Trang Chủ TRANG CHỦ Những Quan Điểm Sai Lầm Về Đức Chúa Trời

Những Quan Điểm Sai Lầm Về Đức Chúa Trời

900
0
SHARE

Những Quan Niệm Sai Lầm Về Đức Chúa Trời

“NỮ THẦN đang sống và có phép thuật trong thế giới này.” Đây là lời quảng bá từ một miếng dán xuất hiện trên xe hơi gần đây. Các tín ngưỡng thờ nữ thần đang nở rộ khắp nước Mỹ. Theo báo cáo, các nhóm tôn giáo thuộc loại này có thể được tìm thấy tại các cơ sở giáo dục hàng đầu ở Mỹ, bao gồm Trường Thần học Harvard, Đại học Pennsylvania và Đại học Santa Cruz. Tín ngưỡng thờ nữ thần là một tín lý của nhóm Thời đại Mới, đang xâm nhập vào đời sống tôn giáo và tư tưởng của người Mỹ. Thực ra, điều này không có gì mới. Ở Babylon cổ đại, nữ thần được gọi là Ishtar; ở Hy Lạp là Artemis; và ở Rome là Diana.

Sự sùng bái nữ thần hay chế tác ra các nữ thần vốn đã có từ rất lâu trong lịch sử và các nền văn hóa. Đây là một trong nhiều ý tưởng sai lầm mà con người nắm giữ. Những quan điểm này khác xa với cách Kinh Thánh mô tả về một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật.

CHỦ NGHĨA VÔ THẦN

Từ vô thần mô tả một người tin rằng không có Chúa. Nó có nguồn gốc từ chữ theos trong tiếng Hy Lạp. Từ này xuất hiện một lần trong Tân Ước (Ê-phê-sô 2:12), nơi nó dùng để chỉ những người ngoại chưa được cứu — những người “không có Chúa”. Người Hy Lạp cổ đại sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người không tin vào bất kỳ vị thần nào.

Không phải tất cả những người vô thần đều giống nhau. Người vô thần giáo điều phủ nhận Thiên Chúa và tuyệt đối phủ nhận sự hiện hữu của Ngài. Đa-vít đã viết về người này trong Thi thiên 14: 1: “Kẻ ngu ngốc nói trong lòng rằng: Không có Đức Chúa Trời.” Quan điểm này rất rõ ràng trong khoa học hiện đại, vốn dựa trên tiền đề rằng không có Chúa và sau đó tìm cách giải thích sự sống ngoài sự tham gia của Ngài. Đối với những người theo quan điểm này, thế giới vật chất, không phải thế giới tinh thần, là thực tại cuối cùng. Thuyết tiến hóa khẳng định rằng con người là sản phẩm may rủi của các chất hóa học vô hồn dưới biển. tác động bởi ánh sáng mặt trời. Cuối cùng những chất hóa học này đã ra đời và từ đó phát triển bởi sự chọn lọc tự nhiên và những đột biến ngẫu nhiên vào tất cả các loài thực vật và động vật sống, bao gồm cả con người. Đức Chúa Trời không được bao gồm trong quan điểm này bởi vì những người ủng hộ nó không tin rằng Ngài tồn tại.

Những người vô thần thực dụng không thực sự phủ nhận sự tồn tại của Chúa, nhưng họ sống như thể không có Chúa. Đây có thể là con người mà Đa-vít đã nghĩ đến khi ông viết về kẻ ác, “Không có sự kính sợ Đức Chúa Trời trước mắt nó” (36: 1). Nếu không có Đức Chúa Trời, thì không cần phải tôn trọng các mệnh lệnh trong Kinh Thánh. Nếu không có Chúa, thì không có đạo đức hay trách nhiệm giải trình. Người theo thuyết vô thần thực tế cho rằng những điều tốt đẹp trong cuộc sống có được là nhờ thành quả của con người chứ không phải là kết quả của lòng nhân từ và ân điển của Đức Chúa Trời.

 

THUYẾT BẤT KHẢ TRI

Người theo thuyết bất khả tri được hiểu là người “không có kiến ​​thức” theo nghĩa đen. Trong khi những người hữu thần khẳng định sự tồn tại của Chúa, những người vô thần lại phủ nhận điều đó, và những người theo thuyết bất khả tri tuyên bố không biết gì về nó. Thomas Huxley lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm 1869 tại một cuộc họp tiền trạm của tổ chức Hiệp hội Siêu hình học. Là một người theo chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo, những người theo thuyết bất khả tri bác bỏ ý tưởng rằng con người có thể hiểu biết về những lĩnh vực tâm linh.

Giống như thuật ngữ vô thần, từ bất khả tri có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Trong bối cảnh tích cực nhất của nó, thuật ngữ này có thể mô tả một người không biết gì về Đức Chúa Trời. Người đó có thể cởi mở với những điều thuộc linh nhưng không có quan điểm cá nhân về những vấn đề liên quan đến Chúa, Kinh Thánh hoặc sự sống đời đời. Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để mô tả một người có thái độ thế tục và hoài nghi. Vì vậy, những người theo thuyết bất khả tri cho rằng niềm tin vào Chúa là không thực tế và không phù hợp. Người theo thuyết bất khả tri cũng có thể ám chỉ một người tin rằng chúng ta không thể biết liệu Chúa có tồn tại hay không. Những người như vậy thường phản đối tôn giáo và chống lại Cơ đốc giáo.

Tại sao một số người lại theo thuyết bất khả tri? Thứ nhất, trở thành một người theo thuyết bất khả tri sẽ được xã hội chấp nhận hơn là một người vô thần. Nghe có vẻ hợp lý hơn khi nói “Tôi không biết” hơn là “Tôi không tin.” Thứ hai, không giống như những người vô thần, những người theo thuyết bất khả tri tránh phải đưa ra các luận đề chứng minh. Người ta không cần bằng chứng khi chấp nhận là tôi không biết/ hoặc tôi không thể biết.

Mặc dù thuyết bất khả tri nhận được sự tôn trọng nhất định trong cộng đồng trí thức, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu bạn tránh đưa ra quyết định về những vấn đề có giá trị vĩnh cửu. Nếu Đức Chúa Trời tồn tại, thì thật là phạm thượng khi tuyên bố sự tồn tại của Ngài là không thể chứng minh được! Sự phạm thượng như vậy có thể để lại hậu quả vĩnh cửu. Blaise Pascal (1623-1662) trong cuốn Pensees (Suy nghĩ) đã đề xuất rằng chúng ta “đánh cược” vào khả năng tồn tại của Chúa. Nếu canh bạc của chúng ta dành cho Chúa là đúng (có nghĩa là tin Đức Chúa Trời tự hữu và hằng hữu), chúng ta sẽ giành được mọi thứ — hạnh phúc và cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng không có gì bị mất nếu chúng ta hóa ra là sai. Nói cách khác, tốt hơn là sống như thể Chúa tồn tại và khám phá ra rằng Ngài không tồn tại, hơn là sống như thể Ngài không tồn tại và khám phá ra rằng Ngài có tồn tại!

ĐA THẦN GIÁO

Thuyết đa thần xuất phát từ 2 tiếng Hy Lạp là poly có nghĩa “nhiều” và theos có nghĩa “chúa”. Một người theo thuyết đa thần tin vào nhiều vị thần. Quan điểm này phổ biến trong nhiều thời kỳ. Trong số nhiều vị thần, người Ai Cập tôn thờ Re là vị thần mặt trời; Osiris, kẻ thống trị thế giới; Seth, vị thần của thiên nhiên; và Hathor, nữ hoàng của tất cả các vị thần và nữ thần. Người Ca-na-an đã trung thành với thần sinh sản, Baal, và em gái của thần này là Anath. Người Hy Lạp tôn vinh Zeus là vua của các vị thần, nhưng họ cũng tôn kính mười một người khác, bao gồm cả Ares, thần chiến tranh; Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp; và Apollo, thần âm nhạc và ánh sáng.

Đa thần giáo không chỉ giới hạn trong thế giới cổ đại. Nó tồn tại ngày nay trong Ấn Độ giáo, trong đó những người thờ phượng tìm kiếm một lợi ích cụ thể từ bất kỳ vị thần nào trong số vô số các vị thần. Đa thần giáo cũng được tìm thấy trong Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Thần đạo ở phương Đông, và trong tôn giáo của các bộ lạc ở châu Phi. DB Fletcher đã chỉ ra rằng “khi phương Tây thâm nhập vào các tôn giáo phương Đông và các phong trào phái sinh của họ, các Cơ đốc nhân phương Tây sẽ phải đối đầu trực tiếp với thuyết đa thần.”

Đức Chúa Trời đã đề cập đến vấn đề đa thần trong phần đầu tiên trong Mười Điều Răn của Ngài. Điều răn đầu tiên này tập trung vào bản chất độc quyền của sự thờ phượng thật: Đức Chúa Trời phán: “Trước mặt ta, ngươi không được có thần nào khác” (Xuất 20: 3). Dân Y-sơ-ra-ên phải dành trọn sự tận tụy và trung thành của họ dành riêng cho Chúa, không ràng buộc mình với ai khác ngoài Đức Chúa Trời chân thật.

Điều răn đầu tiên nhắm vào cả thuyết vô thần và đa thần. Đối với những người vô thần, Lời Chúa tuyên bố, “Chúa hiện hữu. Hãy nhận biết Ngài!” Đối với những người theo thuyết đa thần, điều răn nói, “‘Chúa là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất. Ngài cũng từ chối chia sẻ sự thờ phượng của Ngài với bất kỳ thần nào khác.” Các vị thần và nữ thần của các tôn giáo đa thần chỉ là kết quả trí tưởng tượng. Sau khi chứng kiến ​​phép lạ về sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên qua Biển Đỏ và sự hủy diệt người Ai Cập, Môi-se đã hát, ” Hỡi Đức Giê-hô-va! trong vòng các thần, ai giống như Ngài?” (Xuất. 15:11). Đa-vít trả lời câu hỏi này: “Trong số các thần, chẳng có ai giống như Chúa” (Thi. 86:8). Trong lời cầu nguyện tạ ơn, Đa-vít đã tuyên bố về bản chất độc quyền của sự thờ phượng thật, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! Ngài là rất vĩ đại, chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Đức Chúa Trời nào khác hơn Ngài” (2 Sa-mu-ên 7:22).

THUYẾT PHIẾM THẦN

Từ thuyết phiếm thần bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp pan, “tất cả” và theos, “Chúa”. Theo thuyết phiếm thần, Đức Chúa Trời là tất cả mọi thứ, và mọi thứ là Chúa. Từ này lần đầu tiên được John Toland sử dụng vào năm 1705 để chỉ các hệ thống triết học và tôn giáo có xu hướng đồng nhất Thiên Chúa với thế giới vật chất hoặc thế giới tự nhiên. Thuyết phiếm thần phổ biến trong các tôn giáo cổ đại đồng nhất hóa vũ trụ vật chất với thần linh.

 

Theo nhà thơ Hy Lạp Hesiod, vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên từ khoảng không tối tăm, hỗn độn đã xuất hiện Gaea là “Mẹ Trái đất”. Nữ thần này đã sinh ra bầu trời đầy sao. Còn sao Thiên Vương là “Cha trời”. Ngày nay, khái niệm “Mẹ Trái đất” đã được truyền lại cho các nhà bảo vệ môi trường, những người đã chịu ảnh hưởng của thần học Thời đại Mới hoặc các tôn giáo phương Đông.

Thuyết phiếm thần có nhiều dạng. Thuyết phiếm thần duy vật khẳng định tính vĩnh cửu của vật chất và cho rằng vật chất là nguyên nhân của mọi sự sống. Thuyết phiếm thần Hylozoistic cho rằng thần thánh là yếu tố cơ bản của thế giới, nhưng vũ trụ vẫn là một tập hợp nhiều phần tử riêng biệt. Thuyết phiếm thần Acosmic đề xuất rằng Đức Chúa Trời là tuyệt đối và tạo nên  tổng thể của thực tại. Thế giới chúng ta đang sống và trải nghiệm chỉ xuất hiện khi nó có thật. Thuyết phiếm thần khoa học kết hợp tôn giáo và khoa học, tạo cơ sở đạo đức cho các mối quan tâm về môi trường. Theo quan điểm này, mọi người nên tôn kính và bảo vệ rừng, không khí, đại dương và các khía cạnh khác của môi trường trái đất bởi vì vũ trụ và thiên nhiên là thần thánh. Thuyết phiếm thần Thời đại mới cho rằng vạn vật là thần thánh, kể cả con người. Đạo sư Shirley MacLaine của Thời đại mới nói rằng người hướng dẫn tinh thần của bà, được ví là “Bản ngã cao hơn” đã nói rằng, “Mỗi linh hồn là Thượng đế của riêng mình. Bạn không bao giờ được tôn thờ bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì khác ngoài chính mình. Vì bạn là Thượng đế. Hãy yêu bản ngã như yêu Thượng đế.”

Thuyết phiếm thần rõ ràng không phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh rằng Đức Chúa Trời khác biệt với sự sáng tạo của Ngài. Thượng đế đã tồn tại từ muôn thuở, nhưng vũ trụ đã được tạo ra trong một khoảng thời gian. Thượng đế là vĩnh cửu và vô hạn, nhưng tạo vật là hữu hạn.

Vấn đề chính của thuyết phiếm thần là nó quá đề cao sự bất diệt của Đức Chúa Trời (sự hiện diện) và phủ nhận tính siêu việt của Ngài (quyền tối cao và tính duy nhất). Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đang hoạt động trong cõi sáng tạo của Ngài, nhưng Ngài không bao giờ đồng nhất với nó. Đức Chúa Trời là thánh khiết, cao cả, và tách biệt khỏi tất cả những gì sa ngã và tội lỗi. Ngài giúp đỡ cho những người đang có nhu cầu cần đến Ngài. Chúa Giê-su minh họa sự cân bằng hoàn hảo này. Trong Đấng Christ, Đức Chúa Trời bày tỏ sự vô nhiễm của Ngài bằng cách mặc lấy bản tính con người. Nhưng sự siêu việt của Đức Chúa Trời được duy trì trong thực tế rằng Đấng Christ là một Con người vô tội. Trong khi những người theo thuyết phiếm thần tôn thờ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời thì Cơ đốc nhân tin rằng chúng ta chỉ nên thờ phượng chính Đức Chúa Trời, và chúng ta nên là người quản gia tốt sự sáng tạo của Ngài và những nguồn lực được giao phó cho chúng ta.

còn nữa

 

admin

sách tham khảo UNDERSTANDING CHRISTIAN THEOLOGY

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên