chúng ta là bầy chiên của Ngài. “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi.” (Lu-ca 12:32). Hình ảnh về bầy chiên (hình bóng về tuyển dân Israel và Hội thánh) và người chăn chiên (hình bóng về Đức Chúa Trời) được tìm thấy trong suốt Kinh Thánh.  Bầy chiên không thể tự bảo vệ chính mình, chúng cần Đấng chăn chiên khôn ngoan để bảo vệ và chăm sóc. Tuyển dân của Đức Chúa Trời luôn luôn là một thiểu số so với đám đông. “Cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít.” (Ma-thi-ơ 7:14). Chúng ta được gọi là “bầy nhỏ.” Thế giới ngoại bang hâm mộ những số lượng đông đảo, tuy nhiên đường lối của Đức Chúa Trời thì khác biệt. Ngài dùng những con người với số lượng ít để ban cho họ sự chiến thắng. Hãy nhìn lại lịch sử Hội thánh với mười hai sứ đồ, một trăm hai mươi môn đồ. Ghi-đê-ôn với ba trăm chiến sĩ, Đa-vít với năm hòn đá và một cái trành đã làm nên các chiến thắng thắng vang dội qui vinh hiển về Đức Chúa Trời. Tương phản với những giá trị của văn hóa thế giới, chức vụ của Hội thánh dường như nhỏ bé, nhưng nó kéo dài và còn lại đến cõi đời đời.

Chúng ta là thành viên trong gia đình của Ngài. Các hình bóng hỗn hợp về bầy chiên, gia đình và vương quốc phản ánh bối cảnh văn hóa Đông phương của Kinh Thánh. Bởi vì người lãnh đạo là một người cai trị, một người cha và là một người chăn. Bất cứ ai tin nhận Chúa Giê-su Christ đều trở thành con của Vua, và tất cả các nguồn tài nguyên của Vua thuộc về tín nhân. Đức Chúa Trời không chỉ hào phóng ban cho chúng ta những điều tốt đẹp mà Ngài còn ban toàn bộ vương quốc nữa! “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài, đáng được sự vinh hiển và quyền năng đời đời vô cùng! A-men.” (Khải. 1:6). Vậy tại sao phải lo lắng và sợ hãi khi mà chúng ta được nhận lãnh ân điển và sự giàu có vô cùng phong phú của Ngài chỉ bởi đức tin (Ê-phê-sô 1:6; Phi-líp 4:19).

Những con chiên rất dễ rơi vào sự hoảng loạn, khi không có người chăn ở gần. Tạ ơn Chúa, Đấng chăn chiên luôn ở gần chúng ta. “Đừng sợ, vì ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp, vì ta là Đức Chúa Trời ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi; phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi, lấy tay hữu công bình ta mà nâng đỡ ngươi.” (Ê-sai 41:10). Có Chúa ở gần bên thì không gì làm chúng ta phải sợ hãi.

Dầu đến tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm cả rồi. Đừng sợ chi, vì các ngươi trọng hơn nhiều chim sẻ.

Lu-ca 12:7

Bài 41

Sau lại đầy tớ trình rằng: Thưa chủ, điều chủ dạy, đã làm rồi, mà hãy còn thừa chỗ.

Lu-ca 14:22

  1. Tozer viết trong tác phẩm nổi tiếng Tri Thức Về Đấng Thánh “Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, vì thế Ngài không cần sự hỗ trợ.” Đức Chúa Trời không ủng hộ sự trống vắng bởi vì Ngài vốn đầy trọn, ngoại trừ khi Con Ngài tự làm cho mình trống không hạ sinh vào trần gian sống giữa dòng dõi loài người. Từ buổi ban đầu chương trình cứu chuộc của Chúa dành cho con người đi qua một tiến trình rồi dẫn tới trời mới và đất mới phản chiếu vinh hiển của Ngài. Nếu Đức Chúa Trời chuẩn bị làm đầy dẫy chúng ta trong các công tác phục vụ, trước tiên Ngài sẽ làm chúng ta trở nên trống không.

Chúng ta nhìn thấy các bằng chứng về sự đầy dẫy thiên thượng trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Theo Sáng thế ký 1:2, “Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.” Trái đất lúc bấy giờ là vô hình, trống không, tăm tối cho đến khi Chúa tạo nên ánh sáng, đất, biển, các từng trời và đổ đầy sự sống, vẻ đẹp tự nhiên cho nó. Ngài lướt qua tất cả các thiên thể khác và chọn trái đất là hành tinh của Ngài. “Đất và muôn vật trên đất. Thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va.” (Thi thiên 24:1) “Thế gian và muôn vật ở trong, đều thuộc về ta.” (Thi. 50:12). Ngài đổ đầy thế giới với mọi thứ chúng ta cần để duy trì sự sống. Và rồi Con Ngài đến trần gian để ban cho chúng ta sự sống dư dật.

Chúng ta nhìn xem sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-su Christ là Con Ngài.  “Vì chưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài.” (Cô-lô-se 1:19). Nhiều giáo chủ các tôn giáo đã xuất hiện trong lịch sử thế giới, nhưng không có ai trong họ chứa đựng sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời ở bên trong giống như Chúa Giê-su. “Vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy (Christ) như có hình.”  (Cô-lô-se 2:9). Không có điều gì của Đức Chúa Trời lại thiếu vắng trong thân vị của Chúa Giê-su, Ngài chứa đựng sự đầy đủ của Cha thiên thượng để hoàn thành ý chỉ của Cha. Điều nghịch lý là Chúa Giê-su nhục hóa trở nên con người, và điều này đã làm cho chúng ta thừa hưởng sự hy sinh của Ngài. “Vì anh em biết ơn của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài vốn giàu, vì anh em mà tự làm nên nghèo, hầu cho bởi sự nghèo của Ngài, anh em được nên giàu.” (2 Côr. 8:9)

Cha thiên thượng muốn nhìn thấy sự phản chiếu đầy đủ thuộc tính Ngài thông qua đời sống của con dân Ngài, thông qua Hội thánh là thân thể của Christ. “Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội thánh, Hội thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài.” (Ê-phê-sô 1:22-23). Phao-lô không viết về việc đổ đầy các phòng nhóm bằng những con người mà là đổ đầy mọi người trong phòng bằng Đức Thánh Linh để họ có thể đại diện cho Chúa Giê-su trước một thế giới lạc lối và đau khổ. Mục tiêu của chúng ta không phải là trở thành những Cơ đốc nhân nổi tiếng. Nhưng là trở “nên bậc thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ.” (Ê-phê-sô 4:13). Mối tương giao của chúng ta với Đấng Christ, sự thờ phương, sự phục vụ của chúng ta dành cho Ngài đều hướng đến mục tiêu này: “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài.”  (2 Côr. 3:18). Phao lô cũng viết, “Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự.” (Cô-lô-se 2:10) và Giăng 1:16 nói rằng, “bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn.” Hãy công bố trong đức tin những câu Kinh Thánh trên đây trước khi chúng ta có thể trải nghiệm nó.

Ít nhất mười lần trong sách Công vụ chúng ta đọc thấy dân sự của Đức Chúa Trời được đổ đầy Đức Thánh Linh. Và đây là bí mật cho sự thành công của họ. Những con người này vốn không phải xuất chúng, thông minh, đầy thể lực hay có một vị trí nổi bật trong xã hội. Đó là những con người bình thường trải nghiệm sự đầy dẫy Đức Thánh Linh và vâng phục Ngài. Ê-tiên được đổ đầy ơn và quyền năng (Công. 6:8). Các sứ đồ đầy dẫy sự vui mừng và sẵn lòng chịu khổ vì danh Chúa (Công. 5:41). Ta-bi-tha, nghĩa là Đô-ca; người phụ nữ làm nhiều việc lành và hay bố thí (Công. 9:36). Đây là khởi đầu cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy trong Hội thánh. Rồi sẽ đến một ngày kia “sự vinh quang của Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp trái đất.” (Dân số ký 14:21)

Tại sao chúng ta chưa cầu xin Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển của Ngài hơn nữa thông qua chúng ta ngày hôm nay?

Vì sự nhận biết vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển.

Ha-ba-cúc 2:14

Bài 42  

Nhưng người cha bảo đầy tớ rằng: Hãy mau mau lấy áo tốt nhứt mặc cho nó; đeo nhẫn vào ngón tay, mang giày vào chân.

Lu-ca 15:22

Từ Sáng thế ký 3:7 đến Khải huyền 22:14, các trước giả Kinh Thánh nói nhiều về ý nghĩa thuộc linh của quần áo. Giặt quần áo và thay quần áo sạch thường tượng trưng cho những thay đổi mạnh mẽ trong cuộc sống của dân sự Chúa, những thay đổi mà có lẽ một số người trong chúng ta cần ngày nay.

Khỏa thân được che phủ. Sau khi phạm tội, A-đam và Ê-va nhận biết mình lõa thể và họ thực hiện cách này: “lấy lá cây vả đóng khố che thân.” (Sáng. 3:7). Nhưng Đức Chúa Trời không chấp nhận hành động đó. Cũng giống như ngày hôm nay Chúa không chấp nhận các việc lành là con đường dẫn đến sự cứu rỗi. Tổ phụ đầu tiên của loài người chỉ được chấp nhận sau khi Đức Chúa Trời làm đổ huyết một vài sinh vật vô tội, lấy da của chúng kết thành áo dài cho vợ chồng A- đam.  “Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho.” (Sáng. 3:21). Chúa Giê-su là Chiên con của Đức Chúa Trời đã đổ huyết ra để thanh tẩy tội lỗi của chúng ta (Giăng 1:29). Sứ đồ Phao-lô giải thích thêm: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.” (2 Côr. 5:21)

Từ ô uế đến tẩy sạch. Mỗi lần tôi xuống khu trung tâm mua sắm để vào thư viện, tôi dừng lại ở một bức tranh của Rembrandt có tên Đứa con hoang đàng trở về. Cậu con trai đang quì xuống trước người cha xin tha lỗi. Từ chân cho tới đỉnh đầu của chàng thiếu niên là một thân hình tiều tụy với quần áo tả tơi, dơ nhớp. Cậu con trai này cần một bộ y phục mới, giày dép mới. Cậu con trai xin được làm đầy tớ trong nhà, nhưng người cha không thể chấp nhận điều đó. Ông làm trỗi hơn những gì con trai mình cầu xin. Quần áo mới, giày mới, nhẫn mới và bò con mập để đãi tiệc mừng. Đó là một khởi đầu mới! Đa-vít đã có một trải nghiệm tương tự (thay đổi y phục) khi ông thú nhận tội lỗi của mình (2 Sa-mu-ên 12:10). Khi Gia-cốp trở về, ông truyền bảo cho mọi người ở trong nhà “làm cho mình được thanh sạch và thay áo xống đi.” (Sáng. 35:1-3)

Từ đời sống cũ đến đời sống mới. Khi Giô-sép được đưa ra khỏi nhà tù, ông được “cạo mặt mày cho, biểu thay đổi áo xống, rồi vào chầu Pha-ra-ôn.” (Sáng. 41:14). Về sau khi đã ngồi cai trị xứ Ê-díp-tô, Giô-sép cũng thay đổi y phục cho các anh em mình, “đưa áo xống mặc đổi thay cho mỗi người, còn Bên-gia-min, người cho trăm miếng bạc cùng năm bộ áo xống.” (Sáng. 45:22). Điều này như một lời nhắc nhở rằng tội lỗi của các anh em Giô-sép đã được tha thứ. Và bây giờ một khởi đầu mới đã đến với họ. Tại núi Si-nai, tuyển dân Israel đã bước vào trong một giao ước thánh với Đức Chúa Trời. Môi-se đã truyền lệnh cho tuyển dân, trước hết phải giặt sạch quần áo mình (Xuất. 19:10,14). Chúa Giê-su đã gọi La-xa-rơ trở về từ cõi chết, và truyền lệnh cho gia đình phải loại bỏ đồ tẩm liệm trên thân thể La-xa-rơ. Người sống không thể mặc quần áo của một xác chết. Phao-lô cũng dùng hình ảnh minh họa này khi nói đến chúng ta phải loại bỏ người cũ mà mặc lấy người mới trong Christ (Ê-phê-sô 4:17-24; Cô-lô-se 3:1-17). Chúa Giê-su cảnh báo Hội thánh hâm hẩm Lao-đi-xê, “mua những áo trắng, hầu cho ngươi được mặc vào.” (Khải. 3:18)

Từ quần áo thông thường đến quần áo đẹp tốt. A-rôn và các thầy tế lễ phải có trang sức thánh để được vinh hiển (Xuất. 28:2, 40). Các thấy tế lễ khác được xác nhận thông qua quần áo của họ. Và quan trọng là họ được riêng ra cho Đức Chúa Trời để phục vụ một mình Ngài. Nếu thầy tế lễ không mặc y phục thích hợp họ sẽ đối diện với nguy hiểm và có thể mất mạng sống (Xuất. 28:43). Các cô dâu dĩ nhiên là phải được trang sức y phục xinh đẹp (Thi. 45:13-15; 132:16; Khải. 21:2). Hội Thánh là cô dâu của Đấng Christ. Và một ngày trong tương lai, chúng ta sẽ bước vào trong lễ cưới Chiên Con, “Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới.” (Khải. 19:7-9). Điều quan trọng là ngày hôm nay chúng ta phải chuẩn bị chính mình cho sự kiện vinh hiển sắp tới.

Chúng ta phải cẩn thận bước đi trong Thánh Linh và không để cho áo xống mình bị ô uế (Khải. 3:4). Đức Chúa Giê-su phán, “Kìa, ta đến như kẻ trộm. Phước cho kẻ tỉnh thức và giữ gìn áo xống mình, đặng khỏi đi lõa lồ và người ta không thấy sự xấu hổ mình!” (Khải 16:15).  Và trong ngày vinh hiển tương lai: “Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới, và vợ Ngài đã sửa soạn.” (Khải 19:7)

Tất cả chúng ta phải chuẩn bị cho ngày trọng đại đó. Nơi chúng ta đến sẽ vô cùng tuyệt diệu – thiên đàng.

Anh em phải mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật.

Ê-phê-sô 4:24

Bài 43

 

Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ một thí dụ, để tỏ ra rằng phải cầu nguyện luôn, chớ hề mỏi mệt:

Lu-ca 18:1

Sự cầu nguyện vừa là hàn thử biểu vừa là máy điều nhiệt của đời sống Cơ đốc. Nó bày tỏ “nhiệt độ thuộc linh” và giúp chúng ta chỉnh đốn lại đời sống. Nếu chúng ta phớt lờ sự cầu nguyện hay cầu nguyện quá ít, khi ấy đời sống tin kính sẽ nguội dần (Ma-thi-ơ 24:12). Nếu chúng ta lên và xuống thất thường với một đời sống vô kỷ luật, không nóng cũng không lạnh, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng hâm hẩm giống như Hội thánh Lao-đi-xê (Khải. 3:15-16). Khi chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời, suy ngẫm Lời Ngài, lắng nghe tiếng Ngài, tấm lòng chúng ta sẽ bùng cháy (Lu-ca 24:32). Trung thực trong việc trả lời những câu hỏi sau đây có thể giúp chúng ta cải thiện chức vụ cầu nguyện của mình.

Chúng ta đã đánh mất điều kỳ diệu của sự cầu nguyện? Bạn có còn nhớ cảm giác như thế nào khi lần đầu tiên bạn được đến trước ngai ân điển của Cha thiên thượng? Tôi đã đến với Đấng Christ vào lần sinh nhật thứ mười sáu của mình. Và chỉ vài tuần sau đó tôi tham gia vào buổi nhóm cầu nguyện. Tôi cũng tham gia vào buổi học Kinh Thánh với Hội thánh địa phương. Lúc này tôi không phải là mục sư hay là người trưởng thành, tuy nhiên Cha thiên thượng vẫn nghe tiếng cầu nguyện của tôi.Khi chúng ta đánh mất điều kỳ diệu của cầu nguyện, việc cầu nguyện sẽ trở thành thói quen tôn giáo, nặng nề và ích kỷ. Sự cầu nguyện là một đặc ân, một nghĩa vụ – lưu ý từ “phải” trong Lu-ca 18:1. Sự cầu nguyện phải được tuân theo với sự vui thích trong tấm lòng của chúng ta.

Chúng ta đã nhận được niềm vui lớn khi thờ phượng và cầu nguyện với Đức Chúa Trời? Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường nghe mẹ tôi gọi điện thoại đến cửa hàng tạp hóa và đưa ra những danh sách các món hàng bà muốn. Một giờ sau đó người giao hàng sẽ đến trước cửa nhà với đầy đủ các món mà mẹ tôi đặt mua. Nhưng điều này không thể minh họa cho sự cầu nguyện. Đức Chúa Trời biết các nhu cầu trước khi chúng ta đề cập đến nó. Còn chúng ta thì không luôn luôn biết rõ nhu cầu thực sự của mình. Chúng ta cầu xin một công việc tốt hơn, trong khi nhu cầu thực sự của chúng ta là một thái độ tốt hơn trong công việc hiện tại. Khi thờ phượng Đức Chúa Trời và chìm đắm trong sự vĩ đại, toàn năng của Ngài, chúng ta sẽ được soi sáng về các lời hứa của Ngài trong Kinh Thánh. Các lời hứa ấy đáp ứng cho những nhu cầu thực sự của chúng ta. Sẽ có những trải nghiệm khó khăn trong đời sống (giống như Phi-e-rơ sắp bị chìm trong nước biển), và rồi chúng ta kêu cầu Chúa giúp đỡ. Chúng ta cần dành thời gian ở với Chúa và học lắng nghe tiếng Ngài. Môi-se đã trải qua bốn mươi ngày đêm trên núi với Giê-hô-va Đức Chúa Trời để nhận lãnh sứ mạng từ Ngài. Khi chúng ta đối diện với những khó khăn của đời sống, hãy dành ra ít nhất bốn mươi phút để sống trong hiện diện vinh hiển với Đấng toàn năng.

Chúng ta đã từng trải nghiệm chiến đấu trong sự cầu nguyện? Đôi khi sự cầu nguyện mà chúng ta trải nghiệm thì giống như một con trẻ đang ở trong vòng tay chăm sóc của cha mẹ. Đơn giản chỉ là nói chuyện, lắng nghe và vui hưởng tình yêu thương. Thỉnh thoảng sự cầu nguyện lại giống như Gia-cốp vật lộn với Đức Chúa Trời, ông cầu xin phước lành và sự bảo vệ cho bản thân và gia đình (Sáng thế ký 32:22-32). Hay như Ê-pháp-ra, tôi tớ của Đức Chúa Giê-su Christ cầu nguyện cho các anh em trong hội thánh Cô-lô-se Cô-lô-se 4:12). Hình ảnh của Ê-pháp-ra được ghi là ông “chiến đấu không thôi trong khi cầu nguyện.” Đó cũng là hình ảnh của các vận động viên nỗ lực hết sức mình trong các kỳ thi thể thao. Chúng ta không chiến đấu với Đức Chúa Trời để thay đổi ý muốn Ngài, nhưng là tôn trọng thuận phục ý muốn Ngài cho dù điều đó có thể làm chúng ta đau đớn. Trong sự cầu nguyện chân thành không có chỗ cho sự đóng kịch, vì Đức Chúa Trời biết rõ tấm lòng của chúng ta.

Chúng ta có nhận ra thảm kịch của việc mất hết năng lực? Nếu không cầu nguyện chúng ta sẽ không có sức lực để đi tới. Cuối cùng chúng ta sẽ rơi vào tình trạng suy sụp, mất hết năng lực và dẫn đến khủng hoảng. Vua Sau-lơ, Giô-na hay Phi-e-rơ là những trường hợp điển hình. Tuy nhiên “ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng; chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.” (Ê-sai 40:31). Những người lãnh đạo thành công nhất được tìm thấy trong Kinh Thánh và trong lịch sử Hội thánh là những người xưng nhận sự yếu đuối của họ trong hiện diện của Đức Chúa Trời và để Ngài biến đổi họ, đến một mức độ họ trải nghiệm quyền năng đắc thắng (2 Côr. 12:7-10). Chúng ta có thể đọc lại các tấm gương anh hùng đức tin trong Hê-bơ-rơ 11.

Nhưng Chúa phán rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi.

2 Côr. 12:9

 

Bài 44

Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.

Giăng 1:1

Trong suốt bốn thế kỷ giữa tiên tri Ma-la-chi và Giăng Báp-tít, các tiên tri là phát ngôn nhân của Đức Chúa Trời đã yên lặng. Khi Giăng Báp-tít xuất hiện, ông là một “tiếng kêu trong đồng vắng” (Giăng 1:23) dọn đường cho Chúa Giê-su là Ngôi Lời (Khải huyền 19:13). Chúa Giê-su cũng là An-pha và Ô-mê-ga, là mẫu tự đầu tiên và sau cùng trong bảng chữ cái tiếng Hy lạp. Theo Phúc âm Giăng 1:1-18, chúng ta được giới thiệu về Chúa Giê-su trong ba khía cạnh.

Chúa Giê-su luôn luôn hiện hữu. Ngài tồn tại trước sự sáng tạo hoàn vũ, Ngài ở cùng với Cha và Đức Thánh Linh. “Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả.” (Cô-lô-se 1:16). Chúa Giê-su không bắt đầu sứ mệnh của Ngài từ khi được hoài thai trong lòng Ma-ri, bởi vì Ngài hiện hữu từ trước vô cùng. Làm thế nào mà Ba Ngôi mang lại sự sáng tạo? Thông qua Ngôi Lời. Trong hai chương sách Sáng thế ký đầu tiên, chúng ta tìm thấy Đức Chúa Trời phán mười hai lần để sáng tạo các từng trời và mặt đất. “Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Giê-hô-va…. Vì Ngài phán, thì việc liền có.
Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền.”  (Thi thiên 33:6, 9)

Tại sao Đức Chúa Giê-su được gọi là Ngôi Lời? Bởi vì thông qua Ngài, chúng ta học biết về tấm lòng, tâm trí và thuộc tánh của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su phán: “Ai đã thấy ta tức là đã thấy Cha.” (Giăng 14:9). Giăng nhấn mạnh rằng Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời đời đời, là Cứu Chúa duy nhất của mọi người (Giăng 20:31). Người nào phủ nhận điều này thì không phải là Cơ đốc nhân.

Chúa Giê-su luôn luôn ở cùng với Cha. Cụm từ “ở cùng Đức Chúa Trời” có nghĩa là “mặt đối mặt với Đức Chúa Trời” nói lên sự thân mật giữa hai Ngôi. Trong Giăng 1:18, Chúa Giê-su là “Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết.” Mỗi tín hữu đều ở trong Cha và trong Con xuyên qua sự nội trú của Đức Thánh Linh (14:20). Trong những năm tháng trên đất, Chúa Giê-su luôn tương giao với Cha, và Ngài sống bởi Cha (6:37). Hai Ngôi vị cùng làm việc với nhau trong mọi công tác (5:17; 10:37). Chúa Giê-su làm việc theo ý muốn của Cha (5:30) và lời Ngài phát ngôn đến từ Cha (15:15). Chúa Cứu thế tôn kính Cha (8:49), và Cha cũng tôn trọng Con (câu 54). Tuy nhiên trong giờ phút Chúa Giê-su chịu thương khó trên thập tự giá vì tội lỗi nhân loại, Cha đã tạm thời từ bỏ Con (2 Côr. 5:21). Lúc đó Chúa Chúa Cứu thế kêu lên:  “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài từ bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46; Thi. 22:1)

Chúa Giê-su luôn là Đức Chúa Trời và sẽ luôn luôn như vậy. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, khi sứ đồ Giăng viết các thư tín, một số giáo sư giả tuyên bố rằng Chúa Giê-su không phải là Con Đức Chúa Trời. Vì thế trong thư tín của mình, vị sứ đồ nhấn mạnh lẽ thật này cho những người đọc: “tin Giê-su là Đấng Cứu thế và là Con Đức Chúa Trời.” và “nhờ danh Ngài mà được sự sống.” (Giăng 20:31). Chính Chúa Giê-su đã làm chứng rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời (3:18; 5:25; 9:35; 11:4). Các kẻ thù đã cáo buộc Ngài về điều này trước tòa án của Phi-lát (19:7). Trong Phúc âm Giăng, trước giả đã nêu ra các lời chứng rằng Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời đã nhục hóa thành người: Giăng Báp-tít (1:29-3), Na-tha-na-ên (câu 49), Phi-e-rơ (6:69), người mù được Chúa Giê-su chữa lành (9:35-38), Ma-thê (11:27), Thô-ma (20:28) và chính sứ đồ Giăng (câu 31). Rõ ràng Chúa Giê-su là con Độc sanh của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ ra cho Hội thánh. Từ “Con Độc sanh” cũng có nghĩa là Con Duy nhất. Không có bất cứ hữu thể nào trên trời hay dưới đất giống như Chúa Giê-su. Ngài là Con đồng thời cũng là Đức Chúa Trời và sẽ luôn luôn như vậy. Trong một ngày tương lai, “chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy.” (1 Giăng 3:2)

Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.

Giăng 20:31

 

Bài 45        

Đức Chúa Jêsus vừa xây lại, thấy hai người đi theo mình, thì phán rằng: Các ngươi tìm chi? Thưa rằng: Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu?

Giăng 1:38

Đám đông tụ họp nghe Giăng báp-tít rao giảng, nhiều người tin và nhận báp-tem. Trong số đó có Giăng và Anh-rê. Vở kịch yên tĩnh diễn ra được mô tả trong Giăng 1:35-42 là một phần của kế hoạch Đức Chúa Trời cứu chuộc thế giới hư mất.

Màn 1. Đi theo sau Chiên Con. Mục đích của Giăng Báp-tít là dọn đường cho người ta đến với Chúa Giê-su. Ông không muốn dân sự đề cao chức vụ của mình. “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống.” (Giăng 3:30). Giữa vòng những môn đồ của Giăng Báp-tít có Giăng và Anh-rê làm nghề chài lưới ở vùng Ca-bê-na-um. Khi Giăng Báp-tít giới thiệu Chúa Cứu thế: “Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời!  Hai môn đồ (Giăng và Anh-rê) nghe lời đó, bèn đi theo Đức Chúa Jêsus.” (Giăng 1:36- 37). Tin cậy Chúa Giê-su là khởi đầu của đời sống Cơ đốc nhân. Tuy nhiên đó chỉ mới là sự khởi đầu.

Màn 2. Đối mặt với một quyết định. Nhận biết có hai người đi theo mình, Chúa Giê-su hỏi:”Các ngươi tìm chi?” (câu 38). Tại sao dân sự đi theo Chúa Giê-su trong khi Ngài thực hành chức vụ trên đất? Một số người hiếu kỳ phấn khích trước các phép lạ của Ngài. Một số khác hâm mộ sự giảng dạy. Một số khác đi theo đám đông, trong khi một số khác bước ra khỏi đámđông và thiết lập một mối quan hệ cá nhân với Ngài. Chúa Giê-su cứu chuộc và biến đổi con người. Chúng ta phải tự hỏi lòng mình có động cơ đúng đắn hay không khi bước theo Chúa để phục vụ Ngài.  Lưu ý là hành động đúng có thể bị ô uế bởi động cơ sai.

Màn 3. Tuân theo mệnh lệnh. Có thể hai môn đồ không thực sự nhận thức họ đang tìm kiếm điều gì. Đó là lý do tại sao họ trả lời câu hỏi của Chúa Giê-su bằng một câu hỏi khác: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” (câu 38).Một sinh viên trẻ Do Thái hỏi thầy của mình, “Tại sao khi tôi hỏi thầy một câu hỏi, thầy luôn luôn trả lời bằng một câu hỏi khác?”Người thầy trả lời, “Tại sao tôi không nên hỏi anh?” Có khả năng Andrew và John muốn thích nghi với lịch trình của Chúa chúng ta và do đó đề nghị đến thăm Ngài sau đó, vì vậy họ hỏi Ngài sống ở đâu. Nhưng Chúa Giê-su muốn nói với họvào lúc này, “Hiện nay là thì thuận tiện, hiện nay là ngày cứu rỗ.” (2 Côr. 6:2). Động từ “Hãy đến” rất thường được Chúa Giê-su sử dụng. “Hãy đến xem” dẫn chúng ta  “hãy đến uống” (Giăng 7:37-39), “đến và ăn” (21:12). Chúa Giê-su ở đâu? Ngài không ở trong đền thờ do con người xây dựng (Công vụ. 7:48-50) nhưng Ngài “ngự trong nơi cao và thánh, với người có lòng ăn năn đau đớn và khiêm nhường, đặng làm tươi tỉnh thần linh của những kẻ khiêm nhường, và làm tươi tỉnh lòng người ăn năn đau đớn.” (Ê-sai 57:15). Giăng và Anh-rê là những ngư phủ khiê Ta ngự trong nơi cao và thánh, với người có lòng ăn năn đau đớn và khiêm nhường, đặng làm tươi tỉnh thần linh của những kẻ khiêm nhường, và làm tươi tỉnh lòng người ăn năn đau đớn.” (Ê-sai 57:15). Giăng và Anh-rê là những ngư phủ khiêm nhường. Lúc đầu tiên họ không có ý tưởng về cách mà Đức Chúa Trời sẽ sử dụng họ trong quãng đời còn lại. “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (1 Phi-e-rơ 5:5)

Màn 4 –Chia sẻ tin tức tốt lành. Chúa Giê-su thuyết phục hai ngư phủ rằng Ngài là Đấng Mê-si theo lời hứa, và họ phải đi ra công bố điều này cho người khác. Anh-rê đi ra gặp anh của mình là Si-môn và dẫn đưa người này đến với Christ. Và chúng ta cũng có lý do để tin rằng Giăng đã đưa dẫn người anh em trai của mình là Gia-cơ đến với Chúa Cứu thế. Cả bốn người này đã trở về với nghề nghiệp chài lưới của họ cho tới khi Chúa Giê-su kêu gọi họ trở nên những tay đánh lưới người (Lu-ca 5:1-11).

Chúa Giê-su đã đi qua nhiều nơi khác nhau trong chức vụ, nhưng nơi mà Ngài a thích nhất là tấm lòng khiêm tốn của những môn đệ vâng phục đang tuyên bố với thế giới: Đây là Chiên con của Đức Chúa Trời.

Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy

Khải. 3:20

 

Bài 46  

Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại.

Giăng 3:7

Từ “sanh lại” xuất phát từ Kinh Thánh và được thế giới vay mượn chế biến thành từ “sửa kiểu lại” hoặc “tân trang”. Những đồ đạc trong nhà đã qua sử dụng có thể làm mới lại theo kiểu chúng được tái sinh. Phong cách này không giống một chút nào với những gì Kinh Thánh dạy về sự tái sinh dành cho một người nhận lãnh đời sống mới và những đặc trưng mới từ Đức Chúa Trời xuyên qua đức tin vào Đấng Christ. Nếu chúng ta thảo luận với  Ni-cô-đem, ông ta sẽ chỉ ra có sự khác biệt giữa đồ nội thất được tu sửa và một tội nhân tái sinh đã được biến đổi thành con cái của Đức Chúa Trời. Ni-cô-đem đã kinh nghiệm việc này.

Ni-cô-đem đã đi từ sự chết đến sự sanh lại. Khi các tội nhân đã chết về phương diện tâm linh đặt đức tin vào Christ, họ được di chuyển từ sự chết đến sự sống. “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình.… đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ.” (Ê-phê-sô 2:1; 5). Ni-cô-đem đã bị sốc khi Chúa Giê-su phán dạy rằng “nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” Ni-cô-đem được sinh ra là một người Do thái. Còn có một sự sinh ra nào khác cao trọng hơn sao? Người Do Thái là tuyển dân của Đức Chúa Trời, là một dân tộc mà Đức Chúa Trời đã giải cứu ra khỏi xích xiềng tại Ai cập và ban cho vùng đất hứa.  Ngài ban cho họ quyển Kinh Thánh, và từ Israel Chúa Cứu thế đã đến trần gian chịu chết vì tội lỗi của toàn thể nhân loại. Vậy tại sao một giáo sư người Do Thái như Ni-cô-đem lại cần sự tái sinh? Bởi vì Đức Chúa Trời từ chối sự sinh ra lần thứ nhất theo xác thịt, và Ngài chỉ chấp nhận sự sinh ra lần thứ hai bởi đức tin vào Christ. Không chỉ Ni-cô-đem cần được sanh lại mà toàn bộ người Do-thái cũng cần được sinh lại không miễn trừ ai. Trong ngữ cảnh của Giăng 3:7, “Các ngươi phải sanh lại.” Các ngươi là một danh từ số nhiều, không chỉ đề cập đến mọi người Do Thái mà còn bao hàm luôn tất cả chúng ta trên trái đất.

Ni-cô-đem đi từ tri thức truyền thống đến hiểu biết lẽ thật. Giống như các nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời của Do Thái Giáo, Ni-cô-đem được học tập các giá trị truyền thống của tuyển dân, nhưng ông thất bại ở điểm “người công bình sống bởi đức tin.” (Ha-ba-cúc 2:4; Rô-ma 1:17; Ga-la-ti 3:11; Hêb. 10:38). Chúng ta không được cứu nhờ vào công đức rieng hay những việc làm tốt đẹp, hay hạnh kiểm hay bất cứ thứ gì khác ngoại trừ đức tin vào Christ. Trong Giăng 7:45-52,  chúng ta tìm thấy Ni-cô-đem bảo vệ Chúa Giê-su trước cuộc họp của tòa công luận. Và rồi các quan chức tôn giáo chất vấn ông: “Ngươi cũng là người Ga-li-lê sao? Ngươi hãy tra xét, sẽ thấy rằng chẳng có tiên tri nào từ xứ Ga-li-lê mà ra hết.” (câu 52). Ni-cô-đem và một người bạn của ông là Giô-sép người A-ri-ma-thê, một thành viên của tòa công luận đã khám phá rằng Chúa Giê-su mà họ nhận biết chính là Đấng Mê-si, là Con Đức Chúa Trời. Họ biết rằng Đấng Christ phải chịu đóng đinh và chết trên thập giá. Và rồi họ chuẩn bị sẵn sàng để mai táng thân xác Chúa trong một ngôi mộ. Giô-sép và Ni-cô đem đã không ăn chiên con trong lễ vượt qua, nhưng họ đã tin cậy Chiên con của Đức Chúa Trời. Hai người này đã làm nên sự khác biệt.

Ni-cô-đem đi từ sự tối tăm đến sự sáng. Bất cứ một trẻ sơ sinh nào được sinh ra cũng phải di chuyển từ sự tối tăm trong bụng mẹ ra đến nơi có ánh sáng của thế giới. Điều này cũng đúng với một con cái của Đức Chúa Trời được tái sinh. Chúa Giê-su là ánh sáng của thế giới (8:12). Ngài đã xác nhận với Ni-cô-đem về điều này (3:19-21). Khi chúng ta đọc về Ni-cô-đem lần đầu tiên, ông ta đang ở trong bóng tối, nhưng lần cuối cùng Kinh Thánh xác nhận ông là chứng nhân về  đức tin của ông vào Christ (19:38-42). Chúa Giê-su phán, “người nào làm theo lẽ thật thì đến cùng sự sáng.” (3:21)

Phước hạnh cho những ai trải nghiệm ba sự thay đổi trên đây!

Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống

Giăng 8:12

 

Bài 47   

Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến.

Giăng 4:22

Những lời Chúa Giê-su phán dạy cho người phụ nữ Sa-ma-ri không làm cho bạn và tôi ngạc nhiên. Tuy nhiên nó gây sốc với người phụ nữ này, vì vào thời điểm ấy một Ra-bi người Do Thái không bao giờ nói chuyện với một phụ nữ ở nơi công cộng. Có thể người phụ nữ này tự hỏi: Người đàn ông này có ý định gì? Nhưng Chúa Giê-su biết rõ người phụ nữ hơn là bà tự nhận biết về mình (Giăng 2:24-25).

Chúa Giê-su biết người phụ nữ đang ở trong một lối sống sai trật. Khi Chúa Giê-su hỏi về người chồng của bà, sự thật của bà được phơi bày. Bà đã trải qua năm đời chồng, còn người đàn ông mà bà đang chung sống không phải là chồng. Bà đói khát sự sống nhưng đang uống từ những cái giếng nước mà uống rồi vẫn còn khát mãi. Lẽ ra người phụ nữ này đã học được bài học của mình sau một hai lần ly dị. Nhưng tội lỗi trói buộc làm bà không thể thoát ra được. Bà cần một sức mạnh khác, một quyền năng khác để giải phóng chính mình (Ca thương 1:14). Những người nghiện (sex hay bất cứ thứ gì khác) tự trấn an, “ta có thể dừng lại khi đã thỏa mãn.” Nhưng họ khám phá rằng họ đã bị vướng chặt trong cái bẫy, không thể gỡ ra được. Người Nhật có câu nói trên cửa miệng, “Đầu tiên người uống, sau đó người say rượu tiếp tục lấy đồ uống, cuối cùng hũ rượu tiếp lấy người.”

Chúa Giê-su biết người phụ nữ được nuôi dưỡng trong một tôn giáo sai trật. Khi tôi đang chờ đợi để lên chuyến bay tại phi trường Kansas City thì một thanh niên cầm một quyển sách đấy màu sắc đến ngồi bên cạnh. Anh ấy nói với tôi, “Tôi muốn giới thiệu cho ông một vị cứu tinh cho cả thế giới.” tôi hỏi, “Vị cứu tinh ấy đến từ đâu?” Anh đáp, “Ông ấy là một người Hàn Quốc.”  Tôi lấy từ trong cặp của mình ra một quyển Kinh Thánh và chỉ cho anh ta thấy chỉ có một Cứu Chúa duy nhất Giê-su Christ được hạ sinh làm một người Do Thái. Người thanh niên liền đứng dậy bỏ đi trước khi tôi có thể nói thêm một lời nào khác. Chúng ta đều biết lẽ thật từ Kinh Thánh về tuyển dân: “Vì ngươi là một dân thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài đã chọn ngươi trong muôn dân trên mặt đất, đặng làm một dân thuộc riêng về Ngài.” (Phục. 7:6). Từ dân tộc Israel Kinh Thánh và Chúa Giê-su đã được giới thiệu ra cho thế giới. Chúa Giê-su không dạy cho chúng ta tin rằng  các tôn giáo đều tốt đẹp. Không có tôn giáo nào là tốt đẹp nếu chúng  ta không có mối liên hệ cá nhân với Chúa Giê-su. Có sự thờ phượng đúng đắn và thờ phượng sai lầm (Giăng 4:22-23). Và sự thờ phượng đúng đắn được Chúa Giê-su phán dạy trong Giăng 14:6, “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.”

Làm thế nào chúng ta có thể giúp đỡ người khác đến với Chúa Giê-su? Hãy dẫn dắt người khác đến với Chúa Giê-su tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa bởi đức tin. Chúa Giê-su đã làm điều này cho người phụ nữ Sa-ma-ri, và chúng ta xem điều gì xảy ra.

Người phụ nữ đã đưa ra một quyết định đúng. Đầu tiên bà gọi Chúa Giê-su là một người Do Thái (4:9), sau đó bà gọi Ngài là một tiên tri (câu 19), và Đấng Mê-si (câu 25, 29). Những người trong thành  phố tin nhận Christ thông qua lời chứng của người phụ nữ gọi Ngài là Cứu Chúa của thế gian (câu 42). Làm thế nào mà nhiều người trong thành phố tiếp nhận lời chứng từ một người phụ nữ vốn không có một quá khứ trong sạch? Chúng ta không biết. Tuy nhiên nhiều người đã nhờ người phụ nữ này mà gặp được Chúa Giê-su.

Người phụ nữ đã nêu ra một gương mẫu tốt. Chúng ta hãy quên đi quá khứ của người này. Vấn đề là bây giờ bà đã trở nên một chứng nhân đầy hiệu quả cho Chúa Giê-su. Những người trong thành phố có thể trước đó đã nghe Giăng Báp-tít rao giảng (Giăng 3:23; 4:25) và sự kiện này có thể đã chuẩn bị tấm lòng của họ đón nhận trực tiếp sứ điệp từ Chúa Giê-su. Về sau Phi-líp cũng đến thành phố đó, và rồ1 Phi-e-rơ và Giăng cũng vậy (Công vụ. 8:4-25). Khi một mục sư chia sẻ Phúc Âm, người ta có thể nhìn ông như một người bán hàng quảng cáo sản phẩm. Nhưng khi các thành viên của hội thánh đi ra làm chứng, người ta nhìn thấy những người khách hàng hài lòng với sản phẩm. Đức Chúa Trời đã biến đổi một phụ nữ từng sống với sáu người đàn ông trở nên một chứng nhân đầy quyền năng cho Ngài.

Có một sự kỳ thị giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri (Giăng 4:9). Nếu như những tín nhân mới nhấn mạnh sự cứu rỗi chỉ thuộc về người Do Thái thì điều gì sẽ xảy ra?  Hãy lưu ý là Chúa Giê-su đến và Ngài bẻ gãy bức tường ngăn cách giữa Israel và các dân tộc ngoại bang, hầu cho tất cả những người tin đều trở nên một thân thể và những viên đá sống trong một đền thờ duy nhất (Ê-phê-sô 2:11-22). Không có nơi nào trong hội thánh Christ là biệt lập, phân cách. Vì tất cả chúng ta đều là một thân trong Christ (Ga-la-ti 3:26-29)

 

Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời.

1 Giăng 4:7

 

Bài 48

Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy.

Giăng 5:17

Chúa Giê-su đã chữa lành cho một người bệnh trong ngày Sa-bát. Đây là nguyên cớ cho những người chống đối Ngài lên tiếng chỉ trích, vì Ngài đã vi phạm luật Do Thái là không được làm việc trong ngày Sa-bát. Thậm chí người Giu-đa còn tìm cách giết Ngài (Giăng 5:18). Chúa Giê-su có thể không gặp rắc rối nếu Ngài chờ đợi đến ngày hôm sau (không phải là ngày Sa-bát) để chữa lành cho người bại đã ba mươi tám năm sống trong khốn khổ. Nhưng Chúa đã hành động. Trong sự chữa lành dành cho con người, Chúa Giê-su chỉ làm những gì Cha Ngài đang làm. “Ngài phán cùng họ rằng: Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy. 18 Bởi cớ đó, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, làm ra mình bằng Đức Chúa Trời.” Khi nghe những lời này từ Chúa Giê-su, người Pha-ri-si tức giận Vì Chúa Giê-su công bố Ngài ngang bằng với Đức Chúa Trời. Ngài và Cha cùng làm việc với nhau.

Đức Chúa Trời đang làm việc trên thế giới. Sau khi hoàn thành sự sáng tạo, Đức Chúa Trời quay trở lại hành tinh, nơi cư trú của dòng dõi A-đam (Thi thiên 8). Ngài vẫn đang kiểm soát mọi điều xảy ra trên đất. Ngài vận hành mọi chuyển động của các vật thể trong vũ trụ rộng lớn và Ngài có quyền can thiệp vào nếu điều đó làm vui lòng Ngài. Trong tác phẩm Các Phép Lạ Của Chúa Giê-su, tác giả George MacDonald đã chỉ ra rằng Chúa Giê-su ở trong tiến trình làm những gì Cha Ngài đang làm trong chức vụ của Ngài. Chúa Con làm tức thì, trong khi Cha làm dần dần từng bước.  Chúa Giê-su đã tức thì nhân bội bánh ăn cho đoàn dân đông năm ngàn người, nhưng Cha thiên thượng cho chúng ta thu hoạch mùa gặt bội thu hết năm này qua năm khác để chúng ta có thể nướng bánh ăn thỏa thích. Từng ngày trôi qua Cha thiên thượng ban sức mới cho những người bệnh và tổn thương để họ trở nên mạnh khỏe. Còn Chúa Giê-su ban sự chữa lành cho những người bệnh ngay lập tức khi họ gặp Ngài. Trong những vườn nho và hầm ép nước nho, Cha đang biến nước nho thành rượu nho, nhưng Chúa Giê-su đã làm điều đó ngay lập tức trong tiệc cưới tại Ca-na. Chúa Cha sử dụng luật tự nhiên để đưa em bé vào thế giới, nhưng Chúa Con ngay lập tức sinh ra đời sống thuộc linh mới cho những người tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Trời làm việc trên tất cả tạo vật của Ngài, bao gồm chúng ta. Chúng ta tin rằng, “mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 8:28). Tuy nhiên nhân loại phớt lờ những gì Đức Chúa Trời đang làm, thậm chí còn đối địch với Ngài hay tìm cách hủy diệt công việc tay Chúa làm. Chúng ta đang sống trong thế giới mà Cha thiên thượng đã dựng nên. Chúng ta phải biết ơn Ngài, làm tốt vai trò quản gia của mình theo ân tứ mà Ngài đã ban cho chúng ta.

Satan là kẻ đối địch với Chúa cũng đang làm việc trên thế giới. Phao-lô viết, “Vì đã có sự mầu nhiệm của điều bội nghịch đương hành động rồi; song Đấng còn ngăn trở cần phải cất đi.” (2 Tê-sa. 2:7). Sự mầu nhiệm ở đây không ám chỉ đến một số điều ma quái hay kỳ quái. Trong Tân Ước sự mầu nhiệm là những bí mật thần thượng được giấu kín mà con người không hiểu được, nhưng được bày tỏ ra cho một số người khi Đức Chúa Trời muốn.  Sự mầu nhiệm của điều vô luật pháp hàm ý đến kế hoạch của Satan đem Christ giả vào trong thế giới. Từ Antichrist không chỉ có nghĩa là đối địch với Đấng Christ, mà còn có nghĩa là kẻ giả mạo (2 Côr.11:13-15), và các tội nhân thì thích hàng hóa giả mạo hơn là lẽ thật, sự phong phú trong Đấng Christ. Satan đang làm việc. Vậy chúng ta phải làm gì?

Dân sự của Đức Chúa Trời phải tích cực làm việc trong thế giới. Chúa Giê-su phán, “Trong khi còn ban ngày, ta phải làm trọn những việc của Đấng đã sai ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được.” (Giăng 9:4). Chúng ta là những môn đồ của Christ, chúng ta phải giống như Ngài, làm công việc của Cha thiên thượng (Lu-ca 2:49). Điều này không chỉ nói đến cách chúng ta sống mà còn đề cập đến chúng ta phải sống như thế nào để tạo ảnh hưởng Phúc âm lên những người khác để họ tiếp nhận Chúa Giê-su. “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” (Giăng 4:34). Làm công việc của Đức Chúa Trời, làm theo ý muốn của Chúa không phải là một sự trừng phạt nhưng là sự chọn lựa của mỗi chúng ta, nhờ đó chúng ta được trưởng thành trong linh trình đức tin và phản chiếu ra vẻ đẹp của Chúa Giê-su, làm cho người khác tin cậy Ngài. “Ta biết công việc của ngươi.” Chúa đã phán bảy lần những lời này cho Hội thánh trong Khải huyền 2-3. “Mỗi người trong chúng ta sẽ khai trình việc mình với Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 14:12) và mỗi chúng ta sẽ lãnh phần thưởng tùy theo các công việc của mình đã làm cho Chúa Giê-su. Chúng ta làm điều đó như thế nào? Động cơ là gì? (1 Côr. 4:1-5). Nếu Đức Thánh Linh đang làm công việc của Ngài trong và xuyên qua chúng ta, chúng ta không có gì phải sợ hãi (Phi-líp 1:6; Công vụ. 1:8). “Đức Chúa Trời đã xức cho Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét bằng Đức Thánh Linh và quyền phép, rồi Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành hết thảy những người bị ma quỉ ức hiếp; vì Đức Chúa Trời ở cùng Ngài.” (Công vụ. 10:38). Chúa Giê-su là gương mẫu để chúng ta noi theo dấu chân Ngài.

 

Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ.

Phi-líp 1:6

 

Bài 49

Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?

 

Giăng 6:9

Khi chúng ta cảm thấy đang ở trong hoàn cảnh khó khăn, hãy nhớ Giăng 6:6, “Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi.” Chúa Giê-su luôn luôn có một kế hoạch và Ngài sẽ chia sẻ kế hoạch ấy nếu chúng ta để cho Ngài hành động. Phi-líp tưởng rằng vấn đề thực phẩm cho đoàn dân đông sẽ được giải quyết nếu có thêm tiền (câu 7), nhưng Chúa Giê-su có một kế hoạch tốt hơn và Anh-rê nêu lên một câu hỏi, “Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?” Có một cậu bé ở đây. Cậu bé là một phần của câu trả lời nhưng không phải là một phần của vấn đề, và chúng ta cũng có thể như vậy nếu chúng ta làm theo gương mẫu của cậu ấy. Hãy kiểm tra những thực phẩm có sẵn ở hiện trường.

Tôi có sẵn sàng hành động một mình không? Trẻ em là những người bắt chước tuyệt vời, nhưng không có bằng chứng cho thấy bất kỳ ai khác trong đám đông mang ra một bữa ăn trưa. Có thể hình dung câu chuyện như thế này. Khi Anh-rê hỏi cậu bé chia sẻ bữa ăn của nó với Chúa Giê-su, nó đồng ý. Không bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của một người hoặc những gì người đó có trong tay. Trong suốt những năm thi hành chức vụ mục sư, tôi thường yêu cầu người khác trợ giúp trong những dự án, và rất thường xuyên tôi nghe một câu hỏi lặp đi lặp lại từ nhiều người: Còn những ai khác đang trợ giúp cho dự án này? Chúng ta có sẵn sàng đứng một mình, ban cho và làm việc mà không quan tâm là có ai làm giống như mình hay không? Nhưng thực ra chúng ta không làm việc đơn độc! Chúng ta đang cùng làm việc với Đức Chúa Trời. Phao-lô viết, “chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời.” (1 Côr. 3:9). Có vinh dự nào lớn hơn điều này không?

Tôi có sẵn sàng dâng hết những gì tôi có cho Chúa Giê-su? Trong những ngày đó, một phần ăn trưa của người nghèo chỉ có bánh và cá. Cậu bé trong câu chuyện đã dâng tất cả phần ăn của mình lên cho Chúa. Đức Chúa Trời đo lường sự dâng hiến của chúng ta không phải là chúng ta dâng số lượng nhiều bao nhiêu, nhưng là chúng ta giữ lại bao nhiêu sau khi đã dâng. Cậu bé đã không giữ lại gì cả vì đã dâng hết cho Chúa. Người góa phụ trong sách Mác 12:42-44 cũng giống như vậy. “Có lắm người giàu bỏ nhiều tiền; cũng có một mụ góa nghèo kia đến bỏ hai đồng tiền ăn một phần tư xu.  Ngài bèn kêu môn đồ mà phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mụ góa nghèo nầy đã bỏ tiền vào rương nhiều hơn hết thảy những người đã bỏ vào.  Vì mọi kẻ khác lấy của dư mình bỏ vào, còn mụ nầy nghèo cực lắm, đã bỏ hết của mình có, là hết của có để nuôi mình.” Nếu chúng ta vâng phục Chúa theo tinh thần của Rô-ma 12:1-2, đặt tất cả những gì mình có lên bàn thờ của Chúa, khi đó Đức Chúa Trời được vinh hiển, và Ngài vui lòng sử dụng của dâng của chúng ta để cung cấp cho nhu cầu của người khác. Chúa Giê-su đã ban tất cả sự sống Ngài cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta dâng tất cả những gì chúng ta có cho Ngài. Ngài không “bóc lột” chúng ta, nhưng Ngài muốn ban phước và làm giàu có chúng ta. “Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” (Lu-ca 6:38).

Tôi có sẵn sàng trở nên một người vô danh? Chúng ta không biết gì thêm về cậu bé này. Nó gia nhập hàng ngũ của của những người vô danh nhưng có một vai trò quan trọng trong chương trình của Đức Chúa Trời. Không ai biết được tên cậu con trai của chị Phao-lô trong Công vụ 23:11-22, là người có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ mạng sống Phao-lô. Ai biết được tên cô tớ gái nhỏ mà đã thông báo cho quan tổng binh Na-a-man về một tiên tri ở Sa-ma-ri? (2 Các vua 5). Còn nữa, tên của người phụ nữ trong Phúc Âm Giăng chương 4 đã giới thiệu Chúa Giê-su cho cả một thành phố? Thỉnh thoảng tôi được yêu cầu hỗ trợ tiền bạc cho các dự án, những người cổ động hứa sẽ ghi tên tôi vào một tấm biển kỷ niệm chương nếu tôi dâng hiến một cách hào phóng. Có phải đây là lý do khiến chúng ta dâng hiến? Hãy nhớ lời Chúa Giê-su dạy, “Song khi ngươi bố thí, đừng cho tay tả biết tay hữu làm việc gì, hầu cho sự bố thí được kín nhiệm; và Cha ngươi, là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi.” (Ma-thi-ơ 6:3-4)

Tôi có sẵn sàng qui mọi vinh hiển về cho Chúa Giê-su? Khi đám đông năm ngàn người ăn xong bữa ăn mà Chúa Giê-su cung cấp từ sự dâng hiến của cậu bé trai. Họ đã không khen ngợi cậu bé đã dâng lên cho Chúa năm ổ bánh và hai con cá, họ muốn tôn Chúa lên làm vua (Giăng 6:15). Động cơ của họ đã sai. Nhưng bây giờ họ đã tập chú vào Chúa. Khi Chúng ta cầu xin Đức Thánh Linh dầy dẫy và sử dụng chúng ta, chúng ta có nhớ rằng chức vụ của Đức Thánh Linh là làm vinh hiển Chúa Giê-su?  Chúa Giê-su phán, “Ấy chính Đức Thánh Linh sẽ làm sáng danh ta.” (Giăng 16:14). Nếu những gì chúng ta bày tỏ ra là nhằm để tôn vinh chính chúng ta, khi đó Đức Thánh Linh không thể ban phước và Chúa Giê-su không được vinh hiển. Không có điều chi mà Cha không thể làm cho những ai muốn dâng vinh hiển về cho Chúa Giê-su và từ chối chính mình.

 

 Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em.

Rô-ma 12:1

 

Bài 50

Đức Chúa Jêsus phán cùng anh em rằng: Thì giờ ta chưa đến; còn về các ngươi, thì giờ được tiện luôn luôn.

Giăng 7:6

 

Hầu hết mọi người đều bận rộn và muốn làm được nhiều việc hơn trong một khoảng thời gian ít hơn. Vấn đề không phải là chúng ta có bao nhiêu thời gian, nhưng chúng ta cần quản lý và sử dụng dụng thời gian thế nào cho tốt nhất. Cuộc nói chuyện ngắn về thời gian của Chúa Giê-su với các anh em không tin của Ngài (Giăng 7:1-9) giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chủ đề này và làm thế nào để Cơ đốc nhân có thể sử dụng thời gian một cách hiệu quả nhất.

Sự kiêu ngạo của thế giới. Luật pháp Môi-se đòi hỏi rằng mỗi một người đàn ông Do Thái phải tham dự ba kỳ lễ hàng năm tại Giê-ru-sa-lem. “Mọi người nam trong các ngươi, mỗi năm ba lần, phải ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tại nơi mà Ngài sẽ chọn: tức là nhằm lễ bánh không men, lễ bảy tuần và lễ lều tạm; người ta chẳng nên đi tay không ra mắt Đức Giê-hô-va.” (Phục. 16:16). Lời khuyên từ những anh em không tin của Chúa Giê-su cho thấy viễn cảnh của thế giới chưa được cứu. Họ nói với Chúa, “Hãy đi khỏi đây, và qua xứ Giu-đê, để cho các môn đồ cũng được xem công việc thầy làm.  Khi nào người ta muốn tỏ mình ra, thì không ai làm kín giấu việc gì. Vì thầy làm những sự đó, hãy tỏ mình cho thiên hạ.” (Giăng 7:3-4). Chúa Giê-su là một tôi tớ khiêm nhường của Đức Chúa Trời nhưng họ muốn Ngài trở thành một người nổi tiếng được đám đông tung hô. Chúa Giê-su từ chối lời khuyên của họ bởi vì đó không phải là điều Ngài muốn, Ngài chỉ muốn làm vinh hiển Đức Chúa Trời (Giăng 7:18). Satan cám dỗ Chúa Giê-su trong Ma-thi-ơ 4:8-10, “Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy;  mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy.  Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.” Satan đã thất bại bỏ đi. Điều đáng buồn là nhiều người hầu việc Chúa đã nghe theo sự cám dỗ đến từ ma quỉ, tìm kiếm sự vinh hiển cho riêng mình và rồi chuốc lấy thất bại. Những người chưa được cứu có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, vì họ không nhận biết chương trình của Chúa. Họ không quan tâm đến ý muốn của Chúa. Còn Chúa Giê-su thì khác, trên mỗi bước đi của Ngài, Chúa chúng ta đến gần thập tự giá hơn (Lu-ca 9:51).

Sự vâng phục của Cứu Chúa. Phúc âm Giăng nhấn mạnh đến sự thật là Chúa Giê-su đã sống theo một thời gian biểu thiêng liêng. Chương đầu tiên ghi lại các mục vụ hàng ngày khi Ngài bắt đầu chức vụ. Và trong các chương tiếp theo, chúng ta thấy Ngài thường đề cập đến “giờ” của Ngài. Ngài bảo Ma-ri, “Giờ ta chưa đến.” (2:4). Ngài cũng nói với các anh em Ngài, “Giờ ta chưa đến.” (8:20; 12:23, 27; 13:1; 17:1). Chúa Giê-su biết rằng những người lãnh đạo tôn giáo muốn giết Ngài (7:1, 11) và rồi những gì xảy ra sau đó chúng ta đều biết khi đọc Kinh Thánh. Ngài được Cha thiên thượng bảo vệ cho đến một thời điểm Ngài phải chịu thương khó. Mỗi sáng sớm, Chúa Giê-su thức dậy đi ra nơi thanh vắng để cầu nguyện với Cha (Mác 1:35; Ê-sai 50:4). Hình ảnh này của Ngài là tấm gương cho chúng ta noi theo. Nếu cầu nguyện, “Xin Ý Cha được nên.” chúng ta sẽ biết rõ hơn ý Cha là gì và sẵn sàng tuân theo.

Niềm tin của tín nhân. Chúa Giê-su có thể đã suy ngẫm Thi thiên 31:15 trước đó khi Ngài phán bảo với các anh em: “Thì giờ ta ở trong tay Cha.” Là con cái Đức Chúa Trời chúng ta phải thực hành đức tin, kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi nhận được điều Chúa hứa (Hê-bơ-rơ 6:12). Chúng ta cho rằng Đức Chúa Trời chậm trễ thực hiện lời hứa, nhưng Chúa có thời điểm của Ngài. Đức Chúa Trời không bao giờ phủ nhận những gì Ngài hứa. Ngài chuẩn bị cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất theo đúng thời điểm của Ngài. Giô-sép phải ở trong nhà tù cho đến thời điểm thích hợp mới được cất nhắc lên cao. Đa-vít dù được xức dầu làm vua Israel, nhưng phải chờ đợi hơn mười bảy năm sau mới chính thức đăng quang.

Những người chưa được cứu không có lịch trình thiêng liêng để thực hiện và, như Chúa Giê-su đã nói, thời gian của họ “được tiện luôn luôn,” nhưng các tín nhân có trách nhiệm hiểu biết và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời theo thời điểm của Ngài. Thậm chí sự chết của các thánh đồ không phải là một tai nạn ngẫu nhiên, nhưng đó là một phần trong chương trình của Chúa. “Sự chết của các người thánh là quí báu trước mặt Đức Giê-hô-va.” (Thi. 116:15). Tôi nghe một tín hữu nói rằng, “chúng ta phải cầu nguyện để gặp những điều may mắn.” nhưng chúng ta không sống nhờ vào những điều tình cờ hay may mắn. Chúng ta sống theo chương trình thần hựu của Chúa. Ngài là Giê-hô-va di-rê. “Đức Giê-hô-va sẽ sắm sẵn.” (Sáng. 22:14) và Ngài làm điều đó cho mọi nhu cầu của chúng ta.

Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa.

Thi thiên 31:15

 

Bài 51

Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do.

Giăng 8:36

“Đối với một số người, sự tự do có nghĩa là làm những gì họ muốn. Và hầu hết mọi người cho rằng tự do là không làm những gì họ không muốn làm.” George Orwell, một văn sĩ người Anh giải thích về tự do như thế. Nhưng trong ánh sáng của Kinh Thánh, tự do thực sự là đời sống được lẽ thật kiểm soát và động lực để sống là tình yêu, để dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời. Người chết không có tự do, hay những người dối trá, gian ác, ích kỷ cũng vậy. Sự tự do vật lý  là vô dụng nếu chúng ta không có sự tự do thuộc linh. Bởi vì chỉ có sự tự do thuộc linh mới khiến chúng ta có sự sống thần thượng, lẽ thật và tình yêu.

Sự sống đến từ việc thụ thai và sinh nở. Những người mà Chúa Giê-su đề cập trong Giăng chương tám đã khoe rằng họ được tự do và dân tộc của họ luôn được tự do. Dĩ nhiên đó là một lời nói dối hoàn toàn. Sách Các quan xét cho chúng ta biết rằng Israel bị bảy quốc gia khác cai trị. Sau đó đế quốc  A-ri-si cai trị  miền Bắc, Ba-by-lôn cai trị phía Nam. Và trong thời của Chúa Giê-su, tuyển dân bị đế quốc Rô-ma cai trị. Sự nô lệ tồi tệ nhất không phải là về chính trị hay kinh tế, nhưng là về đạo đức và tôn giáo. Tuyển dân đang trải qua kinh nghiệm này, họ chưa nếm biết sự tái sinh và đặt niềm tin vào Chúa Giê-su Christ. “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi.” (Giăng 8:34) Chỉ có duy nhất Chúa Giê-su có thể cứu chúng ta ra khỏi tình trạng làm tôi mọi cho tội lỗi và ban cho chúng ta sự tự do, sự sống vĩnh cửu. Những người chết không có sự tự do, và bất cứ ai không tiếp nhận Chúa Giê-su đều “chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Ê-phê-sô 2:1). Sự tự do bắt đầu với sự sống, và sự sống thuộc linh đến với chúng ta qua đức tin nơi Chúa Giê-su Christ.

Sự thụ thai thuộc linh và sinh nở xảy ra khi chúng ta tin vào lẽ thật của Đức Chúa Trời. Chúng ta được tái sinh nhờ Đức Thánh Linh (Giăng 3:1-8).  Sứ đồ Phi-e-rơ viết, “anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời.” (1 Phi-e-rơ 1:23). Chúng ta khó có thể  giải thích đầy đủ về sự tái sinh, vì đó là một phép lạ. Nhưng chúng ta kinh nghiệm và vui hưởng điều này. Bởi đức tin chúng ta được sinh ra vào trong gia đình của Đức Chúa Trời và thừa hưởng “cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời.” Chúng ta trở nên một tạo vật mới trong Christ (2 Cô-rin-tô 5:17). Không có con đường nào khác để nhận lãnh sự sống của Đức Chúa Trời ngoại trừ tin vào lẽ thật của Ngài và được sinh lại. Con của Đức Chúa Trời là lẽ thật (Giăng 14:6). Lời của Đức Chúa Trời là lẽ thật (Giăng 17:7) và Thánh Linh của Đức Chúa Trời là lẽ thật (1 Giăng 5:6). Những chủ thể này làm việc cùng nhau và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Những người mà Chúa Giê-su đang nói chuyện với trong Giăng chương tám đối lập với lẽ thật của Đức Chúa Trời và không tiếp nhận lẽ thật (câu 40-43). Chúa chúng ta dạy, “các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.” (câu 32)

Sự sinh nở mới thay thế sự ích kỷ bằng tình yêu. Chúa Giê-su tuyên bố với những người chống đối, “Ví bằng Đức Chúa Trời là Cha các ngươi thì các ngươi sẽ yêu ta, vì ta bởi Đức Chúa Trời mà ra và từ Ngài mà đến.” (câu 42). Một tấm lòng được đổ đầy tình yêu của Đức Chúa Trời là một trong những minh chứng cho sự tái sinh (Rô-ma 5:1-5; 1 Giăng 3:13-17) vì bông trái của Thánh Linh là tình yêu (Ga-la-ti 5:22). Sự tự do là khi đời sống được kiểm soát bởi lẽ thật và tình yêu. Lẽ thật và tình yêu luôn gắn liền với nhau. Chúng ta phải rao giảng lẽ thật bằng tình yêu (Ê-phê-sô 4:15) và chúng ta nhớ rằng tình yêu thương không “vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật.” (1 Cô-rinh-tô 13:6). Nếu động cơ sống và làm việc là tình yêu, khi đó chúng ta chỉ muốn sống vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời. Tình yêu của Cơ đốc nhân “chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo.” (câu 4)

Sứ đồ Phi-e-rơ cảnh báo chúng ta về sự tự do giả mạo từ những người giảng dạy sai lạc, “chúng nó hứa sự tự do cho người, mà chính mình thì làm tôi mọi sự hư nát.” (2 Phi-e-rơ 2:18-22). Có những người được gắn nhãn hiệu Cơ đốc nhân nhưng không bao giờ nhận được bản chất mới thiêng liêng để trở thành chiên mà thay vào đó vẫn là heo. Con heo có thể được tắm rửa sạch và trông tốt hơn, nhưng bản chất của nó vẫn là thích lăn lóc trong vũng bùn. Có những người biết con đường của sự cứu rỗi, nhưng không chịu bước đi trên đó. Chúng ta phải cảnh giác với sự tự do giả mạo.

 

Nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.

Giăng 3:3

 

Bài 52.

Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình

Giăng 10:11

Hình ảnh một bầy chiên là một trong những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc nhất trong Kinh Thánh chỉ về dân sự của Đức Chúa Trời. Trước giả sách Thi thiên đã cầu nguyện, “Hỡi Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, hỡi Đấng dẫn dắt Gia-cốp như bầy chiên. Hãy lắng tai nghe.” (Thi. 80:1)

Trong giao ước mới chúng ta biết Chúa Giê-su là Đấng chăn chiên nhân lành và hội thánh địa phương là bầy chiên của Ngài (Công. 20:28-29). Người lãnh đạo hội thánh địa phương được gọi là “mục sư” (Ê-phê-sô 4:11). Từ “mục sư” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh có nghĩa là người nuôi dưỡng chiên hay người chăn chiên. Trong quốc gia Israel những người lãnh đạo dân sự cũng được gọi là người chăn vì họ chăm sóc cho dân sự của Đức Chúa Trời. Điều đáng buồn là không phải tất cả trong số họ là những người chăn tốt trung tín với Đức Chúa Trời trong việc chăn dắt chiên của Ngài. Vì thế các tiên tri đã cảnh báo những người chăn giả mạo này (Ê-xê-chi-ên 34; Giê-rê-mi 23:1-4; Ê-sai 56:9-12). Họ bóc lột, ăn thịt chiên thay vì chăn dắt chiên. Những kẻ chăn giả mạo này chú ý đến quyền lực và tiền bạc hơn là thi hành mục vụ với lòng thương xót.

Chúa Giê-su là “người chăn hiền lành” của chúng ta. Từ này trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là: “sự lựa chọn, điều tốt nhất, không chỗ trách được, đáng khen, và xinh đẹp.” Cảm tạ Chúa, vì những từ ngữ này chỉ về người chăn hiền lành và những điều tốt đẹp nhất Ngài làm cho chúng ta.

Ngài chết vì chúng ta. “Người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình.” (Giăng 10:11). “Ta vì chiên ta phó sự sống mình.” (câu 15) “Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình, để được lấy lại.” (câu 17). Trong Cựu ước chiên chết làm sinh tế trên bàn thờ được dành cho người chăn. Nhưng dưới giao ước mới Đấng chăn chiên chết trên thập tự giá là vì bầy chiên. Ngài biết mỗi con chiên và gọi tên từng con chiên (câu 3). Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống dư dật (câu 10, 28). Chúng ta có thể đòi hỏi điều gì hơn, khi Ngài đã vì chúng ta phó sự sống?

Ngài sống cho chúng ta. “Đức Chúa Trời bình an, là Đấng bởi huyết giao ước đời đời mà đem Đấng chăn chiên lớn là Đức Chúa Jêsus chúng ta ra khỏi từ trong kẻ chết, nguyền xin Ngài bởi Đức Chúa Jêsus Christ khiến anh em nên trọn vẹn trong mọi sự lành, đặng làm thành ý muốn Ngài, và làm ra sự đẹp ý Ngài trong chúng ta; sự vinh hiển đáng về Ngài đời đời vô cùng! A-men.” (Hê-bơ-rơ 13:20-21). Hiện nay Chúa Giê-su là thầy tế lễ thượng phẩm đang cầu thay cho chúng ta trên thiên đàng,  “vì chúng ta có thầy tế lễ thượng phẩm lớn đã trải qua các từng trời, tức là Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, thì hãy bền giữ đạo chúng ta đã nhận tin.  Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội.  Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.” (4:14-16). Ngài đi trước chúng ta, không chỉ làm người dẫn đường nhưng Ngài còn sửa soạn con đường cho chúng ta. Cơ đốc nhân không còn gì phải sợ hãi khi tiếp nhận lẽ thật này. Ngài sống và Ngài phục vụ, giúp đỡ chúng ta.

Ngài phán dạy và dẫn dắt chúng ta. Từ “tiếng” được dùng năm lần trong Giăng 10 (câu 3-5, 16, 27) hàm ý tiếng phán của Đức Thánh Linh nhắc chúng ta qua Kinh Thánh. Một dấu hiệu chắc chắn của những tín nhân chân chính là khao khát  Lời Chúa và ước muốn của họ là hiểu biết và vâng phục Lời. Một thánh đồ chân thật sẽ dễ dàng nhận ra dấu hiệu, tiếng nói của những kẻ chăn thuê giả mạo và khước từ chúng. Chúa Giê-su dẫn dắt bầy chiên đến đồng cỏ xanh tươi trong Lời Ngài và nuôi dưỡng chúng ta trong lẽ thật. “Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta.” (câu 27). Những ai không thuộc về bầy của Ngài, trong ngày chung cuộc Ngài sẽ phán với những người đó, “Ta không biết các ngươi.” (Ma-thi-ơ 7:21-23)

Ngài sẽ đến vì chúng ta. Sứ đồ Phi-e-rơ viết cho các mục sư và bầy của họ, “Khi Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển, chẳng hề tàn héo.” (1 Phi-e-rơ 5:4). Công tác của người chăn thì không dễ dàng, vì vậy họ nhận được phần thưởng khi Chúa đến là điều có thể hiểu được. Còn các tín hữu là những người được chăn dắt phải vâng theo người “dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình, hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng ích lợi gì cho anh em.”  (Hê-bơ-rơ 13:17)

Người chăn giả mạo chưởi rủa người mù được chữa lành và trục xuất anh ta ra khỏi nhà hội, nhưng người chăn thật đưa anh ta về với bầy (Giăng 9:28-29, 34-41). Trong câu chuyện này, những người lãnh đạo Do thái giáo nhìn thấy phép lạ về người mù được chữa lành, nhung họ bị mù thuộc linh nên không nhìn biết Con của Đức Chúa Trời. Chúng ta có bị mù hay không?

Các ngươi là chiên của ta, là chiên của đồng cỏ ta; các ngươi là loài người và ta là Đức Chúa Trời các ngươi, Chúa Giê-hô-va phán vậy.

Ê-xê-chi-ên 34:31

 

Bài 53

Ma-thê thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có đây, thì anh tôi không chết;

Giăng 11:21

Thất vọng, đau ốm, khổ nạn, sự chết là những điều không miễn trừ ai. Và khi chúng đến, chúng ta không cần phải ngạc nhiên. Cơ đốc nhân phải đối diện với những điều này và giải quyết chúng trong đức tin. Trong Giăng 11 có ba từ có thể giúp đỡ đức tin của chúng ta.

“Nếu” là từ gây tổn thương. Chúa Giê-su và các môn đồ đang ở tại làng Bethabara (Giăng 10:40; 1:28), nơi đây các Bê-tha-ni hai mươi dặm. Và ít nhất người đưa tin của các chị em phải đi bộ một ngày để đến nơi Chúa đang ở. Nhưng La-xa-rơ đã chết trước khi người đưa tin đến nơi, và Chúa Giê-su biết điều đó. Tuy nhiên Chúa chúng ta trì hoãn không muốn đến chỗ La-xa-rơ ngay. Giăng viết rằng, “Chúa Giê-su yêu Ma-thê, Ma-ri và La-xa-rơ.” (câu 5). Vấn đề là nếu Ngài yêu gia đình này, tại sao Ngài không vội vàng đến Bê-tha-ni và chữa lành cho La-xa-rơ, hoặc là Ngài công bố  sự chữa lành từ xa? Đức Chúa Trời trì hoãn không có nghĩa là Đức Chúa Trời từ chối. Và Chúa Giê-su đã thực hiện một kế hoạch tốt hơn kế hoạch của hai chị em Ma-thê. Câu chuyện của La-xa-rơ sẽ dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời (câu 40). Chúa Giê-su chờ đợi hai ngày, rồi Ngài mới lên đường đến Bê-tha-ni. Cả hai chị em Ma-thê và Ma-ri đều dùng từ “nếu” khi họ gặp Chúa Giê-su. Cả bạn và tôi cũng vẫn thường dùng từ này sau khi câu chuyện đã xảy ra. “Nếu chúng ta có một đường lối khác.” “Nếu tôi nhớ cuộc hẹn.” “Nếu cô ta đừng có rời nhà.” Từ “nếu” gây tổn thương vì nó nói lên sự không tin. Và khi đã không tin thì càng làm cho vấn đề trở nên tệ hơn. Khi chúng ta nói nếu với Đức Chúa Trời, điều này hàm ý chúng ta cho rằng Ngài không biết những gì Ngài phải làm và chúng ta có một kế hoạch tốt hơn. Chúng ta đang nhìn lại phía sau thay vì nhìn lên phía trước. Chúng ta phải nói, Thưa Chúa và quên đi từ nếu. Chúa Giê-su đang ở đây với chúng ta (Ma-thi-ơ 28:20).

“Thưa Chúa” là một từ mang đến sự chữa lành. Từ này được dùng tám lần trong Giăng 11. Các chị em Ma-thê, Ma-ri dùng từ này sáu lần. Khi gọi Giê-su là Chúa, chúng ta xác nhận Ngài là Con Đức Chúa Trời, là Chủ của mọi điều trong đời sống chúng ta. Nhưng khi gọi Ngài là Chúa và đặt câu hỏi về ý muốn của Ngài thì không phải là dấu hiệu của một đức tin mạnh mẽ. Chúa Giê-su đã gởi thông điệp cho hai chị em, “Bịnh nầy không đến chết đâu, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu cho Con Đức Chúa Trời bởi đó được sáng danh.” (Giăng 14:1). Bất cứ khi nào chúng ta thất vọng với ý chỉ của Đức Chúa Trời, thì đó là thời điểm chúng ta cần xác nhận đức tin của chúng ta trong sự khôn ngoan và tình yêu của Ngài. Bất luận điều chi xảy xảy ra làm chúng ta bị tổn thương, thì Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Bạn có thể thay thế tên của bạn trong câu 3, 5 và 36 để biết rằng Chúa yêu bạn.  Đừng quên rằng ý muốn của Đức Chúa Trời xuất phát từ tấm lòng yêu thương của Ngài (Thi. 33:11). Mặc dù Chúa có thể làm tổn thương chúng ta, Ngài không bao giờ làm hại chúng ta. Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết (Giăng 11:25-26), Ngài làm mọi điều hợp lý, tốt đẹp cho chúng ta và vì sự vinh hiển của Ngài. Thật dễ dàng khi nói từ “Thưa Chúa” trên môi, tuy nhiên nếu không có sự tôn kính Chúa trong lòng, chúng ta sẽ làm đau buồn Chúa. Một từ khác cần phải có trước từ Thưa Chúa: Vâng.

“Vâng” là một từ tạo sự phấn khởi. Ma-thê đã nói, “Vâng, thưa Chúa tôi tin.” (câu 27). Khi chúng ta nói vâng với Chúa, và không biện luận giống như Phi-e-rơ trong Công vụ 10:24, “Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ.” Lúc đó chúng ta để cho Chúa hành động và bày tỏ ra đức tin của mình. Từ Vâng là ngôn ngữ của đức tin có tác dụng biến đổi sự đau khổ thành phép lạ. Tại hầm mộ của La-xa-rơ, Ma-thê đã kháng cự và có ý muốn can ngăn lời truyền dạy của Chúa. Chúng ta đọc: “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy lăn hòn đá đi. Ma-thê, là em gái kẻ chết, thưa rằng: Lạy Chúa, đã có mùi, vì người nằm đó bốn ngày rồi.  Đức Chúa Jêsus lại phán: Ta há chẳng từng nói với ngươi rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao?” (câu 39-40). Lúc này Ma-thê mới yên tâm và bằng lòng làm theo lời truyền dạy của Chúa. “Đức Chúa Jêsus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: Thưa Cha, tôi tạ ơn Cha, vì đã nhậm lời tôi.  Tôi biết rõ rằng Cha nhậm lời tôi luôn, nhưng tôi nói vậy là vì cớ đoàn dân nầy đứng chung quanh tôi, hầu cho họ tin rằng ấy chính Cha là Đấng đã sai tôi đến.  Khi Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: Hỡi La-xa-rơ, hãy ra!  Người chết đi ra, chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jêsus phán cùng chúng rằng: Hãy mở cho người, và để người đi.” (câu 41-44) Đức Chúa Trời được vinh hiển không chỉ trong sự sống lại của La-xa-rơ mà còn trong đức tin biết lắng nghe và vâng lời của tín nhân.

Trong những ngày sắp tới khi đối diện với hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hãy nói vâng với Đức Chúa Trời, và trông đợi Ngài được vinh hiển. Ngài sẽ lo liệu điều tốt nhất cho chúng ta.

Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là phải trong Ngài cả, ấy cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói “A-men,” làm sáng danh Đức Chúa Trời.

2 Cô-rinh-tô 1:20

 

Bài 54

Hỡi con gái thành Si-ôn, chớ sợ chi, nầy, Vua ngươi đến, cưỡi trên lừa con của lừa cái.

Giăng 12:15

Khi tuyển dân Israel muốn có một vua cai trị họ như các dân tộc khác, họ đã yêu cầu tiên tri Sa-mu-ên: “Xin hãy lập trên chúng tôi một vua đặng đoán xét chúng tôi.” (1 Sa-mu-ên 8). Sa-mu-ên cầu khẩn Đức Giê-hô-va về chuyện này, và Ngài ban cho họ Sau-lơ, con trai của Kích trở thành vị vua đầu tiên của tuyển dân. Tuy nhiên Sau-lơ đã thất bại trong chức vụ và làm hại dân tộc của mình. Trong câu chuyện này tuyển dân không phải từ chối Sa-mu-ên, nhưng là từ chối Đức Chúa Trời (câu 7). Họ muốn giống như các dân tộc khác theo thể chế quân chủ (vua cai trị), nhưng Đức Chúa Trời muốn họ phải giữ nguyên thể chế thần quyền. Có một khuynh hướng là các hội thánh ngày nay muốn trở nên giống thế giới hơn, hy vọng rằng sự thỏa hiệp này giúp hội thánh đến được với người hư mất? Trong Phúc âm Giăng 12, khi Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem, đám đông “reo lên rằng: Hô-sa-na! Chúc phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Vua của Y-sơ-ra-ên!” Và chỉ một vài ngày sau đó, một đám đông khác la ó, “Hãy trừ hắn đi, trừ hắn đi! Đóng đinh hắn trên cây thập tự đi! Phi lát nói với chúng rằng: Ta sẽ đóng đinh Vua các ngươi lên thập tự giá hay sao? Các thầy tế lễ cả thưa rằng: Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi.” (Giăng 19:15). Đám đông hay đa số thường bị sai lạc trong cảm xúc và hành động. Hãy thận trọng, ghi nhớ những lời này: “Ngươi chớ hùa đảng đông đặng làm quấy; khi ngươi làm chứng trong việc kiện cáo, chớ nên trở theo bên phe đông mà phạm sự công bình.” (Xuất Ê-díp-tô ký 23:2)

Sau khi Chúa Giê-su giáng sinh, các bác sĩ từ bên phương đông xa xôi đã tìm tới Bết-lê-hem dâng lên cho Vua hài nhi Giê-su các lễ vật quí báu (Ma-thi-ơ 2:1-12). Họ là dân ngoại bang nhưng họ thờ phượng vua của Israel, vì họ nhận biết Ngài là Cứu Chúa của cả thế gian. Đức Chúa Trời đã sử dụng một ngôi sao dẫn đường họ đến nơi Ấu Chúa. Điều này không tái diễn trong thời nay, nhưng Chúa sử dụng những phương tiện khác của ân điển để đem con người đến với Ngài. Đó có thể là một bài giảng, một truyền đạo đơn, một bài thánh ca, một vở kịch Cơ đốc, lời chứng của các tín hữu… Bất cứ khi nào chúng ta lo sợ phải làm chứng về Chúa Giê-su, hãy nhớ rằng Ngài là Vua trên muôn vua, và chúng ta không cần phải hổ thẹn khi xưng danh Ngài ra.

Trong suốt chức vụ, Chúa Giê-su luôn bày tỏ ra ngài là Vua. Ngài cai trị, kiểm soát các cơn bão tố trên biển. Ngài truyền lệnh thì chúng yên lặng, vâng theo lời Ngài. Chúng ta có thể đọc lại câu chuyện trong Ma-thi-ơ 14:22-33 để thấy quyền năng của Chúa Giê-su kiểm soát trên những định luật tự nhiên. Điều này dẫn đến các môn đồ nhận biết rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời. Ma quỉ cũng nhận biết Ngài và buộc phải tuân theo lệnh truyền của Ngài. Sự cai trị ban đầu mà Đức Chúa Trời ban cho A-đam và Ê-va đã bị đánh mất vì sự bất tuân của họ. Nhưng khi Chúa Giê-su đến trần gian Ngài đã kiểm soát và truyền lệnh trên thời tiết, súc vật, cây cối, cá, chim… Tất cả các tạo vật trong tự nhiên vâng phục Ngài, trong khi con người được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời lại từ chối Ngài! Ngài là Vua ngay cả khi bị đóng đinh trên cây thập tự. Theo phong tục hiện hành, phải có một bản thông báo treo lên cùng với nạn nhân bị đóng đinh, công bố cho mọi người biết. Phi-lát đã cho viết và treo lên thập tự giá: “Giê-su người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa.” (Giăng 19:19). Trong suốt sáu giờ trên thập giá, Chúa Giê-su vẫn là Vua và mọi điều xảy ra ứng nghiệm các lời tiên tri và kế hoạch của Đức Chúa Trời.

Ngày hôm nay Chúa Giê-su đang ngồi bên hữu ngai của Đức Chúa Trời, Ngài cai trị từ thiên đàng. Uy quyền của Ngài cao hơn mọi quyền lực khác trong thế giới, cao hơn Satan và những đạo binh của nó. Ngài đang làm Đầu hội thánh (Ê-phê-sô 1:20-23). Ngài là Vua vinh hiển (Thi. 24:7-10) và trong một ngày tương lai chúng ta sẽ tận mắt thấy sự vinh hiển của Ngài (Giăng 17:24). Khi Chúa Giê-su cưỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem Ngài hoàn thành lời tiên tri trong Xa-cha-ri 9:9. Và Ngài chắc chắn sẽ thực hiện lời hứa của Ngài dành cho hội thánh: “Ta sẽ trở lại.” (Giăng 14:1-6). Lúc đó Ngài sẽ cai trị cách hiển nhiên. Ngài là Vua trên mọi vua (Khải. 19:16) và là Vua của hoàn vũ (Xa-cha-ri 14:9). Chúng ta sẽ được đồng trị với Ngài và phục vụ Ngài. Trong tư cách là những đầy tớ, chúng ta chuẩn bị tính sổ với Chúa về những ta-lâng mà Ngài đã giao phó cho mỗi chúng ta (Ma-thi-ơ 24:14-30).

Cầu nguyện nhiều. Trung tín trong chức vụ. Giữ mình tinh sạch. Chờ đợi Chúa đến.

Nầy, Vua ngươi đến cùng ngươi,

Xa-cha-ri 9:9

 

Bài 55

Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết.

Giăng 13:7

Trước khi Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đồ, giữa vòng họ đã thảo luận với nhau ai là người lớn hơn hết (Lu-ca 22:27-30).  Than ôi, cuộc tranh luận đó là không cần thiết cho ngày hôm nay vì chúng ta biết rằng chỉ duy nhất Chúa Giê-su “Ngài đứng đầu hàng trong mọi vật.” (Cô-lô-se 1:18). Hành động rửa chân của Chúa Giê-su cho các môn đồ trong bữa tối hôm đó đã dạy hết thảy chúng ta một bài học: Nếu chúng ta không cho phép Chúa Giê-su phục vụ mình, chúng ta sẽ không thể phục vụ người khác. Có  nhiều Cơ đốc nhân  tin tưởng vào sự thành công của chức vụ vì họ có kiến thức, giáo dục, sự huấn luyện, kinh nghiệm và tình yêu cho những người trong phạm vi họ chăm sóc. Những điều này là cần thiết – nhưng cũng có những vấn đề khác cần xem xét nếu chúng ta muốn phục vụ Chúa Giê-su một cách hiệu quả.

Chúng ta không biết hết mọi điều. “Vì chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn.” (1 Cô-rinh-tô 13:9), và nếu chúng ta không thể có hết mọi tri thức chúng ta không thể tự mình hoàn thành các mục vụ hay công việc. Mười hai sứ đồ đã được được học tập nhiều từ chức vụ của Chúa Giê-su. Chúng ta cũng vậy. Và chúng ta cũng cần học tập nhiều hơn về chính mình. Phi-e-rơ tự tin rằng ông có thể chết vì Chúa Giê-su, nhưng chẳng bao lâu sau đó ông đã không dám thừa nhận mình là môn đồ của Chúa (Giăng 13:36-38). Vị sứ đồ này cũng đứng ra can ngăn Chúa đi con đường thập tự (Ma-thi-ơ 16:21-23) và ông dùng gươm để bảo vệ thầy của mình trong một tình huống không cần thiết. Thậm chí ông còn không muốn Chúa rửa chân cho mình. Nếu như chức vụ của chúng ta chỉ dựa trên những hiểu biết và kinh nghiệm có giới hạn, khi đó chúng ta chưa sẵn sàng để phục vụ. Chúng ta cần phải để cho Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta phải làm điều gì và làm thế nào để thực hiện điều đó.

Chúng ta phải vâng phục trong những gì chúng ta biết. Các môn đồ đầu tiên mà Chúa Giê-su đã rửa chân đã cho phép Chúa làm điều đó và không nói gì. Nhưng Phi-e-rơ  đã bày tỏ thái độ phản đối (Giăng 13:5-9). Rửa chân cho người khác là công việc của đầy tớ ở hạng thấp kém nhất, nhưng Chúa Giê-su đã làm điều đó trong cương vị là Thầy của các môn đồ và là Con của Đức Chúa Trời. “Khi Ngài đến cùng Si-môn Phi-e-rơ, thì người thưa rằng: Chúa ôi, chính Chúa lại rửa chân cho tôi sao? 7 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết. 8 Phi-e-rơ thưa rằng: Chúa sẽ chẳng rửa chân tôi bao giờ! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết. 9 Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng những rửa chân mà thôi, lại cũng rửa tay và đầu nữa! 10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chân, thì được sạch cả. Vả, các ngươi đã được tinh sạch, nhưng chưa được tinh sạch đều.” (Giăng 13:6-10). Phi-e-rơ lúc đầu có ý cự tuyệt hành động rửa chân của Thầy dành cho mình, nhưng sau đó ông đã vâng lời.Chúa Giê-su muốn dạy cho các môn đồ hiểu rằng sự vâng lời sẽ dẫn đến những hiểu biết sâu nhiệm hơn (7:17).

Chúng ta phải đi theo gương mẫu của Chúa Giê-su, vâng phục Đức Chúa Trời với tấm lòng khiêm nhường và yêu thương. “Sự tri thúc sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt. (1 Cô-rinh-tô 8:1). Khi đọc hai thư tín của Phi-e-rơ, chúng ta sẽ phát hiện ra ông thường xuyên viết về tình yêu và tri thức. Nếu động cơ của đời sống chúng ta là làm vinh hiển Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ chúng ta những tri thức thuộc linh sâu nhiệm, và tràn đầy tình yêu của Đức Chúa Trời. Những điều này này đến từ một đời sống bước đi lệ thuộc vào Chúa mỗi ngày. Nếu thiếu đi lẽ thật và tình yêu, chúng ta sẽ hỏi: Làm thế nào tôi có thể thoát khỏi những điều này (là những điều ngăn cản sự trưởng thành thuộc linh), thay vì hỏi: Những điều nào tôi có thể buông bỏ vì vinh quang của Chúa? Với mỗi cách ứng xử trong yêu thương và vâng phục, chúng ta sẽ trưởng thành trong sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Người chưa trưởng thành có thể hỏi: Chúa ôi, Ngài sẽ rửa chân cho tôi sao? Trong khi người trưởng thành sẽ vâng phục để Chúa rửa chân. Ý Chúa được nên và danh Ngài được vinh hiển.

Chúa Giê-su thể hiện đúng tâm thái thuộc linh mà chúng ta phải học tập: Đầu gối khiêm nhường, đôi tay bận rộn để phục vụ, tấm lòng vâng phục Cha, và một tâm trí đổi mới. Chúa phán dạy, “Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm theo.” (Giăng 13:17). Nếu muốn được Đức Chúa Trời chấp nhận và ban thưởng, chúng ta phải trở nên thấp kém trong cái nhìn của con người (Lu-ca 22:24-27)

Vì một người ngồi ăn với một người hầu việc, ai là lớn hơn? Có phải là kẻ ngồi ăn không? Nhưng ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu việc vậy.

Lu-ca 22:27

 

Bài 56  

Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi.

Giăng 14:16-17

Các Cơ đốc nhân được hiệp nhất với Đấng Christ nhờ vào Đức Thánh Linh là một lẽ thật nền tảng mà chúng ta phải nhấn mạnh. Từ ngữ “ở trong Christ” và “trong Ngài” được dùng 164 lần trong Tân Ước. Nếu không cứ ở trong Christ, là Đấng ở trong chúng ta qua thân vị Đức Thánh Linh, chúng ta không thể làm được điều gì (Giăng 15:5). Một người có thể được trang bị kiến thức, các khóa huấn luyện, có nhiều kỹ năng nhưng sẽ không ích gì nếu không để Đức Thánh Linh hướng dẫn đời sống mình. Đức Thánh Linh ở với các môn đồ qua Thầy của họ, và Ngài đổ đầy họ trong ngày Lễ Ngũ tuần, báp-tem họ vào trong thân thể của Christ (Công. 1:5; 2:4; 1 Cô-rinh-tô 12:13).

Sự nghiên cứu đầu tiên là Thánh Linh và Chúa Giê-su Christ. Cứu Chúa được thai dựng bởi Đức Thánh Linh trong thân thể của Ma-ri (Lu-ca 1:35) và rồi Ngài trưởng thành, “khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta.” (2:52). Vào tuổi ba mươi Ngài bắt đầu chức vụ, Đức Thánh Linh ban quyền năng cho Ngài mỗi ngày (Ma-thi-ơ 3:16-17; Giăng 3:34). Chúa Giê-su giữ sự tương giao với Cha, suy gẫm Lời Đức Chúa Trời và đi theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Ngài không sử dụng quyền năng thần thượng cho lợi ích cá nhân nhưng cho người khác. Đức Thánh Linh trợ giúp khi Ngài bị bắt bớ, bị đánh đập và cuối cùng bị đóng đinh trên thập tự giá (Hê-bơ-rơ 9:14), và Đức Thánh Linh tham dự vào trong sự phục sinh của Ngài (Rô-ma 1:4; 1 Phi-e-rơ 3:18). Nếu Cứu Chúa đã lệ thuộc vào Đức Thánh Linh trong mọi mục vụ trên đất để  hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời, thì chúng ta càng phải lệ thuộc vào Thánh Linh nhiều hơn!

Bây giờ hãy nghiên cứu về Thánh Linh và tín nhân. Dấu hiệu nhận biết một người tin chân thật là sự hiện diện của Đức Thánh Linh, Đấng thực hiện các mục vụ cho tín nhân. Cũng giống như Chúa Giê-su, Đấng thực hiện các mục vụ cho môn đồ Ngài. “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài.” (Rô-ma 8:9). Nếu chúng ta có Đức Thánh Linh, chúng ta sẽ đọc Kinh Thánh dưới sự soi dẫn của Ngài và ao ước vâng phục Lời Chúa. Khi đó chúng ta vui hưởng sự thờ phượng Đức Chúa Trời và vui thích trong mối thông công với các thánh đồ khác. Chúng ta thích các buổi nhóm học Kinh Thánh, cầu nguyện và sẵn sàng chia sẻ Christ cho người khác.  Chúa Giê-su dạy cho các môn đồ, còn Thánh Linh dạy chúng ta (Giăng 16:12-15). Chúa Giê-su cầu thay cho các môn đồ, và Thánh Linh cũng cầu thay cho chúng ta (Rô-ma 8:26-27). Chúa Giê-su trao quyền năng và uy quyền cho các môn đồ đi ra công tác (Lu-ca 9:1), và Thánh Linh cũng ban quyền năng cho chúng ta để làm chứng, rao giảng Phúc âm (Công. 1:8). Thánh Linh làm cho thân thể của mỗi tín nhân trở nên đền thờ của Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 6:19-20), và mỗi thành viên của thân thể là dụng cụ trong tay của Chúa để phục vụ Ngài (Rô-ma 6:12-13). Đức Thánh Linh khao khát chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Giê-su càng hơn (2 Cô-rinh-tô 3:18).

Cuối cùng hãy nghiên cứu về Đức Thánh Linh và thế giới. Thế giới không thể có sự hiểu biết về Đức Thánh Linh: Ngài là ai và Ngài làm gì? Bởi vì những người chưa được cứu bị mù với các lẽ thật thiêng liêng (1 Cô-rinh-tô 2:14-16) và họ chỉ hiểu biết các vấn đề theo một tâm trí tự nhiên. Trong ngày Lễ Ngũ tuần, Đức Thánh Linh đã đổ đầy trên các môn đồ và báp-tem họ vào trong thân thể của Christ (Công. 1:5; 2:4; 1 Cô-rinh-tô 12:13). Đức Thánh Linh thuyết phục những người hư mất, dẫn họ về với Đấng Christ xuyên qua các mục vụ và lời chứng của các tín nhân. Chúng ta là muối và ánh sáng của thế giới, phải bày tỏ ra tình yêu của Đức Chúa Trời và chia sẻ lẽ thật của Ngài. Chỉ có Thánh Linh của lẽ thật có thể chiến thắng các thần của thế gian (1 Cô-rinh-tô 2:12) và đem tội nhân đến với Cứu Chúa. Đức Thánh Linh sử dụng mỗi chúng ta như những chứng nhân.

Chúng ta phải ở trong sự tương giao mật thiết với Đức Thánh Linh và không làm Ngài buồn (Ê-phê-sô 4:30), không nói dối Đức Thánh Linh (Công. 5:3), không kháng cự Ngài (7:51) hay dập tắt Ngài (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:19). Nếu mục đích của đời sống chúng ta là làm vinh hiển Chúa Giê-su, Đức Thánh Linh sẽ giúp đỡ chúng ta vì đó là công tác của Ngài (Giăng 16:14).

Hỡi các con cái bé mọn, phần các con, là thuộc về Đức Chúa Trời, đã thắng được họ rồi, vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian.

1 Giăng 4:4

 

Bài 57 

Ta nói cùng các ngươi những điều đó, hầu cho sự vui mừng của ta ở trong các ngươi, và sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.   

Giăng 15:11

Các môn đồ đang buồn lo, nhưng Chúa Giê-su bảo họ hãy vui mừng. Ngài gọi đó là “sự vui mừng của ta.” Khi biết những gì sẽ xảy ra không như mong đợi, làm sao chúng ta có thể vui mừng? Nhưng đây chính là điều có ý nghĩa trong đời sống Cơ đốc. Những điều bất như ý trong cuộc sống có thể đem đến cho chúng ta niềm vui trong Đức Chúa Trời. Tại sao? Đừng cố gắng giải thích điều này nhưng hãy tìm kiếm sự trải nghiệm thực tế nhờ vào Đức Thánh Linh. Chúa Giê-su đã so sánh niềm vui của Ngài với hình ảnh người phụ nữ trước và sau khi sinh con. “Người đàn bà, lúc sanh đẻ thì đau đớn, vì giờ mình đến rồi; song khi đứa con đã lọt lòng, người không còn nhớ sự khốn khổ nữa, mừng rằng mình đã sanh ra một người trong thế gian.  Khác nào như các ngươi hiện ở trong cơn đau đớn, nhưng ta sẽ lại thấy các ngươi, thì lòng các ngươi vui mừng, và chẳng ai cướp lấy sự vui mừng các ngươi được.” (Giăng 16:21-22). Đôi khi Đức Chúa Trời cất bỏ sự buồn rầu ra khỏi chúng ta. Nhưng có lúc Ngài biến đổi nỗi đau đó thành sự vui mừng phước hạnh. Phao-lô viết, “trong mọi sự đó (gồm những nỗi đau), chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.” (Rô-ma 8:37)

Niềm vui đầy trọn đến từ sự thờ phượng Đức Chúa Trời. “Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: hãy vui mừng đi.” (Phi-líp 4:4). Điều chắc chắn là chúng ta có thể vui mừng trong Chúa về những ơn phước, sự chu cấp mà Ngài dành cho chúng ta mỗi ngày. Khi suy ngẫm về thuộc tính, công tác, lời hứa của Chúa dành cho chúng ta trong một tương lai đời đời vinh hiển mà Ngài đã chuẩn bị thì lòng chúng ta sẽ rất vui mừng. Những cơ hội Chúa mở ra để chúng ta dự phần hầu việc Ngài sẽ làm cho lòng chúng ta đổ đầy sự vui mừng. Nó là kết quả tất yếu của một tâm trí đã hiểu biết đúng đắn về chương trình của Chúa. Cầu nguyện sẽ làm cho sự vui mừng của chúng ta được trọn vẹn (Giăng 16:24) ngay cả khi Chúa không trả lời theo cách như chúng ta mong đợi.

Nhưng chỉ thờ phượng thì chưa đủ. Nếu muốn tràn ngập niềm vui trong Chúa chúng ta phải là những người phục vụ Chúa – những người tình nguyện làm việc. “Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi.”  (Nê-hê-mi 8:10). Các hoàn cảnh xảy ra trong thời của Nê-hê-mi là cực kỳ khó khăn cho tuyển dân, nhưng cuối cùng công việc tái thiết Giê-ru-sa-lem đã được hoàn tất. Chúa Giê-su phán dạy, “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” (Giăng 4:34). Vì lý do đó Ngài cam chịu thập giá, “vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục.” (Hê-bơ-rơ 12:2). Giống như Chúa, chúng ta có thể “khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời”, và nhìn thấy những hoạn nạn tạm thời chuyển thành niềm vui khải hoàn trong Christ (Rô-ma 5:1-5). Trước giả Thi thiên viết, “Kẻ nào gieo giống mà giọt lệ,
Sẽ gặt hái cách vui mừng.
 Người nào vừa đi vừa khóc đem giống ra rải,
Ắt sẽ trở về cách vui mừng, mang bó lúa mình.” (Thi. 126:5-6; Đọc thêm Ga-la-ti 6:9)

Mỗi Cơ đốc nhân là một chiến binh. Hãy nhớ rằng chúng ta có những kẻ thù đã bị đánh bại. Đức Chúa Trời có thể chuyển đổi những trận chiến thuộc linh thành niềm phước hạnh. “Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi;
Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài, và tôi được cứu tiếp;
Vì vậy, lòng tôi rất mừng rỡ,
Tôi sẽ lấy bài ca mà ngợi khen Ngài.,” (Thi. 28:7)

Chúng ta vui mừng trong sự chiến thắng. Nhưng chúng ta không thể chiến thắng nếu không tham dự trận chiến. Cứu Chúa đã chiến thắng ba kẻ thù của chúng ta – thế gian (Giăng 16:33), ma quỉ (Cô-lô-se 2:13-15), và xác thịt (Rô-ma 6:1-4) – vì vậy chúng ta nhận lãnh chiến thắng từ những chiến thắng của Ngài. Bất luận kẻ thù nào, bởi đức tin trong Chúa Ngài đã ban cho chúng ta sự đắc thắng (1 Giăng 5:4).

Một nguồn khác của sự vui mừng là hy vọng của chúng ta trong Đức Chúa Trời. Phao-lô khuyên, “Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện.” (Rô-ma 12:12). Sự vui mừng không phải là cảm xúc xuất phát từ chúng ta, nó là bông trái của Đức Thánh Linh. Chúng ta tiếp tục bước đi trong đức tin cho đến khi Chúa tái lâm, tin cậy Ngài bất luận các hoàn cảnh xung quanh xảy ra như thế nào vì Chúa đã sắm sẵn điều tốt nhất cho chúng ta ở phía trước.

Hạnh phúc tùy thuộc vào những gì đang xảy ra. Nhưng sự vui mừng tùy thuộc vào quyền năng, lời hứa và ơn chu cấp thần hựu của Đức Chúa Trời. “Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an….” (Ga-la-ti 5:22). Chúng ta có thể bước đi mỗi ngày với lời ngợi khen: “Nầy là ngày Đức Giê-hô-va làm nên,
Chúng tôi sẽ mừng rỡ và vui vẻ trong ngày ấy.” (Thi. 118:24). Chúa Giê-su ca hát những lời này trước khi Ngài đến Ghết-sê-ma-nê (Ma-thi-ơ 26:30). Chúng ta sẽ hát như vậy?

 

Vậy xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!

Rô-ma 15:13

 

Bài 58

Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét.

Giăng 16:8

Nếu bạn đánh giá các môn đồ theo tiêu chuẩn trần gian, bạn sẽ kết luận rằng họ không được chuẩn bị để thực hiện công tác của Christ. Nhưng khi Chúa Giê-su khi cầu nguyện với Cha (trong lời cầu nguyện ở Giăng 17), Ngài có ý nói rằng các môn đồ đã được chuẩn bị! Chúa Giê-su đã thưa với Cha: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.” (Giăng 17:4). Công việc Cha giao cho Chúa Giê-su bao gồm việc huấn luyện các môn đồ cho công tác mục vụ. Chúa Giê-su không chỉ dạy Lời Đức Chúa Trời, nhưng Ngài còn dạy họ cách cầu nguyện, và Ngài trở thành tấm gương cho họ về hình ảnh của một tôi tớ phục vụ khiêm nhường. Chỉ một yếu tố khác mà các môn đồ còn thiếu: Đức Thánh Linh ban quyền năng để họ thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh là Đấng mà Chúa Giê-su sai phái đến với các môn đồ để ở cùng và ban quyền năng cho họ, nhờ đó họ có thể thực hiện các mục vụ cách hiệu quả và dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Hội thánh không có khả năng cứu tội nhân và thay đổi thế giới, nhưng Đức Thánh Linh có thể làm việc bên trong và xuyên qua hội thánh để mang lại những kết quả theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Và Đức Thánh Linh sẽ sử dụng chúng ta làm chứng nhân cho Chúa Giê-su, để thuyết phục các tội nhân về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét (16:8-11).

Tội lỗi lớn nhất của thế giới là không tin: các tội nhân không tin nhận Chúa Giê-su Christ, và đây là lý do họ bị hư mất. Tòa án lương tâm có thể kết án một người về tội lỗi, nhưng chỉ Đức Thánh Linh có thể kết án tội nhân về tội lỗi lớn nhất – từ chối Chúa Giê-su Christ. Một người có thể bị “dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh” (2 Cô-rinh-tô 7:1) và ở trong sự hư mất. Và chỉ có đức tin trong Christ mới có thể làm cho người đó được tái sinh và đem anh/chị ấy vào trong gia đình của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phi-e-rơ đã rao giảng Phúc âm cho những người nhiệt thành theo Do thái giáo. Sau khi nghe sứ điệp “trong lòng họ cảm động, bèn hỏ1 Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: Hỡi anh em, chúng ta phải làm chi?” (Công. 2:37). Đức Thánh Linh dùng Lời của Đức Chúa Trời để cáo trách họ. Dân sự của Đức Chúa Trời là những chứng nhân không phải là công tố viên. Chúng ta hãy để Đức Thánh Linh kết án, cáo trách tội nhân.

Nhu cầu lớn nhất của thế giới hư mất là sự công bình của Chúa Giê-su Christ. Cho dù thế gian biết hay không, những người mà nhìn thấy Chúa Giê-su phục vụ trên đất đã chứng kiến sự công bình trong nếp sống của Ngài. Những tội nhân hư mất không thể được cứu nhờ vào sự công bình theo luật pháp của Môi-se (Ga-la-ti 2:16-21), hay là nhờ vào sự công bình riêng (Ê-sai 64:6). Chúa Giê-su được xác định là vô tội và không phạm tội (1 Phi-e-rơ 2:22; 1 Giăng 3:5). Kinh Thánh nói về Ngài: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.” (2 Cô-rinh-tô 5:21). Chúng ta được mặc chiếc áo công bình của Đấng Christ, và được Đức Chúa Trời chấp nhận (Ê-phê-sô 1:6). Nhưng Chúa Giê-su đã về thiên đàng, làm thế nào những người hư mất có thể thấy sự công bình của Ngài và biết rằng họ đang hư mất? Câu trả lời là họ có thể nhìn thấy Chúa Giê-su qua nếp sống của chúng ta (Ma-thi-ơ 5:13-16) và nghe sự dạy dỗ của Đấng Christ từ Kinh Thánh.

Thế giới hư mất đang ở dưới xích xiềng của ma quỉ – chúa đời này (Ê-phê-sô 2:1-3).  Và nhu cầu lớn nhất của thế giới hư mất là được tự do khỏi tội lỗi, sự chết và sự phán xét. Tuy nhiên các tội nhân lại vui thích trong những gì họ gọi là tự do. Chúa Giê-su đã đánh bại sự chết, tội lỗi, ma quỉ trong sự phục sinh của Ngài. Ngài phán, “Hiện bây giờ, có sự phán xét thế gian nầy, và hiện nay vua chúa của thế gian nầy phải bị xua đuổi.” (Giăng 12:31). Đối với thế giới vô tín, thập tự giá của Đấng Christ là một điều hổ thẹn, nhưng đối với chúng ta đó là chiến thắng khải hoàn của Cứu Chúa (Cô-lô-se 2:15). Trước khi Chúa Giê-su chết Ngài không thều thào: “Ta đã kết thúc” nhưng Ngài thét lớn “Mọi sự đã hoàn tất.” Công tác cứu chuộc của Ngài đã hoàn thành!

Nếu Đức Thánh Linh cáo trách tấm lòng của những người hư mất, dân sự của Đức Chúa Trời phải sẵn sàng cho Ngài, bày tỏ ra các bông trái của Đức Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-23) và chia sẻ tin mừng. Chúng ta hãy là những chứng nhân trung tín, công bố “lẽ thật, toàn bộ lẽ thật và không nói điều gì ngoài lẽ thật.” Hãy tin cậy Đức Thánh Linh để Ngài làm phần còn lại. Ngài đang sẵn sàng, còn chúng ta thì sao?

Vì, về phần chúng tôi, không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe.

Công vụ. 4:20

 

Bài 59 

Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!

Giăng 16:33

Những lời này hàm ý đến những lẽ thật mà Chúa Giê-su đã dạy cho các môn đồ trên phòng cao là những lẽ thật mà chúng ta phải giữ ngày hôm nay. Ngài đã nhấn mạnh bài giảng bằng lời khích lệ, củng cố các môn đồ nhiều lần khi họ phục vụ và cam chịu gian khổ trong những năm sau đó. Ngài đã bày tỏ ba lẽ thật quan trọng sau đây mà chúng ta phải hiểu biết.

Những người đối lập sẽ chống lại chúng ta. Từ thế gian trong Kinh Thánh có ba nghĩa: sự sáng tạo thế giới (Công. 17:24), nhân loại (Giăng 3:16) và toàn bộ hệ thống các xã hội tách biệt và đối lập với Đức Chúa Trời (16:33). Satan là vua của hệ thống thế giới này (12:31) và khiến con người phải ở trong vòng nô lệ của nó – con người sống cho những điều tạm thời và quên đi những giá trị đời đời. Sứ đồ Giăng viết, “Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy.  Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra.  Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.” (1 Giăng 2:15-17). Bất kỳ điều gì xuất phát từ thế gian (mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo) đều không đến từ Đức Chúa Trời. Vì lý do sẽ không có gì quá ngạc nhiên khi hệ thống của thế gian tấn công chúng ta, bởi vì Cơ đốc nhân không thuộc về thế gian này (Giăng 17:14-15, 1 Phi-e-rơ 4:12-19). Nếu đời sống Cơ đốc của chúng ta đi theo ý muốn của Chúa, cả thế giới sẽ đối xử với chúng ta theo cách mà nó đã đối xử với Chúa Giê-su. Còn nếu làm bạn với thế gian, khi đó chúng ta không thể làm bạn với Đức Chúa Trời (Gia-cơ 4:4).

Sự bình yên và vui mừng đang ở bên trong chúng ta. Nếu chúng ta có chiến tranh từ bên ngoài, thì điều cần thiết là phải có sự bình an từ bên trong. “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.  Sự bình an của Đức Chúa Trời Vượt Quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phi-líp 4:6-7). Hoạn nạn, khó khăn là một phần của đời sống Cơ đốc, để giúp chúng ta trưởng thành và giúp chúng ta càng giống Chúa Giê-su hơn.  Chúng ta không được miễn trừ cùng “thông công trong sự thương khó của Ngài.” (3:10). Người thợ gốm không chỉ làm ra cái bình, nhưng ông cũng đặt nó vào một vị trí thích hợp nhất. Khi Kinh Thánh nói rằng: “hãy vui mừng…”  thì đây không phải là một cụm từ xã giao như: Chúc một ngày tốt lành. Hãy vui mừng ở đây hàm ý rằng vui mừng là một món quà mà chúng ta phải đón nhận ngay bây giờ.  “Hỡi con, hãy vững lòng (hãy vui mừng), tội lỗi con đã được tha.” (Ma-thi-ơ 9:2). Những lời này được áp dụng cho chúng ta. Chúa Giê-su cũng phán, “Các ngươi hãy yên lòng; ấy là ta đây, đừng sợ!” (14:27). Vậy thì vì lẽ gì chúng ta không có sự bình an và vui mừng? Chúa Giê-su đang ở với chúng ta, và Ngài đã đánh bại các kẻ thù.

Chiến thắng đã ở phía trước chúng ta. Trong chức vụ của Chúa Giê-su, trong sự đóng đinh, phục sinh và thăng thiên Ngài đã chinh phục mọi kẻ thù (Cô-lô-se 2:15; Ê-phê-sô 1:19-23; Chiên Con đã chiến thắng con rắn (Sáng. 3:15; Khải. 5:5; 12:11) và bởi đức tin chúng ta cùng chia sẻ chiến thắng này với Ngài. Chúa Giê-su là người mạnh sức đã chiến thắng quỉ vương và tước vũ khí của nó (Lu-ca 11:22). Cha thiên thượng muốn chúng ta giống như những thanh niên trẻ tuổi, “Hỡi kẻ trẻ tuổi, ta viết cho các ngươi, vì các ngươi đã thắng được ma quỉ.” (1 Giăng 2:13; Khải. 12:11). Giô-suê đã lãnh đạo tuyển dân đánh chiếm vùng đất hứa. Giô-suê đã vâng lời, tin cậy vào các lời hứa của Đức Chúa Trời và chiến thắng kẻ thù. “Chớ sợ, chớ kinh hãi; ngày mai, hãy đi ra đón chúng nó, vì Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi.” (2 Sử ký 20:17). Điều này không có nghĩa chúng ta chỉ là những khán giả đứng ngoài trận chiến thuộc linh, ngược lại chúng ta phải cầm lấy mọi binh giáp của Chúa tham gia vào chiến trận (Ê-phê-sô 6:10-20), tin cậy Chúa Giê-su vì sự chiến thắng của Ngài đã giành được thay cho chúng ta. Chúng ta cùng chiến thắng với Ngài.

Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài.

 

Ê-phê-sô 6:10

 

Bài 60

Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.

Giăng 17:4

Từ ngày nhận phép báp-têm cho đến ngày chịu chết, Đức Chúa Giê-su đã sống một lối sống mà bạn và tôi ngày nay cần phải làm theo: tin cậy nơi Đức Chúa Cha, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, cầu nguyện và nhờ cậy Đức Thánh Linh. Ngài sống bởi đức tin. Sa-tan đã cám dỗ Đức Chúa Giê-su sử dụng năng quyền để đáp ứng nhu cầu cá nhân của Chúa, nhưng Ngài bác bỏ. Ngài không dùng quyền năng thiên thượng cho mục đích cá nhân (Phi-líp 2:5-11). Ngài nhẫn nhục chịu đựng những giới hạn trong thân thể con người, sự tha hóa của xã hội loài người, những kẻ giả hình, những người không tin vào các lãnh đạo tôn giáo, những thử thách, khổ nạn của dân chúng, sự đau ốm và tội lỗi của họ. Ngài cảm thương cho đàn chiên không có người chăn dắt. Tuy nhiên cũng có những lúc vui mừng khi cha mẹ đem con của họ đến với Chúa để Ngài ban phước, hoặc lúc Chúa được mời đến dự tiệc cưới có mẹ và các môn đồ của Ngài đồng đi. Ngài khiến cho người mù được thấy, đem tình yêu thương đến cho người bị ruồng bỏ, và khiến người chết sống lại. Ngài làm công tác của Đức Chúa Cha và tôn vinh Đức Chúa Cha.

Công tác ấy là gì? Một trong số đó chính là Đức Chúa Giê-su bày tỏ Đức Chúa Cha (Giăng 14:7-11). Thấy Đức Chúa Giê-su nghĩa là thấy Đức Chúa Cha. Nhiều người nghĩ Đức Chúa Trời giống như một vị vua, người ban hành những luật lệ và trừng phạt kẻ vi phạm. Tuy nhiên Đức Chúa Giê-su bày tỏ cho họ thấy một Đức Chúa Cha đầy yêu thương, chu cấp, lắng nghe và đáp lời cầu nguyện của họ. Đức Chúa Giê-su ôm lấy các cháu thiếu nhi và chạm tay đến người phung. Đức Chúa Trời có phải thế không? Vâng!

Công tác của Ngài cũng bao gồm việc hoàn thành lời tiên tri trong Cựu Ước. Kinh Thánh Cựu Ước được đọc một cách có hệ thống trong các nhà hội và tại đền thờ, các Ra-bi dạy cho dân chúng rằng có một Đấng Mê-si sẽ đến. Nhưng khi Chúa đến, họ không tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Giê-su phán cùng đoàn dân đông rằng: “Các ngươi dò xem Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: Ấy là Kinh Thánh làm chứng về Ta vậy” (Giăng 5:39). Quả là một niềm vui lớn khi được gặp Đức Chúa Giê-su qua những trang Cựu Ước! Khi Ngài chữa lành kẻ bệnh, người bị thương và khiến kẻ chết sống lại, Chúa đã làm ứng nghiệm những lời tiên tri trong Cựu Ước. Bạn thường bắt gặp trong bốn sách Phúc Âm có cụm từ: “hầu cho Lời Chúa được ứng nghiệm.”

Một mục vụ khác của Đức Chúa Giê-su đó là làm gương cho chúng ta noi theo. Việc đặt Đức Chúa Giê-su làm một gương mẫu để noi theo không khiến chúng ta được cứu, nhưng điều đó công bố cho người khác thấy rằng chúng ta thuộc về Đức Chúa Giê-su và muốn sống giống như Ngài đã sống (1 Phi-e-rơ 2:21-25). Ngài đã đối đãi với kẻ thù như thế nào? Ngài liên hệ với những người bị ruồng bỏ, với những binh lính La-mã, với những quan chức và với những người đã đóng đinh Ngài như thế nào? Chúng ta nên đối đãi với các quan chức cai trị đất nước, quan chức địa phương như thế nào? Đức Chúa Giê-su là tấm gương cho chúng ta noi theo.

Dĩ nhiên, lý do chính mà Chúa đến đó là hy sinh cho tội lỗi của chúng ta. “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời” (Giăng 3:14-15). Dân Do Thái có luật pháp Môi-se, có đền thờ, có thầy tế lễ, và những của lễ hiến tế, mỗi một điều trên đều chỉ về Đức Chúa Giê-su nhưng chúng không đem đến sự cứu rỗi. Luật pháp không khiến cho điều gì trở nên hoàn hảo (Hê-bơ-rơ 7:19) và chức tế lễ cũng vậy (c. 11), kể cả những của tế lễ (9:9; 10:1), nhưng Đức Chúa Giê-su là Đấng làm cho hoàn hảo (13:20-21). Chúng ta “nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự” (Cô-lô-se 2:10). Nhờ một của tế lễ, Ngài làm cho chúng ta được trọn vẹn đời đời (Hê-bơ-rơ 10:14).

Ngài huấn luyện các môn đồ để kế tục chức vụ của Ngài (Giăng 17:6-19). Khi Đức Thánh Linh giáng trên họ quyền năng trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công vụ 1:8), họ đã sẵn sàng để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su. Chúng ta cần phải huấn luyện các tân tín hữu trong việc đọc Kinh Thánh và sống như Đức Chúa Giê-su và hầu việc Ngài. Tất cả chúng ta đều cần phải cầu nguyện mỗi ngày rằng: “Lạy Cha, xin giúp con tôn vinh Cha trên đất, và làm xong công việc Cha giao cho làm. Xin giúp con hoàn thành tốt công tác Ngài.”

Cho nên, chúng tôi vì anh em cầu nguyện không thôi, hầu cho Đức Chúa Trời chúng ta khiến anh em xứng đáng với sự gọi của Ngài, và cho Ngài lấy quyền phép làm trọn trong anh em mọi ý định thương xót của lòng nhân Ngài và công việc của đức tin; đến nỗi làm sáng danh Đức Chúa Giê-su chúng ta trong anh em, và anh em trong Ngài.

2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:12

Bài 61

Con không ở thế gian nữa, nhưng họ còn ở thế gian, và Con về cùng Cha. Lạy Cha thánh, xin gìn giữ họ trong danh Cha, là danh Cha đã ban cho Con, để họ cũng hiệp làm một như chúng ta vậy.

Giăng 17:11

Sáu lần trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Chúa Giê-su đã dùng từ một để cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Hội Thánh (Giăng 17:11, 21, 22, 23). Đức Chúa Giê-su không cầu nguyện cho một tổ chức vĩ đại do con người lập nên, một tổ chức đồng bộ và không có sự khác biệt, tuy nhiên Ngài cầu nguyện cho sự hiệp nhất về tâm linh giống như Đức Chúa Trời ba ngôi hiệp một, sự hiệp nhất mà Ngài gọi là “một trong chúng ta” (c. 21; xem c. 23). Sự hiệp nhất này không chỉ làm phong phú Hội Thánh và khiến Hội Thánh có thể thi hành mục vụ, nhưng cũng làm chứng cho thế giới lạc mất về Đấng Cứu Rỗi và về tình yêu thương của Đức Chúa Cha. Các Hội Thánh bị chia rẽ và những Cơ Đốc Nhân tranh cạnh không phải là những chứng nhân mẫu mực cho tình yêu thương của Đức Chúa Trời và không làm chứng cho sự vinh quang của Đức Chúa Con. Hãy cùng xem xét “những nút thắt kết nối” dân sự của Đức Chúa Trời với nhau.

Chúng ta có sự sống của Đức Chúa Trời, đó chính là sự sống đời đời. Thế gian chết trong tội lỗi và sa ngã (Ê-phê-sô 2:1), nhưng Cơ Đốc Nhân có sự sống trong Đấng Christ, họ cùng hưởng sự sống của chính Đức Chúa Trời. Dù là rau quả, muôn thú, hay con người, thân thể của mọi loài khi còn sống đều gắn liền với nhau, nhưng khi chết đi, cây cối tàn úa và đổ nát, xác động vật và thân thể con người sẽ phân hủy và trở về với cát bụi. Chết là chia rẽ, nhưng sống là hiệp một. Dù chúng ta đều ở trong gia đình của Đức Chúa Trời và cùng hưởng sự sống của Ngài, nhưng trong gia đình của Chúa vẫn có sự đa dạng, cũng giống như các bộ phận khác nhau trong một thân thể, hoặc các thành viên khác nhau trong một gia đình. Nếu bạn và tôi cùng thuộc về gia đình của Chúa, có chung một Cha và cùng hưởng sự sống thuộc linh, thì chúng ta phải sống cùng nhau, làm việc cùng nhau vì sự vinh quang của Đức Chúa Trời.

Chúng ta chia sẻ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Giê-su đã cầu xin Đức Chúa Cha “để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa” (Giăng 17:26). Đức Chúa Cha yêu thương mỗi một người con của Ngài cũng như Ngài đã yêu chính Con một của Ngài! Không có tình yêu thương nào lớn hơn tình yêu thương của Chúa. Đã bao lần các cha mẹ nói với con của mình rằng: “Các con không thể yêu thương nhau được sao?” Sự đồng nhất đến từ áp lực bên ngoài – mệnh lệnh của một vị tướng binh, một chỉ đạo của cấp trên – tuy nhiên sự hiệp nhất lại đến từ tình yêu thương ở bên trong, tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã được gieo trồng bởi Đức Thánh Linh. Bạn đã đọc 1 Cô-rinh-tô 13 chưa? Tôi nghe “chương Kinh Thánh về tình yêu” này được đọc tại lễ cưới, tuy nhiên đây là chương Kinh Thánh cần phải được đọc và vâng theo trong những cuộc họp của Hội Thánh.

Chúng ta chia sẻ sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Dù vóc dáng, trang phục hay bề ngoài của chúng ta như thế nào, mỗi một con cái Chúa đều có sự vinh quang của Đức Chúa Trời ở bên trong (Giăng 17:22). Khi chúng ta lớn lên trong sự tin kính, sự vinh quang cũng trở nên lớn hơn (2 Cô-rinh-tô 3:18) và Đức Chúa Trời được tôn vinh nhiều hơn. Cơ Đốc Nhân có thể yêu thương nhau bởi vì Đấng Christ sống trong họ, và chúng ta có thể yêu thương người chưa tin bởi vì Đấng Christ chết vì họ. Một ngày nọ trên thiên đàng, chúng ta sẽ nhìn xem sự vinh quang của Đấng Christ (Giăng 17:24). Bởi vì hết thảy con cái Chúa đều sẽ chung nhóm nơi thiên đàng, chúng ta không thể học cách để sống và làm việc cùng nhau ngày hôm nay được sao? Đó sẽ là một lời chứng cho thế giới lạc mất này!

Chúng ta chia sẻ lẽ thật của Đức Chúa Trời (c. 8, 14, 17). Nếu chúng ta yêu mến Lời Chúa, tiếp nhận lời Chúa vào lòng, và làm theo, chúng ta sẽ là những người đem lại hòa bình chứ không phải là những kẻ sinh sự. Dựa theo thư tín thứ hai của Giăng, chúng ta cần phải nhận biết lẽ thật (2 Giăng 1), lẽ thật phải ở trong chúng ta (c. 2), yêu thương trong lẽ thật (c. 3), và bước đi trong lẽ thật (c. 4). Sự kiêu ngạo gây chia rẽ, nhưng Lời Chúa khiến chúng ta khiêm nhường và khích lệ chúng ta hiệp một. Sự dối trá mở ra cánh cửa cho Sa-tan, nhưng lẽ thật trói buộc chúng.

Chúng ta chia sẻ mạng lệnh của Ngài. Có hai cụm từ xác định nhiệm vụ của chúng ta: “đặng thế gian tin rằng” (Giăng 17:21) và “cho thế gian biết” (c. 23). Một Hội Thánh hiệp nhất là một đội quân các giáo sĩ cùng nhau đi ra để gặt cánh đồng đã chín. Những người trong một Hội Thánh chia rẽ đưa lưỡi liềm vào nhau và đánh mất cánh đồng. Liệu rằng chúng ta sẽ giúp đáp lại lời cầu nguyện của Chúa “để họ cũng hiệp làm một”?

Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy. Vì chưng chúng ta đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân.

1 Cô-rinh-tô 12:12-13

 

 

Bài 62

 

Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật.

Giăng 17:17

Trong từ vựng Cơ Đốc, “thánh hóa” có nghĩa là “biệt riêng cho sự hầu việc Đức Chúa Trời.” Đức Chúa Giê-su đã biệt riêng chúng ta để trở thành những người cầu thay và là thầy tế lễ thượng phẩm (Giăng 17:19), chúng ta cũng nên biệt riêng chính mình để hầu việc Ngài. “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô-ma 12:2). Sự đổi mới đó diễn ra bên trong con người của chúng ta khi Đức Thánh Linh dùng Lời Chúa khiến chúng ta trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn (2 Cô-rinh-tô 3:18). Trong bản văn Hy Lạp, từ thế gian được lặp lại mười tám lần trong Giăng 17 và có ý nghĩa là “hệ thống thế gian” hay có nghĩa là “xã hội không có Chúa,” tất cả mọi điều thúc ép chúng ta trở nên những tội nhân chứ không giống Đấng Christ. Có ba sự thật nền tảng nổi lên tại đây.

Dân sự của Đức Chúa Trời không thuộc về thế gian này. Chúng ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Bất kỳ điều gì khiến chúng ta không vui hưởng tình yêu thương của Đức Chúa Cha hoặc khiến chúng ta không làm theo ý muốn của Ngài thì đó chính là điều thuộc về thế gian và là sai trái đối với chúng ta (1 Giăng 2:15-17). Tuy nhiên, chúng ta không tách khỏi thế gian, cũng không cô lập khỏi thế gian, bởi vì chúng ta ở đây để làm chứng và phục vụ. Đức Chúa Giê-su là bạn của những người thu thuế và tội nhân, song Ngài “thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (Hê-bơ-rơ 7:26). Biệt riêng không có nghĩa là cô lập, không có lòng thương cảm đối với những người chưa tin và giữ khoảng cách đối với họ. Nếu chúng ta làm theo thế gian và cố gắng làm vui lòng họ, khi ấy chúng ta có vấn đề lớn. Phao-lô viết rằng: “Đê-ma đã lìa bỏ ta rồi, tại người ham hố đời nầy” (2 Ti-mô-thê 4:10).

Dân sự của Đức Chúa Trời khác biệt với thế gian. Chúng ta là những công dân thiên quốc (Phi-líp 3:20) nên phải làm đẹp lòng Cha trên trời (Ma-thi-ơ 6:9). Sự tin kính thiết thực biệt riêng chúng ta khỏi thế gian và những điều có trong thế gian. Hãy lưu ý tôi đã nói rằng khác biệt, không phải kỳ quặc. Khi chúng ta khác biệt, chúng ta thu hút người khác, nhưng khi chúng ta trở nên kỳ quặc, chúng ta khiến họ tránh xa mình; chúng ta được kêu gọi để thu hút người khác đến với Đức Chúa Giê-su. Chúng ta noi theo tấm gương yêu thương và phục vụ của Đức Chúa Giê-su đồng thời làm điều lành cho người xung quanh. “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Ma-thi-ơ 5:16). Thế gian đầy sự lừa dối, nhưng Cơ Đốc Nhân được thánh hóa bởi lẽ thật – không chỉ là sự thật nhưng là lẽ thật, là điều cốt lõi của sự thật. Đức Chúa Giê-su chính là lẽ thật (Giăng 14:6), Đức Thánh Linh là lẽ thật (1 Giăng 5:6), Lời Chúa là lẽ thật (Giăng 17:17), và Hội Thánh là “trụ và nền của lẽ thật” (1 Ti-mô-thê 3:15). Chính lẽ thật của Đức Chúa Trời khiến chúng ta khác biệt với thế gian và là lý do mà thế gian ghét chúng ta (Giăng 17:14).

Dân sự của Đức Chúa Trời ở trong thế gian để chinh phục những người chưa tin cho Đức Chúa Giê-su Christ. Đức Chúa Giê-su cầu nguyện rằng: “Như Cha đã sai Con trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian” (c. 18). Nếu Cơ Đốc Nhân chỉ cần nhớ rằng họ đại diện cho Đức Chúa Giê-su Christ trước một thế gian đang dõi theo thì họ sẽ làm điều gì là phải. Chúng ta là muối (Ma-thi-ơ 5:13), và muối khiến người ta khát.

Một ngày trong tương lai, Đức Chúa Trời sẽ đem chúng ta ra khỏi thế gian! Đức Chúa Giê-su muốn Hội Thánh ở trên thiên đàng cùng với Ngài mãi mãi (Giăng 17:24), và Ngài hứa rằng: “Ta sẽ trở lại” (14:1-3). Trong thời gian chờ đợi, Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta trên thiên đàng, cầu thay cho chúng ta, lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, và chu cấp mọi nhu cầu cho chúng ta khi chúng ta hầu việc Ngài. Thế gian là kẻ thù nghịch của chúng ta (Gia-cơ 4:4), nhưng qua sự chết, chôn, phục sinh, thăng thiên và ngự trên ngai, Đức Chúa Giê-su đã chiến thắng thế gian (Giăng 16:33) chính vì thế chúng ta “nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô-ma 8:37).

Và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta.

1 Giăng 5:4

 

 

Bài 63

Đức Chúa Jêsus lại phán: Ta đã nói với các ngươi rằng chính ta đây; vậy nếu các ngươi tìm bắt ta, thì hãy để cho những kẻ nầy đi.

Giăng 18:8

Đôi khi con người ta được định hình qua một cuộc khủng hoảng, tuy nhiên cuộc khủng hoảng luôn luôn nói lên nhân cách một con người. Trong khi cầu nguyện với Đức Chúa Cha, Đức Chúa Giê-su đã biến vườn Ghết-sê-ma-nê trở nên nơi chí thánh, tuy nhiên Giu-đa và các quan chức đi theo hắn đã biến nơi ấy thành một chiến trường. (Trong đó có sự tham gia của Phi-e-rơ!) Mặc dầu vậy, không nghi ngờ gì, Đức Chúa Giê-su vẫn là Đấng kiểm soát mọi sự. Tại sao? Bởi vì chính Chúa đã đến khu vườn này, cầu nguyện với Đức Chúa Cha và đầu phục ý muốn của Ngài. Những người xâm nhập vào khu vườn mang theo vũ khí trong tay, tuy nhiên Đức Chúa Giê-su nhận lấy chén từ Đức Chúa Cha và cầu nguyện rằng: “ý Cha được nên.” Bởi vì Ngài đã nhận lấy chén nên Ngài có thể làm chủ các hoàn cảnh trong đêm kinh hoàng ấy.

Đức Chúa Giê-su đối mặt với toán quân bắt Ngài với sự can đảm. Ngài biết điều gì đang xảy ra (Giăng 18:4) nên Ngài đã tiến về phía họ. Trước khi họ lên tiếng, Chúa đã hỏi rằng: “Các ngươi tìm ai?” Họ trả lời rằng: “Tìm Giê-su người Na-xa-rét”, và Ngài điềm tĩnh đáp: “Chính Ta đây” (c. 5). Lời nói và thái độ không hề sợ hãi của Chúa đã khiến cho toán quân kinh ngạc, “chúng bèn thối lui và té xuống đất” (c. 6). Ngài hỏi lần thứ hai và nhận được cùng một câu trả lời. Hiển nhiên Đức Chúa Giê-su đang kiểm soát cuộc gặp mặt này. Ngài phó chính mình vào tay họ và xin cho những ai theo Chúa được tự do rời khỏi nơi đó. Chúa chúng ta đã sẵn lòng giao phó chính Ngài trong tay toán quân để các môn đồ được tự do. Đức Thánh Linh đã ban cho các môn đồ lòng tin quyết đầy dũng cảm này để họ lãnh đạo những ngày đầu tiên của Hội Thánh, và điều đó đã làm kinh ngạc những ai bắt bớ họ (Công vụ 4:13-41).

Đức Chúa Giê-su yên ủi Giu-đa. Ngài không bất ngờ khi Giu-đa phản Chúa, bởi vì Ngài đã biết ngay từ đầu rằng người thủ quỹ của nhóm sẽ phản bội (Giăng 6:67-71). Thật khó để đối diện với một tên trộm, một kẻ lừa dối đầy xấu xa và bất trung mà trong chúng ta không có suy nghĩ trả đũa hắn, tuy nhiên Đức Chúa Giê-su chỉ quở trách Giu-đa về nụ hôn phản bội. Phi-e-rơ xém chút nữa đã giết Giu-đa, nhưng Đức Chúa Giê-su biết hắn sẽ đối diện với tội lỗi của mình.

Đức Chúa Giê-su quở trách Phi-e-rơ. Ngài bày tỏ tình yêu thương và sự quả cảm đến từ sự vâng phục, nhưng Phi-e-rơ đã thể hiện sự ngu dại xuất phát từ cơn giận đầy tội lỗi. Trong vườn Ghết-sê-ma-nê, ông chối Chúa, và một vài giờ sau, ông tiếp tục chối Chúa bằng lời nói của mình. Song chính ông lại khoe khoang rằng mình có thể chết vì Thầy! Một lần nữa, Phi-e-rơ đã ngăn cản Đức Chúa Giê-su không vâng theo ý muốn của Đức Chúa Cha đó là Ngài sẽ chết trên thập giá. Phi-e-rơ cần học biết rằng Cơ Đốc Nhân dùng những vũ khí thuộc linh để chiến đấu với ma quỷ và những kẻ phục vụ nó (2 Cô-rinh-tô 10:4).

Đức Chúa Giê-su bảo vệ môn đồ của Ngài. Đây là điều then chốt sau những gì đã xảy ra, toán quân bắt Chúa đã cho phép các môn đồ của Ngài ra đi tự do. Đức Chúa Giê-su cảnh báo các môn đồ của Ngài rằng, dù họ có khoe khoang hoặc không khoe khoang, thì họ cũng sẽ bỏ Ngài, và Ngài đã dùng tiên tri Xa-cha-ri 13:7 mà nói: “hãy đánh kẻ chăn, cho những chiên tản lạc” (xem Ma-thi-ơ 26:31). Cho đến khi Đức Thánh Linh ban năng quyền thì các môn đồ mới được chuẩn bị để chịu bắt bớ. Không vâng theo mệnh lệnh, Phi-e-rơ bám theo sau Chúa và lún sâu vào rắc rối. Đức Chúa Giê-su không chỉ cứu chúng ta (Giăng 10:28), nhưng Ngài cũng bảo vệ chúng ta nếu chúng ta vâng theo ý Ngài (17:12).

Từ Ghết-sê-ma-nê có nghĩa là “ép dầu,” và Đức Chúa Giê-su sẽ trải qua sự đau đớn tột cùng, Ngài sẽ bị xét xử, bị đánh và bị đóng đinh trên cây thập tự. Nhưng Ngài vượt qua mọi điều đó như lời Ngài phán, chính vì vậy Ngài có thể dẫn chúng ta vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống nếu chúng ta nhận lấy chén và vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Hãy để Chúa dẫn dắt và cầu nguyện rằng: “không theo ý con, nhưng xin ý Cha được nên.” Nếu chúng ta nhận lấy chén, chúng ta cần can đảm đương đầu với mũi gươm.

 

Các ngươi uống được chén mà ta hầu uống không?

Ma-thi-ơ 20:22

 

Bài 64

Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua.

Giăng 18:37

Phao-lô cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Giê-su “làm chứng tốt nơi Bôn-xơ Phi-lát” (1 Ti-mô-thê 6:13), cả bốn sách Phúc Âm đều tuyên xưng Ngài là vua. Đức Chúa Giê-su không nói rằng: “Ta sẽ là vua,” nhưng Ngài nói: “Ta là vua.”

Đức Chúa Giê-su được sinh ra là một vị vua. Các bác sĩ ở Đông Phương hỏi rằng: “Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu?” (Ma-thi-ơ 2:2), và họ được dẫn đường đến với Đức Chúa Giê-su tại thành Bết-lê-hem. Phi-lát hẵn đã rất bối rối khi Đức Chúa Giê-su phán rằng Ngài “được sinh ra” (nhân tánh) và rằng Ngài “đến với thế giới này” (thần tánh). Các đứa trẻ khác đều “ở trong thế gian” từ khi được hoài thai, nhưng Đức Chúa Giê-su đã phải “đến với thế gian” để được hoài thai từ trong bụng bà Ma-ri. Ngài là Vua vinh quang (Thi Thiên 24:7-10), Vua của Y-sơ-ra-ên (Giăng 1:49), Vua muôn vua (1 Ti-mô-thê 6:15; Khải Huyền 17:14), và Vua của các thánh (Khải Huyền 15:3).

Đức Chúa Giê-su phục vụ như một vị vua. Mặc dầu Chúa đã rời ngôi báu để trở nên một đầy tớ, Đức Chúa Giê-su vẫn là vua và sử dụng thẩm quyền của Ngài để phục vụ người khác. Ngài phán với muôn thú, cá biển, chim chóc, mưa, gió và sóng biển; Ngài chế ngự ma quỷ, Satan, bệnh tật, tật nguyền và kể cả sự chết. Điều quan trọng nhất, vương quốc của Ngài là vương quốc lẽ thật nên Chúa có thể chiến thắng vương quốc lừa dối của Sa-tan và giải phóng con người. Thế gian đã chối bỏ Chúa cũng như vương quốc lẽ thật của Ngài, tuy nhiên bạn và tôi là những tôi tớ Chúa, và dù chúng ta ở nơi đâu thì vương quốc của Đức Chúa Trời ở đó.

Đức Chúa Giê-su chết như một vị Vua. Tấm bảng trên cây thập tự nơi Đức Chúa Giê-su chịu đóng đinh viết rằng: “Jêsus người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa” (Giăng 19:19). Áo choàng của Chúa bị các tên lính cướp đi, còn vương miện của Ngài thì được làm bằng gai. Dân chúng nhạo báng Ngài thay vì la lên “Đức Chúa Trời cứu Đức Vua”. Song từ chính thập giá ấy Đức Chúa Giê-su thi hành sự cai trị! Ngài cầu nguyện cho lãnh đạo Do Thái và các tên lính La Mã. Ngài đem một tên tội phạm ăn năn vào trong vương quốc của Ngài. Ngài truyền cho Giăng phải chăm sóc bà Ma-ri, mẹ Chúa. Ngài chiến thắng Sa-tan và âm phủ, khiến bầu trời trở nên tối tăm trong ba giờ khi Chúa chuộc lấy tội lỗi của thế gian, một cơn động đất xảy ra, những ngôi mộ được mở và kẻ chết sống lại, và cuối cùng Chúa hoàn thành công tác của Ngài trên đất. Rõ ràng, vinh quang của Cơ Đốc Nhân là chính tại nơi thập giá (Ga-la-ti 6:14).

Ngày nay Đức Chúa Giê-su đang cai trị! Sau khi thăng thiên, Đức Chúa Giê-su ngự trên ngôi và là Thầy Tế Lễ Nhà Vua của chúng ta “theo bang Mên-chi-xê-đéc” (Hê-bơ-rơ 6:20; xem Sáng Thế Ký 14:18-24). Tên ­Mên-chi-xê-đéc nghĩa là “vua công chính.” Ngoài Đức Chúa Giê-su, Kinh Thánh không kể về bất cứ ai đồng thời giữ chức vụ là vua và thầy tế lễ. Chúng ta được phép đến gần ngôi ân điển, chính là ngai ngự của Chúa (Hê-bơ-rơ 4:14-16) và Ngài có mọi thẩm quyền trên trời và dưới đất (Ma-thi-ơ 28:18). Là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm, Ngài cảm nhận nỗi đau và biết nhu cầu của chúng ta. Là Vua, Ngài có thể chu cấp và làm những gì tốt nhất cho chúng ta.

Đức Chúa Giê-su sẽ trở lại và cai trị trên đất. Khi ấy, mọi đầu gối sẽ quỳ và mọi lưỡi đều xưng Đức Chúa Giê-su Christ là Chúa (Phi-líp 2:9-11). Cả thế giới sẽ biết Ngài là Vua muôn vua và Chúa muôn chúa (Khải Huyền 19:16). Những ai tin cậy nơi Ngài sẽ được đồng cai trị với Ngài và phục vụ Ngài đời đời mãi mãi (22:5). Chúa sẽ giao cho chúng ta những nhiệm vụ tùy theo cách chúng ta đã phục vụ Chúa trong đời sống ngày hôm nay. Chúng ta có trung tín và vâng lời? Chúng ta có tìm cách tôn vinh Chúa? Những ai chối bỏ Chúa sẽ bị ném vào nơi tối tăm để chịu đau khổ đời đời.

Đức Chúa Giê-su có phải là Vua trong cuộc đời của bạn và tôi? Ngài có dùng lẽ thật mà cai quản chúng ta không? Chúng ta có đang phục vụ Chúa và nỗ lực chinh phục người đang hư mất cho Chúa hay không? Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng khi Đức Chúa Giê-su Christ trở lại!

Hỡi Vua của muôn đời,

Đường lối Ngài là công bình và chân thật!

Khải Huyền 15:3

 

 

 

Bài 65 

Từ lúc đó, Phi-lát kiếm cách để tha Ngài; nhưng dân Giu-đa kêu lên rằng: Ví bằng quan tha người nầy, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa; vì hễ ai tự xưng là vua, ấy là xướng lên nghịch cùng Sê-sa vậy!

Giăng 19:12

Bôn-xơ Phi-lát, tổng đốc của đế quốc La-mã tại xứ Giu-đê, được nhắc đến năm mươi lăm lần trong Kinh Thánh Tân Ước. Tên của ông cũng được hàng triệu Cơ Đốc Nhân khắp thế giới nhắc đến khi họ tuyên xưng đức tin qua bài Tín Điều Các Sứ Đồ: “Ngài chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Phi-lát.” Đế quốc La-mã nổi tiếng với nghệ thuật chiến tranh, tài tổ chức và quản trị, chính vì thế các quan cai quản của họ biết cách phải chơi trò chơi chính trị như thế nào. Người ta nói rằng, một chính khách thì suy nghĩ cho thế hệ tiếp theo, nhưng một chính trị gia thì quan tâm đến cuộc tranh cử sắp tới. Phi-lát lo lắng đến Phi-lát, nghĩa là thuận theo ý người Do Thái và giữ chức vị của mình.

Được các lãnh đạo Do Thái Giáo khuyến khích, đám đông hô hoán những lời vu khống chống lại Đức Chúa Giê-su. Họ nói cùng Phi-lát rằng Đức Chúa Giê-su là một người làm việc ác, một người khuấy động dân chúng (Giăng 18:30; Lu-ca 23:1-5). Tuy nhiên Đức Chúa Giê-su không bao giờ can thiệp vào chính trị, thậm chí khi bị kẻ thù gài bẫy bằng những câu hỏi cắc cớ về việc nộp thuế cho Sê-sa, Đức Chúa Giê-su đáp lời khiến họ phải nín lặng. Họ nói với Phi-lát rằng Đức Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, một lời cáo buộc khiến vị quan tổng quản sửng sốt, tuy nhiên ông chẳng thể đưa ra một hành động nào. Tôn giáo không phải là lĩnh vực của Phi-lát. Cuối cùng, các lãnh đạo tôn giáo cũng đã châm vào đúng chỗ huyệt: “Hắn tự xưng mình là vua! Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Sê-sa!” Chính trị chính là lĩnh vực của Phi-lát, và ông đang run sợ trước đám đông đầy giận dữ thách thức tài lãnh đạo của mình. Họ nói rằng: “Nếu quan tha Giê-su người Na-xa-rét, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa!”

Quan tổng quản đã đưa ra một quyết định sai lầm. Phi-lát biết rằng các lãnh đạo Do Thái Giáo đố kỵ với sự nổi tiếng, năng quyền và những lời dạy khôn ngoan của Đức Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 27:18). Phi-lát tìm cách hợp pháp để giải phóng Đức Chúa Giê-su, nhưng vô ích. Khi biết Đức Chúa Giê-su đến từ Ga-li-lê, Phi-lát đưa Ngài đến Vua Hê-rốt, tuy nhiên Hê-rốt đã trả Đức Chúa Giê-su về lại Phi-lát. Hê-rốt là một chính trị gia gian xảo hành động vì lợi ích của mình. Tuy nhiên, bạn không thể để người khác thay bạn quyết định về Đức Chúa Giê-su. Chỉ bạn mới có thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc sống: “Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào?” (c. 22). Phi-lát là một người hai lòng và không kiên định trong con đường mình (Gia-cơ 4:8). Ông muốn làm hài lòng người Do Thái và cũng không muốn khiến cho hoàng đế giận dữ và phật ý. Người có hai lòng cũng là người nói hai lời (1 Ti-mô-thê 3:8), họ vấp phải sai phạm này đến sai phạm khác (1 Các vua 18:21). Họ cũng là người đi hai hàng và không thật lòng vâng phục để có thể đặt Đức Chúa Giê-su lên trên hết mọi điều (Cô-lô-se 1:18). Người tin Chúa là bạn hữu của Đức Chúa Giê-su Christ (Giăng 15:13-15) và họ vui lòng để Chúa làm chủ mọi việc.

Đức Chúa Giê-su nói lời tuyên xưng cách mạnh mẽ. Phao-lô viết rằng: “Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng tốt nơi Bôn-xơ Phi-lát” (1 Ti-mô-thê 6:13). Phao-lô khích lệ Ti-mô-thê trở nên một Cơ Đốc Nhân can đảm và không lo sợ những người chưa tin sẽ nói hoặc phản ứng ra sao. Lãnh đạo I-sơ-ra-ên đã khước từ và đóng đinh chính Đấng Mê-si của họ trên thập tự giá (Công vụ 3:13; 4:27), nhưng Đức Chúa Giê-su dùng chính sự đau khổ của Ngài để làm chứng cho lẽ thật. Phi-e-rơ truyền cho Cơ Đốc Nhân phải noi theo tấm gương của Đức Chúa Giê-su (1 Phi-e-rơ 4:12-19). Nếu Đức Chúa Giê-su là bạn, chúng ta sẽ đứng về phía Ngài dù đám đông có thể la lên giận dữ. Phi-lát muốn làm bạn với Ti-bê-ri-út Sê-sa và cả đám đông Do Thái, thế nên ông phải trả giá cho sự lựa chọn của mình. Vua muôn vua chính là bạn của chúng ta!

Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta.

Giăng 15:14

 

 

 

Bài 66

Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.

Giăng 19:30

Điều gì đã được hoàn thành? Chính là sự chuộc tội! “Mọi việc đã được trọn” trong tiếng Hy Lạp chỉ là một từ gồm mười chữ cái và dùng ở thì hoàn thành, từ này có thể được dịch là: “điều đó đã được hoàn tất, vẫn còn được hoàn thành cho đến ngày nay và sẽ luôn luôn được hoàn thành.” Đức Chúa Giê-su đã hoàn thành công tác chuộc tội với một cái giá rất cao, trải qua sáu giờ trên thập giá, chúng ta không thể nào thêm điều gì vào công việc ấy. Đức Chúa Giê-su đã trả xong mọi sự; Ngài không trả trước một phần và muốn chúng ta trả góp phần còn lại. Trước khi bị bắt, Đức Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha rằng: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Giăng 17:4). Mỗi một người tin Chúa đều cần khao khát được nói điều này với Đức Chúa Cha khi họ lên thiên đàng. Tôi đã học được rất nhiều điều từ cách Đức Chúa Giê-su thi hành công tác của Đức Chúa Cha trên đất này.

Trước hết, mỗi một người tin Chúa đều nhận một công tác để thực hiện. “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.” (Ê-phê-sô 2:10). Đức Chúa Trời không chỉ chuẩn bị các công tác cho chúng ta, nhưng Ngài cũng chuẩn bị chúng ta để thực hiện các công tác ấy. Khả năng, sự quan tâm, kinh nghiệm, ân tứ thuộc linh, và sự hiểu biết mỗi ngày một gia tăng về Chúa và Kinh Thánh chính là các trang bị để chúng ta trở nên những người làm công không hổ thẹn (2 Ti-mô-thê 2:15). Đức Chúa Trời có nhiều cách để chuẩn bị cho những người làm công của Ngài và thường vượt hơn sự huấn luyện mà các nhà giáo dục của chúng ta cho là cần thiết. Nếu chúng ta sẵn lòng vâng lời, Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ cho chúng ta điều Ngài muốn chúng ta thực hiện (Giăng 7:17).

Chúa không chỉ chọn và trang bị chúng ta, nhưng Ngài cũng có một kế hoạch cho cuộc đời chúng ta. Nếu lần tới bạn đọc Phúc Âm Giăng, hãy ghi lại bao nhiêu lần từ “giờ” được nhắc đến. Đức Chúa Giê-su dành ba mươi năm đầu tiên trên đất ở tại Na-xa-rét. Đến đúng thời điểm, Ngài chịu Giăng làm phép báp-têm, chịu Sa-tan cám dỗ trong đồng vắng, và bắt đầu công khai mục vụ của Ngài. Chúa kêu gọi bốn người đánh cá trở nên môn đồ của Ngài và sau đó Ngài kêu gọi thêm nhiều người khác để huấn luyện họ cùng làm công tác với Ngài. Mỗi sáng sớm, Đức Chúa Giê-su đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện và tiếp nhận “mệnh lệnh của ngày hôm đó” từ Đức Chúa Cha (Ê-sai 50:4-7). Nói về việc làm theo ý muốn Chúa đúng thời điểm, chúng ta không được giống như con ngựa chạy nhanh phía trước, cũng không được như con la đi chậm chạp phía sau (Thi Thiên 32:8-9). Liệu chúng ta có thể chân thành nói với Chúa rằng: “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (31:15)? Làm thế nào chúng ta có thể công bố Rô-ma 8:28 nếu chúng ta không làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha?

Điều quan trọng nhất, chúng ta ở đây để phục vụ, không phải để người khác phục vụ mình. Mười hai môn đồ thường tranh cãi với nhau rằng ai là người lớn nhất trong số họ, nhưng Đức Chúa Giê-su nhắc rằng họ được lựa chọn để phục vụ người khác, cũng như Chúa đã phục vụ họ (Ma-thi-ơ 18:1-6). Trong đêm Đức Chúa Giê-su bị nộp, các môn đồ đã đến với bữa tiệc Lễ Vượt Qua và tranh cãi với nhau về việc ai là người lớn hơn hết (Lu-ca 22:24-30), và Đức Chúa Giê-su đã giải quyết vấn đề đó khi Ngài rửa chân cho các môn đồ! Trong thế gian, thành công được đo lường bằng cách có bao nhiêu người làm cho bạn, tuy nhiên trong vương quốc Chúa, phương cách đo lường đó là “bạn phục vụ cho bao nhiêu người?” Sự phục vụ Cơ Đốc có cả đau thương và hy sinh, thất vọng và khó khăn, và chỉ có thể tìm thấy động lực nơi tình yêu thương.

Tôi thường suy nghĩ về mục vụ của sứ đồ Phao-lô – những gánh nặng mà ông mang lấy, những chiến trận mà ông phải chiến đấu, những hiểu lầm mà ông phải tháo gỡ, những con người mà ông phải khích lệ, và bao nhiêu là hy sinh của ông – tôi tự hỏi chính mình: tôi đã làm điều đó chưa? Bằng chính sức mình? Tôi phải trả lời với sự quả quyết rằng: “Không!” Nhưng tôi cũng có thể nói với Phao-lô rằng: “Tôi làm được mọi sự, nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13). Chúng ta hầu việc một Đấng Chủ Tể tuyệt vời, Đấng biết chúng ta rõ hơn chúng ta biết về chính mình, và Ngài chỉ giao cho chúng ta những nhiệm vụ mà Ngài đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta và đã chuẩn bị chúng ta để thực hiện những công việc ấy. Quả là một vinh hạnh đầy vui sướng khi được hầu việc Chúa!

[biết rằng] anh em sẽ bởi Chúa mà được cơ nghiệp làm phần thưởng. Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa.

Cô-lô-se 3:24

 

 

Bài 67

Đức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Ngươi tìm ai?

Giăng 17:11

Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên người nam và người nữ đầu tiên, Ngài đã ban cho họ có tuyến lệ để giúp cho đôi mắt được khỏe mạnh. Sau đó họ bất tuân Đức Chúa Trời và đem tội lỗi vào thế gian. A-đam và Ê-va đã khóc khi bị đuổi khỏi vườn địa đàng cũng như khi A-bên bị Ca-in giết. Ngày nay, khi chúng ta gặp đau đớn thể xác hoặc có nỗi ưu sầu sâu sắc thì khóc có thể góp phần đem lại sự chữa lành. Ma-ri Ma-đơ-len nợ Đức Chúa Giê-su tất cả mọi điều (Lu-ca 8:1-2), bà vô cùng bối rối khi đến khu vườn và nhìn thấy mộ Chúa đã bị mở ra và xác Chúa không còn ở đó nữa. Hãy cùng suy ngẫm về sự thay đổi mà Ma-ri Ma-đơ-len đã trải qua khi bà gặp gỡ Đấng Christ Phục Sinh.

Bà đến ngôi mộ của Chúa mang tâm trạng của một người than khóc (Giăng 20:11). Bà không khóc thầm nhưng khóc nức nở như cách mà người Do Thái thời đó biểu lộ. Trí tưởng tượng của bà đi quá xa khi nghĩ rằng ai đó đã đánh cắp xác Đức Chúa Giê-su. Các cố vấn tâm lý cho chúng ta biết rằng hầu hết những khó khăn mà con người tưởng tượng thì không bao giờ xảy ra, hoặc nếu có xảy ra thì cũng không khủng khiếp như tưởng tượng. Đức Chúa Giê-su đã phán cùng những người theo Ngài rằng Ngài sẽ sống lại vào ngày thứ ba, tuy nhiên vì lý do nào đó mà thông điệp này không được ghi nhận vào tâm trí của họ. Tuy vậy, trước khi trách móc Ma-ri và những người bạn của bà, chúng ta hãy thừa nhận rằng chúng ta cũng bối rối bởi sự tưởng tượng,  vì đã quên những lời hứa của Đức Chúa Trời hoặc không công bố những lời hứa ấy. Chúng ta hầu việc một Đấng Cứu Rỗi phục sinh và “nhờ sự Đức Chúa Jêsus Christ sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống.” (1 Phi-e-rơ 1:3). Đời sống Cơ Đốc giống như một bữa tiệc chứ không như một tang lễ (1 Cô-rinh-tô 5:8). Ma-ri bị sự đau buồn làm mù mắt đến nỗi bà không nhận ra các thiên sứ trong ngôi mộ lẫn Đức Chúa Giê-su ở bên ngoài.

Khi Đức Chúa Giê-su đến, Ma-ri trở nên một nhà quản trị. Bà kiểm soát được tình hình. Nếu người làm vườn nói cho bà biết xác Chúa đang nằm ở đâu thì bà sẽ đến đó mà lấy (Giăng 20:15). Khi chúng ta bối rối trong cảm xúc và nhanh chóng đưa ra kết luận, chúng ta rất dễ cho rằng Đức Chúa Trời cần phải làm điều gì và chúng ta sẽ giúp đỡ Ngài như thế nào! Đức tin là sống không mưu toan, và những kế hoạch mong manh của chúng ta chỉ khiến vấn đề thêm nghiêm trọng và ngăn cản Chúa bày tỏ quyền năng của Ngài và nhận lấy sự vinh quang. Mỗi khi tôi có thái độ như thế, Chúa đều nhắc nhở tôi bằng Thi Thiên 46:10 “Hãy yên lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời.” Từ “yên lặng” trong tiếng Hê-bơ-rơ cũng có thể dịch là “hãy thư giãn, hãy thả tay ra.” Đức Chúa Trời không cần lời khuyên của tôi; Ngài khôn ngoan hơn tôi vạn lần. Can thiệp vào kế hoạch của Chúa sẽ gây ra thảm họa với công tác của Đức Chúa Trời và mục vụ của chúng ta! Khi Đức Chúa Giê-su nói tên Ma-ri, bà nhận ra Chúa và quỳ xuống chân Ngài mà thờ lạy, nếu bà nhớ đến lời hứa của Đức Chúa Giê-su, chắc hẳn trước đó bà đã cư xử cách khác.

Giờ đây, Ma-ri là một người đưa tin. “Hãy đi đến cùng anh em Ta,” Đức Chúa Giê-su truyền lệnh cho bà, và bà rời đi đến nơi các môn đồ đang nhóm lại (Giăng 20:17-18). “Hãy đến xem” và “Ra đi và nói” là hai mệnh lệnh trong mùa lễ Phục sinh cho dân sự của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 28:6-7). Đức Chúa Giê-su đã sống lại! Ngài có mọi thẩm quyền và đã đắc thắng kẻ thù. Ma-ri muốn giữ chân Đức Chúa Giê-su và giữ Ngài cho riêng bà, tuy nhiên Chúa phán cùng bà rằng hãy đứng dậy và ra đi đem theo một thông điệp. Quả là một vinh dự khi được mang lấy tin mừng phục sinh cho một thế giới khao khát niềm hy vọng!

Đừng khóc cho một Đấng Christ phục sinh và đắc thắng. Hãy khóc cho một Hội Thánh chết và thất bại, Hội Thánh không biết “quyền phép sự sống lại của Ngài” (Phi-líp 3:10). Phải chăng cuộc sống và Hội Thánh của chúng ta tin rằng Đức Chúa Giê-su đã sống lại? Hay là chúng ta mang danh là sống nhưng thực chất là chết (Khải Huyền 3:1)?

Vậy thì, chúng ta hãy giữ lễ… dùng bánh không men của sự thật thà và của lẽ thật.

1 Cô-rinh-tô 5:8

 

 

 

Bài 68

Khi thấy [Giăng], Phi-e-rơ hỏi Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, còn người nầy, về sau sẽ ra thế nào?

Giăng 21:21

Khi bất đồng với Đức Chúa Giê-su về việc Ngài sẽ chịu chết trên thập giá, Đức Chúa Giê-su đã phán cùng Phi-e-rơ rằng: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!” (Ma-thi-ơ 16:21-23). Khi Phi-e-rơ rút gươm mình ra trong vườn Ghết-sê-ma-nê và chém đứt tai của một người, Đức Chúa Giê-su đã ra lệnh cho ông ngừng lại và rồi Ngài chữa lành cho người ấy (Giăng 18:10-11; Lu-ca 22:51). Khi Phi-e-rơ chối Chúa lần thứ ba, Đức Chúa Giê-su lặng lẽ nhìn ông (Lu-ca 22:60-62), rồi Phi-e-rơ đi ra ngoài khóc lóc cách đắng cay. Sau khi Đức Chúa Giê-su phục sinh, Phi-e-rơ quay trở về nghề đánh cá nhưng chẳng bắt được gì, đến sáng, Đức Chúa Giê-su đã cho ông có một mẻ cá thật lớn và thậm chí Ngài đã nấu bữa sáng cho ông (Giăng 21:1-14). Nhưng cũng chính trong buổi sáng hôm ấy, Phi-e-rơ bắt đầu can thiệp vào ý muốn của Đức Chúa Trời cho đời sống của người bạn ông đó là Giăng, Đức Chúa Giê-su quở trách và nhắc ông rằng đó không phải là việc của ông.

Theo Đức Chúa Giê-su bằng việc tìm biết và vâng theo ý muốn của Ngài đó chính là đặc quyền và nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi một Cơ Đốc Nhân. Dù chúng ta nghĩ mình có bao nhiêu ân tứ và tài năng hoặc dù chúng ta nghĩ mình có bao nhiêu kinh nghiệm phục vụ trong lĩnh vực Cơ Đốc, nếu chúng ta không tìm kiếm và làm theo ý muốn Chúa từ trong tấm lòng (Ê-phê-sô 6:6), thì chúng ta đang lãng phí cuộc đời mình mà chẳng đạt được điều gì cho vương quốc của Đức Chúa Trời. Khích lệ người khác vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời là điều tốt, nhưng nếu chính chúng ta không vâng theo thì điều mà chúng ta lo nghĩ cho người khác chỉ là vẻ ngoài đạo đức giả mà thôi. Phi-e-rơ và Giăng thường làm việc cùng nhau, và có lẽ Phi-e-rơ đang lo nghĩ rằng liệu họ có còn tiếp tục hợp tác với nhau nữa không. Họ đã ở cùng nhau khi Đức Chúa Giê-su Christ hóa hình và khi Ngài khiến con gái của Giai-ru sống lại. Họ đã cùng nhau dọn bữa tiệc trong dịp Lễ Vượt Qua cho Đức Chúa Giê-su và mười hai môn đồ, họ cũng đã ở trong khu vườn khi Đức Chúa Giê-su cầu nguyện. Vào buổi sáng phục sinh, họ đã cùng nhau chạy đến ngôi mộ trống. Nhưng dù chúng ta có bao nhiêu kinh nghiệm lớn lao trong công tác hầu việc Chúa cùng với nhau, chúng ta cũng không bao giờ được can thiệp vào ý muốn của Đức Chúa Trời cho đời sống của người khác.

Khi tôi nhìn lại hơn sáu mươi năm trong linh trình hầu việc Chúa, tôi có thể nhớ lại những người có thiện chí nghĩ rằng họ biết ý muốn của Đức Chúa Trời cho cuộc đời của tôi – ngôi trường mà tôi nên học, người mà tôi nên cưới, nơi mà tôi nên phục vụ – và tôi biết ơn Chúa vì mình đã không đi theo họ. Tôi trân quý tình cảm của những người đã cảnh báo cho tôi khi tôi sắp phạm tội, nhưng tôi không cảm ơn “sự thông suốt mọi sự” của những người trong lúc tôi cần đưa ra quyết định.

Đức Chúa Trời hướng dẫn chúng ta khi chúng ta sẵn lòng vâng lời Ngài. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý Ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là Ta nói theo ý Ta” (Giăng 7:17). Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là nhiều sự lựa chọn, như thể đó là một “bữa tiệc buffet của tôn giáo.” Ý muốn của Đức Chúa Trời là mệnh lệnh của Vua và chúng ta cần phải vâng theo. Khi chúng ta biết ý muốn của Đức Chúa Trời thì chúng ta phải vâng theo, và khi chúng ta vâng theo, chúng ta sẽ càng khám phá nhiều hơn về Chúa và ý muốn của Ngài. Ý muốn của Đức Chúa Trời chính là sự bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta, và chúng ta cần phải nhìn xem Đức Chúa Giê-su (Hê-bơ-rơ 12:1-2). Phi-e-rơ bắt đầu đi theo Đức Chúa Giê-su, nhưng rồi ngoái nhìn lại Giăng, và hỏi ý muốn của Chúa cho đời sống của Giăng. Ông đã lập lại đúng sai phạm khi bước đi trên mặt nước (Ma-thi-ơ 14:28-31). Chúng ta sẽ nhìn chăm xem Đức Chúa Giê-su khi chúng ta suy ngẫm Lời Chúa và cầu nguyện (Công vụ 6:4), khi chúng ta vâng theo Chúa trong những điều mà chúng ta đã biết, và khi chúng ta cảm tạ Chúa về những lẽ thật mới mà Ngài bày tỏ cho chúng ta. Chúng ta trân trọng lời cố vấn từ những người bạn Cơ Đốc, nhưng Giăng 21:22-23 cảnh báo cho chúng ta rằng họ cũng có thể hiểu sai ý muốn của Chúa! Hãy nhớ Phao-lô, Ba-na-ba, và Mác (Công vụ 15:36-42; Cô-lô-se 4:10; 2 Ti-mô-thê 4:11).

Phi-e-rơ đã nhận được bài học cho chính ông. Nhiều năm sau đó, ông đã viết rằng: “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như… kẻ thày lay việc người khác” (1 Phi-e-rơ 4:15).

[Nhìn xem] Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin.

Hê-bơ-rơ 12:2

 

 

 

Bài 69

Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.

Công vụ 1:8

Hội Thánh đầu tiên không có nhà thờ, cũng chẳng có nguồn quỹ lớn (Công vụ 3:6), và được lập nên chủ yếu từ những con người bình thường là những người không có bạn bè có thế lực “ở trên cao.” Song, những tín hữu đầu tiên đã làm trọn sứ mạng của Đấng Christ và đem thành công phúc âm đến với thế giới của họ. Cơ Đốc Nhân ngày nay có nhiều phương tiện truyền thông và phương tiện vận tải mà Phi-e-rơ và Phao-lô sẽ cảm thấy sửng sốt, tuy nhiên chúng ta không được bằng họ. Thật vậy, sự phát triển Hội Thánh ở Hoa Kỳ chủ yếu do tín hữu đi từ Hội Thánh này sang Hội Thánh khác chứ không từ nguồn tân tín hữu gia nhập vào Hội Thánh.

Chúng ta nhận sứ mệnh làm chứng qua cách sống và lời nói. Chứng nhân là những người nói với người khác những điều mà họ biết về Đức Chúa Giê-su và những công việc mà Ngài đã làm cho họ (4:20). Họ chia sẻ tin mừng cứu rỗi một cách đầy yêu thương. Thật vậy, mọi Cơ Đốc Nhân đều là những chứng nhân, dù họ có đang làm tốt công việc của mình hay không. Đáng buồn thay, một số người đang sống như những công tố viên hoặc thẩm phán trong một phiên tòa chứ không như những chứng nhân. “Chứng nhân” trong tiếng Hy Lạp cho có nghĩa là tử đạo, và rất nhiều chứng nhân trung tín của Chúa đã đóng dấu lời chứng của họ bằng chính huyết của mình.

Chúng ta không thể làm chứng hiệu quả nếu không có năng quyền thiên thượng. Đức Chúa Giê-su truyền cho các môn đồ của Ngài phải ở lại thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi họ được Đức Thánh Linh ban năng quyền (Lu-ca 24:46-49), bởi khi đó họ mới được trang bị để truyền đạt phúc âm. Có thể bạn nghĩ rằng những tín hữu nhóm họp nơi phòng cao (Công vụ 1:12-14) đã có tất cả mọi điều mà họ cần để truyền giáo tại Giê-ru-sa-lem. Điều quan trọng nhất là họ biết Đức Chúa Giê-su cách cá nhân. Các sứ đồ đã sống cùng Đức Chúa Giê-su và được Ngài dạy dỗ. Họ đã chứng kiến những phép lạ và thậm chí chính họ đã thực hiện những phép lạ ấy. Tuy nhiên họ vẫn chưa sẵn sàng để làm chứng nếu họ không có năng quyền của Đức Thánh Linh, bởi đó chính là mục vụ của Đức Thánh Linh để trang bị chúng ta phục vụ. Nếu không có chức vụ của Đức Thánh Linh, tài sản của chúng ta chỉ là những khoản nợ.

Trong bài giảng trên phòng cao (Giăng 13-16), Đức Chúa Giê-su đã dạy dỗ các môn đồ về chức vụ của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh sẽ giúp họ biết và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời (14:15-17), dạy họ Kinh Thánh và giúp họ ghi nhớ những gì đã học (14:25-26; 16:13-15). Ngài sẽ ban cho họ có năng quyền để làm chứng (15:2-27) và cáo trách tội lỗi của những người lắng nghe (16:7-11). Điều này sẽ làm sáng danh Đức Chúa Giê-su (c. 14). Sách Công vụ các sứ đồ ghi lại tất cả các mục vụ trên của Đức Thánh Linh được thể hiện qua sinh hoạt của Hội Thánh đầu tiên. Ngày nay chúng ta thấy những điều này trong Hội Thánh hay không?

Bởi vì chúng ta đã tin cậy Đức Chúa Giê-su Christ và nhận lãnh sự cứu rỗi, chúng ta có Đức Thánh Linh ngự trong lòng mình (Rô-ma 8:9), tuy nhiên Đức Thánh Linh có kiểm soát đời sống của chúng ta hay không? Khi giáo sĩ D. L. Moody hầu việc Chúa tại Anh Quốc, một người chỉ trích đã hỏi rằng: “Có phải ông Moody có độc quyền một Đức Thánh Linh?” Một người bạn đáp rằng: “Không, nhưng Đức Thánh Linh chiếm độc quyền ông D. L. Moody.” Được đầy dẫy Đức Thánh Linh nghĩa là được Đức Thánh Linh kiểm soát và sẵn lòng để Ngài sử dụng nhằm tôn vinh Chúa. Tôi đã từng nghe A. W. Tozer nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời đem Đức Thánh Linh ra khỏi thế giới, hầu hết những gì mà Hội Thánh đang làm sẽ tiếp tục được diễn ra mà không ai có thể nhận ra sự khác biệt.” Chúng ta có thấy sự khác biệt?

Khi nào Đấng Yên ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta. Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta.

Giăng 15:26-27

 

 

 

 

 

Bài 70

Trong sách Thi thiên cũng có chép rằng: “Nguyền cho chỗ ở nó trở nên hoang loạn, chớ có ai ở đó”; lại rằng: “Nguyền cho có một người khác nhận lấy chức nó.”

Công vụ 1:20

Khi ấy có 120 người tin Chúa, nam và nữ, họp lại trong một phòng cao ở Giê-ru-sa-lem, chờ đợi sự giáng lâm của Đức Thánh Linh là Đấng đã được hứa ban (Lu-ca 24:49; Công vụ 1:8). Trong số họ có các sứ đồ, Ma-ri mẹ Đức Chúa Giê-su, và các em của Ngài. Buổi nhóm cầu nguyện đó trở nên một buổi bầu chọn một sứ đồ mới. Chúng ta hãy bàn về ba người.

Đầu tiên, hãy xem xét người lãnh đạo Phi-e-rơ. Mỗi khi Kinh Thánh nhắc đến danh sách tên của các sứ đồ thì tên của Phi-e-rơ luôn luôn được nêu lên trước hết, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã chọn ông là người “cao hơn hết giữa những người bình đẳng với nhau.” Những vấp ngã của Phi-e-rơ trong những năm ông được huấn luyện có thể nói lên rằng ông không đủ khả năng lãnh đạo, tuy nhiên giờ đây ông đã được trang bị cho nhiệm vụ của mình. Mặc dù trước ngày Lễ Ngũ Tuần, phép báp-têm và sự đổ đầy của Đức Thánh Linh vẫn chưa xảy ra, nhưng các sứ đồ đã có sự hiện diện của Đức Thánh Linh ở trong họ (Giăng 20:19-23), và lòng họ được mở ra để hiểu Kinh Thánh (Lu-ca 24:44-45). Qua Thi Thiên 69:25 và 109:8 Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho Phi-e-rơ biết rằng một sứ đồ mới sẽ được chọn để thay thế Giu-đa. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các sứ đồ sẽ làm chứng cho mười hai chi phái của Y-sơ-ra-ên, và họ cần phải có đủ số lượng để làm điều này. (Hãy lưu ý Thi Thiên 69 là một Thi Thiên nói về Đấng Mê-si.) Phi-e-rơ đã nêu lên những phẩm chất của sứ đồ: (1) người đó phải đi cùng Đức Chúa Giê-su từ lúc Giăng làm phép báp-têm, và (2) người đó phải nhìn thấy Đấng Christ phục sinh để có thể làm chứng về sự sống lại của Ngài (Công vụ 1:22). Hai người nam được nêu tên, họ cầu nguyện, và bắt thăm. Đức Chúa Trời chọn Ma-thia, tên ông có nghĩa là “món quà của Đức Giê-hô-va.” Nếu mỗi một Hội Thánh địa phương đều nhờ cậy nơi sự cầu nguyện, Lời Chúa (6:4) và tôn trọng sự lãnh đạo mà Đức Chúa Trời đã ban cho, thì trong Hội Thánh sẽ có ít vấn đề xảy ra.

Tiếp theo, hãy nhắc đến Giu-đa – kẻ phản bội. Tên của ông có nghĩa là “ngợi khen” nhưng đời sống của ông không làm sáng danh Chúa. Ông là thủ quỹ của nhóm Mười Hai Sứ Đồ nhưng lại trộm tiền quỹ (Giăng 12:6). Giăng 6:67-71 bày tỏ rõ rằng Giu-đa không được tái sinh bởi vì ông là tôi tớ cho ma quỷ (13:21-30). Tuy nhiên, mười một môn đồ còn lại không nhận ra ông là kẻ giả mạo, và Đức Chúa Giê-su đã đau đớn khi không vạch trần con người này. Thông qua ngụ ngôn về cỏ dại (Ma-thi-ơ 13:24-30, 36-43) chúng ta học được rằng bất cứ nơi đâu Đức Chúa Trời gieo trồng các con cái của Ngài thì ma quỷ sẽ đến đặt vào đó những kẻ giả mạo. Giu-đa là kẻ giả mạo trong nhóm các môn đồ. Tôi nghĩ Mục sư Charles Spurgeon đã nói rằng: “Nếu bạn muốn tạo ra một con quỷ, thì bạn phải bắt đầu từ một thiên sứ; nếu bạn muốn tạo ra một Giu-đa, bạn phải bắt đầu từ một môn đồ.” Đáng buồn thay, nơi nào cũng có những kẻ giả mạo, nhưng chính Hội Thánh là nơi họ gây tổn hại nhiều nhất.

Cuối cùng, hãy nói về Ma-thia – tân sứ đồ. Việc Ma-thia không còn được nhắc đến trong sách Công vụ và các thư tín không thể nói lên điều gì về ông và mục vụ của ông, bởi vì đa số các môn đồ đầu tiên chỉ được nhắc đến trong các sách Phúc Âm. Đức Chúa Trời đã lựa chọn Ma-thia và trang bị để ông làm công tác Chúa giao. Không phải tất cả các đầy tớ Chúa đều nổi danh, song dân sự của Đức Chúa Trời thì làm công việc nhà Ngài. Chúng ta không quyết định ý muốn của Đức Chúa Trời bằng cách bắt thăm, tuy nhiên nếu chúng ta biết Lời Chúa và dành thời gian cầu nguyện, chúng ta sẽ khám phá ý muốn của Ngài.

Việc Giu-đa ở trong nhóm các môn đồ nói lên rằng không một nhóm Cơ đốc nhân nào trên đất này là hoàn hảo, và việc Ma-thia không nổi danh thể hiện rằng không phải mọi tôi tớ Chúa đều là Phi-e-rơ, Giăng, hoặc Phao-lô. Hãy dâng cho Chúa điều tốt nhất và hãy hướng đến việc tôn vinh Đức Chúa Giê-su Christ mà thôi.

Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.

1 Côr. 10:31

Bài 71

Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của chung.

Công vụ 2:44

Trong những năm hầu việc Chúa, đã ba lần các Hội Thánh bầu chọn chúng tôi, trong đó có hai lần cả vợ tôi và tôi đều đang phục vụ trong các mục vụ bên ngoài giáo hội và chúng tôi phải quyết định lựa chọn Hội Thánh. Không có Hội Thánh nào là hoàn hảo, nhưng bạn muốn lựa chọn một Hội Thánh gần giống với khuôn mẫu Hội Thánh Tân Ước nhất, và Công vụ 2:40-47 chính là sự miêu tả xuất sắc nhất về Hội Thánh được Đức Thánh Linh hướng dẫn. Chúng ta muốn một Hội Thánh hiệp một trong những điều thật sự quan trọng chứ không bị chia rẽ bởi những điều kém quan trọng. Đức Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho các môn đồ của Ngài được hiệp một (Giăng 17:11, 21-22), và Hội Thánh được mô tả trong Công vụ 2 hiển nhiên đã thể hiện được điều này. Ở họ có sự “hiệp lại với nhau”.

Những người tin Chúa cùng hiệp lại với nhau trong niềm tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ. Họ cần phải là “những người tin Chúa,” nghĩa là có niềm tin cá nhân nơi Đức Chúa Giê-su là Đấng Cứu Rỗi và là Chúa của riêng mình và họ cần phải công bố niềm tin đó. Trước khi hiệp một trong gia đình Hội Thánh, bạn cần được tái sinh để trở nên một phần trong gia đình của Đức Chúa Trời, đó là nơi không đòi hỏi về đạo đức, giới tính, chính trị, kinh tế hoặc xã hội, bởi vì người tin Chúa thật đều “là một trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Ga-la-ti 3:28). Giáo lý Cơ Đốc là điều thiết yếu cho sự hiệp nhất của Cơ Đốc Nhân (Công vụ 2:42), và nền tảng đó chính là Kinh Thánh. Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã giảng Lời Chúa và trình bày về sự chết, chôn và sống lại của Đức Chúa Giê-su. Augustine đã nói thật đầy đủ rằng: “Trong những điều cần thiết phải có sự hiệp một; trong những điều không cần thiết nên có sự độc lập; trong mọi điều phải có lòng khoan dung.”

Những người tin Chúa cần hiệp một trong sự kính sợ Chúa (c. 43). Phi-e-rơ đã giảng rằng: “Vậy, cả nhà Y-sơ-ra-ên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Jêsus nầy, mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (c.36). Kính sợ Chúa nghĩa là tôn kính và thờ phượng Chúa, làm theo mạng lệnh của Ngài, và mong muốn làm đẹp lòng Chúa trong mọi điều chúng ta suy nghĩ, nói hoặc hành động. Kính sợ Chúa nghĩa là không cố tình bất tuân lời Chúa và khiến Ngài phải uốn nắn chúng ta. Sự thờ phượng thật là tôn vinh và làm sáng danh Ngài. Đó không phải là sự giải trí bằng tôn giáo hoặc những sự phấn khích nông cạn, nhưng sự thờ phượng thật làm phong phú cho tâm linh là điều còn lại lâu dài. Sự thờ phượng, cầu nguyện, học lời Chúa và sự nhóm lại đều là những hoạt động bày tỏ sự kính sợ và phục vụ Chúa.

Những người tin Chúa cần hiệp một trong sự thông công của Đức Thánh Linh. Sự thông công thuộc linh không có nghĩa là trò chuyện, cười đùa trước một tách cà phê và một chiếc bánh, mặc dù điều đó không có gì sai. Tuy nhiên trong Tân Ước, từ thông công có nghĩa là “có điểm chung.” Chúng ta càng giống Đức Chúa Giê-su thì chúng ta càng gần với nhau; và chúng ta càng gần với nhau thì chúng ta càng hiểu nhau, càng cảm thông và chăm sóc lẫn nhau. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải yêu thương nhau, cầu nguyện cho nhau, tha thứ, khích lệ lẫn nhau – trong Tân Ước có rất nhiều sự dạy dỗ về Cơ Đốc Nhân “với nhau”! Hội Thánh đầu tiên tại Giê-ru-sa-lem đã tiếp nhận rất nhiều tân tín hữu trong ngày Lễ Ngũ Tuần năm ấy, họ là những khách lạ đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Sự thông công Cơ Đốc cần phải được thực hành cũng như tình yêu của Chúa đã dành cho chúng ta (Ê-phê-sô 3:19-21).

Những người tin Chúa cần hiệp một trung tín làm chứng cho những người lạc mất. “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh.” (Công vụ 2:47). Không chỉ một ngày vào Chủ Nhật, cũng không chỉ một lần trong năm vào đại hội “phấn hưng”, nhưng là hằng ngày! Điều đó có nghĩa là những người tin Chúa đã làm chứng tại nơi làm việc, ở nơi họ sống và trong đền thờ, thông qua cách sống và lời nói. Họ đã chia sẻ phúc âm ở bất kỳ nơi nào họ đến bởi Đức Thánh Linh đã ban quyền phép cho họ (Công vụ 1:8), và Chúa đã khiến số người được cứu càng được thêm lên.

Chúng ta muốn dự phần vào một Hội Thánh giống như Hội Thánh ban đầu, tuy nhiên có thể Chúa muốn khởi đầu công việc từ trong chính chúng ta trước hết!

Chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau.

Rô-ma 12:5

 

Bài 72

Hỡi anh em, bây giờ ta biết anh em và các quan của anh em, vì lòng ngu dốt nên đã làm điều đó.

Công vụ 3:17

Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Trước pháp luật, sự ngu dốt không phải là một lời bào chữa.” Nếu tôi lái xe quá nhanh trong khu vực đô thị, tôi không thể tự bào chữa với viên cảnh sát rằng tôi không biết đó là khu vực đô thị. Các nhà lập pháp không thể ban hành những đạo luật thích hợp với kiến thức và kinh nghiệm của tất cả công dân. Song dường như Phi-e-rơ muốn dùng sự thiếu kiến thức của những người trong đền thờ để bào chữa cho việc họ đã đóng đinh Đức Chúa Giê-su. Trước đó Phi-e-rơ đã buộc tội họ vì đã khước từ Đức Chúa Giê-su và xin giải phóng kẻ sát nhân (Ba-ra-ba). Họ đã giết Đấng Mê-si, là Vua của Sự Sống! Liệu tội lỗi của họ có được tha vì sự thiếu hiểu biết?

Phi-e-rơ biết rõ rằng luật pháp Môi-se quy định những con sinh hiến tế để chuộc những tội lỗi vô ý phạm phải chứ không dành cho những tội cố ý chống nghịch Chúa (Dân số 15:27-31). Chẳng hạn như khi một người phát hiện mình vô tình chạm phải một con vật chết và vì thế bị ô uế, người đó phải đem con sinh hiến tế cho thầy tế lễ và được sạch. Nhưng hễ ai cố tình không vâng lời Chúa và vi phạm luật pháp thì bị kết tội, có thể chịu hình phạt rất nặng, thậm chí là tử hình. Sách Hê-bơ-rơ đề cập đến điều này, đó là trong ngày Đại lễ Chuộc Tội, thầy tế lễ thượng phẩm sẽ dâng con sinh tế để tha thứ tội lỗi cho chính ông và dân sự đã vi phạm “vì sự thiếu hiểu biết” (Hê-bơ-rơ 9:6-7). Đức Chúa Trời thương xót những người đi lạc lối vì sự thiếu hiểu biết (5:1-3).

Tuy nhiên, sự hy sinh của Đức Chúa Giê-su trên thập tự giá còn nhiều hơn thế nữa, bởi Chúa đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu-ca 23:34). Các lãnh đạo Do Thái Giáo đã phạm tội khi họ cố ý đóng đinh Đức Chúa Giê-su; họ đã nhắm mắt lại trước sự sáng mà Đức Chúa Trời đã ban để họ có thể thấy rõ, tuy nhiên đám đông là những người hiệp ý với các lãnh đạo tôn giáo thì không biết những sự việc được bày tỏ. Các lãnh đạo tôn giáo biết các lời tiên tri trong Cựu Ước để có thể làm theo, tuy nhiên khi đưa ra âm mưu ích kỷ và chủ tâm, họ đã bỏ qua chính Kinh Thánh là điều họ đọc và rất trân trọng. Đức Chúa Giê-su phán rằng Pha-ri-si là những người mù dẫn dắt những người mù (Ma-thi-ơ 15:14), song những người Pha-ri-si nghĩ rằng những kiến thức Kinh Thánh mới là điều khiến họ trở nên các lãnh đạo thật sự. Tuy nhiên Đức Chúa Giê-su phán rằng họ không hiểu Kinh Thánh cũng không hiểu năng quyền của Đức Chúa Trời (22:9). Công tác cuối cùng của Đức Chúa Giê-su trên thập giá đã trả một lần cho tất cả cái giá của tội lỗi của mọi thời đại, và bạn được tha thứ mọi lỗi lầm (Cô-lô-se 2:13).

Hãy xem lời chứng của Phao-lô, “ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đương lúc ta ngu muội chưa tin.” (1 Ti-mô-thê 1:13). Phao-lô tưởng rằng ông đang phục vụ Chúa bằng cách đàn áp Hội Thánh. Lời cầu nguyện của Đức Chúa Giê-su khi các tên lính đóng đinh Ngài trên thập giá đã trả lời cho sự cứu rỗi của Phao-lô. Việc không nhận biết Đức Chúa Giê-su và công việc của Ngài sẽ không cứu bất kỳ ai, tuy nhiên điều đó mở ra cánh cửa yêu thương cho những ai không biết con đường cứu rỗi. Sa-tan che mắt của những người lạc mất để họ không hiểu Kinh Thánh cũng như không nhận biết ân điển của Đức Chúa Trời. Hắn muốn con người nghĩ rằng họ vô vọng và bất tài bởi vì tội lỗi của mình. Tuy nhiên lời hứa của Chúa vẫn đứng vững: “Vả lại ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu” (Công vụ 2:21).

Có những con người lạc mất, họ đã biết về thập giá nhưng từ chối niềm tin. Những người khác thì lạc mất bởi vì chưa ai từng chia sẻ với họ về tin mừng phúc âm. Không con cái Chúa nào đã để ý đến Kinh Thánh và thánh ca có thể tuyên bố mình không biết về trách nhiệm làm chứng cho thế giới lạc mất. Chúng ta có đang cầu nguyện cho những người lạc mất không? Mỗi ngày chúng ta có cầu xin Chúa ban cho cơ hội để chia sẻ Đấng Christ?

Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?

Rô-ma 10:14

 

 

Bài 73

Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.

Công vụ 4:12

Biết được ý nghĩa tên của các nhân vật trong Kinh Thánh thường là chìa khóa để hiểu về những người đã sinh ra các nhân vật đó, và khi tên của một người được thay đổi thì thường gắn liền với một sự thay đổi toàn diện trong cuộc sống của họ. Áp-ram (cha cao quý) trở thành Áp-ra-ham (cha của nhiều dân tộc); Si-môn (lắng nghe) trở thành Phi-e-rơ (đá); và Sau-lơ (cầu hỏi Chúa) trở thành Phao-lô (nhỏ bé). Trong phần Kinh Thánh này, sứ đồ Phi-e-rơ tôn cao danh Giê-su (Đấng Cứu Rỗi) trước hội đồng người Do Thái, Danh Ngài là “Danh trên hết mọi Danh” (Phi-líp 2:9) và cũng chính là Danh mà chúng ta đều cần phải tin cậy.

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn nhờ đó mà được lên thiên đàng. Thiên sứ phán cùng Giô-sép rằng Ma-ri sẽ sanh một trai và họ sẽ phải đặt tên cho con trai ấy là Giê-su, “vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội” (Ma-thi-ơ 1:20-21). Tên Giê-su nghĩa là “Đấng Cứu Rỗi,” vì “Đức Chúa Cha đã sai Đức Chúa Con đặng làm Cứu Chúa thế gian” (1 Giăng 4:14). Một số người chỉ muốn Đức Chúa Giê-su là một tấm gương để noi theo hoặc một người thầy để chỉ bảo cho họ, nhưng trên cả một người thầy hoặc một tấm gương, nhu cầu lớn nhất của chúng ta đó chính là một Đấng Cứu Rỗi. “Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Công vụ 16:31).

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn được đáp lời cầu nguyện. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Các ngươi nhân danh ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con. Nếu các ngươi nhân danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho” (Giăng 14:13-14). Cầu xin trong Danh Đức Chúa Giê-su nghĩa là cầu xin điều mà Ngài xin. “Đức Chúa Giê-su sẽ cầu xin điều gì?” đây chính là câu hỏi rất quan trọng, bởi vì chỉ khi chúng ta cầu xin trong ý muốn của Chúa thì chúng ta mới có thể hy vọng Ngài đáp lời (1 Giăng 5:14-15). Chúng ta cần phải dành thời gian trong Lời Chúa và tìm biết Chúa muốn chúng ta cầu xin điều gì.

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn hiểu Kinh Thánh. Chủ đề của cả Kinh Thánh đó chính là Đức Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi thế gian. Hai người đi trên đường về Em-ma-út đã có đặc ân được lắng nghe Đức Chúa Giê-su dạy dỗ họ về Cựu Ước, tấm lòng của họ trở nên nóng cháy khi họ lắng nghe (Lu-ca 24:13-35). “Ngài bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh” (c. 27). Đức Thánh Linh sẵn lòng giúp đỡ chúng ta hiểu được Kinh Thánh!

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn trở nên một chứng nhân có kết quả. Lời chứng của chúng ta không nên tập trung vào hệ phái hoặc một Hội Thánh hoặc một người giảng đạo nào; lời chứng của chúng ta phải hướng về Đức Chúa Giê-su (Công vụ 1:8). Chúng ta phải nói như Phi-e-rơ rằng: “về phần chúng tôi không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe” (4:20). Đó chính là làm chứng, đơn giản nghĩa là kể lại cho người khác những gì chúng ta đã nhìn thấy và lắng nghe về Đức Chúa Giê-su Christ, và minh chứng cho lời nói của mình bằng đời sống.

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn kinh nghiệm sự đắc thắng. Qua cuộc đời của Đức Chúa Giê-su, sự sống, sự chết, phục sinh và thăng thiên, Đức Chúa Giê-su đã đắc thắng thế gian (Giăng 16:33), đắc thắng xác thịt (Rô-ma 6:1-7), và đắc thắng ma quỷ (Cô-lô-se 2:13-15). Ngài đã ban Đức Thánh Linh để ngự trong lòng mỗi một người tin Chúa và giúp chúng ta bước đi trong đời sống mới. Bởi đức tin, chúng ta có thể nói như Phao-lô rằng: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

Ở dưới trời chẳng có danh nào khác để bạn có một hy vọng sống. Đức Chúa Giê-su chính là niềm hy vọng của chúng ta (1 Ti-mô-thê 1:1). Khi có Đức Chúa Giê-su là Chúa, thì tương lai chính là bạn của chúng ta. Dù chúng ta có lắng nghe tin tức gì về tình hình thế giới và dù chúng ta có đối diện với những nan đề nào, chúng ta vẫn sẽ nhìn lên và trông đợi sự trở lại của Chúa chúng ta. Niềm hy vọng Cơ Đốc không phải là câu nói: “Tôi mong là thế”, nhưng là sự biết chắc rằng tương lai nằm trong tay của Chúa. Chúng ta có một Chúa sống và chính vì thế chúng ta có niềm hy vọng sống (1 Phi-e-rơ 1:3).

Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài.

Ê-phê-sô 6:10

 

Bài 74

Đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa.

Công vụ 6:7

Phần Kinh Thánh này kết lại câu chuyện Hội Thánh đã giải quyết một vấn đề nghiêm trọng như thế nào và sau đó họ đã có một mùa gặt vĩ đại. Đã có sự chia rẽ trong Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và điều này luôn khiến cho mục vụ yếu đi. Đồng thời cũng có một số người phàn nàn, đây chính là điều cướp đi năng quyền thuộc linh của Hội Thánh. Vấn đề trọng tâm chính là các sứ đồ quá bận rộn phục vụ bàn ăn đến nỗi họ không thể tập trung vào sự cầu nguyện và mục vụ Lời Chúa (Công vụ 6:4). Khi các sứ đồ đã sắp đặt lại thứ tự ưu tiên của họ và Hội Thánh đã chọn được những người phục vụ mới, phước hạnh bắt đầu tuôn đổ. Lời Chúa là sống (Hê-bơ-rơ 4:12; Thi Thiên 119:50) và khi con người tiếp nhận Đấng Christ, Lời Chúa lan tỏa từ người sang người, tuy nhiên tội lỗi thường là điều ngăn trở phước hạnh.

Lời Chúa là sống và linh nghiệm trong sự sáng tạo, và chúng ta thấy được kết quả từng ngày, từng mùa. “Vì Ngài phán, thì việc liền có; Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi Thiên 33:9). “Ngài ra lịnh mình trên đất, Lời của Ngài chạy rất mau” (147:15). “Hỡi lửa và mưa đá, tuyết và hơi nước, Gió bão vâng theo mạng Ngài” (148:8).

Lời hằng sống của Đức Chúa Trời cần phải linh nghiệm trong mỗi Hội Thánh địa phương. Khi chúng ta hát Lời Chúa trong giờ thờ phượng, khi chúng ta giảng dạy Lời Chúa, lẽ thật và sự sống của Lời Chúa phải đi ra từ chúng ta và lớn lên trong chúng ta. Mỗi một người giảng dạy lời Chúa, người hướng dẫn thờ phượng, và người hát thánh ca cần phải biết chắc rằng mục vụ của họ được đặt trên nền tảng Lời Chúa. “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời.” (Cô-lô-se 3:16). Mục sư không được quá bận rộn trong những công tác kém quan trọng đến nỗi họ không còn thời gian cầu nguyện và không còn thời gian cho Lời Chúa. Khi các sứ đồ được giải phóng khỏi những công việc bàn ăn, họ có thời gian để cầu nguyện và giảng dạy, Đức Chúa Trời ban cho họ mùa gặt linh hồn bội thu.

Lời Chúa cần sống trong công tác truyền giáo thế giới. “Vả lại, hỡi anh em, hãy cầu nguyện cho chúng tôi, hầu cho đạo Chúa được đồn ra và được sáng danh, như thể ở trong anh em vậy” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 3:1). Phao-lô viết cho Ti-mô-thê và nhắc nhở ông rằng, dù chính Phao-lô đang bị cầm tù và chịu xiềng xích, nhưng Lời Chúa không bị trói buộc mà đi từ người sang người và kết quả (2 Ti-mô-thê 2:9). Là những Cơ Đốc Nhân, chúng ta cần phải cầu nguyện và hỗ trợ những người làm công tác truyền giáo và các mục vụ để đưa lời Chúa đến với những quốc gia, những con người mà chính chúng ta không thể tự đến được. Chúng ta không thể hỗ trợ được hết tất cả các giáo sĩ, nhưng chúng ta cần làm hết sức có thể với những điều mà Chúa đã ban cho chúng ta. Phúc Âm có thể đem lại kết quả ở bất cứ nơi đâu trên thế giới (Cô-lô-se 1:6), nếu như chúng ta cùng đồng công với nhau để cày cấy, gieo hạt giống, tưới nước bằng lời cầu nguyện, và sẵn sàng thu hoạch mùa gặt (Giăng 4:35-38); 1 Cô-rinh-tô 3:5-9).

Nhưng chúng ta cần phải đảm bảo rằng Lời Chúa đang sống động trong đời sống cá nhân của chúng ta. Hãy noi gương của những tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca, vì họ mà Phao-lô đã cảm tạ Chúa. “Bởi vậy, chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi về sự anh em tiếp nhận lời của Đức Chúa Trời mà chúng tôi đã truyền cho, không coi như lời của loài người, bèn coi như lời của Đức Chúa Trời, vì thật là lời Đức Chúa Trời, cũng hành động trong anh em có lòng tin.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13). Lời sống đang hành động trong thế giới này cũng sẽ linh nghiệm trong chúng ta nếu chúng ta tiếp nhận, tin và vâng theo lời ấy. Khi lẽ thật lớn lên trong chúng ta, chúng ta sẽ lớn lên và kết quả cho sự vinh hiển của Đức Chúa Giê-su Christ.

“Bấy giờ, đạo Đức Chúa Trời tấn tới rất nhiều, càng ngày càng tràn thêm ra… Ấy vậy, nhờ quyền phép của Chúa, đạo bèn đồn ra, càng ngày càng được thắng” (Công vụ 12:24; 19:20), nguyện xin điều này ứng nghiệm cho chúng ta và mục vụ mà chúng ta đang phục vụ.

Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ.

2 Phi-e-rơ 3:18

 

 

 

 

 

Bài 75

Nếu ngươi chưa bán ruộng đó, há chẳng phải là của ngươi sao? Khi bán rồi, giữ giá đó há chẳng được sao? Điều đó nhập vào lòng ngươi thế nào, ấy chẳng phải ngươi nói dối loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời.

Công vụ 5:4

Dĩ nhiên tài sản mà A-na-nia đã bán là của chính ông! Ông đã có thể giữ nó cho riêng mình, hoặc cho đi, hoặc bán đi, và khi đã bán tài sản đó thì ông vẫn có thể tùy ý sử dụng số tiền thu được, miễn là ông dùng số tiền đó đúng luật. Vấn đề không phải là việc sở hữu nhưng là việc quản lý. Vâng, đây là vấn đề liên quan đến tiền, nhưng vấn đề chủ chốt nằm ở động cơ: điều mà A-na-nia và Sa-phi-ra đã nghĩ gì trong lòng chứ không phải là họ đang cầm trên tay những gì. Họ nghĩ rằng họ có thể lừa gạt những người bạn Cơ Đốc và Chúa, nhưng họ đã sai.

Tất cả mọi việc bắt đầu với Ba-na-ba, người khích lệ, đây cũng chính là ý nghĩa tên của ông (Công vụ 4:36). Quê hương của ông ở tại Chíp-rơ và có thể khi đó ông đã có mặt tại Giê-ru-sa-lem để dự lễ Ngũ Tuần. Chúng ta không biết ông trở nên Cơ Đốc Nhân khi nào và tại đâu, và chúng ta cũng không biết làm thế nào ông có được của cải, tuy nhiên điều chắc chắn đó là ông là một môn đồ mẫu mực của Đức Chúa Giê-su Christ. Đừng bao giờ xem thường tác động của một hành động hy sinh trong sự phục vụ Cơ Đốc. Của dâng của ông cho Chúa chắc chắn đã giúp đỡ cho các tân tín hữu để họ được Hội Thánh chăm sóc, có những người trong số họ sống xa quê hương; tuy nhiên đồng thời, bằng cách chia sẻ tài sản của mình, ông đã phơi bày sự xấu xa trong tấm lòng của A-na-nia và Sa-phi-ra. Đây cũng chính là điều đã xảy ra cho Lót khi Áp-ra-ham đề nghị sẽ cho ông vùng đất mà ông mong muốn tại Ca-na-an. Sự lựa chọn của Lót phơi bày tội lỗi bên trong tấm lòng của ông, bởi vì ông chọn sống gần thành phố tội lỗi đó là Sô-đôm (Sáng 13). Khi Ma-ri ở tại thành Bê-tha-ni xức dầu cho Đức Chúa Giê-su bằng dầu thơm quý giá, lòng tham của Giu-đa bị phơi bày (Giăng 12:1-8). Chúng ta có thể nghĩ rằng sự phục vụ của mình chỉ gặt hái kết quả nhỏ bé, và chúng ta có thể bị người khác chỉ trích, tuy nhiên một ngày nọ trên thiên đàng chúng ta sẽ khám phá mọi việc Đức Chúa Trời đã làm với mục vụ của chúng ta.

Hãy nói đến A-na-nia và Sa-phi-ra, những kẻ giả dối. Có nhiều tội lỗi xảy ra trong chương này, một tội kéo theo một tội khác. Phi-e-rơ biết rằng Sa-tan đã “nhập” vào lòng của A-na-nia mưu chước này (Công vụ 5:4), giống như việc một đứa trẻ được hình thành trong bụng mẹ và lớn lên (Gia-cơ 1:13-15). Rất có thể mưu đồ của họ khởi nguồn từ sự đố kỵ. Khi họ nhìn thấy Ba-na-ba làm điều đó, họ quyết định rằng họ cũng muốn có danh tiếng giống như Ba-na-ba đã có. Họ muốn khiến cho người khác nghĩ rằng họ thiêng liêng hơn con người thật của họ, nhưng họ không muốn trả giá. Sự đố kỵ dẫn đến kiêu ngạo, sự kiêu ngạo dẫn đến giả hình, và sự giả hình được củng cố bằng lời nói dối. Họ nói dối với Hội Thánh, với Phi-e-rơ, với Đức Thánh Linh, và với chính mình. Họ thật sự nghĩ rằng họ có thể tiến hành kế hoạch này, tuy nhiên họ đang phục vụ cho Sa-tan, chứ không phải cho Chúa, và Sa-tan là kẻ dối trá và giết người (Giăng 8:44). Việc hai vợ chồng cùng nhau lên kế hoạch lừa gạt càng khiến cho tội lỗi của họ trở nên xấu xa hơn.

Phi-e-rơ, người lãnh đạo thuộc linh, biết việc gì đang xảy ra, và ông đã vạch trần sự giả hình của đôi vợ chồng. Chúa đã sắp đặt để Phi-e-rơ nói chuyện riêng với từng người, đầu tiên là A-na-nia, kế đến là Sa-phi-ra. Phi-e-rơ nói rõ cho A-na-nia rằng tài sản đó là thuộc về ông và số tiền có được từ việc bán tài sản cũng thuộc về ông, ông không cần nói dối về điều đó. Đức Chúa Trời đã đánh A-na-nia và ông chết ngay tức khắc. Sau đó Sa-phi-ra bước vào, không biết rằng chồng mình đã chết và đã được chôn. Sa-tan luôn luôn để cho những kẻ hầu việc hắn ở trong bóng tối, nhưng Đức Chúa Cha luôn luôn cho những con cái vâng lời Ngài có được thông tin (Giăng 15:15). Giu-đa kẻ phản bội là một ví dụ. Sa-tan đã nhập vào A-na-nia và Sa-phi-ra cũng như cách hắn đã nhập vào Giu-đa (13:27); và khi Giu-đa bước ra khỏi căn phòng cao, “khi ấy trời đã tối” (c.30).

Nói dối với người khác có nghĩa là nói dối với Chúa, và nói dối với Chúa thì hoặc sẽ được uốn nắn, hoặc sẽ chịu sự đoán phạt, bởi vì Đức Chúa Trời muốn dân sự của Ngài “bước đi trong lẽ thật” (3 Giăng 4). Nói dối Đức Thánh Linh là điều vô cùng nguy hiểm, bởi vì Đức Thánh Linh chính là Thánh Linh của lẽ thật (Giăng 16:13).

Tôi nghe con cái tôi làm theo lẽ thật, thì không còn có sự gì vui mừng hơn nữa.

3 Giăng 4

 

Bài 76

Nhưng Sau-lơ đang đi đường gần đến thành Đa-mách, thình lình có ánh sáng từ trời soi sáng chung quanh người.

Công vụ 9:3

Sự sáng và sự tối tăm thường được nhắc đến trong Kinh Thánh, sự sáng biểu trưng cho Đức Chúa Trời, sự thánh khiết, sự sống, và lẽ thật, ngược lại sự tối tăm nói về Sa-tan, tội lỗi, sự dối trá, và sự chết. Đức Chúa Giê-su là sự sáng của thế gian (Giăng 8:12) và Cơ Đốc Nhân là ánh sáng trong thế gian (Phi-líp 2:15). Thiên đàng là thành phố ánh sáng (Công vụ 22:5), ngược lại địa ngục là “chốn tối tăm ở ngoài” (Ma-thi-ơ 8:12). Đời sống và chức vụ của Phao-lô minh họa cho mối quan hệ đặc biệt giữa Cơ Đốc Nhân và sự sáng.

Chống đối sự sáng. Sau-lơ người thành Tạt-sơ, sau này trở thành sứ đồ Phao-lô, ông được sinh ra trong một gia đình Do Thái nghiêm khắc và được học tại Giê-ru-sa-lem với người thầy đáng kính là Ga-ma-li-ên. Ông tự cho mình là không chỗ trách được trước luật pháp của Đức Chúa Trời (Phi-líp 3:6), và sốt sắng bắt bớ Cơ Đốc Nhân. Ông bắt họ, phạt họ, và thậm chí là chấp thuận tử hình họ (Công vụ 7:57-8:3; 26:9-11). Ông tin rằng Môi-se là đúng đắn và Giê-su là sai lầm và đã chết, Sau-lơ người thành Tạt-sơ đã tìm cách tiêu diệt sự sáng.

Nhìn thấy sự sáng. Kinh nghiệm cải đạo của Phao-lô được bác sĩ Lu-ca ghi lại trong Công vụ 9 và chính Phao-lô đã kể lại kinh nghiệm này trong Công vụ 22:1-21 và 26:1-23. Trong cả ba phần ký thuật đều nhắc đến ánh sáng. Khi Phao-lô đang trên đường đến Đa-mách: “thình lình có ánh sáng từ trời soi sáng chung quanh người” (Công vụ 9:3). Phao-lô kể cho người Do Thái trong đền thờ rằng: “thình lình có ánh sáng lớn, từ trên trời giáng xuống, soi sáng chung quanh mình tôi” (22:6). Khi làm chứng trước vua Ạc-ríp-ba, Phao-lô đã nói rằng: “tôi thấy có ánh sáng từ trên trời, giáng xuống chói lói hơn mặt trời sáng lòa chung quanh tôi” (26:13). Lời mô tả qua các phân đoạn đã dùng từ “ánh sáng”, sau đó là “ánh sáng lớn” và “ánh sáng từ trên trời, giáng xuống chói lói hơn mặt trời.” “Nhưng con đường người công bình giống như sự sáng chiếu rạng, càng sáng thêm lên cho đến giữa trưa” (Châm ngôn 4:18). Trong lời chứng này, sự sáng là điều không thay đổi, tuy nhiên sự diễn tả của Phao-lô minh họa cho việc sự sáng trở nên sáng hơn khi chúng ta vâng theo Đấng Christ.

Chia sẻ sự sáng. Đức Chúa Trời kêu gọi Phao-lô trở nên một chứng nhân của Đức Chúa Giê-su Christ cho những người ngoại quốc. Phao-lô đã kể về những người này trong Rô-ma 1:18-32. Trong sứ mệnh mà Chúa giao cho Phao-lô và những đồng lao của ông, câu Kinh Thánh then chốt đó là: “Ta sẽ khiến ngươi làm sự sáng cho các dân ngoại, hầu cho ngươi rao truyền sự cứu rỗi của Ta đến nơi đầu cùng đất.” (xem Công vụ 13:47). Đức Chúa Giê-su phán cùng Phao-lô rằng Ngài sai ông đi đến những người ngoại quốc “đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi ta được sự tha tội.” (Công vụ 26:18). Hội Thánh ngày hôm nay cũng nhận cùng một mạng lệnh ấy, đó chính là đem phúc âm đến với mỗi một dân tộc, mỗi một quốc gia,” hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài.” (1 Phi-e-rơ 2:9). Phao-lô đã trung thành với sự kêu gọi đó và ông đã chịu đựng nhiều đau đớn và bắt bớ để có thể hoàn thành sứ mệnh của mình. Ngày hôm nay chúng ta có trung tín như Phao-lô không?

Bước vào sự sáng. Đối với những người mù lòa về thuộc linh, sự sống chỉ là sự tăm tối. Họ càng chống lại sự sáng thì họ càng mù lòa, bởi vì Sa-tan: “chúa đời này” đã làm cho họ mùa lòa đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời (2 Cô-rinh-tô 4:4). Nhưng khi chúng ta đọc Châm Ngôn 4:18, những người tin Chúa được sống trong sự sáng, và sự sáng ấy càng ngày càng sáng hơn! Và sự sáng mà chúng ta đang sống sẽ không bao giờ đi đến lúc xế chiều, bởi vì nếu chúng ta qua đời trước khi Đức Chúa Giê-su trở lại thì chúng ta sẽ được đến một thành phố ánh sáng nơi bóng đêm không bao giờ đến. Đó sẽ là nơi đầy vinh quang! Khi bị giam tại Rô-ma, Phao-lô đã trông đợi sự vinh quang. Ông viết cho Ti-mô-thê rằng: “vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó.” (2 Ti-mô-thê 1:12). Ông đã sẵn sàng để đón nhận sự chết, và ông biết rằng một vương miện đang chờ đợi ông trên thiên đàng (4:7-8). Sự chết đối với những người tin Chúa không giống như lúc mặt trời lặn, nhưng là lúc mặt trời mọc!

Bạn đã nhìn thấy sự sáng chưa? Bạn có đang chia sẻ sự sáng cho người khác hay không?

Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng.

Giăng 1:4-5

 

Bài 77

Ấy là lời Ngài đã phán cùng con cái Y-sơ-ra-ên, khi rao giảng tin lành về sự bình an bởi Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Chúa của loài người.

Công vụ 10:36

Là những Cơ Đốc Nhân, chúng ta cần trung tín học biết những lẽ thật thuộc linh và áp dụng những lẽ thật ấy vào trong đời sống, bởi vì điều chúng ta tin sẽ xác định hành vi của mình. Những lời cuối cùng của Phi-e-rơ trong thư tín thứ hai của ông nêu rõ quan điểm này: “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ” (2 Phi-e-rơ 3:18). Đức Chúa Giê-su đã ban cho Phi-e-rơ chìa khóa của nước trời (Ma-thi-ơ 16:19) và ông đã mở ra cánh cổng đức tin cho người Do Thái và người Sa-ma-ri (Công vụ 2: 8). Giờ đây, đã đến lúc ông mở cánh cửa cho người ngoại quốc, một bước đi đầy quyết liệt đối với một người Do Thái chính thống. Đức Chúa Giê-su đã chuẩn bị Phi-e-rơ cho mục vụ này và cũng đã chuẩn bị những người ngoại quốc để tiếp nhận mục vụ của ông.

Phi-e-rơ đã học được từ một khải tượng (10:9-16). Khoảng giữa trưa, trong khi Phi-e-rơ đang chờ dùng bữa, Đức Chúa Trời đã tận dụng cơn đói bụng để cho ông thấy mọi loài động vật, bò sát và chim chóc, Ngài phán cùng ông rằng: “Hỡi Phi-e-rơ, hãy dậy, làm thịt và ăn.” Phản ứng của Phi-e-rơ khiến chúng ta ngạc nhiên: “Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ” (c. 14). Sau khi cải đạo, Phi-e-rơ tiếp tục giữ luật Do Thái và tuân theo những quy định về thức ăn trong Luật Môi-se, mặc dù Đức Chúa Giê-su đã dạy các môn đồ rằng mọi thức ăn đều tinh sạch (Mác 7:14-23). Chúa cũng phán cùng các môn đồ rằng Ngài còn có “chiên khác” mà Ngài cần phải đem về với bầy (Giăng 10:16). Khải tượng và tiếng nói lặp lại ba lần, nhưng Phi-e-rơ rất cứng nhắc trong niềm tin của mình và từ chối không vâng lời Đức Chúa Giê-su sau khi xưng Ngài “Lạy Chúa.” Chúng ta có thể nói rằng “Không” hoặc chúng ta cũng có thể nói “Lạy Chúa,” nhưng chúng ta không thể nói rằng “Không thưa Chúa.” Trong khải tượng này, Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho Phi-e-rơ rằng người ngoại quốc không phải là không tinh sạch trước mặt Đức Chúa Trời và người ngoại quốc cũng không cần phải trở nên như người Do Thái trước khi họ trở nên Cơ Đốc Nhân.

Phi-e-rơ đã học từ một chuyến thăm (Công vụ 10:17-48). Chúa đã giới thiệu cho Phi-e-rơ một cộng đồng những người ngoại quốc, và Phi-e-rơ đã có một sứ điệp: “Đức Chúa Trời đã tỏ cho ta biết chẳng nên coi một người nào là ô uế hay chẳng sạch” (c.28). Đức Chúa Trời không phán cho những người ngoại quốc rằng họ phải “leo cao hơn” và trở nên những người Do Thái. Nhưng Ngài phán cùng những người Do Thái rằng họ là tội nhân cũng giống như những người ngoại quốc! “Vì mọi ngưi đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23). Đức Chúa Trời không phải là Đấng coi trọng con người (Phục 10:17; 1 Phi 1:17). Vậy nếu những người ngoại quốc này không sẵn lòng lắng nghe Lời Chúa thì Phi-e-rơ cũng không thể nào hoàn thành bài giảng của ông! Khi ông nói rằng: “Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài [Đức Chúa Giê-su] rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài” (Công vụ 10:43), thì họ đã tin và được cứu. Bài giảng kết thúc!

Chúng ta học được gì từ Phi-e-rơ? Đức Chúa Trời đầy ân điển, một người lính cầu nguyện, một nhóm người được chuẩn bị, và một người giảng đạo được chuẩn bị – và cả một nhóm người được cải đạo. Đức Chúa Giê-su là Chúa của tất cả! Thoạt tiên, Phi-e-rơ đã ngần ngại trước việc viếng thăm nhà của một người ngoại quốc, nhưng Đức Chúa Trời đã bỏ đi những thành kiến trong ông và bày tỏ cho ông thấy điều ông có thể thực hiện nếu đầy tớ của Ngài vâng lời. Đức Chúa Giê-su là “Chúa của tất cả” và Ngài “không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.” (2 Phi-e-rơ 3:9). Đức Thánh Linh giáng trên mỗi một tân tín hữu trong nhà của Cọt-nây và cảm động họ để ngợi khen Đức Chúa Trời về công việc của Ngài. Nhờ công tác của Đức Chúa Giê-su trên thập giá, bức tường ngăn cách người Do Thái và người ngoại quốc đã bị phá đổ, và luật pháp cựu ước được dỡ bỏ (Ê-phê-sô 2:14-15). Nhờ Phi-e-rơ vâng theo ý muốn Chúa, cánh cổng được mở ra cho Phao-lô để ông trở nên sứ đồ truyền giáo cho người ngoại quốc.

Tại sao Chúa không khiến Phi-e-rơ đem phúc âm đến cho người ngoại quốc sớm hơn? Bởi vì Chúa có thời điểm, thời kỳ và công tác theo như kế hoạch hoàn hảo của Ngài. Đức Chúa Giê-su là Chúa của cả thiên đàng và trái đất, chúng ta là những đầy tớ của Ngài. Chúng ta phải nói: “Vâng, thưa Chúa” và làm theo ý muốn của Ngài.

Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một.

Ga-la-ti 3:28

Bài 78

Từ ngày tôi mới đến cõi A-si, hằng ăn ở luôn với anh em cách nào, anh em vẫn biết, tôi hầu việc Chúa cách khiêm nhường, phải nhiều nước mắt, và ở giữa sự thử thách mà người Giu-đa đã lập mưu hại tôi

Công vụ 20:18-19

Mỗi Cơ Đốc Nhân tận hiến cuộc đời mình để hầu việc và tôn vinh Chúa đều hiểu rõ câu “nhiều nước mắt và thử thách.” Một trong số những câu hỏi đầu tiên mà tân tín hữu thường hỏi đó là: “Tại sao tôi phải chịu quá nhiều điều khó nhọc?” Nhưng Chúa phán cho chúng ta rằng việc này phải xảy đến (Giăng 15:18-16:4), và Phao-lô cũng nói về điều này (Công vụ 14:22; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 3:1) và cả Phi-e-rơ (1 Phi-e-rơ 3:18-4-19). Nhưng tại sao chúng ta phải chịu đau khổ?

Kẻ thù chống lại chúng ta chính là ma quỷ. “Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được” (1 Phi-e-rơ 5:8). “Nhưng tôi ngại rằng như xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng” (1 Cô-rinh-rô 11:3). Sa-tan ăn nuốt, lừa dối và phá hủy, chúng ta cần phải cảnh giác. Tuy nhiên ân điển của Đức Chúa Trời có thể biến vũ khí của Sa-tan trở nên công cụ để gây dựng (12:7-10). Hãy bắt đầu mỗi một ngày bằng việc mặc lấy áo giáp của Đức Chúa Trời bởi đức tin (Ê-phê-sô 6:10-18), và dùng gươm của Thánh Linh để bác bỏ những sự dối trá của Sa-tan, đồng thời cầm cái khiên đức tin để cản phá mũi tên phóng của kẻ thù.

Thế giới đầy thù địch chống lại chúng ta. “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi.” (Giăng 16:33). Sa-tan dùng thế gian để lôi kéo và phá đổ chúng ta, tuy nhiên những con người lạc mất trong thế gian này chính là “cá” mà Chúa muốn chúng ta “đánh lưới” trong mẻ lưới phúc âm (Ma-thi-ơ 4:18-22). Đức Chúa Giê-su khóc cho người Giê-ru-sa-lem bởi vì họ không tiếp nhận Ngài (Lu-ca 19:41), và Phao-lô cũng khóc cho đồng bào Do Thái (Rô-ma 9:1-3). Đôi khi chúng ta chịu đau khổ để chúng ta có thể làm chứng cho những người lạc mất. Phao-lô và Si-la bị làm nhục, bị đánh đạp và bị cầm tù một cách bất hợp pháp tại Phi-líp, song Đức Chúa Trời đã dùng họ để đem sự cứu rỗi đến cho cai ngục và gia đình của ông (Công vụ 16:16-34). Phao-lô khóc bởi vì thế gian đã vào trong Hội Thánh và gây ra nhiều rắc rối (Phi-líp 3:18; 2 Cô-rinh-tô 2:4), chính vì thế ngày nay chúng ta cũng phải khóc và cầu nguyện (Thi Thiên 119:136).

Chúng ta có tiềm năng thuộc linh. Chính sự đau khổ đã giúp cho những kỹ năng lãnh đạo được bộc lộ trong Giô-sép, Đa-vít, Phi-e-rơ, và Phao-lô. Cha của chúng ta muốn chúng ta “giống như hình bóng Con Ngài” (Rô-ma 8:29), và một phần trong giáo trình của Chúa đó chính là “sự thông công thương khó của Ngài” (Phi-líp 3:10). Chúng ta nên “khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy.” (Rô-ma 5:3-4). Người thợ gốm uốn nắn chiếc bình và đặt chúng vào trong lửa để chúng trở nên cứng rắn. Hãy công bố Ê-phê-sô 2:10 và Phi-líp 2:12.

Chúng ta có sự vinh quang của thiên đàng. “Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta.” (Rô-ma 8:18). Đức Chúa Trời ghi nhớ những giọt lệ của chúng ta, và nếu chúng ta trung tín, một ngày Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta (Thi Thiên 56:8). “Sự khóc lóc đến trọ ban đêm, nhưng buổi sáng bèn có sự vui mừng.” (Thi thiên 30:5). Thậm chí Chúa chúng ta đã chịu sự đau khổ trước khi bước vào sự vinh hiển (Lu-ca 24:25-27). Sự chịu đựng trong vui mừng chính là lời chứng cho những người lạc mất và cũng là một sự đầu tư cho vinh quang trong tương lai (1 Phi-e-rơ 4:12-13). Thậm chí nếu bạn đang than khóc, hãy cứ tiếp tục gieo hạt giống lẽ thật và tình yêu thương, bạn sẽ gặt lấy cánh đồng của sự vui mừng (Thi Thiên 126:5-6). Một ngày trong tương lai, chúng ta sẽ gặp những người tin cậy nơi Đấng Christ bởi vì chúng ta đã làm chứng và cầu nguyện cho họ (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:19-20), và đó quả thật là thời gian của sự vui mừng!

Nước mắt và sự thử thách là những yếu tố quan trọng trong một đời sống Cơ Đốc tin kính, vậy hãy “lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta.” (Hê-bơ-rơ 12:1). Điều tốt nhất vẫn đang chờ đợi ở phía trước.

Chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.

Ê-phê-sô 2:10

Bài 79

Tôi giao phó anh em cho Đức Chúa Trờicho đạo của ơn Ngài, là giao phó cho Đấng có thể gây dựng, và ban gia tài cho anh em chung với hết thảy những người được nên thánh.

Công vụ 20:32

Sứ đồ Phao-lô nói lời chia tay với các trưởng lão của Hội Thánh Ê-phê-sô, chắc chắn có rất nhiều người trong số họ đã được Phao-lô dẫn dắt đến niềm tin nơi Đấng Christ. Các đầy tớ Chúa đến và đi trong đời sống của chúng ta, và dẫu chúng ta yêu mến họ và được lợi từ các mục vụ của họ, nhưng chúng ta không được tôn sùng họ. Chúng ta phải xây dựng trên những điều đời đời và không bao giờ thay đổi để vui hưởng một đời sống Cơ Đốc đầy thỏa lòng và kiên định.

Đức Chúa Trời không thay đổi. “Vì ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi” (Ma-la-chi 3:6). “Đức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Hê-bơ-rơ 13:8). Hãy tưởng tượng sẽ ra sao nếu mục sư của bạn giống như Phao-lô! Ông đã nhìn thấy Đức Chúa Giê-su trong sự vinh quang của Ngài và lắng nghe tiếng Ngài phán, ông cũng đã đến thiên đàng và trở về. Ông có ân tứ chữa bệnh, ông là một người trung tín trong sự cầu nguyện, và ông biết những điều sâu nhiệm về Đức Chúa Trời. Nếu mục sư của bạn cũng vĩ đại giống như Phao-lô và nhìn thấy bạn xây dựng đời sống của mình dựa trên ông, chắc hẳn mục sư đó sẽ nói rằng: “Hãy xây dựng đời sống của mình trên Đức Chúa Giê-su Christ! Ngài chính là nền tảng!” “Vì chẳng ai có thể lập một nền khác ngoài nền đã lập, là Đức Chúa Jêsus Christ” (1 Cô-rinh-tô 3:11). Quả là một bi kịch khi những con người không tin kính biến người giảng đạo, thầy dạy Kinh Thánh, hoặc một tác giả “yêu thích” của họ trở thành một ngôi sao trong lĩnh vực tôn giáo, đó cũng là điều mà các Cơ Đốc Nhân đã làm tại Hội Thánh Cô-rinh-tô (1:10-17). Và cũng thật không may khi một số người làm trong công tác nhà Chúa lại khích lệ cho hành động phi Kinh Thánh này và đắm mình trong hành động ấy. Họ cần phải nói theo điều mà Phi-e-rơ đã nói khi Cọt-nây quỳ dưới chân ông: “Ngươi hãy đứng dậy, chính ta cũng chỉ là người mà thôi.” (Công vụ 10:26).

Lời Đức Chúa Trời không thay đổi. “Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời.” (Thi Thiên 119:89). “Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi.” (Ma-thi-ơ 24:35). Chính Kinh Thánh đã bày tỏ cho chúng ta biết về đặc tính, công tác và mục đích của một Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, và chúng ta phải kiểm chứng mỗi một lời mà các lãnh đạo tôn giáo phát biểu bằng chính Lời không thay đổi của Chúa. Trong mỗi một thời kỳ, chúng ta có những bản dịch Kinh Thánh mới, không bởi Kinh Thánh thay đổi, nhưng vì ngôn ngữ thay đổi. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hiểu về chính Ngài, và về ý muốn của Ngài dành cho chúng ta. Không ai có thể hiểu hết mọi điều trong Kinh Thánh và luôn luôn có những điều mới để học từ trong Lời Chúa. Các trưởng lão tại thành Ê-phê-sô không có trọn bộ Kinh Thánh như chúng ta có ngày nay. Các cuộn Kinh Cựu Ước khi ấy rất đắt tiền, còn Kinh Thánh Tân Ước thì vẫn đang được viết ra, song những tín hữu thời kỳ đầu tiên có đủ Lời Chúa để hiểu những điều căn bản và thực hành những điều ấy. Chúng ta đừng xem Kinh Thánh như một quyển sách về luật pháp và luật lệ như hãy xem Kinh Thánh là “lời ân điển của Chúa” (Công vụ 20:32), bởi ân điển của Chúa được bày tỏ trong Kinh Thánh từ ban đầu cho đến cuối cùng.

Ân điển của Đức Chúa Trời không thay đổi. Ân điển là đặc ân của Đức Chúa Trời ban tặng miễn phí cho những con người không xứng đáng như chúng ta. Sứ điệp cứu rỗi đó là “Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời” (Công vụ 20:24), ngoài ra không còn sứ điệp cứu rỗi nào khác từ Đức Chúa Trời. Phúc âm chính là “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh” (1 Cô-rinh-tô 15:3-4). Đức Chúa Giê-su đã chết thế chỗ cho chúng ta! Đây chính là ân điển của Đức Chúa Trời. “Vả lại ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu.” (Công vụ 2:21). Nhưng ân điển của Đức Chúa Trời không chỉ để cứu chúng ta, ân điển ấy còn đáp ứng cho nhu cầu của chúng ta; bởi Ngài đã phán rằng: “Ân điển ta ủ cho ngươi rồi.” (2 Cô-rinh-tô 12:9). Ân điển quý báu của Đức Chúa Trời luôn luôn có sẵn cho mỗi một người tin Chúa (Rô-ma 5:1-2). Ngai của Đức Chúa Trời chính là ngôi ân điển cho chúng ta, đó không phải là ngai của sự đoán xét (Hê-bơ-rơ 4:14-16); và ngôi ơn phước đó luôn có sẵn cho chúng ta vào mọi thời điểm, cho mọi nhu cầu. Sự ban cho của Chúa là vô hạn và “Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa.” (Gia-cơ 4:6).

Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.

Lu-ca 11:9

Bài 80

Trong các dân ấy anh em cũng đã được gọi bởi Đức Chúa Jêsus Christ.

Rô-ma 1:6

Phi-e-rơ đã nói rõ rằng: “ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu.” (Công vụ 2:21); nhưng trước khi chúng ta cầu khẩn danh Chúa, Ngài đã gọi chúng ta! Sau khi A-đam và Ê-va phạm tội, Đức Chúa Trời đã đến khu vườn Ê-đen và gọi: “Ngươi ở đâu?” (Sáng 3:9). “Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta.” (Giăng 10:27). Đây chính là lý do sứ đồ Phao-lô định nghĩa những người được cứu là “những người được gọi bởi Đức Chúa Giê-su Christ.” Vậy sự kêu gọi này bao gồm những gì?

Chúng ta được kêu gọi để thuộc về Chúa Giê-su. Trong một số bản dịch, câu Kinh Thánh viết như sau: “được kêu gọi để thuộc về Đức Chúa Giê-su Christ,” và đây cũng là một bản dịch đúng đắn. Tại sao Đức Chúa Giê-su muốn những tội nhân như chúng ta trở nên những người bạn của Ngài (15:15), trở nên bầy chiên của Ngài (10:27-29), và trở nên tôi tớ của Ngài (Rô-ma 1:1)? Đó là bởi vì tình yêu của Ngài quá lớn đối với chúng ta. Trước khi chúng ta tin cậy Chúa, chúng ta là nô lệ cho thế gian, cho xác thịt, và cho ma quỷ (Ê-phê-sô 2:1-3), nhưng Chúa đã giải phóng chúng ta và công bố chúng ta thuộc về Ngài; chúng ta vui mừng có Chúa là chủ tể. Như Norman B. Clayton đã sáng tác trong bản nhạc của mình: “Giờ đây tôi thuộc về Đức Chúa Giê-su/ Đức Chúa Giê-su thuộc về tôi/ Không chỉ cho những năm tháng của thời gian/ Nhưng đời đời mãi mãi.” Vì chúng ta thuộc về Đức Chúa Giê-su, chúng ta cũng thuộc về nhau trong thân thể Đấng Christ (5:30). Bạn không thể chỉ thuộc về chú rể mà làm ngơ đi nàng dâu. Là dân sự của Chúa, chúng ta thuộc về nhau và chúng ta cần nhau.

Chúng ta được kêu gọi để sống xứng đáng. Chúng ta là các thánh đồ (Rô-ma 1:7). Từ thánh đồ có nghĩa là “những người được biệt riêng” và dùng để nói về mọi người tin Chúa, không chỉ một nhóm người thuộc linh. Mọi Cơ Đốc Nhân chân thật đều là các thánh đồ. Hội Thánh địa phương được lập nên từ các thánh đồ (1 Cô-rinh-tô 14:33). Chúng ta đã được cứu khỏi thế gian, khỏi xác thịt và khỏi ma quỷ. Chúng ta được được đem vào vương quốc của Đức Chúa Trời và có Đức Thánh Linh ngự trong lòng, chính vì thế chúng ta có thể sống “đắc thắng” và tôn vinh Đức Chúa Trời qua sự vâng phục của chúng ta. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ làm điều gì “xứng đáng cho các thánh đồ” (Ê-phê-sô 5:3). Các thánh đồ của Đức Chúa Trời không phải là những con người vô tội, nhưng họ sẽ càng ít phạm tội hơn khi họ tăng trưởng trong Chúa. “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.” (2 Cô-rinh-tô 5:17). Hãy sống như các thánh đồ!

Chúng ta được kêu gọi để yêu và được yêu. Các thánh đồ tại Rô-ma là “những người yêu dấu của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 1:7), cũng giống như các thánh đồ tại Chicago, London, Nairobi, và nơi bạn đang sống. Trong sách Ma-thi-ơ, Mác, và Lu-ca, từ người yêu dấu được nhắc đến chín lần và luôn luôn chỉ về Đức Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Đức Chúa Trời. Nhưng trong Rô-ma 1:7, từ này nói về tất cả các thánh đồ – “những người yêu dấu của Đức Chúa Trời.” Đức Chúa Cha đã “ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài” (Ê-phê-sô 1:6). “Lương nhân tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về người.” (Nhã Ca 2:16; 6:3). Tình yêu thương của chúng ta dành cho nhau sẽ thúc ép chúng ta vâng phục Chúa và phục vụ (1 Cô-rinh-tô 4:14). Tình yêu thương này cũng thúc đẩy chúng ta dành thời gian cho Lời Chúa, cầu nguyện và tương giao với Chúa và thông công với nhau. Nếu chúng ta thật sự yêu Chúa Giê-su, chúng ta sẽ yêu các thánh đồ là những người gây dựng nên Hội Thánh.

Chúng ta được kêu gọi để trở nên giống Đấng Christ. Tôi rất thích điều Đức Chúa Giê-su đã nói cùng Si-môn trong lần đầu tiên Ngài gặp ông: “Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha.” (Giăng 1:41-42). Sê-pha trong tiếng A-ram nghĩa là “hòn đá,” trong tiếng Hy Lạp là Phi-e-rơ. “Ngươi là – ngươi sẽ được gọi là!” Đó chính là đời sống Cơ Đốc. Trong Đức Chúa Giê-su Christ, chúng ta có “quyền phép [quyền lực] trở nên.” (Giăng 1:12). Trở nên điều gì? Trở nên điều mà Chúa đã dự định cho chúng ta. Môi-se và Giê-rê-mi đều tranh luận cùng Chúa rằng họ không phải là nhân tố lãnh đạo, nhưng Chúa đã biến đổi họ và khiến họ trở nên những nhà lãnh đạo hiệu quả. Một ngày trong tương lai, mỗi một Cơ Đốc Nhân chân thật đều sẽ trở nên giống Đấng Christ, “vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy.” (1 Giăng 3:1-3).

Còn có vinh dự nào trên đất này lớn hơn là “người được kêu gọi của Đức Chúa Giê-su Christ”?

Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.

Giăng 1:12

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài 81

Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục

Rô-ma 5:3

Có những lúc áp lực và những nỗi đau trong cuộc sống khiến chúng ta cảm thấy muốn bỏ cuộc và tìm một nơi để ẩn náu.Tuy nhiên, chúng ta là những Cơ Đốc Nhân, và Cơ Đốc Nhân thì không bỏ cuộc. Từ khoe mình trong câu Kinh Thánh trên được dịch ra có nghĩa là “hoan hỉ, vui mừng một cách đắc thắng,” và đó chính là điều mà Chúa khiến chúng ta được vui mừng trong những lúc phiền muộn nếu như chúng ta tin cậy nơi Ngài. “Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên.” (2 Cô-rinh-tô 4:17). Dù chúng ta cảm thấy thế nào thì đức tin vẫn là sự chiến thắng.

Đức tin biến hoạn nạn thành sự đảm bảo. Trong ngụ ngôn người đi gieo giống (Ma-thi-ơ 13:1-9, 18-23), hạt giống chính là Lời của Đức Chúa Trời và các loại đất biểu trưng cho tấm lòng của con người và cách mà mỗi người đáp ứng với Lời Chúa như thế nào. Có những tấm lòng cứng cỏi và không tiếp nhận hạt giống. Có những tấm lòng nông cạn và hạt giống không thể đâm rễ xuống đất được. Mặt trời biểu trưng cho sự hoạn nạn. Những cây không có rễ không thể giữ được nước, vậy chúng khô và chết đi. Cây cần có ánh sáng, cũng vậy Cơ Đốc Nhân cần có sự thử thách, nhưng chỉ những Cơ Đốc Nhân chân thật có “bộ rễ” thuộc linh mới có thể lấy nguồn dinh dưỡng từ ân điển của Đức Chúa Trời, chúng sẽ không khô héo và chết đi. Trong thời gian đầu theo Chúa, đôi khi Chúa cho phép chúng ta trải qua sự thử thách để chúng ta có thể biết chắc rằng chúng ta thuộc về gia đình của Ngài. Để có được sự đảm bảo ấy đáng để trải qua sự thử thách.

Đức tin biến hoạn nạn thành công cụ. Sa-tan muốn sử dụng sự thử thách như là vũ khí để hủy diệt chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời sử dụng những thử thách này để nắn chúng ta nên những chiếc bình đất theo ý Ngài muốn. Khi chúng ta công bố những lời hứa của Đức Chúa Trời và đầu phục Ngài, những hoạn nạn sẽ giúp đỡ chứ không chống lại chúng ta. “Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào.” (Gia-cơ 1:2-4). Đức Chúa Trời dùng những thử thách để Giô-sép và Đa-vít được trưởng thành và khiến họ trở nên những nhà lãnh đạo hiệu quả, Chúa cũng sẽ làm điều tương tự cho chúng ta. Từ “hoạn nạn” trong tiếng Anh có nguồn gốc từ chữ tribulum trong tiếng La-tinh, là tên mà những người La-mã đặt cho những tấm ván gỗ có gắn đinh nhọn nhằm tách hạt lúa ra khỏi bó lúa và cắt rơm. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sản sinh mùa gặt vĩ đại cho sự vinh quang của Ngài.

Đức tin biến hoạn nạn thành sự vinh quang đời đời. “Chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.” (2 Cô-rinh-tô 5:7). Khi sự vinh quang của Đấng Christ được bày tỏ, chúng ta sẽ tràn ngập vui mừng (1 Phi-e-rơ 4:13). “Khi nào vì cớ ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm.” (Ma-thi-ơ 5:11-12). Đức tin và sự nhịn nhục trong hoạn nạn là sự đầu tư ngay hôm nay và sẽ đem lại phần thưởng lớn trong cõi đời đời. Những Cơ Đốc Nhân nào đắc thắng thử thách sẽ nhận được vương miện của sự sống (Gia-cơ 1:12).

Đức tin biến hoạn nạn thành lời chứng. Thế giới đang dõi theo chúng ta, và cách chúng ta phản ứng lại với sự thất vọng, thử thách, và những xung đột sẽ là cơ hội để chúng ta làm chứng cho những người lạc mất. “Nhưng nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn.” (1 Phi-e-rơ 4:16). Khi chúng ta vui mừng thay vì than phiền và khi chúng ta ngợi khen Chúa thay vì than thở, những người chưa được cứu sẽ để ý và tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể làm điều đó. Phao-lô và Si-la đã bị cầm tù một cách phi pháp tại Phi-líp, nhưng họ cầu nguyện và hát ca ngợi Chúa, Đức Chúa Trời đã cho họ có đặc quyền được dẫn dắt cai tù và gia đình của ông đến với niềm tin nơi Đấng Christ (Công vụ 16:16-34).

Thập giá là bằng chứng vĩ đại nhất minh chứng cho sự chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ dẫn đến sự vinh quang. Đức Chúa Giê-su đã đi trước! Hãy theo Ngài bởi đức tin và nhìn xem Ngài biến những thử thách trở nên sự đắc thắng.

Đức Chúa Giê-su bèn phán cùng môn đồ rằng: Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.

Ma-thi-ơ 16:24

 

Bài 82

 

Vậy, hỡi anh em, chúng ta chẳng mắc nợ xác thịt đâu, đặng sống theo xác thịt.

Rô-ma 8:12

Một bài thánh ca quen thuộc viết rằng: “Christ trả xong tội trái. Nay chính tôi nợ Ngài.” Những lời thánh ca này là thật, nhưng chúng ta cũng đừng quên món nợ của chúng ta với Đức Thánh Linh. Hãy cùng suy nghĩ về những danh xưng của Đức Thánh Linh để thấy được chúng ta nợ Ngài nhiều đến thế nào.

Ngài là Thánh Linh của Đấng Christ (Rô-ma 8:9). Đức Thánh Linh là Đấng hành động trong sự hoài thai và giáng sinh của Đấng Christ (Lu-ca 1:35), trong sự hy sinh chuộc tội (Hê-bơ-rơ 9:14) và sự phục sinh của Ngài (Rô-ma 1:4). Đức Chúa Giê-su đã giảng dạy, chữa bệnh và sống lại từ cõi chết, Ngài đã giúp đỡ những người nghèo thiếu trong năng quyền của Đức Thánh Linh (Lu-ca 4:17-19). Đức Thánh Linh là Đấng ngự trong chúng ta, khao khát khiến chúng ta trở nên giống như Đức Chúa Giê-su hầu cho chúng ta được sử dụng để làm sáng danh Con của Đức Chúa Trời.

Ngài là Thần lẽ thật (Giăng 14:17; 15:26; 16:12-15). Nếu không có Đức Thánh Linh, chúng ta sẽ không có Kinh Thánh, và cũng không thể hiểu được Kinh Thánh. Kinh Thánh được Đức Thánh Linh thần cảm (2 Ti-mô-thê 3:16-17) và được những con người thánh của Đức Chúa Trời viết ra “bởi Đức Thánh Linh cảm động” (2 Phi-e-rơ 1:20-21). Đức Thánh Linh sử dụng các mục sư và thầy giảng đạo để giảng dạy Lời Chúa cho Hội Thánh của Ngài (Ê-phê-sô 4:11-12), nhưng Ngài cũng muốn dạy dỗ chúng ta khi chúng ta đọc và suy ngẫm lời Chúa. Khi tôi còn là một cậu bé trong lớp học Trường Chúa Nhật, thầy giám thị thường bắt đầu buổi học bằng việc cho chúng tôi hát bài “Càng biết Chúa Giê-su hơn” (“More about Jesus”). Nhiều năm sau, tôi còn nhớ lời của bài hát “Lạy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, Đấng dạy dỗ, / Xin bày tỏ cho con những điều thuộc về Đấng Christ.” Khi Đức Thánh Linh nắm quyền kiểm soát, việc đọc và học Kinh Thánh trở nên rất thú vị.

Ngài là Thần quyền năng (Công vụ 1:8). Chúng ta đã suy nghĩ về điều này trong bài tĩnh nguyện số 69, bạn có thể ôn lại bài học này, tuy nhiên chúng ta cũng hãy suy nghĩ về Lu-ca 4:14. Sau khi Đức Chúa Giê-su đánh bại Sa-tan trong hoang mạc, Ngài “được quyền phép Đức Thánh Linh, trở về xứ Ga-li-lê.” Ngài đã đọc Ê-sai 61:1-2 tại trong nhà hội và nhận rằng mọi lời trong Kinh Thánh là nói về chính Ngài. Ngài sẵn lòng đầu phục Thánh Linh của Đức Chúa Trời là Đấng ban cho Ngài có năng quyền để giảng dạy. Các sứ đồ cũng nhờ cậy quyền phép của Đức Thánh Linh. “Sao các ngươi ngó sửng chúng ta, dường như chúng ta đã nhờ quyền phép hay là nhân đức riêng của mình mà khiến người nầy đi được vậy?” Phi-e-rơ hỏi đám đông trong đền thờ (Công vụ 3:12). Phi-e-rơ và Giăng nợ Đức Thánh Linh về phép mầu chữa lành người què, cũng như chúng ta ngày nay nợ Ngài về bất kỳ công việc nào chúng ta làm để tôn vinh Đấng Christ.

Ngài là Thần của sự nhận làm con nuôi (Rô-ma 8:15). Chúng ta không bước vào gia đình của Đức Chúa Trời bằng việc được nhận làm con nuôi, nhưng được sinh lại (1 Phi-e-rơ 1:23), bởi vì chúng ta “dự phần bổn tánh Đức Chúa Trời” (2 Phi-e-rơ 1:4). Con nuôi không có gen di truyền như cha mẹ nuôi của chúng, nhưng chúng ta có bản tính của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng có một vị trí của người trưởng thành trong gia đình của Ngài. Từ con nuôi được dịch ra trong Rô-ma 8:15 nghĩa là “có vị trí là một người con trưởng thành.” Cha của chúng ta xem chúng ta như là những người trưởng thành chứ không phải con trẻ. Từ thời điểm chúng ta bước vào gia đình của Ngài, chúng ta có thể nói chuyện (cầu nguyện) và chúng ta có thể hiểu điều Cha của chúng ta nói với mình. Con trẻ thì không làm được điều đó. Chúng ta được quyền tiếp cận với những sự giàu có của gia đình (Rô-ma 5:2; Phi-líp 4:19), nhưng không một đứa trẻ nào có quyền thừa kế. Chúng ta có thể bước đi. Chúng ta có thể tự nuôi dưỡng chính mình. Chúng ta biết Cha của chúng ta là ai và Ngài có thể làm gì cho chúng ta. Vị trí của người trưởng thành khiến chúng ta có thể tăng trưởng trong Chúa và hầu việc Ngài. Làm con nuôi là một ân phước nhiệm màu!

Giờ đây, bạn có cảm thấy mình nợ Đức Thánh Linh không? Bạn có nhờ cậy Ngài không? Bạn có cảm tạ Chúa khi Ngài khiến bạn vâng lời Đức Chúa Trời, chiến thắng cám dỗ, và phục vụ người khác? Bài thánh ca Tôn Vinh Chân Thần quen thuộc mà chúng ta hát dạy chúng ta “ca ngợi Ba Ngôi, Chúa Cha và Con với Linh muôn đời.”

Sau hết, chúng ta đều là những người mắc nợ.

Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Đức Chúa Trời,

Và trả sự hứa nguyện ngươi cho Đấng Chí Cao.

Thi Thiên 50:14

Bài 83

Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến; chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh.

1 Cô-rinh-tô 4:5

“Để tránh chỉ trích, đừng làm gì, đừng nói gì, và đừng là gì cả”, Elbert Hubbard, một diễn viên hài tại Hoa Kỳ đã viết như thế. Nhưng Phao-lô có công việc phải làm và ông không thể hy sinh công việc một cách dại dột như thế. Ông biết Hội Thánh tại thành Cô-rinh-tô rất rõ, họ tranh luận, chia rẽ (1 Cô-rinh-tô 1:10-17) và bè đảng (3:1-4), Phao-lô đã chuẩn bị để đối mặt với kẻ thù và giải quyết vấn đề. Có một số chống đối cá nhân có thể được giải quyết một cách đơn giản là giao phó cho Chúa và quên đi. “Sự ghen ghét xui điều cãi lộn, song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm” (Châm Ngôn 10:12; 1 Phi-e-rơ 4:8). Đối với Phao-lô, đó là một trải nghiệm đầy đau đớn, nhưng qua trải nghiệm này chúng ta có thể học cách xử sự như những Cơ Đốc Nhân khi sự chỉ trích nhắm vào chúng ta.

Khi người khác đánh giá chúng ta, hãy giữ bình tĩnh và tìm kiếm ân điển từ nơi Chúa. Không phải mọi lời chỉ trích đều tiêu cực. “Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín, còn sự hôn hít của kẻ ghen ghét lấy làm giả ngụy” (Châm Ngôn 27:6). Nếu những người chỉ trích chúng ta sai, chúng ta có thể giúp đỡ họ; nhưng nếu họ đúng, thì họ đang giúp chúng ta. Những lời chỉ trích chân thành khích lệ chúng ta tra xét lòng mình và tìm kiếm sự giúp đỡ từ nơi Chúa, bởi vì chúng ta không biết rõ về tấm lòng của chính mình (Giê-rê-mi 17:9). Chúng ta cũng cần phải xem xét nguồn gốc của sự chỉ trích, bởi vì có những người làm nổi lên cái tôi yếu đuối của họ bằng việc tìm kiếm lỗi sai của người khác. Hãy cầu nguyện cho họ và tiếp tục công việc của bạn. Đôi khi Chúa cho phép “những con người giấy nhám” đến với cuộc đời của chúng ta để mài giũa chúng ta. Phao-lô biết ông đang làm theo ý muốn Chúa và ông muốn điều tốt nhất cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô.

Khi chúng ta đánh giá người khác, chúng ta cần phải biết chắc động cơ của chúng ta là đúng, bởi vì sự đánh giá chân thành và tìm kiếm lỗi sai tiêu cực là hai điều khác nhau. Chúng ta cũng nói sự thật trong tình yêu thương (Ê-phê-sô 4:15) và những lời chúng ta nói dựa trên nhận thức tâm linh chứ không dựa trên định kiến cá nhân. Phao-lô đã cầu nguyện để các tín hữu tại Phi-líp có nhận thức thuộc linh (Phi-líp 1:9-10) và truyền cho các tín hữu tạ1 Tê-sa-lô-ni-ca “hãy xem xét mọi việc, điều chi lành thì giữ lấy” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:21). Cơ Đốc Nhân trưởng thành là những người “hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ” (Hê-bơ-rơ 5:14). Tôi nhận thấy thật hữu ích khi cầu xin Chúa xắp đặt một cuộc gặp mặt, Chúa muốn tôi gặp người cần nói tại đâu và khi nào. Khi giải quyết những vấn đề nhạy cảm tại không đúng chỗ, không đúng thời điểm, và không đúng thái độ, điều đó chỉ khiến vấn đề thêm trầm trọng. Chúa luôn luôn hướng dẫn tôi.

Khi Chúa trở lại, Ngài sẽ đánh giá công việc (1 Cô-rinh-tô 3:13), động cơ (4:5) và ban thưởng cho chúng ta. Phao-lô nhắc đến tòa án của Đấng Christ trong Rô-ma 14:10 và I1 Cô-rinh-tô 5:10. Chúng ta sẽ không đối diện với tội lỗi của mình nữa, bởi vì những tội lỗi ấy đã bị đoán xét tại thập giá và đã được tha thứ (Hê-bơ-rơ 8:12), tuy nhiên tội lỗi tác động đến công việc của chúng ta, và những công việc ấy sẽ được Chúa đánh giá. Mặc dù vậy, tòa án Đấng Christ nhằm mục đích ban thưởng cho sự phục vụ trung tín của chúng ta. Từ “tòa án” được dịch từ tiếng Hy Lạp, từ này được dùng trong thế vận hội thời cổ đại để chỉ về vị trí mà các trọng tài trao thưởng cho những người dự thi. Câu Kinh Thánh của chúng ta dạy rằng “ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh.” Trong ân điển của Ngài, Chúa sẽ ban thưởng cho mỗi một Cơ Đốc Nhân, dù công việc của họ là nhỏ hay lớn, và Ngài sẽ không sai sót trong việc ban thưởng cho chúng ta. Chúng ta chớ tìm kiếm sự ca ngợi và phần thưởng từ người khác, nhưng chỉ hãy tìm kiếm những điều đó từ nơi Chúa. Sự tán thưởng của con người sẽ sớm bị lãng quên, nhưng phần thưởng của Đức Chúa Trời sẽ được đặt tại chân của Đức Chúa Giê-su cho sự vinh quang đời đời của Ngài (Khải Huyền 4:4, 10-11).

Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi,
Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực;
vì Chúa đã dựng nên muôn vật,
và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên.

Khải Huyền 4:11

Bài 84

Vậy thì, chúng ta hãy giữ lễ, chớ dùng men cũ, chớ dùng men gian ác độc dữ, nhưng dùng bánh không men của sự thật thà và của lẽ thật.

1 Cô-rinh-tô 5:8

Lễ mà Phao-lô đề cập đến chính là Lễ Bánh Không Men của người Do Thái. Lễ này diễn ra ngay sau Lễ Vượt Qua và kéo dài trong một tuần (Lê-vi 23:4-8). Trước kỳ lễ này, tất cả men trong nhà tuyển dân đều bị bỏ đi, và trong kỳ lễ, người ta không được sử dụng men. Ngày nay, Hội Thánh không giữ lễ này, tuy nhiên ý nghĩa ẩn dụ của kỳ lễ cho chúng ta một thông điệp và cho mỗi Cơ Đốc Nhân có ba cơ hội.

Đầu tiên, hình ảnh ẩn dụ của Lễ Bánh Không Men cho chúng ta có cơ hội được dự tiệc. Đời sống Cơ Đốc giống như một bữa tiệc, nghĩa là một dịp mà chúng ta vui mừng. Có quá nhiều người xưng là Cơ Đốc Nhân nhưng không thể hiện họ là những người khách vui vẻ trong một buổi tiệc; họ thể hiện và hành động như những người rước quan tài trong một tang lễ đầy long trọng. Tuy nhiên, bữa tiệc thì có thức ăn ngon, có tình bạn hữu, có cơ hội để kết bạn mới, và đó là thời gian vui vẻ để gặp mặt nhau mà chúng ta không phải trả bất cứ chi phí nào. Khi đọc bốn sách Phúc Âm, bạn sẽ không ngừng bị ấn tượng với số lần Đức Chúa Giê-su ngồi vui vẻ bên bàn ăn. Cũng hãy để ý đến số ẩn dụ có liên quan đến thức ăn. Vương quốc Do Thái trong tương lai cũng được mô tả như một bữa tiệc (Ê-sai 25:6-8; Thi Thiên 22:25-29). Chúa có thể ban cho chúng ta một bữa tiệc thậm chí khi chúng ta đang ở “trước mặt kẻ thù nghịch [tôi]” (Thi Thiên 23:5). Sau khi bị bỏ đói ở một đất nước xa xôi, đứa con trai hoang đàng trở về nhà và dự một bữa tiệc gia đình (Lu-ca 15:11-24), mặc dù người anh đầy kiêu hãnh đã cố khiến việc ấy trở thành một mối hận thù trong gia đình. Có thể sẽ có những ngày chúng ta dầm trong nước mắt, nhưng trong tấm lòng chúng ta vẫn có niềm vui (Thi Thiên 42:3; 80:5; Ê-sai 30:20). Hãy xem mỗi một ngày như một “món ăn” trong bữa tiệc mà Cha thiếp đãi và bạn sẽ trải nghiệm niềm vui và sự phong phú.

Cơ hội thứ hai đó là cơ hội dọn dẹp. Đối với người Do Thái, men biểu trưng cho điều xấu. Giống như tội lỗi, men dường như là những vật thể nhỏ, song khi thêm men vào bột, nó sẽ khiến cho bột dậy lên. Hãy nhớ rằng, Phao-lô viết thông điệp này cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô là những người đã “bị men làm cho dậy lên”, họ không giải quyết vấn đề tội lỗi trong Hội Thánh (1 Cô-rinh-tô 4:6, 18-19; 5:2; 13:4). Phao-lô khuyên răn họ hãy bỏ đi “men cũ” còn sót lại từ đời sống cũ cũng như “men gian ác độc dữ.” Đức Chúa Giê-su cảnh báo các môn đồ của Ngài về men của người Pha-ri-si, đó chính là sự giả hình (Lu-ca 12:1), cũng như lời dạy của những người Pha-ri-si và Sa-đu-sê (Ma-thi-ơ 16:6, 12). Giáo lý sai lạc giống như men. Chúng lan tỏa nhanh chóng, âm thầm và không lâu sau sẽ gây bệnh cho cả Hội Thánh (Ga-la-ti 5:7-9). Một người chỉ trích đã nói với nhà truyền giáo Billy Sunday rằng: “Tôi không tin vào sự phấn hưng bởi vì chúng không tồn tại lâu dài.” Billy Sunday đáp rằng: “Tôi cũng không tin vào việc tắm rửa, tuy nhiên đôi khi đi tắm một lần cũng tốt.” Có men nào trong đời sống chúng ta cần phải giải quyết không? Chúng ta có bị các men ấy làm cho dậy lên không?

Lễ Bánh Không Men cũng là dịp cho chúng ta đem vào. Những người chưa được cứu thì không được dự tiệc. Họ chết trong tội lỗi và sống theo tư dục của xác thịt (Ê-phê-sô 2:1-3), nghĩa là họ đang ở trong một đám tang và phải chịu nạn đói. Đứa con trai hoang đàng đã nói rằng: “Ta đây phải chết đói” (Lu-ca 15:17), đó là điều tất yếu trong những người không đặt lòng tin nơi Đấng Christ. Chúng ta phải ưu tiên mời họ bước vào bữa tiệc. Một số Cơ Đốc Nhân sợ làm chứng, nhưng hãy nghĩ về những gì chúng ta đang mời: một lời mời đến với bữa tiệc cứu rỗi từ chính Chúa. “Hãy đến, mọi sự đã sẵn rồi!” (14:17). “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Ê-sai 55:2). Bữa tối đã được dọn!

Người đưa tôi vào phòng yến tiệc,
Ngọn cờ người phất trên tôi ấy là ái tình

Nhã Ca 2:4

 

 

 

Bài 85

Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn, nói tiên tri cũng chưa trọn vẹn.

1 Cô-rinh-tô 13:9

Cô-rinh-tô nhất chương 13 không được đọc tại lễ cưới, cũng không đọc tại đám tang, nhưng chương Kinh Thánh này đã được đọc tại những cuộc họp bàn của Hội Thánh. Hội Thánh tạ1 Cô-rinh-tô bị chia thành bốn hướng và bị ô uế bởi những tội lỗi công khai của một số tín hữu, song họ lại khoe khoang vì biết nhiều điều thuộc linh. Cụm từ “chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” chắc hẳn đã làm cho Hội Thánh phật ý rất nhiều, mặc dù từ “chúng ta” bao gồm cả sứ đồ Phao-lô, là người chắc chắn biết về Chúa và Lời Ngài. Có ba đáp ứng tích cực đối với những lời này sẽ giúp soi sáng cho chúng ta cả về mặt cá nhân lẫn tập thể.

Đầu tiên, cụm từ này khiến chúng ta hạ mình. Tôi đã nghiên cứu Kinh Thánh từ năm 1944 và đã xuất bản các sách giải kinh về mỗi một sách trong Kinh Thánh, song tôi không dám khẳng định mình biết hết Kinh Thánh. Tôi càng học Kinh Thánh, tôi càng khám phá điều mình chưa biết. Sử gia Will Durant đã viết: “Giáo dục là một cuộc khám phá tịnh tiến của những điều chúng ta chưa biết,” và đây là điều đặc biệt đúng đối với nghiên cứu Kinh Thánh. Vua Đa-vít đã viết một phần của Kinh Thánh, song ông xưng nhận sự thiếu hiểu biết của mình về Kinh Thánh (Thi Thiên 40:5; 139:17-18), và Phao-lô đã hỏi rằng: “Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?” (Rô-ma 11:34). Trong 1 Cô-rinh-tô 1-3, mười bảy lần Phao-lô dùng từ khôn ngoan và nêu sự đối lập giữa sự không ngoan của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của thế gian. Thành Cô-rinh-tô nổi tiếng về những triết gia và giáo sư, thế nên tinh thần tranh luận và sự kiêu hãnh đã tràn vào Hội Thánh, bởi vì “sự hay biết sanh kiêu căng” (1 Cô-rinh-tô 8:1). Những học trò chân thật của Kinh Thánh thì tự hạ mình và cảm thấy không xứng đáng trước đặc ân được nghiên cứu suy nghĩ và công việc của Đức Chúa Trời.

Cụm từ “Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” cũng phải cảnh báo chúng ta. Kinh Thánh là lời được Đức Chúa Trời soi dẫn và không sai lạc, Chúa đã ban cho chúng ta mọi điều chúng ta cần biết về sự cứu rỗi, sự thánh khiết và sự phục vụ. Cơ Đốc Nhân là những người dâng chính mình cho Chúa và đầu phục lẽ thật của Ngài có thể “được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2 Ti-mô-thê 3:17). Nhưng chúng ta phải cẩn thận không được “hệ thống hóa” Kinh Thánh quá nhiều đến nỗi chúng ta nghĩ rằng mình đã nắm được tất cả. “Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn,” và nếu chúng ta không biết trọn vẹn thì có nghĩa chúng ta còn thiếu sót. Các nhà vật lý học Newton từng là đỉnh cao của tư tưởng khoa học – sau đó thì tới Einstein. Tôi không nói rằng chúng ta không thể tin vào Kinh Thánh, nhưng tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta không thể luôn luôn tin vào mọi lời diễn giải và giải thích. Tôi nghĩ rằng, những điều cơ bản thì đã rõ để mọi tội nhân đều có thể hiểu được để được cứu và mọi người tin Chúa đều có thể tăng trưởng trong ân điển và hầu việc Chúa; ngoài ra, chúng ta phải hạ mình trong sự cẩn trọng. Vẫn còn có rất nhiều điều chúng ta cần phải học hỏi.

Cuối cùng, “Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” khích lệ chúng ta. Phao-lô muốn nói rằng sẽ đến một ngày chúng ta sẽ hiểu biết trọn vẹn như Chúa biết chúng ta vậy (1 Cô-rinh-tô 13:12). Điều này không có nghĩa chúng ta sẽ khôn ngoan như Chúa; nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ được ở trong thiên đàng trọn vẹn, trong thân thể vinh quang, học biết những gì chúng ta không thể hoặc chưa được học ở trên đất. Qua thời gian trên thiên đàng, sự hiểu biết của chúng ta về Đức Chúa Trời và về Lời Chúa sẽ được gia tăng. Ngày nay, các thiên sứ thánh đang học bằng cách quan sát Hội Thánh (1 Cô-rinh-tô 4:9; Ê-phê-sô 3:10; 1 Phi-e-rơ 1:12), và trong toàn cõi vĩnh hằng, dân sự của Đức Chúa Trời sẽ học biết nhiều hơn về những điều thuộc về Chúa. Tôi tin những công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời sẽ được giải thích cho bạn, trong đó có những công việc mà Ngài đã làm cho cá nhân bạn ở trên đất này. Chúng ta cũng sẽ biết làm thế nào công tác của Đức Chúa Trời và hành động của chúng ta được kết hợp lại để hoàn thành ý muốn Chúa. Hãy bắt đầu học từ ngay bây giờ!

Ngày nay, chúng ta đang học một lẽ thật nói rằng dù chúng ta đang nhìn qua một tấm gương mờ, nhưng trên thiên đàng sẽ như “mặt đối mặt.” Hãy chuẩn bị bằng cách học thật nhiều Kinh Thánh nhất có thể ngay bây giờ!

Bàn tay Chúa đã làm tôi và nắn hình tôi;
Xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi học điều răn Chúa.

Thi Thiên 119:73

 

Bài 86

Song tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn!

2 Cô-rinh-tô 2:14

Chúng ta sẽ tận hưởng cuộc sống hơn nếu mọi việc diễn ra trôi chảy và theo đúng lịch trình, tuy nhiên cuộc sống không phải lúc nào cũng diễn ra như vậy. Chúng ta gặp những trường hợp như chuyến bay bị hủy, bệnh hoặc chấn thương không mong muốn, xe hư, và những vị khách đột xuất, và chúng ta phải nắm bắt những bài học tích cực từ những điều trên. Phao-lô chia sẻ về những gian lao trên con đường truyền giáo, và có khi ông tự hỏi liệu ông có thể còn sống sót mà ra khỏi những khổ nạn ấy hay không (2 Cô-rinh-tô 1:8-11), nhưng Chúa đã giúp đỡ ông vượt qua mọi khó khăn. Đời sống Cơ Đốc và công tác hầu việc Chúa có cả những gánh nặng, tranh chiến, thất vọng, hiểm nguy, và mỗi Cơ Đốc Nhân đều phải học cách đối diện với thực tại và đáp ứng lại với hoàn cảnh. Có ba từ quen thuộc giúp chỉ ra con đường thành công.

Xung đột. Quy tắc đầu tiên đó là “Hãy trông đợi điều đó.” Từ khi Lu-xi-phe phản loạn và bị đuổi khỏi thiên đàng cùng với đội quân thiên sứ sa ngã của hắn, Đức Chúa Trời và Sa-tan đã bắt đầu xung đột với nhau (Ê-sai 14:12-15). Sa-tan tấn công Đức Chúa Trời bằng cách tấn công dân sự của Ngài. Hắn cám dỗ Ê-va, tấn công Gióp, gây ra những vấn đề cho Y-sơ-ra-ên, cám dỗ Đức Chúa Giê-su trong đồng vắng, dẫn dắt Giu-đa đến chỗ phản bội, tấn công Phao-lô, và hắn sẽ tiếp tục tấn công dân sự của Đức Chúa Trời cho đến khi hắn bị đoán xét và quăng vào hồ lửa. Những kẻ đi theo hắn cùng góp phần phá hoại và vũ khí phòng thủ chắc chắn duy nhất của chúng ta đó là mặc lấy áo giáp, sử dụng gươm và khiên (Ê-phê-sô 6:10-20). Thậm chí Sa-tan cũng có thể hành động qua những người tin Chúa (Ma-thi-ơ 16:21-23), chính vì thế chúng ta cần phải cảnh giác. Đức Chúa Trời không rời bỏ bạn khi kẻ thù tấn công. Nhưng ngược lại! Những vấn đề xảy ra có thể là vì đời sống và công việc của bạn ngăn cản kế hoạch quỷ quyệt của Sa-tan và hắn muốn làm cho bạn im lặng.

Chinh phục. “Ai xứng đáng cho những sự nầy?” Phao-lô hỏi (2 Cô-rinh-tô 2:16), và ông đã trả lời trong câu Kinh Thánh của chúng ta! Từ chiến thắng là một từ đầy ý nghĩa và Hội Thánh Cô-rinh-tô biết chính xác Phao-lô đang muốn chỉ về điều gì: cuộc diễu hành “thắng lợi của đế quốc La-mã” nổi tiếng là cuộc diễu hành vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Khi một tổng tư lệnh của đội quân La-mã chiến thắng một vùng đất ngoại quốc trở về, ông ấy sẽ được chào đón tại quê nhà qua cuộc một cuộc diễu hành. Điều kiện đó là họ phải giết ít nhất năm nghìn quân lính của kẻ thù, nhiều sĩ quan của quân địch bị bắt, những chiến lợi phẩm được đem về bản quốc, và vùng đất mới chiếm được cho đế quốc La-mã. Vị anh hùng đứng trên chiếc xe ngựa bằng vàng dẫn đầu cuộc diễu hành, theo sau là các sĩ quan của ông, một số người cầm chiến lợi phẩm của cuộc chiến. Các tu sĩ La-mã cũng đứng trong đội diễu hành, thắp hương cho thần của họ, và đi sau cùng trong đoàn diễu hành đó là những quân địch bị bắt, họ sẽ trở thành thú tiêu khiển cho người dân bằng cách chiến đấu với sư tử trong đấu trường. Phao-lô nhìn thấy trong minh họa này đó là sự chiến thắng của Đấng Christ trên Sa-tan khi Ngài chết, phục sinh và thăng thiên về trời (Giăng 16:32; Ê-phê-sô 1:20-23; 4:8; Cô-lô-se 2:15-16). Hoàn cảnh của chúng ta có thể trông như là một thất bại, nhưng Đấng Christ đã chiến thắng cuộc chiến rồi.

Tự tin. Khi chúng ta theo Đức Chúa Giê-su bởi đức tin, chúng ta được dự phần trong sự chiến thắng của Ngài, bởi vì “sư tử của chi phái Giu-đa… đã thắng” (Khải Huyền 5:5). Thập giá không phải là chiến bại, nhưng là chiến thắng, bởi chính tại thập giá Chúa đã đắc thắng mọi kẻ thù (Cô-lô-se 2:15). Khi kẻ thù tấn công chúng ta, Đức Chúa Giê-su phán cùng chúng ta rằng: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cô-rinh-tô 12:9). Có thể chúng ta không tin vào chính mình, nhưng chúng ta có thể luôn luôn tin cậy Đức Chúa Giê-su. Ngài ban cho chúng ta áo giáp, khiên đức tin và gươm của Đức Thánh Linh chính là Lời Chúa (Ê-phê-sô 6:10-20).

Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ. Cũng hãy vì tôi mà cầu nguyện, để khi tôi mở miệng ra, Chúa ban cho tôi tự do mọi bề, bày tỏ lẽ mầu nhiệm của đạo Tin Lành.

Ê-phê-sô 6:18-19

 

 

 

 

 

 

Bài 87

Bởi vậy Chúa phán rằng: “Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.”

2 Cô-rinh-tô 6:17

Từ buổi đầu trong lịch sử Do Thái, khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, mong muốn của Ngài đó là họ trở nên một dân tách biệt với thế gian. Chúa muốn ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên và thông qua họ để thể hiện sự thờ phượng và hầu việc một Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống là thế nào. “Ta sẽ khiến ngươi làm sự sáng cho các dân ngoại, hầu cho ngươi làm sự cứu rỗi của ta đến nơi đầu cùng đất.” (Ê-sai 49:6). Hai thế hệ đầu tiên trong Vùng Đất Hứa đã trung tín với Chúa, nhưng đến thế hệ thứ ba, họ đã rời bỏ luật pháp Chúa và bắt chước các dân tộc xung quanh họ (Giô-suê 24:31; Các vua 2:7). Hội Thánh tại Cô-rinh-tô đã mắc phải sai lầm tương tự, họ bắt chước xã hội quanh họ, thế nên Phao-lô đã khuyên họ hãy trở về với Chúa.

Đi ra. Trong câu Kinh Thánh này, Phao-lô đã trích dẫn Ê-sai 52:11, đó là lời nói đầy tha thiết của người tiên tri kêu gọi người Do Thái rời bỏ Ba-by-lôn và trở về với vùng đất của họ. Người Y-sơ-ra-ên bắt chước các nước ngoại quốc thì có lợi gì? Chẳng có gì lợi cả! Chúa ghét việc thờ hình tượng và luôn luôn hình phạt công việc này một cách nghiêm khắc. Khi chúng ta thờ phượng và hầu việc một Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, chúng ta nhận biết Ngài hiện diện cùng chúng ta và chúng ta được quyền đến với ngôi ân điển khi chúng ta cần Ngài (2 Cô-rinh-tô 6:16-17). Ngài đối đãi với chúng ta như con trai con gái của Ngài (c. 18) và ân cần chăm sóc chúng ta. Có được bản tính thiên thượng của Chúa (2 Phi-e-rơ 1:4) và được gọi Chúa là “Cha” đó chính là đặc ân vĩ đại nhất của chúng ta. Được quyền đến trong sự hiện diện của Chúa (Rô-ma 5:2; Hê-bơ-rơ 4:14-16) nghĩa là chúng ta có thể có được sự khôn ngoan từ Chúa và nhận được sự giúp đỡ hằng ngày. Hãy đọc Thi Thiên 115 và tái khám phá sự khác biệt lớn giữa Đức Chúa Trời hằng sống và những thần tượng chết.

Nổi trội. Khi chúng ta bắt chước công việc thờ hình tượng của thế gian này, chúng ta hòa lẫn với “đám đông,” nhưng khi chúng ta bắt chước Chúa (Ê-phê-sô 5:1) chúng ta trở nên nổi bật với sự khác biệt. Cơ Đốc Nhân thỏa hiệp không thể hiện mình là ai; sự sáng của người ấy bị che giấu (Ma-thi-ơ 5:13-16) và thay vì trở nên tiếng nói của Đức Chúa Trời, người ấy lại là tiếng vọng của thế gian. Phương pháp của Đức Chúa Trời để đến với con người lạc mất không bằng cách bắt chước, nhưng bằng sự nhập thể. Ngài đã sai Con Ngài đến mang thân thể xác thịt của con người để người ta có thể nhìn, nghe và cuối cùng Ngài đã chịu đóng đinh trên thập tự giá. “Đấng Christ sống trong tôi,” Phao-lô đã viết (Ga-la-ti 2:20). Đó chính là sự nhập thể! Đức Thánh Linh ban cho quyền phép để chúng ta bày tỏ Đấng Christ cho thế gian và tạo ra sự khác biệt ở nơi mà chúng ta đang sống. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người.” (Ma-thi-ơ 4:19). Khi chúng ta khác biệt, chúng ta sẽ thu hút người khác và họ sẽ tự hỏi sự khác biệt đó là gì. Đức Chúa Giê-su kết bạn với những tội nhân nhưng không bao giờ bắt chước con đường tội lỗi của họ, song họ bị thu hút để đến với Ngài và lắng nghe lời Ngài dạy. Hội Thánh làm theo thế gian và mong muốn ảnh hưởng lên thế gian sẽ thất vọng. Những người hư mất có thể nhìn thấy sự khác biệt nào từ hội thánh?

Vươn ra. Chúng ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian để chúng ta có thể vươn ra và giải cứu con người từ trong thế gian. Có những thời điểm trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, có những người đến từ những vùng đất xa xôi để nhìn thấy “Vương quốc của Đức Chúa Trời,” và một số người đã quay bỏ khỏi việc thờ hình tượng mà tin cậy nơi Đức Chúa Trời hằng sống. Nếu Y-sơ-ra-ên trở nên như những quốc gia khác, điều này sẽ không thể xảy ra (xem 1 Cô-rinh-tô 14:22-25). Trong Bài Giảng Trên Núi (Ma-thi-ơ 5:7), Đức Chúa Giê-su mô tả về một lối sống ngược với văn hóa. Ngài muốn chúng ta trở nên khác biệt, nhưng không kỳ quặc. Chúng ta là “chức khâm sai của Đấng Christ” (2 Cô-rinh-tô 5:18-21) và đồng phục của chúng ta đó chính là sự tin kính Chúa. Phải chăng chúng ta cũng giống như thế gian, phải chăng chúng ta hòa nhập và không có tác động nào trên thế gian?

[Nếu] có người chẳng tin… vào nghe, thì họ sẽ bị mọi người bắt phục, và bị mọi người xét đoán, sự kín giấu trong lòng họ đã tỏ ra; họ bèn sấp mặt xuống đất, thờ lạy Đức Chúa Trời, và nói rằng thật có Đức Chúa Trời ở giữa anh em

1 Cô-rinh-tô 14:24-25

 

 

 

Bài 88

Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một.

Ga-la-ti 3:28

Người La-mã là những người tổ chức rất hiệu quả. Họ đặt cho mỗi một người có một vị trí và đảm bảo mỗi một nhóm và mỗi một cá nhân đều đứng trong đúng vị trí mà họ được sắp đặt. Nơi duy nhất trong Đế quốc La-mã nơi không phân biệt giới tính, quốc tịch và giai cấp xã hội đó chính là hội chúng của Đức Chúa Trời tại địa phương. Trong mỗi một Hội Thánh địa phương, chỉ có “một bầy và một người chăn” (Giăng 10:16), bởi vì họ là một trong Đấng Christ. Trong lời cầu nguyện của Chúa (Giăng 17), Ngài đã xin Cha khiến chúng ta hiệp một và Đức Chúa Cha đã chấp thuận lời cầu xin này. Cơ Đốc Nhân không “hiệp một” về mặt tổ chức, nhưng hiệp một trong tâm linh, cũng như Đức Chúa Giê-su và Đức Chúa Cha là một (c. 11, 20-23). Nhưng sự hiệp không được trở nên một thuộc tính biệt lập của các Hội Thánh, bởi vì sự hiệp một cần phải được hòa hợp với các phước hạnh khác.

Sự hiệp một cần phải hòa hợp với sự đa dạng, bởi vì hiệp một mà không đa dạng nghĩa là đồng dạng, và sự đồng dạng làm cho Hội Thánh tê liệt. Đức Thánh Linh ban cho chúng ta những ân tứ và khả năng khác nhau, sự đa dạng này là một trong số những điểm mạnh của Hội Thánh (Rô-ma 12; 1 Cô-rinh-tô 12; Ê-phê-sô 4). Mỗi một người tin Chúa đều quan trọng đối với công tác của Hội Thánh, dù ân tứ mà họ có là gì. Sự giống nhau dẫn đến nhạt nhẽo, nhưng khi phát triển những ân tứ thuộc linh khác nhau sẽ đem lại sinh khí và sự đa dạng. Những người tuân thủ pháp luật một cách tuyệt đối muốn có những “Cơ Đốc Nhân rập khuôn” là những người giống như họ, tuy nhiên Đức Chúa Trời muốn có sự đa dạng trong gia đình của Ngài.

Sự hiệp một cần phải kết hợp với sự trưởng thành, để một thân thể khỏe mạnh và trưởng thành có thể được mạnh mẽ và có khả năng phục vụ. Đây là lý do vì sao 1 Cô-rinh-tô 13 được chen vào giữa chương 12 và 14, là những chương Kinh Thánh nói về “thân thể.” Tình yêu thương là hệ thống tuần hoàn của Hội Thánh, bởi nếu không có tình yêu, sự đa dạng sẽ trở thành cạnh tranh, và cạnh tranh sẽ dẫn đến chia rẽ (xem Gia-cơ 4:1-6).

Sự hiệp một thuộc về mục vụ. Cũng như mỗi một bộ phận trong thân thể phục vụ cho các bộ phận khác, Cơ Đốc Nhân cũng phải sử dụng ân tứ của họ để phục vụ lẫn nhau. Hãy dùng quyển Kinh Tiết Sách Dẫn và tra những câu Kinh Thánh có cụm từ “lẫn nhau.” Mục vụ của Hội Thánh đó chính là đem sứ điệp phúc âm đến với toàn thế giới, và sự hiệp một của chúng ta trong Đấng Christ là để thực hiện mục vụ này. Thế gian ghét chúng ta (Giăng 17:14), nhưng tình yêu thương và sự hiệp một của chúng ta sẽ làm chứng rằng chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời (c. 21-22). Người ta đã nói về Hội Thánh đầu tiên rằng: “Kìa, họ yêu thương lẫn nhau là thể nào!” Hy vọng những người lạc mất cũng nói rằng: “Kìa, họ yêu thương chúng ta là thể nào!”

Sự hiệp một cũng được viết vào trong cõi đời đời của chúng ta. Đức Chúa Giê-su đã ban sự vinh quang cho mỗi người tin Ngài để thân thể của chúng ta trở nên đền thờ của Ngài (Giăng 17:22; 1 Cô-rinh-tô 6:19-20), nhưng Ngài cũng cầu nguyện để chúng ta sẽ mang sự vinh quang của Ngài trên thiên đàng (Giăng 17:24). Sẽ có sự hiệp một trên thiên đàng – sẽ không còn những ngọn cờ giáo phái, không có sự cạnh tranh, không ai hỏi rằng: “Ai là người lớn hơn hết? Ai là người được tín nhiệm?” Tại sao? Bởi vì điều quan trọng trên thiên đàng đó chính là sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta mang lấy sự vinh quang của Ngài, mọi sự vinh quang khác sẽ trở nên vô nghĩa. Điều này dẫn đến một kết luận: Nếu chúng ta có tình yêu thương và sự hiệp một trên thiên đàng; tại sao chúng ta không tập tành điều đó ngay hôm nay? Nếu chúng ta được định để ở cùng nhau trong vùng đất yêu thương và vinh quang, hãy làm quen với điều đó ngay hôm nay và bày tỏ cho thế giới sự hiệp một vinh quang của dân sự Đức Chúa Trời. Không phải bằng cách hình thành nên một tổ chức lớn, nhưng bằng việc hình thành một cộng đồng hiệp một và yêu thương khổng lồ trên đất. Chúng ta hiệp một trong tâm linh, nhưng Đức Chúa Giê-su muốn chúng ta hiệp một theo cách mà một thế giới đầy chia rẽ và cạnh tranh có thể nhìn thấy được. Lời chứng của chúng ta nói về tình yêu thương của Đức Chúa Trời sẽ hữu ích gì khi thế giới không nhìn thấy tình yêu đó được thể hiện bằng hành động?

Vả, lời rao truyền mà các con đã nghe từ lúc ban đầu, ấy là chúng ta phải yêu thương lẫn nhau.

1 Giăng 3:11

Bài 89

chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.

Ê-phê-sô 2:10

Không ai tự “sinh ra chính mình” trong Hội Thánh của Đức Chúa Giê-su Christ. “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.” (Phi-líp 2:13). Đức Chúa Trời hành động trong chúng ta và qua mỗi một người trong chúng ta, do đó chúng ta có thể đóng góp vào mục vụ của Hội Thánh. Đức Chúa Cha đã chuẩn bị cho mỗi một con cái Chúa có một kế hoạch trong đời sống và kế hoạch ấy phù hợp hoàn toàn đối với chúng ta. Ngài dùng nhiều công cụ, với lòng kiên nhẫn và tình yêu thương để hành động trong đời sống của chúng ta.

Đức Chúa Trời trang bị chúng ta. “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” (2 Ti-mô-thê 3:16-17). Khi chúng ta đọc, học, suy ngẫm và làm theo Lời Chúa, chúng ta sẽ tăng trưởng trong ân điển, tri thức và có thể hầu việc Chúa hiệu quả hơn. Đức Chúa Giê-su đã huấn luyện cho các môn đồ của Ngài như thế nào? “Vì Con đã truyền cho họ những lời Cha đã truyền cho Con… Con đã truyền lời Cha cho họ.” (Giăng 17:8, 14). Nghe giảng, học các bài học Kinh Thánh và đọc sách Cơ Đốc vẫn chưa đủ. Chúng ta phải chìm ngập trong Kinh Thánh và cho phép Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta (16:12-15).

Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban quyền phép cho chúng ta. Chúng ta phải cầu nguyện rằng Chúa sẽ nhậm lời chúng ta “tùy sự giàu có vinh hiển Ngài khiến anh em được quyền phép bởi Thánh Linh mà nên mạnh mẽ trong lòng.” (Ê-phê-sô 3:16) và chúng ta phải nhớ Đức Chúa Giê-su đã phán rằng: “tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.” (Ma-thi-ơ 26:41). Cũng như cách mà Thánh Linh và Ngôi Lời đã tạo dựng nên thế giới, đem lại trật tự từ trong hỗn loạn (Sáng thế ký 1:1-3), thì Thánh Linh và Ngôi Lời cũng sẽ biến đổi chúng ta trở nên tạo vật mới (2 Cô-rinh-tô 5:17). Phớt lờ Đức Thánh Linh hoặc phớt lờ Đức Chúa Giê-su đều dẫn đến thất bại.

Dân sự của Đức Chúa Trời khích lệ chúng ta. Bạn và tôi không sở hữu mọi ân tứ thuộc linh; chính vì thế, chúng ta cần có nhau và phải dạy dỗ nhau. Trong nhiều năm chức vụ, tôi đã học được rằng không có Cơ Đốc Nhân nào là vô dụng và không có ân tứ thuộc linh nào là kém quan trọng. Bởi vì chúng ta thuộc về nhau, chúng ta ảnh hưởng đến nhau và chúng ta cần nhau. Chúng ta thấy Đức Chúa Trời kêu gọi Phao-lô và Ba-na-ba thực hiện hành trình truyền giáo đầu tiên (Công vụ 13:1-4) tại Hội Thánh An-ti-ốt. Các tiên tri và giáo sư khi ấy đang chăn bầy cho Chúa và đang kiêng ăn thì Đức Thánh Linh kêu gọi Phao-lô và Ba-na-ba trở nên những giáo sĩ, Đức Thánh Linh thông qua Hội Thánh đã sai họ ra đi (c. 4-5). Trong mục vụ của mình, Phao-lô cảm tạ Chúa vì Hội Thánh đã cầu nguyện và hỗ trợ cho ông, và quả là một đặc ân cho Hội Thánh nào được làm việc cùng ông!

Sự dự liệu của Đức Chúa Trời làm tăng thêm cho chúng ta. Cuộc sống là một trường học, có khi thăng có khi trầm. Thường thì chúng ta sẽ không nhận ra bài học cho đến khi thất bại trong bài kiểm tra! Tuy nhiên, trong sự dự liệu trước của Ngài, Đức Chúa Trời sắp đặt những kinh nghiệm trong cuộc sống để cho chúng ta bị thử thách và tăng trưởng, trở nên mạnh mẽ trong Chúa. “Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi” (Thi Thiên 4:1). Đa-vít đã viết: “Ngài đem tôi ra nơi rộng rãi” (18:19). Khi sự ưu phiền tăng thêm (25:17), Đa-vít tin cậy Đức Chúa Trời và thấy mình được lớn lên. Đức Chúa Trời chuẩn bị cho chúng ta để đối diện với những điều mà Ngài chuẩn bị cho chúng ta phải đối diện, và Ngài đi trước để giúp đỡ chúng ta hoàn thành ý muốn của Ngài. Chúng ta là công việc do tay Chúa làm nên, và trách nhiệm của chúng ta đó là giao phó cho cánh tay quyền năng của Ngài, tin cậy nơi ý muốn hoàn hảo của Chúa, và vâng theo mệnh lệnh yêu thương của Ngài. Chúa sẽ làm phần việc còn lại trong chúng ta và qua chúng ta, và chúng ta sẽ làm sáng danh Ngài!

Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.

2 Cô-rinh-tô 5:17

 

 

 

Bài 90

Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh.

Ê-phê-sô 5:18

Phao-lô nêu bật sự tương phản giữa một người say rượu với một người được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Thật ra, rượu là một linh nhưng không phải là Đức Thánh Linh. Đó là một vật thay thế cho thực tại mà chúng ta có trong Đấng Christ, tuy vậy hầu hết thế giới này ưa thích sống với vật thay thế hơn là sống trong Chúa. Mặc dù họ có thể tiếp nhận Đức Chúa Giê-su làm Đấng Cứu Rỗi và có được Đức Thánh Linh làm Đấng yên ủi, nhưng họ lại ưa thích rượu bia để ăn uống quá độ và tạm thời quên đi nan đề của mình. Khi vấn đề quay trở lại, họ càng cảm thấy tệ hơn.

Đức Thánh Linh khiến chúng ta đối diện với thực tại mà chúng ta có trong Đức Chúa Giê-su Christ. Cũng như Đức Chúa Giê-su đã tôn vinh Đức Chúa Cha thể nào khi Ngài đang thi hành chức vụ trên đất (Giăng 17:4), thì ngày nay Đức Thánh Linh cũng tôn vinh Đức Chúa Giê-su thể ấy khi chúng ta hầu việc Chúa (16:14). Nếu những gì tôi làm là hướng về tôi hoặc hướng về mục vụ của tôi thay vì hướng về Đức Chúa Giê-su Christ, thì Đức Thánh Linh sẽ không hành động trong đời sống của tôi. Một số người không nhận ra sự khác biệt giữa được đầy dẫy Đức Thánh Linh và bị lừa gạt bởi các linh. Guy H. King đã nói rằng Đức Thánh Linh yêu Đức Chúa Giê-su đến nỗi Ngài khiến Cơ Đốc Nhân trở nên giống như Đức Chúa Giê-su, Ngài viết một quyển sách về Đức Chúa Giê-su (Kinh Thánh), và chuẩn bị một nàng dâu cho Ngài, chính là Hội Thánh. Nếu tôi không nhìn thấy Đức Chúa Giê-su trong Kinh Thánh thì tôi thà ngưng đọc và học Kinh Thánh cũng như không cầu nguyện xưng tội nữa! Gặp Đức Chúa Giê-su trong Luật pháp Môi-se, trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, trong Thi Thiên, trong các lời tiên tri và các thư tín cũng như trong các sách Phúc Âm và Công vụ các sứ đồ đó chính là đào bới sự giàu có của Kinh Thánh. Vì lý do đó, chúng ta cần sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh.

Chúng ta cũng cần được đầy dẫy Đức Thánh Linh nếu chúng ta muốn trở nên chứng nhân hiệu quả cho Đấng Christ (Công vụ 1:8). Đức Thánh Linh đầy dẫy trong những Cơ Đốc Nhân đầu tiên tại Lễ Ngũ Tuần (2:4) và ban năng quyền cho họ để chia sẻ phúc âm và chăn dắt các tân tín hữu. Một vài tuần trước đó, Phi-e-rơ đã chối Chúa ba lần, nhưng giờ đây ông công bố phúc âm trong năng quyền và sự can đảm, kết quả là ba ngàn người tin Chúa. Hãy đọc bài giảng của Phi-e-rơ trong Công vụ 2 và lưu ý làm thế nào Đức Thánh Linh đã giúp ông hiểu lẽ thật, trích dẫn những câu Kinh Thánh liên quan, và áp dụng sứ điệp vào tấm lòng của những người lắng nghe. Đức Thánh Linh đã giúp ông tôn vinh Đức Chúa Giê-su Christ. Một vài người nói rằng Phi-e-rơ và những người đi theo ông bị say, nhưng ngược lại!

Chúng ta cần được đầy dẫy Đức Thánh Linh để có thể tôn vinh Đức Chúa Trời qua các công việc thường ngày. Trong đời sống Cơ Đốc tận hiến không có định nghĩa “thế tục” và “thánh khiết.” Bất kỳ điều gì chúng ta làm trong ý muốn của Đức Chúa Trời đều là thánh bởi vì chúng ta làm điều đó để tôn vinh Đức Chúa Giê-su Christ. Nhiều phụ nữ Cơ Đốc đã treo dòng chữ này trong bếp: “Hầu việc Cha Thiên Thượng tại đây mỗi ngày.”

Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta khi cầu nguyện (Rô-ma 8:26), và chúng ta được truyền phải cầu nguyện “trong Đức Thánh Linh” (Giu-đe 20). Nghĩa là đầu phục Chúa và cho phép Đức Thánh Linh nhắc chúng ta nhớ về những lời hứa, những con người, những gánh nặng, và những ơn phước khi chúng ta cầu nguyện với Cha trong Danh Đức Chúa Giê-su. Điều đó cũng có nghĩa là dừng lại, suy ngẫm, thờ phượng và cảm tạ sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.

Đức Thánh Linh là “hơi thở của Đức Chúa Trời” trong con người của chúng ta. Đức Chúa Giê-su “hà hơi trên môn đồ mà rằng: ‘Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh’” (Giăng 20:22); và Đức Chúa Cha hứa ban Đức Thánh Linh cho những ai cầu xin Ngài (Lu-ca 11:13). Nếu chúng ta trình lên trước Chúa một chiếc bình trong sạch, và nếu khao khát của chúng ta đó là tôn vinh Đấng Christ, thì Đức Chúa Cha sẽ giữ lời hứa của Ngài. Cũng giống như cách chúng ta hít thở mỗi ngày, chúng ta cần cầu xin Đức Chúa Cha liên tục đổ đầy Đức Thánh Linh. Đừng sống dựa vào những vật thay thế và đừng bị các thần lừa dối. Đức Thánh Linh yêu thương bạn và muốn luôn đồng hành và giúp đỡ bạn.

Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước theo Thánh Linh vậy.

Ga-la-ti 5:25

 

 

 

Bài 91

Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.

Phi-líp 2:12-13

Những lời trên được viết cho một Hội Thánh địa phương nhằm khích lệ họ vâng theo tiếng gọi của Chúa dành cho mỗi một cá nhân cũng như toàn thể Hội Thánh. Bên cạnh việc thờ phượng Chúa, làm chứng cho người chưa tin, tập trung vào sự cầu nguyện và Lời Chúa (Công vụ 6:4), đồng thời nhân danh Chúa mà phục vụ cộng đồng, Hội Thánh cũng phải tham gia vào bất kỳ mục vụ đặc biệt nào mà Đức Chúa Trời giao phó cho. Qua những năm trong mục vụ lưu động, tôi đã đến thăm hàng trăm Hội Thánh ở nhiều nơi trên thế giới và chứng kiến Chúa đã cưu mang và trang bị cho các Hội Thánh, các gia đình và mỗi một cá nhân như thế nào cho các mục vụ khác nhau nhằm tôn vinh Danh Ngài. Từ “làm nên” đơn giản nghĩa là “đem lại sự thành công,” tương tự như việc giải một bài toán. Đức Thánh Linh là Đấng có từ ban đầu, chính Ngài đã kêu gọi và ban ân tứ cho con người để họ thực hiện các mục vụ khác nhau, chính vì vậy mỗi Hội Thánh cần tạo điều kiện cho các mục vụ niềm tin này. Nếu mỗi cá nhân hoặc một nhóm người bị bắt phục bởi một khải tượng để thực hiện một mục vụ nào đó, Hội Thánh cần phải cầu nguyện về việc này và nhìn xem Chúa đang dẫn dắt họ như thế nào.

Lời khuyên nhủ của Phao-lô không chỉ thách thức Hội Thánh, nhưng cũng là sự kêu gọi để dân sự của Chúa đồng công với Ngài. Chúa “cảm động” và chúng ta “làm nên.” Đức Chúa Trời đã “cảm động” lòng và trí của Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp, họ đã “làm nên” đền tạm và những vật dụng trong đền tạm (Xuất Ê-díp-tô ký 31:1-11). Đức Chúa Trời đã “cảm động” James Hudson Taylor và ông đã “làm nên” mục vụ Truyền Giáo Nội Địa Trung Quốc. Đức Chúa Trời đã lấy lòng độ lượng mà hạ mình và sử dụng con người để hoàn thành kế hoạch thiên thượng của Ngài. Mỗi một người trong chúng ta cần phải đầu phục Chúa để Ngài cảm động tấm lòng, dạy dỗ tâm trí, và kiểm soát ý chí của chúng ta, để qua đó toàn bộ khả năng của chúng ta được tận dụng để hầu việc Ngài. Phục vụ Chúa là một đặc ân và cũng là nhiệm vụ vĩ đại của chúng ta, đó chính là lý do mà Phao-lô dạy chúng ta phải hầu việc với sự run rẩy sợ sệt. Vâng, trong công tác hầu việc Chúa thì có niềm vui, nhưng sự vui mừng này cần phải được cân bằng với sự kính sợ Chúa chính là động lực mà chúng ta làm vui lòng Ngài. “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi Thiên 2:11). Khi một người đầy lòng tự cao bắt đầu thực hiện một mục vụ nào đó mà không có sự dẫn dắt và giúp đỡ của Chúa, điều đó chỉ đem lại sự hủy hoại.

Chúng ta đã bàn về Hội Thánh nhạy cảm với sự dẫn dắt của Chúa, và tầm quan trọng của sự đồng công giữa người tin Chúa và chính Chúa. Giờ đây, hãy cùng luận về sự tán dương, ngợi khen Chúa và tôn vinh Ngài. Tôi đã nhìn thấy những Cơ Đốc Nhân có ý tốt nhưng mắc phải sai lầm trong suy nghĩ, họ đã bắt đầu công tác bằng sức riêng, rồi nhìn cái gọi là mục vụ đó sụp đổ và tan biến. Nếu Chúa bắt đầu một công tác mới, và nếu chúng ta vâng theo ý muốn của Ngài thì công tác ấy sẽ thành công, nhưng nếu chúng ta giống như Phi-e-rơ và những người bạn của ông đi đánh cá mà không có sự hướng dẫn của Chúa, chúng ta sẽ không bắt được một con cá nào nếu chúng ta không mời Ngài dẫn dắt (Giăng 21:1-14). Nếu công tác Chúa được thực hiện theo cách của Ngài vì sự vinh quang của Ngài, chính Chúa sẽ ban thưởng cho tôi tớ trung tín của Ngài tại tòa án của Đấng Christ (Rô-ma 14:10; 2 Cô-rinh-tô 5:10).

Từ ngữ đầu tiên trong câu Kinh Thánh ngày hôm nay đó là “ấy vậy,” từ này liên kết chúng ta với phần Kinh Thánh trước đó (Phi-líp 2:1-11), Đức Chúa Giê-su Christ hạ mình và được tôn vinh. Vì Ngài là Đấng được tôn vinh, chúng ta cũng phải tôn Ngài làm Chúa của cuộc đời mình hôm nay.

Mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.

Phi-líp 2:11

 

 

Bài 92

Vì tin lành nầy đã rao truyền cho chúng ta cũng như cho họ; những lời họ đã nghe không ích chi hết, vì trong khi nghe, chẳng lấy đức tin nhận lời đó thuộc về mình.

Hê-bơ-rơ 4:2

Đã bao giờ bạn đọc Kinh Thánh nhưng không được cảm động, hoặc nghe một bài giảng nhưng dường như không giúp ích gì cho bạn? Vậy câu Kinh Thánh này là dành cho bạn, bởi vì chỉ khi “lấy đức tin nhận” Lời Chúa thì chúng ta mới có thể tiếp nhận lẽ thật của Đức Chúa Trời và tăng trưởng.

Đức Chúa Trời ban tin mừng cho dân Y-sơ-ra-ên rằng vùng đất Ca-na-an là thuộc về họ, và một ngày nọ họ sẽ sở hữu vùng đất ấy như là nhà mình. Đầu tiên Đức Chúa Trời ban lời hứa cho Áp-ra-ham (Sáng 12:1; 13:14-18) và sau đó Ngài tái khẳng định lời hứa của Ngài với I-sác, Gia-cốp, và Môi-se. Khi dân Y-sơ-ra-ên rời Ai Cập, họ đã đem quan tài của Giô-sép theo với họ như là một sự nhắc nhở rằng họ sẽ cư ngụ trong Vùng Đất Hứa và an tâm thoát khỏi ách nô lệ và không còn lang thang trong đồng vắng nữa (Sáng 50:22-26; Xuất 13:19). Sách Hê-bơ-rơ nhắc lại câu chuyện trong lịch sử này để minh họa cho sự yên tâm trong tâm linh và sự thừa kế mà dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay có được trong Đức Chúa Giê-su Christ (Công vụ 20:32; Ê-phê-sô 1:11). Hãy lưu ý các giai đoạn trong kinh nghiệm thừa kế tuyệt vời này.

Sự thừa kế bắt đầu bằng lời hứa. Khi Áp-ra-ham và Sa-ra rời quê hương U-xơ xứ Cha-ran, tất cả những gì họ biết đó là họ đang hướng về một vùng đất mà Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ cho họ. Họ bước đi bởi đức tin mỗi ngày dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Họ đã không vâng lời Chúa và đi vòng xuống Ai Cập, tại đó họ gặp rắc rối, nhưng Chúa tha thứ và đem họ về con đường đúng. Tuy nhiên tài sản duy nhất mà Áp-ra-ham có được tại xứ Ca-na-an chỉ là một cái hang nơi ông chôn Sa-ra và chính ông cũng được con mình là Y-sác chôn tại đó. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, lời hứa của Chúa vẫn đứng vững, và lời hứa của Ngài ngày nay vẫn còn y nguyên.

Lời hứa phải được “tiếp nhận bởi đức tin.” Khi dân Y-sơ-ra-ên đến Ca-đe, họ đã có thể bước vào vùng đất, đánh bại kẻ thù, và công bố của thừa kế của họ (Dân số ký 13-14). Tuy nhiên trong số mọi người có mặt tại đó, chỉ có Ca-lép, Giô-suê và Môi-se tin rằng Đức Chúa Trời sẽ bạn cho họ sự chiến thắng. Khi chúng ta tiếp nhận lẽ thật của Đức Chúa Trời vào lòng, Đức Thánh Linh sẽ ban cho chúng ta đức tin để làm theo lẽ thật đó, tuy nhiên dân Y-sơ-ra-ên đã bước đi bởi mắt thấy chứ không bởi đức tin. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô-ma 10:17). “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài.” (Hê-bơ-rơ 11:6).

Đức tin phải được minh chứng bằng sự vâng lời. Đức tin là vâng theo Đức Chúa Trời, dù chúng ta có cảm thấy như thế nào, dù những hoàn cảnh nào đang xảy ra, hoặc dù những hậu quả nào đang bày ra trước chúng ta. “Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia-cơ 2:26). Chúng ta có thể bàn về đức tin, hát về đức tin, và thậm chí cầu nguyện về đức tin, nhưng nếu chúng ta không vâng theo Lời Chúa, đức tin của chúng ta không nói lên điều gì cả. Một bài thánh ca xưa viết rằng: “Tin cậy vâng lời / nào nhờ cách gì trong đời / muốn hưởng phước thiên thượng ai ơi / hằng duy tin cậy vâng lời.” Khoảng ba mươi tám năm sau, Giô-suê và thế hệ mới đã chiếm lấy vùng đất và công bố sự thừa kế của họ.

“Sự nhân từ Chúa, mà Chúa đã dành cho người kính sợ Chúa, và thi hành trước mặt con cái loài người, cho những kẻ nương náu mình nơi Chúa, thật lớn lao thay.” (Thi Thiên 31:19). Cha thiên thượng không chỉ chuẩn bị những phước hạnh cho chúng ta, nhưng Ngài còn ban cho chúng ta “lời hứa rất quí rất lớn” (2 Phi-e-rơ 1:4) đó chính là chìa khóa mở ra kho báu ân điển của Ngài. Kinh Thánh chính là quyển sổ tiết kiệm, là thứ cho chúng ta biết mình giàu có như thế nào, nhưng nếu chúng ta không tiếp nhận những lời hứa trên bằng đức tin và sự vâng lời Chúa, chúng ta sẽ không thể nhận lấy những phước hạnh.

Người công bình thì sống bởi đức tin mình.

Ha-ba-cúc 2:4

 

 

 

Bài 93

Nhưng Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa. Vì vậy, Kinh Thánh chép rằng: “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.”

Gia-cơ 4:6

Gia-cơ viết thư này cho các Hội Thánh đang gặp nhiều khó khăn, đó là những khó khăn mà ngày nay các Hội Thánh vẫn đang phải đối diện. Người giàu gây khó khăn về kinh tế và bóc lột người nghèo, Hội Thánh tranh cãi và chia rẽ, nhiều người tuyên bố đã được cứu nhưng không bày tỏ qua đời sống của họ, và các thành viên trong Hội Thánh thì dùng môi miệng của mình để phá hoại. Cơ Đốc Nhân trở nên kiêu ngạo và sống thế tục, họ không sống bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Gia-cơ trích dẫn Châm Ngôn 3:34 để cảnh báo cũng như cho họ một lời hứa: “Quả thật Ngài nhạo báng kẻ hay nhạo báng; nhưng Ngài ban ơn cho người khiêm nhường.” Gia-cơ đảm bảo với họ rằng Đức Chúa Trời sẽ ban thêm ơn nếu họ tìm cầu Chúa.

Ân điển là một món quà cho người không xứng đáng. Ân điển không thể mua được bằng tiền.  Ân điển nghĩa là “nguồn lực của Đức Chúa Trời dành cho Cơ Đốc Nhân ở khắp mọi nơi.” Không chỉ tội nhân được cứu bởi ân điển (Ê-phê-sô 2:8-9), nhưng Cơ Đốc Nhân sống bởi ân điển, bởi vì ân điển Chúa có đủ cho mọi nhu cầu cho chúng ta (2 Cô-rinh-tô 12:9). Ân điển được ban cho miễn phí cho người nào cầu xin bởi vì Đức Chúa Giê-su đã trả cái giá của ân điển trên thập tự giá. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được chia sẻ “sự dư dật của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 1:7). Những người tiếp nhận lá thư của Gia-cơ đã sống dựa vào lời nói, sự giàu có và kế hoạch của họ để đạt được thành công, tuy nhiên điều họ cần đó chính là sự khiêm nhường, cầu nguyện, đức tin và ân điển của Đức Chúa Trời. Ngôi của Đức Chúa Trời chính là ngôi ân điển (Hê-bơ-rơ 4:14-16), và chúng ta phải khiêm nhường trước Chúa, tuyên xưng tội lỗi của mình, trình dâng nhu cầu của mình cho Chúa, và tin cậy nơi sự đáp lời của Ngài.

Ân điển không chỉ là một món quà dành cho người không xứng đáng, nhưng đó còn là món quà vô tận. “Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn.” (Giăng 1:16). Hai lần trong thư tín gửi cho người Ê-phê-sô, Phao-lô đã viết về “sự dư dật của ân điển Ngài” (1:7; 2:7), điều đó đơn giản có nghĩa là ân điển đủ cho tất cả mọi người, dù nhu cầu của họ là gì đi nữa. Quá nhiều người tự xưng là Cơ Đốc Nhân nhưng sống như những người Do Thái trong thời của tiên tri Giê-rê-mi, họ đã từ bỏ Chúa “là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được.” (Giê-rê-mi 2:13). Họ dựa vào sức lực và tài năng của riêng mình và làm ngơ trước sự giàu có của ân điển Chúa. Nếu bạn hỏi Phao-lô bí quyết của ông trong đời sống và mục vụ, ông sẽ nói rằng: “Nhưng tôi nay là người thể nào, là nhờ ơn Đức Chúa Trời… tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi.” (1 Cô-rinh-tô 15:10). Tôi có đặc ân được biết nhiều lãnh đạo Cơ Đốc trong nhiều năm qua, mỗi một người trong số họ đều xưng nhận sự yếu đuối của riêng mình và đều công bố họ nương dựa nơi ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển của Chúa không bao giờ cạn kiệt!

Ân điển của Đức Chúa Trời là một món quà thiết yếu. Chúng ta không thể làm gì nếu không có món quà này. “Đức Chúa Trời ban mọi ơn” (1 Phi-e-rơ 5:10), dù đó là ơn cứu rỗi (Ê-phê-sô 2:8-10), ơn thánh hóa (Rô-ma 5:17), ơn chịu khổ (2 Cô-rinh-tô 12:7-9), hay bất kỳ “ơn” nào khác tại ngôi ân điển. Kinh Thánh chính là “đạo của ơn Ngài” (Công vụ 20:32) và bày tỏ cho chúng ta “các ơn” mà Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Đức Thánh Linh ban ơn (Hê-bơ-rơ 10:29) và cho chúng ta biết điều chúng ta cần khi chúng ta cần điều đó. Khi Phao-lô và Si-la bị cầm tù tại Phi-líp, Đức Chúa Trời ban cho họ “ơn ca hát,” và họ đã làm chứng cho những người bị cầm tù và dắt đưa cai ngục và gia đình của ông về với Đấng Christ (Công vụ 16:22-34; Cô-lô-se 3:16). Cơ Đốc Nhân nào không nương nhờ nơi ân điển của Đức Chúa Trời mà âm thầm kiêu ngạo về những thành tựu của mình nghĩa là họ đang cướp lấy sự vinh quang của Đức Chúa Trời và cướp đi những phước hạnh mà họ có thể đem lại cho người khác (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:12). Ân điển của Đức Chúa Trời không phải là sự xa hoa, nhưng là điều thiết yếu. Khi thi hành chức vụ trên đất, Đức Chúa Giê-su đã nương dựa nơi ân điển của Đức Chúa Trời (Lu-ca 2:40; Hê-bơ-rơ 2:9).

Ấy vậy, vì chúng tôi làm việc với Chúa, nên xin anh em chớ chịu ơn Đức Chúa Trời luống không.

2 Cô-rinh-tô 6:1

 

 

 

Bài 94

Nếu anh em xưng Đấng không tây vị ai, xét đoán từng người theo việc họ làm, bằng Cha, thì hãy lấy lòng kính sợ mà ăn ở trong thời kỳ ở trọ đời nầy.

1 Phi-e-rơ 1:17

Bạn dùng hình ảnh gì để mô tả về cuộc sống? Phải chăng đó là một cuộc chiến, một bữa tiệc, một cuộc đua, hay là một trò chơi giải đố? Ở một phạm vi lớn hơn, hình ảnh của bạn về cuộc sống sẽ định hình cách mà bạn sống. Trong câu Kinh Thánh hôm nay, sứ đồ Phi-e-rơ vẽ nên bức tranh cuộc sống như một hành trình và gọi dân sự của Đức Chúa Trời là “những người hành hương” (1 Phi-e-rơ 1:1; 2:11). Người đi lang thang thì không có nhà, người lánh nạn thì chạy khỏi quê hương mình, người khách lạ thì đang ở xa quê, nhưng người hành hương thì đang tiến về quê hương của mình. Cả Phao-lô lẫn Phi-e-rơ đều dùng hình ảnh căn nhà tạm để nói về thân thể con người (2 Cô-rinh-tô 5:1, 4; 2 Phi-e-rơ 1:13-14) bởi vì đó chỉ là nơi ở tạm thời của linh hồn con người, khi linh hồn rời khỏi thân xác nghĩa là thân xác chết đi (Gia-cơ 2:26). Nếu bạn có niềm tin nơi Đấng Christ là Đấng Cứu Rỗi và là Chúa của cuộc đời mình, thì bạn là một người hành hương và là một khách lạ trong thế gian này, bạn có thể được hưởng những ích lợi mà những người chưa được cứu không được hưởng.

Để bắt đầu, người hành hương có một khải tượng vĩ đại. Họ quay lưng lại với thế gian và hướng về thiên đàng. Áp-ra-ham và Sa-ra là công dân của thành phố lớn U-xơ, song khi Chúa hiện ra với họ, họ đã rời U-xơ để đến với vùng đất mà Chúa sẽ bày tỏ cho họ (Công vụ 7:1-5; Hê-bơ-rơ 11:9-12). Đôi mắt của những người hành hương không tập chú vào thế giới này nhưng chú vào thế giới sẽ đến, và cách mà họ sống trong thế giới này bị chi phối bởi khải tượng đó. Khi Ê-tiên bị ném đá, ông đã nhìn thấy Đức Chúa Giê-su trong thiên đàng vinh quang, và điều đó khiến ông có thể cầu nguyện cho kẻ thù của mình trước khi qua đời (Công vụ 7:54-60). Cơ Đốc Nhân không có “khuynh hướng thiên đàng” cực đoan đến nỗi họ không có những điều tốt nào trên đất, như tiến sĩ Moody thường nói, nhưng khải tượng của họ về thiên đàng thúc đẩy họ hy sinh và phục vụ trên đất này. Tên của chúng ta đã được ghi trên thiên đàng (Lu-ca 10:20) bởi vì chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời và là công dân thiên quốc. Thiên đàng chính là quê hương đời đời của chúng ta.

Người hành hương có những giá trị đặc biệt không thuộc về thế giới này. Chúng ta muốn phát triển trong sự thánh khiết và không quan tâm đến “các vật ở thế gian” (1 Giăng 2:15-17). Chúng ta đi trong cuộc hành trình mà không đem theo nhiều hành lý, không bị vướng víu bởi những điều có thể ngăn trở chúng ta đạt được mục đích của mình (Hê-bơ-rơ 12:1-2). Trong thời trị vì của mình, vua Đa-vít đã tích góp một lượng lớn tiền để xây dựng đền thờ. Trong lời cầu nguyện, ông đã nhắc nhở chính mình và dân sự của ông rằng đời sống ngắn ngủi và chúng ta sẽ nhanh chóng đi qua thế giới này. “Vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến; và những vật chúng tôi đã dâng cho Chúa chẳng qua là đã thuộc về Chúa. Vì chúng tôi tại trước mặt Chúa vốn là kẻ lạ, và kẻ ở đậu như các tổ phụ chúng tôi; các ngày chúng tôi tại trên đất, khác nào cái bóng, không mong ở lâu được.” (1 Sử ký 29:14-15). Chúng ta sống với những giá trị đời đời. Chúng ta có một cuộc hành trình ở bên trong tấm lòng mình để mỗi ngày chúng ta càng giống Chúa hơn, đó là khi chúng ta và các anh em chung niềm tin đồng đi cuộc hành trình với Chúa.

Người hành hương trải nghiệm một chiến thắng đặc biệt. Chúng ta trông đợi sự trở lại của Đức Chúa Giê-su, nhưng nếu Ngài vẫn chưa đến trong thời của mình thì chúng ta không sợ hãi sự chết. Khi diện kiến Pha-ra-ôn, Gia-cốp nói về cuộc sống của mình là một cuộc hành hương (Sáng 47:9); và khi đối diện với cái chết, ông đã cầm lấy cây gậy trong cuộc hành trình của mình và sẵn sàng cho chuyến đi (Hê-bơ-rơ 11:21). Sự chết không thắng được ông. Dân sự của Đức Chúa Trời “thắng hơn bội phần” (Rô-ma 8:37). Đối với chúng ta, sự chết là chiến thắng chứ không phải là chiến bại.

Vấn đề nằm ở tấm lòng. Nếu tấm lòng của bạn hướng về thế giới này, bạn sẽ không sống như một người hành hương, nhưng nếu tấm lòng của bạn hướng về Đức Chúa Giê-su và lời hứa của Ngài thì cuộc sống của bạn sẽ nói cho người khác biết rằng thế giới này không phải là nhà của bạn.

Tấm lòng của bạn hướng về đâu?

Phước cho người nào được sức lực trong Chúa,

Và có lòng hướng về đường dẫn đến Si-ôn!

Thi Thiên 84:5

 

 

 

Bài 95

Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em.

1 Phi-e-rơ 5:7

Dù các mục sư đã giảng dạy điều gì thì Cơ Đốc Nhân vẫn có những điều lo lắng. Họ lo lắng bởi vì họ là con người sống trong một thế giới sa ngã. Họ lo lắng cho người khác và điều đó càng chất thêm cho họ gánh nặng. Sống tin kính trong một thế giới không tin kính luôn đem lại sự chống đối và bắt bớ từ kẻ thù, là kẻ luôn rình mò như sư tử để tìm kiếm con mồi (1 Phi-e-rơ 5:8). Những Cơ Đốc Nhân tin kính nhất đã trải qua những thung lũng sâu thẳm nhất bởi vì sự trung thành của họ đối với Đấng Christ. Khi tấm lòng của bạn trĩu nặng bởi những lo âu, hãy giao phó mọi sự lo lắng của bạn cho Chúa và suy ngẫm về Ngài là ai đối với bạn.

Ngài là Đấng tạo hóa và Ngài quan tâm đến sự sáng tạo của Ngài. “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín.” (4:19). Nếu Cha của chúng ta trên thiên đàng có thể cầm quyền trên toàn cõi vũ trụ thì thể nào Ngài lại không chăm sóc cho chúng ta? Khi nhìn xem sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, vua Đa-vít đã hỏi rằng: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi Thiên 8:4). Từ ngôi sao sáng nhất đến con sâu nhỏ nhất, sự sáng tạo nằm trong sự chăm sóc của Đức Chúa Trời – kể cả con cái của chúng ta cũng được dựng nên theo hình ảnh của Chúa. Đức Chúa Giê-su đã chỉ ra rằng, nếu Đức Chúa Trời ban thức ăn cho chim sẻ và ban vẻ đẹp cho những bông hoa, thể nào Ngài không đáp ứng nhu cầu của con cái của Ngài (Ma-thi-ơ 6:25-34)? Chính Phi-e-rơ đã nhiều lần kinh nghiệm sự chăm sóc của Chúa. Ông bắt được một con cá có đồng xu ở trong miệng và đã dùng đồng xu đó để trả thuế. Hai lần ông đánh được mẻ cá lớn, và ông thậm chí còn bước đi trên mặt nước một lần! Đêm trước khi bị hành hình, Phi-e-rơ được giải cứu khỏi tù. Chúng ta rất quan trọng đối với Chúa, Ngài chăm lo cho chúng ta.

Ngài là Đấng Cứu Chuộc và Ngài chăm lo cho con cái của Ngài. Phi-e-rơ là “người chứng kiến sự đau đớn của Đấng Christ” (1 Phi-e-rơ 5:1) và ông biết cái giá mà Đức Chúa Giê-su đã trả để cứu tội nhân, “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ.” (2:24). Nếu Cha thiên thượng đã trả một cái giá quá lớn để cứu chúng ta, thì lẽ nào Ngài không chăm lo cho chúng ta? Phao-lô đã trình bày lý lẽ này: “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Rô-ma 8:32). Nếu Cha đã ban món quà vĩ đại nhất cho chúng ta, lẽ nào Ngài sẽ giữ lại những món quà nhỏ hơn mà chúng ta cần? Thập giá là bằng chứng vĩ đại nhất về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Đấng Christ đã trải qua mọi sự đau khổ để trở nên thầy tế lễ thượng phẩm có thể cảm thương cho sự yếu đuối của chúng ta và mang lấy gánh nặng của chúng ta (Hê-bơ-rơ 4:14-16).

Ngài là Vua và cai trị vương quốc của Ngài bằng ân điển và lòng thương xót. Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy thế giới này giống như một chiếc xe hỏng phanh bị mất kiểm soát, chúng ta cần nhớ rằng Đức Chúa Giê-su không còn ở trong máng cỏ, Ngài cũng không còn trên thập giá hoặc trong phần mộ. Ngài hiện đang ngồi trên ngôi cai trị của cả hoàn vũ này “cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra.” (Ê-phê-sô 1:21). Ngài đã phán cùng các môn đồ rằng: “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta.” (Ma-thi-ơ 28:18). Nếu Chúa có mọi quyền phép thì Ngài cũng có thể giúp đỡ cho mọi gánh nặng của chúng ta và thực hiện ý muốn trọn vẹn của Ngài. Chúng ta không được quên sự chu cấp của Chúa và Ngài có thể khiến “mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” (Rô-ma 8:28).

Chúa chăm lo cho chúng ta. Chúng ta có thể không cảm nhận được điều đó hoặc không nhìn thấy ngay những gì Ngài đang hành động, tuy nhiên Chúa đang chăm lo cho chúng ta. Nếu chúng ta hạ mình trước Chúa (1 Phi-e-rơ 5:5-6) và giao phó chính mình cho sự chăm sóc của Chúa, trong đúng thời điểm của Ngài, Chúa sẽ được tôn vinh qua việc đáp ứng mọi nhu cầu cho chúng ta. Chúng ta có những điều lo lắng, nhưng Đức Chúa Trời chăm sóc chúng ta và sẽ chăm lo cho những điều chúng ta lo lắng nếu chúng ta giao phó những điều ấy cho Ngài.

Chúa đã ban cho tôi mạng sống và điều nhân từ;

Sự Chúa đoái hoài tôi đã gìn giữ tâm hồn tôi

Gióp 10:12

 

 

 

 

Bài 96

Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy.

1 Giăng 3:2

Sứ đồ Giăng bắt đầu phần Kinh Thánh này bằng một điều huyền nhiệm, đó là những con người như bạn và tôi không chỉ được gọi là con cái của Đức Chúa Trời (1 Giăng 3:1), nhưng thật sự chúng ta chính là con cái của Ngài. Quả thật đó là ân điển cho chúng ta! Con cái của những tội phạm khét tiếng đôi khi tự đổi tên và chuyển đi thành phố khác sinh sống bởi vì họ không muốn bị quy gán là tội phạm. Nhưng ở đây, Chúa đã đem chúng ta về với gia đình của Ngài mặc dù chúng ta là tội nhân. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8). Nếu chúng ta đã kinh nghiệm sự tái sinh qua đức tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ, thì chúng ta cần phải tăng trưởng trong ân điển và làm đẹp lòng Chúa qua tính cách và hành động của mình. Nếu chúng ta đánh mất sự nhiệm mầu này, chúng ta sẽ làm buồn lòng Cha thiên thượng và làm ô danh gia đình của Ngài ở trên đất. Hội Thánh đầu tiên đã làm sáng danh Đức Chúa Giê-su qua cách sống và qua thông điệp mà họ giảng, dù họ bị đe dọa phải dừng lại (Công vụ 4:17-20) nhưng họ vẫn tiếp tục tôn vinh Danh Ngài. Đã bao nhiêu gia đình bị ô danh vì các thành viên trong gia đình của họ? Nguyện xin Chúa giúp chúng ta tôn vinh Danh Đức Chúa Giê-su!

Giăng tiếp tục bàn về điều bí ẩn: “còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ.” (1 Giăng 3:2). Khi Giăng viết sách Khải Huyền, Chúa đã bày tỏ cho ông thấy đôi chút về sự vinh quang của thành Giê-ru-sa-lem mới, tuy nhiên chúng ta không biết cuộc sống trong nhà Cha sẽ như thế nào (Giăng 14:1-6). Trở nên giống như Đức Chúa Giê-su nghĩa là có được thân thể giống Chúa sau khi Ngài phục sinh và hiện đang ngự trên thiên đàng. Khi Đức Chúa Giê-su trở lại, Ngài sẽ “biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài.” (Phi-líp 3:21). Chúa của chúng ta sống “theo quyền phép của sự sống chẳng hay hư hay hết.” (Hê-bơ-rơ 7:16). Trên thiên đàng, thân thể vinh hiển sẽ không còn cảm thấy đau đớn, bệnh tật, sự chết, hoặc rơi lệ, đó là tin tốt lành cho tất cả chúng ta, đặc biệt là cho những ai đang trải qua sự đau đớn trong thân thể hoặc đang trải qua những cuộc chiến cảm xúc đầy đau đớn. Điều tốt nhất vẫn chưa đến!

Giăng sử dụng điều huyền nhiệm về việc chúng ta là ai và điều bí ẩn về việc chúng ta sẽ trở nên như thế nào để thúc đẩy tấm lòng chúng ta ngày nay trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn. “Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” (1 Giăng 3:3). Nếu thành thánh là đích đến đời đời của chúng ta, thì chúng ta phải trở nên một dân tộc thánh trong lúc chờ đợi để đến thành thánh ấy. Chúng ta không biết Đức Chúa Giê-su sẽ trở lại khi nào. Ngài sẽ trở lại “trong giây phút, trong nháy mắt.” (1 Cô-rinh-tô 15:52). Chúng ta vui hưởng sự vinh quang của thiên đàng như thế nào sẽ phụ thuộc vào sự chuẩn bị của chúng ta khi còn trên đất. Mỗi một chiếc bình sẽ được đổ đầy trên thiên đàng, tuy nhiên sẽ có những chiếc bình lớn hơn những chiếc bình khác. Nếu ngày nay chúng ta lớn lên trong ân điển, sự thông biết Đấng Christ và Lời Ngài, thì chúng ta sẽ vui hưởng quê hương mới nhiều hơn. Khi bạn lên kế hoạch đến thăm một thành phố hoặc một quốc gia khác, bạn sẽ tìm hiểu trước những nơi mà bạn sẽ đến để có thể tận hưởng chuyến đi nhiều hơn. Một đời sống thánh khiết ngày hôm nay sẽ chuẩn bị cho chúng ta vui hưởng quê hương trên thiên đàng, và bằng việc sống một đời sống thánh khiết trên đất, chúng ta có cơ hội giúp người khác cùng lên thiên đàng.

Tất cả những ai tin cậy Đức Chúa Giê-su là Chúa và Đấng Cứu Rỗi đều có được quê hương trên thiên đàng, nhưng những ai đầu phục Đức Thánh Linh và trở nên giống Đức Chúa Giê-su sẽ là “chiếc bình lớn” và  tận hưởng những phước hạnh trên thiên đàng nhiều hơn. Điều này có thúc đẩy bạn ngày hôm nay trở nên giống Chúa càng hơn không? Chiếc bình của bạn lớn bao nhiêu?

Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến.

Ma-thi-ơ 24:42

Bài 97

 

Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời.

1 Giăng 4:7

Trong Tân Ước, chúng ta có thể bắt gặp cụm từ “yêu mến lẫn nhau” ít nhất mười lăm lần, trong đó năm lần xuất hiện trong 1 Giăng (3:11; 23; 4:7, 11, 12). Trên phòng cao, ba lần Đức Chúa Giê-su khuyên răn các môn đồ của Ngài phải yêu thương lẫn nhau (Giăng 13:34; 15:12, 17), thậm chí Ngài đã rửa chân cho các môn đồ để minh họa cho tình yêu thương đó. Tại sao? Bởi vì khi họp lại trong đêm hôm ấy, nhóm mười hai môn đồ đã tranh cãi với nhau ai là người lớn hơn hết trong số họ (Lu-ca 22:24). Nếu tình yêu thương là phẩm chất cao quý nhất của chúng ta (1 Cô-rinh-tô 13:13), thì những ai thực hành sự yêu thương và phục vụ người khác chính là người lớn nhất trong vương quốc Chúa. Điều đó đã dàn xếp cuộc tranh luận. “Hãy xem họ yêu thương nhau đến dường nào!” đó chính là nhận xét về Hội Thánh đầu tiên, tuy nhiên viễn cảnh về Hội Thánh ngày nay có thể khiến người khác thốt lên rằng: “Hãy xem họ đấu đá với nhau thế nào!”

Cơ Đốc Nhân cần vâng theo một mạng lệnh, tuy nhiên phải chăng tình yêu thương là một “mệnh lệnh?” Chẳng phải tình yêu thương là một cảm giác lãng mạn kỳ bí mà chúng ta dường như không thể kiểm soát sao? Ý tưởng về tình yêu như vậy có thể đến từ phim của Hollywood, tuy nhiên điều chắc chắn là chúng không đến từ Chúa. Đức Chúa Giê-su có quyền phép để truyền cho chúng ta phải yêu mến lẫn nhau bởi vì tình yêu thương Cơ Đốc là hành động của ý chí. Tình yêu thương Cơ Đốc có nghĩa là đối đãi với người khác theo cách mà Đức Chúa Trời đã đối đãi với chúng ta, chúng ta càng vâng theo lời Chúa thì cảm xúc và thái độ của chúng ta sẽ càng được thay đổi. Tôi biết rằng Đức Chúa Trời yêu thương và ban phước cho những người mà tôi không muốn, thậm chí họ là những người mà tôi không thích, nhưng tôi cũng học được rằng Đức Chúa Trời có thể giúp tôi yêu thương những con người ấy, và có lẽ Ngài cũng khích lệ họ yêu thương tôi. Trong các Hội Thánh mà tôi từng hầu việc Chúa, luôn có những người khó làm việc với họ, nhưng tôi nhất quyết với sự giúp đỡ của Chúa để yêu thương và phục vụ họ. Ngày nay, nhiều người trong số họ là bạn của tôi. Chúng tôi có thể vâng theo mạng lệnh của Chúa nếu chúng tôi trải nghiệm tình yêu của Đức Chúa Trời.

Cơ Đốc Nhân cần học một bài học. Nếu chúng ta không được sinh ra với bản tính ích kỷ và đòi hỏi, có lẽ chúng ta sẽ chết, bởi vì khi những bé khóc và nổi loạn thì đó là khi chúng thể hiện nhu cầu của mình. Tuy nhiên những đứa trẻ cũng cần phải học cách yêu thương, và để học điều đó thì không dễ. Chính Chúa cũng phải dạy các con của Ngài phải yêu thương lẫn nhau. “Còn như sự anh em yêu thương nhau, về điều đó, không cần viết cho anh em, vì chính anh em đã học nơi Đức Chúa Trời, phải yêu thương nhau.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:9). Đức Chúa Cha dạy chúng ta phải yêu thương lẫn nhau bằng việc ban chính Con Ngài trở nên Đấng Cứu Rỗi của chúng ta. “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Giăng 3:16). Tình yêu thương thì hy sinh điều tốt nhất vì ích lợi của người khác. Đức Chúa Con dạy chúng ta phải yêu thương khi chính Ngài trở nên tấm gương về sự hy sinh và phục vụ. “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (15:13). Đức Thánh Linh dạy chúng ta phải yêu thương bằng việc đặt vào lòng chúng ta tình yêu thương và giúp chúng ta chia sẻ tình yêu thương đó cho người khác. “Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta.” (Rô-ma 5:5). Nếu chúng ta không thật lòng yêu thương người khác thì đó không phải là lỗi của người thầy.

Cơ Đốc Nhân cần trải nghiệm một niềm vui. Tình yêu thương mà Đức Thánh Linh làm cho trưởng thành trong lòng chúng ta chính là nguồn của sự vui mừng, và sự trưởng thành đó được mô tả qua lời cầu nguyện của Phao-lô trong Phi-líp 1:9-11. Hãy dành thời gian đọc phần Kinh Thánh này. Tình yêu thương là trái Thánh Linh đầu tiên, sau đó là vui mừng và bình an (Ga-la-ti 5:22). Khi tình yêu thương của Chúa kiểm soát tấm lòng, chúng ta có thể đối diện với chống đối, chỉ trích, ghen ghét, và thậm chí là sự đe dọa của cái chết, chúng ta sẽ làm vinh hiển danh Chúa hơn. Yêu kính Chúa và yêu thương người lân cận chính là làm trọn điều răn lớn nhất, nhưng hãy luôn nhớ rằng: “Chúa đã yêu chúng ta trước.” (1 Giăng 4:19).

Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng thương yêu của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu.

Phi-líp 1:9

Bài 98

 

Hỡi kẻ rất yêu dấu, về phần anh em, hãy tự lập lấy trên nền đức tin rất thánh của mình, và nhân Đức Thánh Linh mà cầu nguyện, hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời.

Giu-đe 20-21

Lời cầu nguyện có linh nghiệm đòi hỏi chúng ta phải có mối liên hệ sống động với Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Cha (Ma-thi-ơ 6:9), nhân Danh Đức Chúa Giê-su Con Ngài (Giăng 14:13-14), và “nhân Đức Thánh Linh” (Giu-đe 20). Đức Chúa Cha là Đấng ban mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn (Gia-cơ 1:7), Ngài sắm sẵn mọi phước hạnh cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không thể tự đến với Ngài. Đấng Cứu Rỗi đã cho phép chúng ta nhân Danh Ngài cầu nguyện, đó quả thật là một đặc ân lớn! Tuy nhiên điều đó đồng nghĩa chúng ta sẽ cầu xin Đức Chúa Cha những điều mà chính Đức Chúa Giê-su cầu xin. Đây là lý do vì sao chúng ta cần “cầu nguyện nhân Đức Thánh Linh,” bởi vì Đức Thánh Linh ban cho chúng ta có năng quyền và hướng dẫn chúng ta cầu nguyện một cách hiệu quả. Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Cha vì Ngài rộng lòng đáp lời cầu nguyện, chúng ta cảm tạ Đức Chúa Con vì ban cho chúng ta có thẩm quyền của chính Ngài để cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải đầu phục Đức Thánh Linh là Đấng ngự trong lòng để ban năng quyền thuộc linh và dẫn dắt chúng ta cầu nguyện theo ý muốn của Đức Chúa Trời.

Chúng ta phải vâng theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Sự hướng dẫn đó được ban cho chúng ta qua Kinh Thánh, chúng ta không được phớt lờ bởi vì Lời Chúa và sự cầu nguyện là hai điều không thể tách rời. “Ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó.” (Giăng 15:7). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện theo ý Chúa nếu chúng ta phớt lờ lời hứa và sự dạy dỗ của Ngài? Những tấm gương cầu nguyện trong Kinh Thánh khích lệ chúng ta tin cậy rằng Đức Chúa Trời sẽ đáp lời, và chúng ta cũng có thể dùng chính lời Chúa trong khi cầu nguyện. Tiên tri Đa-ni-ên khi đọc sách Giê-rê-mi thì biết rằng dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày đến Ba-by-lôn sẽ kéo dài trong bảy mươi năm, ông lập tức cầu nguyện xin lời hứa của Chúa được ứng nghiệm (Đa-ni-ên 9). Các mệnh lệnh của Đức Chúa Trời bày tỏ ý muốn của Ngài, chính vì thế khi biến chúng thành lời cầu nguyện, chúng ta biết mình đang cầu nguyện theo ý muốn của Chúa. Rất nhiều lần trong chức vụ, Chúa đã bày tỏ cho tôi những lời hứa trong Kinh Thánh giúp tôi được khích lệ và biết mình cần phải làm điều gì.

Chúng ta phải nhờ cậy sự cầu thay của Đức Thánh Linh. Đấng Cứu Rỗi cầu thay cho chúng ta trước Đức Chúa Cha để chúng ta được thưa chuyện với Ngài (Rô-ma 8:34; Hê-bơ-rơ 7:25) và Đức Thánh Linh cầu thay từ trong lòng của chúng ta để Đức Chúa Cha có thể phán cho chúng ta (Rô-ma 8:26-27). Đức Thánh Linh biết ý muốn của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, chính vì thế Ngài có thể hướng dẫn chúng ta phải cầu nguyện thế nào. Tôi nhớ lại có những lần tôi đã cầu nguyện cho một số vấn đề trong vòng một hai tuần và rồi bất chợt tôi nhận ra Đức Thánh Linh không hiệp với tôi trong lời cầu xin, chính vì vậy tôi đã xóa những lời cầu xin đó trong quyển sổ cầu nguyện. Một người bạn của tôi so sánh sự cầu thay của Đức Thánh Linh với “chế độ lái tự động” trên máy bay. Nếu vì một lý do nào đó mà máy bay đi chệch hướng, chế độ bay tự động sẽ hoạt động và đưa máy bay về đúng với lộ trình.

Chúng ta phải vâng theo sự thúc giục của Đức Thánh Linh đặt để trong lòng. Tôi và vợ đều kinh nghiệm những lần được đánh thức trong đêm và được thúc giục để cầu nguyện cho một ai đó, về sau chúng tôi mới biết người mà chúng tôi đã cầu nguyện khi ấy đang trải qua thời gian khủng hoảng. Dù tôi có thời gian tĩnh nguyện hằng ngày và được thúc giục để cầu thay cho một ai đó trong chức vụ, nhưng tôi cũng học được rằng tôi cần để Đức Thánh Linh dẫn dắt sự cầu nguyện của tôi. Một ngày nọ trên thiên đàng, tôi sẽ biết điều gì đã xảy ra. Chúng ta cần học cách nhạy bén với sự thúc giục của Đức Thánh Linh, nếu chúng ta không muốn bị các tà linh đưa đi đường vòng thay vì được Đức Thánh Linh dẫn đi đường thẳng. Nếu chúng ta nói dối Đức Thánh Linh (Công vụ 5:3), làm buồn Đức Thánh Linh (Ê-phê-sô 4:30) hoặc dập tắt Đức Thánh Linh (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:19), Ngài sẽ không giúp đỡ chúng ta nữa; nhưng nếu chúng ta bước đi trong Đức Thánh Linh (Ga-la-ti 5:16), Ngài sẽ không để chúng ta lạc lối.

Chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta.

Rô-ma 8:26

Bài 99

Sự mặc thị của Đức Chúa Jêsus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên sứ đến tỏ những điều đó cho Giăng, tôi tớ Ngài.

Khải Huyền 1:1

Tên sách cuối cùng trong Kinh Thánh tập trung vào lịch sử của một con người quan trọng nhất thế giới này. Nó là một sách tiên tri (Khải Huyền 1:3), song trọng tâm của lời tiên tri chính là Đức Chúa Giê-su Christ, Con của Đức Chúa Trời. Nhiều người nghiên cứu sách này để tìm kiếm những bí mật trong tương lai, trước hết là họ cần tìm kiếm Đức Chúa Giê-su và học biết về Ngài. Trong chương 1, chúng ta thấy Đức Chúa Giê-su là Thầy Tế Lễ Nhà Vua đầy vinh hiển. Trong hai chương tiếp theo, Ngài là đầu của Hội Thánh, Ngài phán cho các Hội Thánh biết nhu cầu của họ và truyền cho một số Hội Thánh phải sửa đổi, trong khi những Hội Thánh khác được khích lệ cứ tiếp tục trung tín. (Lời phán của Ngài vẫn còn áp dụng cho các Hội Thánh ngày nay). Trong chương 4-5, chúng ta bước vào chính điện nơi Chiên Con cầm cuộn giấy và đóng lại lịch sử khi Ngài mở ấn. Trong chương 6-18, Chiên Con trở nên Sư Tử và sự phán xét xảy đến trên thế gian. Trong chương 19-20, Ngài trở lại trái đất với hình ảnh Đấng Chinh Phục Vĩ Đại, Ngài chiến thắng Sa-tan và đoán xét tội nhân. Chương 21 và 22 đưa chúng ta đến với thành Giê-ru-sa-lem mới, tại đó các thánh cùng trị vì với Đấng Christ. Ha-lê-lu-gia, Đấng Cứu Rỗi vĩ đại thay!

Sách Khải Huyền cũng kể về lịch sử của một cuộc xung đột quan trọng nhất, một cuộc chiến đã kéo dài kể từ khi Sa-tan cám dỗ tổ phụ loài người. Những cuộc xung đột quân sự trên đất minh chứng cho cuộc xung đột tâm linh bị che giấu. Giăng mô tả cuộc chiến này bằng những hình ảnh đối lập. Chiên Con chống lại con rồng, trong khi thế gian đi theo An-ti Christ và con rồng, thì những người còn lại đi theo Chiên Con. Đại dâm phụ, Ba-ly-lôn lớn cai trị thế gian bằng quyền lực chính trị, sự giàu có, thương mại, và chiếm hữu nô lệ, ngược lại thành thánh – nàng dâu của Chiên Con – chờ đợi Đức Chúa Giê-su giáng lâm từ thiên đàng và thành lập vương quốc của Ngài. Chính chàng rể từ thiên đàng là Đấng chiến thắng hệ thống từ địa ngục. Thế gian quy phục An-ti Christ và hợp sức chống lại Đức Chúa Giê-su, ngược lại, những Cơ Đốc Nhân chân thật đi theo Chiên Con và thậm chí hy sinh mạng sống họ để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su. Đó chính là cuộc chiến từ ngàn xưa giữa lẽ thật và sự dối trá, giữa thiên đàng và địa ngục, giữa số đông mùa lòa và số ít những người tin kính đi theo Con Đức Chúa Trời – và những người thiểu số đã chiến thắng!

Trong quyển sách của mình, Giăng cho chúng ta biết lịch sử của một thông điệp quan trọng nhất: con người có đức tin là những người chiến thắng. Hội Thánh sẽ chiến thắng trận chiến cho sự vinh quang của Đức Chúa Trời. “Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta. Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng phải kẻ tin Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời hay sao?” (1 Giăng 5:4-5). Trong bức thư gửi đến bảy Hội Thánh, Chúa cho chúng ta biết ai là người chiến thắng và phần thưởng của họ là gì. Các quốc gia “chiến tranh cùng Chiên Con, Chiên Con sẽ được thắng, vì là Chúa của các chúa, Vua của các vua; và những kẻ được kêu gọi, những kẻ được chọn cùng những kẻ trung tín đều ở với Chiên Con, cũng thắng được chúng nữa.” (Khải Huyền 17:14). Điều đáng buồn đó là một số Hội Thánh và lãnh đạo của họ đang thỏa hiệp với thế gian và đầu hàng trước đám đông thuộc về ma quỷ, trong khi Đức Chúa Giê-su đã chiến thắng kẻ thù bởi Ngài đã chết (Cô-lô-se 2:13-15), phục sinh, thăng thiên và ngự trên ngôi thiên đàng (Ê-phê-sô 1:19-23).

Tôi nghĩ Peter Marshall đã nói đúng: “Thà thất bại cho điều bạn biết sẽ thành công, còn hơn thành công cho điều bạn biết sẽ thất bại.” Hội Thánh ngày nay có thể trông như những tù nhân thất bại của cuộc chiến, nhưng hãy chờ đợi! Một ngày nọ, Chiên Con sẽ hiện ra là Sư Tử và chiến thắng kẻ thù, rồi Ngài sẽ cai trị là Vua muôn vua, Chúa các chúa (Khải Huyền 19:16). Chúng ta sẽ cùng chiến thắng với Ngài!

Đoạn, tôi lại nghe có tiếng như một đám đông vô số người, khác nào tiếng nước lớn hoặc như tiếng sấm dữ, mà rằng: A-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng Toàn năng đã cầm quyền cai trị.

Khải Huyền 19:6

Bài 100

Khá bền giữ những điều mình đã có, cho tới chừng ta đến.

Khải Huyền 2:25

Trước khi Chúa đoán xét thế gian tội lỗi (Khải Huyền 6-18), Ngài đoán xét bảy Hội Thánh tại vùng Tiểu Á (Khải Huyền 2-3), bởi vì sự đoán xét thiên thượng bắt đầu từ nhà của Đức Chúa Trời (1 Phi-e-rơ 4:17). Năm trong số bảy Hội Thánh đã đánh mất một số phẩm chất trong đời sống Cơ Đốc và mục vụ nên cần được uốn nắn. Hội Thánh Ê-phê-sô đã đánh mất tình yêu thương dành cho Đức Chúa Giê-su, họ chỉ hoạt động cách máy móc. G. Campbell Morgan nhận định rằng họ “hữu danh vô thực.” Hội Thánh Bẹt-găm đánh mất niềm tin thuần khiết, Hội Thánh Thi-a-ti-rơ dù chịu nhiều đau khổ nhưng đã đánh mất những con người tin kính để dẫn dắt và dạy dỗ Hội Thánh. Chỉ số ít những Cơ Đốc Nhân thật bước đi trong sự thánh khiết, còn những tín hữu ở Lao-đi-xê thì có những giá trị sai lệch và hâm hẩm trong mối liên hệ với Đức Chúa Giê-su. Đức Chúa Giê-su sẽ trở lại, mỗi Cơ Đốc Nhân sẽ đứng trước tòa án Đấng Christ và chịu Ngài đoán xét. Tuy nhiên, Chúa cho con dân của Ngài có cơ hội sửa chữa những sai sót và chuẩn bị chính mình sẵn sàng cho sự trở lại của Ngài. Làm thế nào chúng ta giữ vững những điều Chúa đã ban cho chúng ta?

Chúng ta cần nhận biết những gì chúng ta đang nắm giữ là món quà quý báu từ Đức Chúa Trời. Những con người thánh của Đức Chúa Trời đã phải trả giá để viết nên Kinh Thánh, và chính Đức Chúa Giê-su đã trả cái giá của Kinh Thánh. Xuyên suốt nhiều thế kỷ, những đầy tớ tận tụy của Đức Chúa Trời đã chịu bắt bớ, bị cầm tù, và thậm chí bị giết bởi vì họ đã dịch Kinh Thánh, phổ biến Kinh Thánh, hoặc giảng về Kinh Thánh. Các mục sư có bày tỏ lòng yêu mến của họ đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời hay không khi họ không nghiên cứu Kinh Thánh và mượn ý từ bài giảng của các mục sư khác? Nếu chúng ta lên ý tưởng và các trò chơi cho lớp học Trường Chủ Nhật nhưng lại phớt lờ Kinh Thánh, chúng ta sẽ truyền đạt điều gì cho thế hệ tiếp theo? Chúng ta có dùng âm nhạc thờ phượng dựa trên Kinh Thánh hay không?

Chúng ta cần nhận biết những gì chúng ta có là cần thiết để hầu việc Chúa hiệu quả. Hội Thánh đầu tiên đã tập trung vào sự cầu nguyện và mục vụ Lời Chúa (Công vụ 6:4). Làm thế nào Đức Thánh Linh có thể cáo trách tội lỗi của những người chưa tin nếu chúng ta không công bố lẽ thật của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Giê-su dạy dỗ các môn đồ, và họ tiếp tục dạy dỗ cho dân chúng phải yêu kính Đức Chúa Trời, yêu thương lẫn nhau, và yêu thương người lạc mất; bởi lời chứng đầy tình yêu thương của họ, hàng ngàn người được tiếp nhận vào vương quốc Chúa. Tôi e sợ rằng ngày hôm nay công nghệ và sự giải trí đã trở nên quan trọng hơn Lời Chúa và sự cầu nguyện. Cơ Đốc Nhân đang bắt chước theo văn hóa đời này thay vì sống ngược lại với thế gian. “Song khi Con người đến, há sẽ thấy đức tin trên mặt đất chăng?” (Lu-ca 18:8).

Hãy suy nghĩ về điều này: những gì chúng ta có ngày hôm nay có thể bị đánh mất ngày mai. Mỗi một Hội Thánh địa phương chỉ cách sự diệt vong trong gang tấc. Tôi e ngại không biết có bao nhiêu người đi nhà thờ thật sự được tái sinh? Chúng ta có cẩn thận lựa chọn người lãnh đạo và giáo sư dạy đạo hay không? Chúng ta có thực hành 2 Ti-mô-thê 2:2? Sa-tan là kẻ thù, và một trong những chiến lược cao nhất của nó, đó là đặt để những người vô tín vào vị trí lãnh đạo trong Hội Thánh địa phương. “Thật anh em chẳng có cớ mà khoe mình đâu! Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đống bột dậy lên sao?” (1 Cô-rinh-tô 5:6).

Điều chúng ta đang giữ có thể được bảo vệ. Chúng ta phải trân trọng những kho báu thuộc linh mà chúng ta có; chúng ta phải tôn vinh Đức Chúa Giê-su; chúng ta phải giảng dạy và hát Lời Chúa; chúng ta phải cẩn thận huấn luyện mỗi thế hệ mới; chúng ta phải chinh phục những người chưa tin và dạy dỗ họ; đồng thời chúng ta phải để mắt tới những cạm bẫy của kẻ thù. Khi người lãnh đạo ngủ, Sa-tan sẽ gieo những kẻ giả mạo (Ma-thi-ơ 13:25), những kẻ giả mạo này sẽ phá hủy Hội Thánh. Điều quan trọng là chúng ta phải tỉnh thức, cầu nguyện và vâng theo Thánh Linh của Đức Chúa Trời.

Bởi ơn của Đức Chúa Trời, hãy tỉnh thức, cảnh giác và quyết tâm giữ vững những gì mình có!

Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.

2 Ti-mô-thê 2:15

 

Lời kết

Đấng làm chứng cho những điều ấy, phán rằng: Phải, ta đến mau chóng. A-men, lạy Đức Chúa Jêsus, xin hãy đến!

Khải Huyền 22:20

Đây là lời cầu nguyện cuối cùng trong Kinh Thánh. Từ Sáng Thế Ký 4:26, khi con người “bắt đầu cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va,” cho đến Khải Huyền 22:20, Kinh Thánh đã ghi lại những con người đức tin kêu cầu danh Chúa và được Ngài đáp lời. Những khách lữ hành như Áp-ra-ham và Sa-ra được nhận biết qua lều trại và bàn thờ mà họ lập. Lều trại nói lên họ là những người tạm trú và bàn thờ nói lên họ đang thờ một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Tại bàn thờ, họ dâng những của lễ cho Chúa, thờ phượng Ngài và cầu nguyện. Khi đọc Kinh Thánh, bạn sẽ nhận thấy nhiều người ở nhiều nơi kêu cầu Đức Chúa Trời ban mọi thứ phước cho họ. Y-sác cầu nguyện để vợ của ông sẽ có con (Sáng 25:21-26), Gia-cốp cầu nguyện để người anh của mình là Ê-sau sẽ chấp nhận ông (32:9-32). Đã bao lần Môi-se cầu nguyện, không phải cho ông nhưng cho dân Y-sơ-ra-ên đầy lỗi lầm! Không vì sự cầu thay của Môi-se, Đức Chúa Trời đã hủy diệt toàn bộ dân sự. Giê-rê-mi và Đa-ni-ên là những con người cầu nguyện. Nê-hê-mi thường cầu nguyện trong quá trình tái thiết tường thành Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Giê-su cầu nguyện, và các môn đồ của Ngài cũng vậy, đặc biệt là Phao-lô. Những con người cầu nguyện trong Kinh Thánh làm chứng cho chúng ta rằng sự cầu nguyện không phải là điều xa xỉ nhưng là thiết yếu.

Khi lời cầu nguyện trong Khải Huyền 22:20 được đáp lời, đó là khi Đấng Christ tái lâm vì Hội Thánh của Ngài, khi ấy mục vụ cầu nguyện của chúng ta sẽ kết thúc, bởi vì tôi không còn tìm thấy trong Kinh Thánh ghi rằng chúng ta sẽ tiếp tục cầu nguyện trong thân thể vinh hiển trên thiên đàng. Trong câu Kinh Thánh này, chúng ta cầu xin Đức Chúa Giê-su quay trở lại với chúng ta, trong khi đó, ngày nay Đức Chúa Giê-su đang kêu gọi con người đến với Ngài. Từ đến là trọng tâm của lời cầu nguyện này. Đức Chúa Giê-su mời gọi những con người mệt nhọc đến với Ngài để được yên nghỉ (Ma-thi-ơ 11:28-30) và Ngài kêu gọi người đói khát đến với Ngài để có thức ăn và nước uống (Giăng 6:35; 7:37-39).

Nhưng nếu chúng ta đang cầu nguyện lời cầu nguyện này, chúng ta có chắc rằng mình đã sẵn sàng gặp Chúa tái lâm? Nhiều lần trong các câu chuyện ngụ ngôn, Đức Chúa Giê-su cảnh báo đám đông hãy sẵn sàng đón Chúa tái lâm. “Lưng các ngươi phải thắt lại, đèn các ngươi phải thắp lên… Phước cho những đầy tớ ấy, khi chủ về thấy họ thức canh… Các ngươi cũng vậy, hãy chực cho sẵn sàng, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ.” (Lu-ca 12:35, 37, 40). Một người bạn của tôi tin chắc rằng trước khi Chúa đến sẽ có một số sự kiện xảy ra. Chúng tôi cùng dự một hội nghị và tôi đã hỏi anh ta: “Anh có nghĩ Đức Chúa Giê-su sẽ tái lâm hôm nay?” Anh ta trả lời mạnh mẽ rằng: “Không!” Tôi nói: “Vậy tốt nhất anh nên sẵn sàng, bởi vì Chúa phán Ngài sẽ trở lại trong lúc anh không ngờ.”

Việc chờ đợi sự trở lại của Đấng Christ phải là động lực thúc đẩy chúng ta chuẩn bị sẵn sàng. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Kìa, ta đến như kẻ trộm. Phước cho kẻ tỉnh thức và giữ gìn áo xống mình, đặng khỏi đi lõa lồ và người ta không thấy sự xấu hổ mình.” (Khải Huyền 16:15). “Vậy bây giờ, hỡi các con cái bé mọn ta, hãy ở trong Ngài, hầu cho, nếu Ngài hiện đến, chúng ta cũng đầy sự vững lòng, không bị hổ thẹn và bị quăng xa khỏi Ngài trong kỳ Ngài ngự đến.” (1 Giăng 2:28). Từ hổ thẹn thể hiện hình ảnh một người đầy tớ bước lui lại trong sự xấu hổ khi người chủ trở về xử lý và phơi bày sự không vâng lời của anh ta. Điều này nói lên rằng một số người sẽ xấu hổ khi gặp Đức Chúa Giê-su tái lâm.

Trung tín cầu nguyện xin Chúa trở lại sẽ giúp chúng ta sẵn sàng.

Nầy, ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.

Khải Huyền 22:12

Vài nét sơ lược về tác giả

Warren W. Wiersbe là một mục sư hầu việc Chúa, một giáo sư dạy Kinh Thánh qua đài truyền thanh, giáo sư trường Kinh Thánh, và là tác giả kiêm chủ bút của hơn 160 cuốn sách, bao gồm cả bộ sách nổi tiếng BE giải nghĩa Kinh Thánh. Ông là mục sư quản nhiệm của Hội Thánh Moody ở Chicago và cũng giảng dạy Kinh Thánh trong chương trình phát thanh Back To The Bible trong 10 năm. Các buổi hội thảo mục vụ đã đưa ông đến rất nhiều quốc gia trên thế giới. Ông và vợ là bà Betty sống ở Nebraska, nơi ông tiếp tục mục vụ viết các sách Cơ đốc.

Warren W. Wiersbe đã yên nghỉ trong nước Chúa vào ngày 2 tháng 5 năm 2019, để lại cho hội thánh trên thế giới  một di sản các văn phẩm Cơ đốc phong phú.

 

The end

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên