Trang Chủ TRANG CHỦ Các Danh Nhân Trong Kinh Thánh

Các Danh Nhân Trong Kinh Thánh

1968
0
SHARE

Warren Wendel Wiersbe là một mục sư, một giáo sư, một nhà văn, một nhà thần học và là một học giả về Kinh Thánh.   Mục sư Warren W. Wiersbe đã xuất bản hơn 150 cuốn sách.  Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ sách Be Series, gồm 50 cuốn,  mang các tựa đề như Be Real, Be Alert, Be Rich, Be Obedient, Be Hopeful, Be JoyfulBe Right, Be Ready, Be Successful, Be Free, Be FaithfulBe Mature, Be Confident, Be Complete,…

 

 

Bài 1

 

GIÊ-HÔ-VA ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời tôi, Chúa thật lớn lạ kỳ (Thi Thiên 104:1).

Quyển sách này sẽ giới thiệu với bạn những con người trong Kinh Thánh mà những kinh nghiệm về đời sống của họ sẽ giúp bạn có những hiểu biết tốt hơn về Đức Chúa Trời và chính bản thân bạn. Bạn sẽ gặp họ trong từng văn cảnh họ xuất hiện, và khi bước đi theo những nguyên tắc trong cuộc đời họ, nhân cách của bạn có thể được cải thiện tốt hơn.

Kinh Thánh trình bày một câu chuyện thật với hàng ngàn nhân vật và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Câu chuyện này khá đơn giản đến nỗi trẻ con có thể nắm bắt nó nhưng lại rất sâu sắc trở thành một thách thức cho các nhà thần học lỗi lạc nhất. Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ, mười bốn sách trong Cựu Ước bắt đầu với chữ “Và”, điều này nhắc nhở chúng ta rằng mỗi sách được nối kết với các sách khác như một sợi dây liên kết bền vững.

Bản tường thuật của Kinh Thánh bắt đầu tại vườn Ê-đen, là nơi tổ phụ đầu tiên của loài người đã đã ăn trái cây Biết Điều Thiện Ác và từ đó họ mang tội lỗi và sự chết vào trong những thế hệ về sau. Đỉnh cao của câu chuyện được nối kết với thành phố thiên đàng, nơi mà các cư dân tại đây ăn Trái Cây Sự Sống dọc hai bên bờ Sông của Sự Sống (Khải huyền 22:1-2).

Kinh Thánh mở ra với vườn Ê-đen và đóng lại với khu vườn Thiên đàng. Điểm bắt đầu là tội lỗi và sự chết, nhưng điểm kết thúc là sự thánh khiết và sự sống! Nguyên nhân nào có một sự thay đổi ngoạn mục như thế?

Giữa hai khu vườn đã đề cập trên đây còn có một vườn khác có tên gọi Ghết-sê-ma-nê. Nơi đây Con của Đức Chúa Trời đã cầu nguyện: Xin Ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi (Lu-ca 22:42), và rồi Ngài đã đi đến cái chết đau đớn, sỉ nhục trên thập tự giá. Bởi vì Chúa Jesus đã chết và sống lại, chính điều này bẻ gãy sự rủa rả trong khu vườn đầu tiên. Quyển sách cuối cùng của Cựu Ước kết thúc với từ “sự rủa sả” (Ma-la-chi 4:6), nhưng trong sách cuối của Tân Ước chúng ta thấy: Chẳng còn có sự rủa sả nào nữa (Khải huyền 22:3). Món quà sự sống đời đời đã sẵn sàng cho những ai đặt niềm tin của họ vào Chúa Jesus. Kinh thánh ghi lại những câu chuyện đáng chú ý này để chúng ta có thể đọc và trải nghiệm tất cả những gì Chúa đã làm cho chúng ta.

Trước khi chúng ta nhìn vào bộ sưu tập đồ sộ về những con người trong Kinh Thánh, chúng ta phải nhìn vào Đức Chúa Trời. Tại sao như thế? Bởi vì sự tìm kiếm của chúng ta không phải là những yếu tố sự thật của lịch sử và tiểu sử của một ai đó, nhưng là những lẽ thật của thực tế và có giá trị vĩnh cửu. Như vậy chúng ta phải bắt đầu với Đức Chúa Trời. Câu chuyện của Kinh Thánh là nói về Đức Chúa Trời, chứ không phải là những hoạt động của con người. Đức Chúa Trời đặt chìa khóa của Kinh Thánh ở chỗ này: Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên… (Sáng Thế ký 1:1). Loại bỏ Đức Chúa Trời ra ngoài, lịch sử sẽ là một huyền nhiệm – một vở kịch rối rắm với những phần bị bỏ sót mà không có một ý nghĩa rõ ràng nào cho chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu với Đức Chúa Trời, bởi vì Ngài vẽ thiết kế, viết ra kịch bản và lựa chọn các vai diễn. Ngài không vắng mặt trong bất cứ tình huống nào, Ngài ở đó luôn luôn trong mọi sự kiện. Không một ai có thể làm hỏng đi kịch bản của Ngài. Tất cả mọi điều phải diễn ra sau khi Ngài lên kế hoạch. Lịch sử là câu chuyện của Ngài.

Điều này không có nghĩa lịch sử của con người là một vở kịch rối rắm, mà ở đó Đức Chúa Trời cho phép con người làm theo ý muốn của họ, và rồi sau đó Ngài nhẹ nhàng loại bỏ họ qua một bên. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài có thể thay đổi số phận hay định mệnh của những con người, mặc dù các vai diễn có thể lựa chọn đi theo một hướng khác thì câu chuyện vẫn cứ tiến hành. Đức Chúa Trời hành động theo quyết định của Ngài chứ không phải theo sự đồng thuận của bất kỳ một ủy ban nào. Trước giả Thi thiên viết: Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm (Thi 115:3). Những người vô thần phủ nhận điều này, người theo thuyết bất khả tri đặt câu hỏi tại sao, nhưng những người theo Chúa Jesus Christ chấp nhận và vui hưởng Lời của Chúa đã tuyên bố.

Không một ai có thể hiểu biết tất cả về Đức Chúa Trời. Nhưng các lẽ thật căn bản về mối liên hệ của Đức Chúa Trời với con người đã được bày tỏ qua Kinh Thánh và chúng ta có thể nắm bắt lấy nó nếu chúng ta muốn hiểu về những con người trong sách này. Điều này sẽ dẫn đến một kết quả là chúng ta hiểu rõ về chính chúng ta và những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG SÁNG TẠO

Trước giả của tuyển dân viết về chủ đề thờ phượng:
Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy;
Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo Hóa chúng tôi! (Thi thiên 95:6)

Người theo chủ nghĩa duy vật hoài nghi đặt câu hỏi: Đức Chúa Trời đến từ đâu? Trong khi những tín hữu đặt vấn đề: sự sống đến từ đâu? Người theo chủ nghĩa duy vật trả lời câu hỏi này: Nó chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ, và viện dẫn những luận chứng cao siêu cho quan điểm của họ. Các môn đồ theo Chúa đưa ra câu trả lời: Đó là sự tể trị thần thượng và trưng ra quan điểm của họ về Đức Chúa Trời ba ngôi Cha, Con và Thánh Linh hiệp một trong công cuộc sáng tạo. Không có con đường nào khác để tránh né mệnh đề này: Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất (Sáng 1:1).

Đức Chúa Trời không chỉ là Đấng Khởi Nguồn của sự sáng tạo nhưng Ngài cũng có mặt từ buổi bình minh của tuyển dân để dạy chúng ta về chính Ngài. Ngài cũng là khởi nguyên của mỗi đời sống cá nhân trên đất. Đa-vít đã viết:

Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,
Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.
(Thi 139:13)
Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,
Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,
Thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa.
Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi;
Số các ngày định cho tôi,
(Thi 139:15-16)
Tất cả những người mà chúng ta bắt gặp trong Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời chuẩn bị sẵn sàng và chỉ định họ cho mục đích tối hậu của Ngài. Đây cũng là lẽ thật cho những người chúng ta gặp gỡ ngày hôm nay – và dĩ nhiên nó cũng là lẽ thật cho bạn và tôi!

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CUNG ỨNG

Thật là vô cùng ý nghĩa khi Đức Chúa Trời đã tạo dựng vũ trụ, các từng trời và trái đất trước khi Ngài dựng nên con người đầu tiên. Điều này giống như những bậc cha mẹ trần gian yêu thương con cái thường dự bị mọi nhu cầu cho chúng nó trước khi những đứa trẻ được sinh ra. Cha Thiên Thượng đã sắm sẵn mọi thứ trên thế giới này cho chúng ta! Mọi điều chúng ta cần đang có sẵn ở đây, và Đức Chúa Trời không muốn chúng ta lãng phí hay phá hủy nó, nhưng phải sử dụng nó theo một đường lối khôn khoan đúng đắn.

Đức Chúa Trời cũng cung ứng cho chúng ta những khả năng để hiểu rõ và đánh giá đúng sự giàu có không dò lường được của Ngài khi Ngài tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Chúng ta không chỉ có thân thể và tâm hồn để vui hưởng thế giới vật lý chung quanh mà chúng ta còn có tâm linh để bước vào tận hưởng mối tương giao với chính Đức Chúa Trời và vui mừng nhận lãnh những sự phong phú trong thế giới thuộc linh. Chúng ta có tâm trí để nghĩ suy, ý chí để đưa ra quyết định và tấm lòng (hay trái tim) để yêu thương. Và Đức Chúa Trời đã bổ nhiệm chúng ta, ban cho chúng ta uy quyền để quản trị trên các vật thọ tạo và công việc của tay Ngài hầu cho hoàn thành những mục đích diệu kỳ của Ngài. Trong Thi thiên 8:6, Đa-vít viết: Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chân người. Thực tế này đã làm cho trước giả Thi thiên kinh ngạc: Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến? Tại sao một Đức Chúa Trời toàn năng vĩ đại, siêu việt như thế lại quan tâm đến con người bé nhỏ chúng ta?

Những con người trong Kinh Thánh có thể chia làm hai loại: 1/ Những người tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Họ khám phá rằng chính Chúa là Đấng cung ứng mọi nhu cầu cho họ. 2/ Những người không vâng lời Ngài – thậm chí tệ hơn đó là phản bội, chống lại Ngài. Họ đã từ chối sự giàu có, khôn ngoan, quyền năng, ân điển và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Giống như người con trai hoang đàng trong Lu-ca 15:11-24, họ đã gần như chết đói bên cạnh các máng thức ăn của đàn lợn vì sự chọn lựa của mình, trong khi lẽ ra họ phải vui hưởng yến tiệc tại bàn của người cha yêu thương.
Điều này dẫn chúng ta đến lẽ thật căn bản thứ ba về Đức Chúa Trời: Ngài là Cha.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA

Đức Chúa Trời đã phán dạy tuyển dân:

Y-sơ-ra-ên là con ta, tức trưởng nam ta (Xuất Ê-díp-tô ký 4:22). Bản Kinh Thánh Tiếng Anh dùng chữ “trưởng nam ta” là “firstborn” trong câu này (Israel is My son, even My firstborn) nghĩa là đứa con được sinh ra trước tiên. Và Ngài đối xử yêu thương với tuyển dân như một người cha yêu thương đứa con đầu tiên của mình. Trước giả Thi thiên đã viết:

Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài,
Khác nào cha thương xót con cái mình vậy (Thi 103:13).

Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi (Ê-sai 49:15).
Giống như những bậc cha mẹ biết lo xa cho con cái của mình, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Ngài ra khỏi Ai-cập khi họ phải sống cuộc đời nô lệ tại đây. Chúa tiếp tục nuôi dưỡng họ trong đồng vắng, nhưng khi họ phản loạn thì Ngài xử lý họ như một người cha yêu thương thi hành kỷ luật trên những con cái không biết vâng lời. “Vậy, khá nhận biết trong lòng rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sửa phạt ngươi như một người sửa phạt con mình vậy” (Phục truyền 8:5). Những người có khuynh hướng chỉ trích gọi Đức Chúa Trời trong Cựu Ước là một người hay bắt nạt hoặc là bạo chúa, hễ mà sai phạm chỗ nào là đánh phạt chỗ ấy. Những người đó đã không đọc và nghiên cứu kỹ về một Đức Chúa Trời yêu thương, bao dung, đầy sự thương xót, kiên nhẫn chịu đựng nhiều năm đối với tuyển dân của Ngài trong những lần họ bội nghịch.
Chúa Jesus đã nói về Cha của Ngài: Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha (Giăng 14:9). Nếu Đức Chúa Trời là người hay bắt nạt kẻ yếu thế hay là một bạo chúa ngang ngược thì Ngài sẽ đến giữa vòng chúng ta, cùng chia sẻ những gánh nặng và khó khăn, và cuối cùng hy sinh trên thập tự giá để đền tội cho chúng ta? Có thể nào Ngài đã lau nước mắt cho kẻ buồn rầu, tiếp nhận các con trẻ đến cùng Ngài, ban bánh cho kẻ đói, tha thứ cho người lỗi lầm và dạy dỗ những người đang ở dưới đáy của xã hội những lẽ thật về Đức Chúa Trời? Chức vụ và đời sống trên đất của Ngài có thể tóm lược trong một từ: Yêu thương. Vì Đức Chúa Trời chính là tình yêu.

 

Ngày hôm nay Đức Thánh Linh đang nội trú bên trong chúng ta để làm chứng về Cha thiên thượng và bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Ngài. Những ai đặt niềm tin vào Chúa Jesus Christ sẽ tiếp nhận điều cao quí này: thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! (Rô-ma 8:15). Và Phao-lô cũng nói: Chúng ta được làm con nuôi Ngài. Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha! (Ga-la-ti 4:5-6). A-ba là nguyên ngữ Tiếng Aramaic, tương đương trong Tiếng Anh là Daddy, và từ ngữ đó được nói ra trong sự trìu mến yêu thương.

Ý chỉ của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. “Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời. Ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi 33:11). Khi chúng ta trưởng thành trong tình yêu và đức tin thì những thuộc tính của Cha thiên thượng và kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta trở nên rõ ràng hơn. Lúc đó chúng ta sẽ yêu mến Ngài nhiều hơn, và mong muốn phục vụ Ngài cách tốt hơn. Trong khi Đức Chúa Trời biểu lộ tình yêu của Ngài vô điều kiện thì sự vui hưởng của chúng ta với tình yêu cả Ngài tùy thuộc vào hiểu biết và sự vâng phục của chúng ta đối với Lời của Ngài. Nếu chúng ta dâng nộp đời sống mình cho Chúa Jesus thì Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta. Ngược lại, Ngài không thể là Cha thiên thượng của chúng ta khi chúng ta bất tuân Lời Ngài, cho phép tội lỗi đi vào đời sống.

Bởi vậy Chúa phán rằng:
Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó,
Đừng đá động đến đồ ô uế,
Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.
Ta sẽ làm Cha các ngươi,
Các ngươi làm con trai con gái ta,
Chúa Toàn năng phán như vậy (2 Cô-rin-tô 6:17-18).
Cha mẹ trần gian mừng rỡ và vui hưởng sự trưởng thành của con cái khi chúng nó biết vâng lời và tôn trọng mình bao nhiêu thì Cha thiên thượng của chúng ta càng vui mừng hơn khi nhìn thấy con cái của Ngài biết vâng lời và lấy làm vinh dự chúng nó được mang Danh của Ngài.

Khi chúng ta bắt đầu làm quen với các nhân vật trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ nhìn thấy cách Đức Chúa Trời yêu thương họ, và rồi tình yêu của Ngài trở thành chất xúc tác khiến họ có động cơ để tiếp tục vâng phục Ngài. Nhờ đó họ càng được Chúa ban phước hơn nữa.

Tuy nhiên có một số người từ chối vâng phục Chúa, trong khi một số khác vui hưởng tình yêu của Chúa và chia sẻ nó ra cho người khác. Hãy nghe Lời của Chúa Jesus phán:

Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến ta; người nào yêu mến ta sẽ được Cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết ta (Giăng 14:21).
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người (Giăng 14:23). Đây chính là điều mà sứ đồ Phao-lô đã cầu nguyện trong Ê-phê-sô 3:14-21.
Ấy là vì cớ đó mà tôi quì gối trước mặt Cha, bởi Cha mà cả nhà trên trời và dưới đất đều được đặt tên, tôi cầu xin Ngài tùy sự giàu có vinh hiển Ngài khiến anh em được quyền phép bởi Thánh Linh mà nên mạnh mẽ trong lòng; đến nỗi Đấng Christ nhân đức tin mà ngự trong lòng anh em; để anh em khi đã đâm rễ vững nền trong sự yêu thương, được hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó là thể nào, và được biết sự yêu thương của Đấng Christ, là sự trổi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời.
Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng, nguyền Ngài được vinh hiển trong Hội thánh, và trong Đức Chúa Jêsus Christ, trải các thời đại, đời đời vô cùng! A-men.
ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ THẨM PHÁN TỐI CAO

Đức Chúa Trời yêu thương và công bình thi hành kỷ luật trên tuyển dân của Ngài và trên cả những người không tin Ngài, cho phép họ chịu một sự khổ nạn nào đó khi họ bất tuân các mạng lệnh của Ngài. Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời không đến một cách tình cờ vì Ngài luôn luôn gởi đến sự cảnh báo trước đó. Sự phán xét của Ngài không bao giờ là không công bình. Tổ phụ đức tin Áp-ra-ham đã đặt vấn đề: “Không lẽ nào Chúa làm điều như vậy, diệt người công bình luôn với kẻ độc ác; đến đỗi kể người công bình cũng như người độc ác. Không, Chúa chẳng làm điều như vậy bao giờ! Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” (Sáng 18:25). Và Môi-se đã đưa ra câu trả lời chính xác: “Công việc của Hòn-Đá là trọn vẹn;
Vì các đường lối Ngài là công bình.
Ấy là Đức Chúa Trời thành tín và vô tội;
Ngài là công bình và chánh trực” (Phục truyền 32:4).
Sự phán xét của Đức Chúa Trời luôn bày tỏ thuộc tính thánh khiết và tình yêu của Ngài: “Ngài chuộng sự công bình và sự chánh trực; Đất đầy dẫy sự nhân từ của Đức Giê-hô-va” (Thi 33:5). Và: “Vì ta, Đức Giê-hô-va, ưa sự chánh trực, ghét sự trộm cướp và sự bất nghĩa” (Ê-sai 61:8).

Đức Chúa Trời công bình không vi phạm các thuộc tính của Ngài hay bẻ gãy luật pháp mà chính Ngài đã lập. Ngài đã cảnh báo cho tổ phụ loài người trong vườn Ê-đen: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng 2:16-17). Thế nhưng tổ phụ A-đam đã không vâng lời Chúa, và hệ quả là Chúa đã thi hành kỷ luật: “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng 3:19). Đức Chúa Trời của ân điển tha thứ tội lỗi cho con người, nhưng trong sự công bình, Ngài không thay đổi cách hành động khi phải đưa ra một hình thức kỷ luật. Ân điển của Đức Chúa Trời và sự cai trị của Đức Chúa Trời được sứ đồ Giăng gọi là “ơn và lẽ thật” (Giăng 1:17). Hai phạm trù này không đối kháng nhau, vì ân điển cai trị xuyên qua sự công bình (Rô-ma 5:21).

Một mục sư kia đang giảng một sứ điệp có tựa đề: Tội Lỗi Của Các Thánh Đồ. Nhưng một số thành viên của hội thánh không cảm thấy hứng thú với sứ điệp đó. Họ nói: “Nếu ông giảng về tội lỗi, hãy giảng cho những người chưa tin. Và ông phải biết rằng tội lỗi của tín hữu chúng tôi thì khác biệt với tội lỗi của người ngoại bang.” Vị mục sư từ tốn trả lời: “Vâng, tội lỗi của chúng ta thì còn tệ hơn nữa.”

C.H Spurgeon đã nói: “Đức Chúa Trời không cho phép con cái của Ngài phạm tội một cách thành công.” Kinh Thánh nói gì về điều này?

Phải, khi Đức Giê-hô-va thấy sức lực của dân sự mình hao mòn,
Và không còn lại tôi mọi hay là tự chủ cho chúng nó,
Thì Ngài sẽ đoán xét công bình cho chúng nó,
Và thương xót tôi tớ Ngài (Phục truyền 32:36).
Vì chúng ta biết Đấng đã phán rằng: Sự trả thù thuộc về ta; ta sẽ báo ứng,

ấy là lời Chúa phán. Lại rằng: Chúa sẽ xét đoán dân mình. Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay! (Hê-bơ-rơ 10:30-31)

Đức Chúa Trời ban cho tuyển dân của Ngài những ân tứ và đặc ân, nhưng Ngài không bao giờ cho họ đặc quyền để phạm tội, rồi xem như là không có vấn đề gì. Chúng ta sẽ tìm thấy lẽ thật này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh. Những chương tiếp theo sau sẽ làm sáng tỏ hơn nữa điều này. Và ngay cả khi tội lỗi được tha thứ, thì chuyện này cũng để lại một số hậu quả.

Bản tường thuật của Kinh Thánh về những lẽ thật trên đây rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đức Chúa Trời đang phán dạy những lẽ thật cho con cái của Ngài. Những gì được viết ra là để cảnh báo chúng ta không phạm tội (1 Cô-rin-tô 10:6-12). “Mọi điều đó đã xảy ra để làm gương cho chúng ta, hầu cho chúng ta chớ buông mình theo tình dục xấu, như chính tổ phụ chúng ta đã buông mình” (1 Cô-rin-tô 10:6). Và những điều này cũng khích lệ chúng ta tiếp tục giữ vững sự trông cậy vào chính Đức Chúa Trời (Rô-ma 15:4). Khi một tín hữu phạm tội, người đó phải chịu đau khổ vì tội đó. Nhưng điều này không phải là lời bào chữa cho những người chưa tin vẫn tiếp tục sống trong tội lỗi. “Lại nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên thế nào?” (1 Phi-e-rơ 4:18) và: “Kìa, người công bình được báo đáp nơi thế thượng; Phương chi kẻ hung ác và kẻ có tội!” (Châm ngôn 11:31). Nếu hệ quả tạm thời của tội lỗi là mang đến sự đau khổ cho con cái Chúa trong cuộc đời này, thì hậu quả đời đời của tội lỗi sẽ ra sao cho những ai từ chối Chúa Jesus Christ khi họ nhắm mắt lìa trần?

Hỡi những kẻ yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét sự ác (Thi 97:10).
Nhưng ai phạm đến ta, làm hại cho linh hồn mình; Còn kẻ nào ghét ta, ắt ưa thích sự chết (Châm ngôn 8:36).

 

 

Bài 2

LU-XI-PHE

 

Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao (Ê-sai 14:14).

Tên gọi Lucifer xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là “người nắm giữ ánh sáng.” Một số giáo phụ của hội thánh gọi Satan là Lucifer khi họ giải thích câu Kinh Thánh Ê-sai 14:12 “Hỡi sao mai, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi bị chặt xuống đất là thể nào!”
Chúng ta biết từ ban đầu Satan là một thiên sứ sáng láng được Đức Chúa Trời tạo dựng để phục vụ cho công việc của Ngài. Và theo Kinh Thánh các thiên sứ này được so sánh với các ngôi sao. Khi Đức Chúa Trời sáng tạo nên vũ trụ thì “trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau” (Gióp 38:7), và Lucifer là một thiên sứ ở giữa các sao mai ấy. Theo một đường lối không được giải thích, vào một thời điểm không xác định sự tự kiêu của thiên sứ lớn này đã kéo theo sự phán xét cho sự sa ngã của nó và rồi bị Đức Chúa Trời loại bỏ (Khải huyền 12:1-9). CH Spurgeon đã nói về Ma quỉ: “Thực chất tình trạng chưa qua thử thách của Ma quỉ là một thiên sứ đã đánh mất sự thánh khiết”.

Trong ý nghĩa ban đầu, Ê-sai 14:9-23 là một ”bài ca nhạo báng” về vua của Babylon. Vị vua này khoe khoang trong niềm kiêu hãnh rằng ông ta sẽ leo lên nơi cao tới ngai của Đức Chúa Trời và tự làm cho mình giống như Đức Chúa Trời. Nhưng cuối cùng ông ta đã rơi xuống Sheol – địa hạt của sự chết giống như những quốc vương khác. Chúng ta cũng tìm thấy một đoạn văn tương tự trong Ê-xê-chi-ên chương 28, tại đây Đức Chúa Trời tuyên phán về sự sụp đổ của vua Tyre (câu 11-19). Trong khi những lời giải thích căn bản về hai đoạn Kinh Thánh trên đây được qui cho những vua đương thời – vua của đế quốc Babylon và của Tyre, thì phía sau nó dường như ám chỉ đến một vua được che giấu: vua của quyền lực chốn không trung là Satan. Nó là Ma quỉ, kẻ thù của Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Nhìn vào các việc làm và sự sụp đổ của hai vị vua kiêu ngạo trên đây, chúng ta có một minh họa sinh động về những phẩm cách, công việc của Satan và sự phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời dành cho nó.

Câu gốc chỉ về Lucifer ở đây là Ê-sai 14:14, “Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao” – một lời phát biểu bộc lộ bản chất kiêu ngạo của Satan.

 

THAM VỌNG

Tham vọng của một người có thể tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào động cơ và phương pháp thực hiện. Lucifer có tham vọng “làm ra mình bằng Đấng Rất Cao”. Ý tưởng này là tội ác và không thể chấp nhận được.

Nếu động cơ cho tham vọng của chúng ta là tư lợi cá nhân, và phương pháp để thực hiện tham vọng đó là lừa dối và hãm hại gười khác, khi đó tham vọng này hoàn toàn sai lầm. Nhưng nếu động cơ của chúng ta là dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời, và phương cách thực hiện tham vọng là làm theo ý muốn của Chúa và chờ đợi thời điểm mở đường của Ngài thì tham vọng (khát vọng) này là tốt. Thư tín Ga-la-ti chương 5 câu 17 đề cập đến “dục vọng – những điều ưa muốn của xác thịt” và trong Phi-líp chương 2 câu 3 cảnh báo chúng ta: “Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh”. Gia-cơ 3:14-16 cũng nói: “Nhưng nếu anh em có sự ghen tương cay đắng và sự tranh cạnh trong lòng mình, thì chớ khoe mình và nói dối nghịch cùng lẽ thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trên mà xuống đâu; trái lại, nó thuộc về đất, về xác thịt và về ma quỉ. Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác”. Những phần Kinh Thánh này cho chúng ta biết rằng những dục vọng hay tham vọng của xác thịt là thuộc về Ma quỉ.

Nhưng các khát vọng chính đáng ở trong Chúa có thể được ban phước. Trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:11, “ráng tập ăn ở cho yên lặng”. Chỗ này bản Kinh Thánh Tiếng Anh viết là: “Make it your ambition to lead a quiet life.” Và sứ đồ Phao-lô xác nhận là ông có tham vọng này: “Nhưng tôi lấy làm vinh mà rao Tin lành ở nơi nào danh Đấng Christ chưa được truyền ra” (Rô-ma 15:20). Ông muốn có một chức vụ làm đẹp lòng Chúa (2 Cô-rin-tô 5:9). Chúng ta nhớ câu chuyện ngụ ngôn trong sách Ma-thi-ơ 25: 24-27 về người đầy tớ đem chôn giấu ta-lâng được giao là không có tham vọng làm lợi cho chủ, anh ta được xếp vào loại “đầy tớ dữ và biếng nhác”. Một trường hợp khác trong Kinh Thánh ghi lại tham vọng sai trật: Áp-sa-lom con trai của Đa-vít đã dùng mưu mẹo và thủ đoạn để tìm cách leo lên đỉnh cao của quyền lực thì tự mình chuốc lấy sự phán xét của Đức Chúa Trời.
Các vị vua thời xưa thường tự tôn chính mình lên ngang bằng thần thánh và có những hành động như những vị thần. Pha-ra-ôn đã hỏi: “Giê-hô-va là ai mà trẫm phải vâng lời người, để cho dân Y-sơ-ra-ên đi?” (Xuất Ê-díp-tô 2:5). Còn Nê-bu-cát-nết-sa thì khoe khoang: “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao?” (Đa-ni-ên 4:30).
Đức Chúa Trời gởi câu trả lời đến cho những người này, Ngài đã làm cho vương triều Ai-cập kinh hoàng qua một chuỗi phép lạ, và Ngài cũng biến đổi vị vua kiêu ngạo Nê-bu-cát-nết-sa trở thành súc vật ăn cỏ như bò trong bảy năm. Thêm một trường hợp khác là Hê-rốt Ạc-ríp-pa thích thú với tiếng tung hô của đám đông sau bài diễn thuyết: “Ấy là tiếng của một thần, chẳng phải tiếng người ta đâu!” (Công vụ 12:22). Và điều gì xảy ra sau đó? Ông ta bị “thiên sứ của Chúa đánh, bởi cớ chẳng nhường sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời; và vua bị trùng đục mà chết.”

Các trường hợp tự nâng mình lên làm thần của các vua trên đây minh họa cho chúng ta hiểu về mối liên kết của họ với Lucifer, nguyên là thiên sứ sáng láng. Các thiên sứ chỉ là vật thọ tạo, được dựng nên để làm đầy tớ Đức Chúa Trời, không thể nào ngang bằng với Đấng Tạo Hóa. Thế nhưng Lucifer đã có những ý tưởng khác. Tham vọng của nó là xấu xa. Nó muốn trở nên giống như Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng nên nó, và tuyên bố: “Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng Rất Cao”. Kinh Thánh không giải thích đầy đủ về tất cả những gì đã xảy ra trong sự kiện này, nhưng khi Lucifer phản loạn nó đã kéo theo một số các thiên sứ khác. Sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Satan và những thiên sứ theo nó là: “Con rồng lớn đó bị quăng xuống, tức là con rắn xưa, gọi là ma quỉ và Sa-tan, dỗ dành cả thiên hạ; nó đã bị quăng xuống đất, các sứ nó cũng bị quăng xuống với nó” (Khải huyền 12:9). Bài thơ kinh điển Đánh Mất Thiên Đàng của Milton được căn cứ trên câu chuyện này.

 

SỰ KIÊU NGẠO

Tính kiêu ngạo nuôi dưỡng tham vọng ích kỷ. Nhiều nhà thần học tin rằng thói kiêu ngạo là khởi nguồn cho mọi tội lỗi. Vì lý do này kiêu ngạo là một trong những tội mà Đức Chúa Trời ghét. “Có sáu điều Đức Giê-hô-va ghét, Và bảy điều Ngài lấy làm gớm ghiếc: Con mắt kiêu ngạo, lưỡi dối trá, Tay làm đổ huyết vô tội” (Châm Ngôn 6:16-17).

Và trong Châm Ngôn 16:18, “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã”.
Ý tưởng của Lucifer, “Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng rất cao” là tiền đề cho lời dối gạt của nó khi cám dỗ Ê-va, “Ngươi sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời” (Sáng thế ký 3:5). Nó đã thành công khi dùng một miếng mồi tấn công người nữ đầu tiên: ngươi sẽ trở nên giống như một người nào đó. Đây chính là một lời hứa hư ảo, xuất phát từ sự kiêu ngạo đã đánh đúng tâm lý con người. Thế là Ê-va hoàn toàn sập bẫy.

Các nhà khoa học nghiên cứu hành vi con người cho chúng ta biết rằng phần lớn hành vi rối loạn thần kinh có liên quan trực tiếp đến sự kiêu ngạo. Những người như thế cần một phương thuốc tốt nhất cho sự khỏe mạnh vật lý và lòng trung thực. Cả Chúa Jesus và sứ đồ Phao-lô đều biết người ta phải sống như thế nào trong một xã hội mà sự kiêu ngạo được thúc đẩy từ những người La Mã vốn là bậc thầy về sự khoe khoang. Sự kiêu ngạo tự tôn mình lên theo một giá trị ảo, trong khi sự khiêm nhường chính là hạ mình xuống để phục vụ người khác. Vì thế Chúa Jesus đã cảnh báo các môn đồ: “Các ngươi biết rằng các vua dân ngoại thì ép dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế mà trị dân. Trong các ngươi thì không như vậy; trái lại, trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi” (Ma-thi-ơ 20:25-26). Chúa Jesus đã thực hành những gì Ngài dạy, Ngài từ bỏ địa vị bình đẳng với Đức Chúa Trời, trở thành một tôi tớ phục vụ con người và cuối cùng chịu chết trên thập tự giá như một của lễ hy sinh. Ngài đã trở thành một tấm gương hoàn hảo cho chúng ta (Phi-líp 2:1-11). Chúa Jesus với những thuộc tính như thế hoàn toàn tương phản với Lucifer! Khiêm nhường luôn đối kháng với sự kiêu ngạo.

Phao-lô viết trong Rô-ma 12:3, “Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mỗi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người”. Ông cũng cảnh báo các hội thánh không được chọn lựa các tín hữu chưa trưởng thành (người mới tin đạo) vào vị trí người lãnh đạo. “Người mới tin đạo không được làm giám mục, e người tự kiêu mà sa vào án phạt của ma quỉ chăng” (1 Ti-mô-thê 3:6). Người lãnh đạo sa vào án phạt của ma quỉ sẽ là một thảm họa cho hội thánh!

Những mẫu quảng cáo về những người “nổi tiếng” hiện nay khuyến khích mọi người tin rằng hoàn cảnh cá nhân, quyền lực, sự công nhận của đám đông, và những tài sản một ai đó sở hữu thì đo lường giá trị bản thân của anh ta. Sự vắng mặt của các anh hùng dân tộc đích thực làm cho công chúng dễ dàng thờ lạy một người ở đẳng cấp cao và “nổi tiếng” được các chuyên gia quan hệ công chúng (Public Relation) là những người làm công tác quảng cáo đẩy lên cao. Khi con người tôn vinh, sùng bái một ngôi sao điện ảnh hay một hình tượng nổi bật nào đó trong các môn thể thao thì cũng giống như trong thời Cựu ước dân sự thờ phượng Baal hay thần Zeus. Tất cả các thần tượng do con người lập nên là một sai lầm đáng xấu hổ. Đôi khi khuynh hướng tôn vinh thần tượng cũng xâm nhập vào hội thánh và dường như chúng ta ngày càng có nhiều người “nổi tiếng”, trong khi những người đầy tớ phục vụ đúng nghĩa đang vơi dần.

Sự kiêu ngạo sai lầm ở chỗ nào? Tính kiêu ngạo đem người ta vào trong một thế giới không thực tế. Và nếu đời sống được đặt trên những điều hư ảo thì không thể lấy gì để nuôi dưỡng nó. Điều đó cũng giống như các con trẻ tham dự vào một trò chơi ồn ào được thưởng ăn kẹo ngọt trong giờ ăn trưa thay vì ăn bữa ăn chính thức với đầy đủ chất dinh dưỡng. Những tham vọng ích kỷ làm no đầy cái tôi bản ngã nhưng phá hủy linh hồn. Nó gây ấn tượng trên một số người nào đó, nhưng làm cho Đức Chúa Trời đau buồn.

 

SỰ LỪA DỐI

Khi Đức Chúa Trời muốn vận hành bên trong các con cái của Ngài, Ngài sẽ dùng các lẽ thật trong Lời của Ngài và Đức Thánh Linh dạy các lẽ thật đó. Vì Đức Thánh Linh chính là “thần của lẽ thật” (Giăng 14:17; 15:26; 16:13). Đức Chúa Trời sử dụng lẽ thật để hoàn thành công việc Ngài, còn Satan dùng sự dối trá thúc đẩy công việc của nó.

Lần đầu tiên Satan xuất hiện trong Kinh Thánh dưới hình dạng một con rắn cám dỗ Ê-va (Sáng thế ký 3:1-4; 13-14). Chúa Jesus gọi nó là “kẻ nói dối và là kẻ giết người” (Giăng 8:44). Và Phao-lô cảnh báo các tín hữu tại Cô-rin-tô: “Tôi ngại rằng như xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng“ (2 Cô 11:3). Nếu những người lính Cơ Đốc không trang bị lẽ thật làm dây nịt lưng, gươm của Thánh Linh là Lời của Đức Chúa Trời và những vũ khí khác theo Ê-phê-sô 6: 14-17 thì không thể đánh bại Satan. Hãy xem Satan xuất hiện trong sách Khải huyền 12:9-17, “Con rồng lớn” tức là “con rắn xưa” gọi là ma quỉ và Satan. Và Khải 20:1-3, Satan bị xiềng lại đến ngàn năm. Sau cùng nó bị “quăng xuống hồ lửa và diêm” (Khải 20:10). Công việc của nó kết thúc vĩnh viễn tại đây!

Về cơ bản Satan là một kẻ giả mạo, nó bắt đầu công việc của nó bằng cách cố gắng giả mạo làm Đức Chúa Trời. Từ khi sa ngã, nó đã chế tác ra một phúc âm giả bằng những việc lành (Ga-la-ti 1:6-9). Nó cấy trồng những Cơ đốc nhân giả mạo (Ma-thi-ơ 13:24-30; 36-43) là những người thực hành đời sống tôn giáo bên ngoài (Rô-ma 9:30 – 10:4). Những trợ thủ giả mạo của nó hầu việc nó (2 Cô 11:13-15) trong một hội thánh giả (Khải 2:9; 3:9). Đến cuối cùng Satan sẽ bỏ mạng che mặt ra, nó hiện nguyên hình là AntiChrist. Cả thế giới mù lòa thuộc linh sẽ thờ phượng và vâng phục nó (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2; Khải 13). Satan luôn luôn muốn được người ta thờ phượng và trong một khoảng thời gian ngắn tạm thời, dường như nó đã đạt được mục tiêu.

 

Khi Satan cám dỗ Ê-va nó nói ba điều dối trá. Thứ nhất, Satan đưa ra giả định là Đức Chúa Trời đã không thực sự hào phóng khi cấm Ê-va và A-đam ăn trái cây biết điều thiện ác. Thứ hai, nó phủ nhận Lời Chúa dạy là Ê-va sẽ chết nếu ăn trái cây đó. Thứ ba, nó khẳng định rằng thay vì chết khi ăn trái cây, Ê-va sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời. Bằng cách nói như thế Satan công bố rằng không hề có một chút lẽ thật nào ở trong Đức Chúa Trời, sẽ không có bất cứ hậu quả nào cho sự không vâng lời của cá nhân, và không có giới hạn nào về những gì con người sẽ thực hiện. Ba điều đối trá trên đây của Satan vẫn còn đang tái xuất hiện trong triết học và tôn giáo hôm nay, đặc biệt là trong Phong Trào Thời Đại Mới. Satan vẫn tiếp tục nói những điều dối trá trong thời đại này như nó đã từng làm trong Sáng thế ký chương 3, và thậm chí nó có thể chi phối hay làm nhiễm độc tư tưởng của những tín hữu chân thật.

Khi tin vào điều dối trá, Satan sẽ đi vào đời sống chúng ta. Nhưng khi tin vào lẽ thật của Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh sẽ vận hành bên trong chúng ta. Khi nuôi dưỡng những tham vọng không chính đáng, chúng ta đang phục vụ cho thế giới, xác thịt và Ma quỉ. Hậu quả của điều này sẽ đem đến những rắc rối cho chúng ta. Nhưng khi chúng ta tìm kiếm con đường làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, hết lòng phục vụ Ngài, khi ấy phước hạnh sẽ đuổi theo chúng ta.

Trong tác phẩm Sự Phân Cách Lớn Lao, C. S. Lewis đã viết: “Chỉ có hai loại người vào ngày cuối cùng: 1/ Những người nói với Đức Chúa Trời, “Ý Cha được nên”. 2/ Những người mà Đức Chúa Trời phán: “Ý của ngươi được thành”. Loại người thứ hai phải đi vào địa ngục!

Và tất cả những rắc rối này đã khởi phát từ Lucifer.

 

Bài 3

 

A-ĐAM

“Trong A-đam mọi người đều chết.”

1 Cô-rin-tô 15:22

A-đam là con người đầu tiên trong lịch sử loài người. Trước khi phạm tội không vâng lời Đức Chúa Trời, ông là một con người mang hình ảnh của Ngài và chắc chắn ông đã làm rất tốt công tác quản trị mà Chúa giao cho ông.

Nhưng A-đam đã không được đề cập nhiều về những việc làm tốt đẹp của ông trong Kinh Thánh. Ông hát bài ca hôn nhân trong Sáng thế ký 2:23, và ông thưa chuyện với Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký 3:10-12 về lỗi lầm của ông. A-đam đã ăn trái cây Chúa cấm, và từ đó ông mang tội lỗi và sự chết vào trong dòng giống loài người. Giờ đây lịch sử loài người đi vào một khúc quanh mới tồi tệ. Phao-lô nói thẳng điều này: “Trong A-đam mọi người đều chết”, và vị sứ đồ mở rộng ý tưởng này trong Rô-ma 5:12-21. Bắt đầu từ Sáng thế ký chương 3, Kinh Thánh đã ghi lại những hậu quả tai hại cho hành động phạm tội của A-đam và phương cách mà ân điển của Đức Chúa Trời được bày tỏ trở lại với chúng ta sau khi tổ phụ loài người bị đuổi khỏi vườn Ê-đen.

Đức Chúa Trời đã thực sự làm gì khi Ngài tạo dựng con người A-đam đầu tiên? Chúng ta có thể hiểu chính mình và người khác tốt hơn nếu chúng ta trả lời chính xác câu hỏi này. Và tiếp theo chúng ta cũng sẽ hiểu rõ hơn về mục đích của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta trong thế giới. Sáng thế ký 1:26 – 2:27 sẽ là phần Kinh Thánh nền tảng để chúng ta suy nghiệm “sự mâu thuẫn” hay “nghịch lý” khi chúng ta nhìn vào những tính chất phức tạp của con người.

 

BỤI ĐẤT VÀ TINH THẦN

Tên A-đam có nguồn gốc từ tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “đất đỏ”, vì A-đam được tạo nên từ đất qua bàn tay của Đức Chúa Trời. Trong Sáng thế ký 2:7 “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh”.
Từ “nắn nên” (formed) mang một hàm ý: được tạo nên cho một mục đích. Từ này liên quan đến một từ Hê-bơ-rơ khác là từ “yoser” có nghĩa là thợ gốm. Đức Chúa Trời sáng tạo nên vũ trụ, các từng trời, mặt đất và mọi thứ khác trong sáu ngày, rồi sau đó Ngài đem chúng đến cho A-đam để tổ phụ loài người làm công tác quản trị Chúa giao. Và đó cũng là mục đích mà Đức Chúa Trời thiết lập cho con người. Trái đất bao hàm mọi nhu cầu đã được chuẩn bị cho con người. Họ được trang bị để vui hưởng và quản trị tốt những gì Chúa dành cho. Trong sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, đây là một sự kết hợp hoàn hảo.

Sẽ là một lỗi lầm khi chúng ta quên rằng tên tổ phụ của loài người A-đam, có nghĩa là: bụi đất. Đức Chúa Trời “nhớ lại rằng chúng tôi bằng bụi đất” (Thi 103:14) và Ngài ra lệnh tổ phụ chúng ta phải trở về bụi đất (Sáng 3:19). Nhưng chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng ta chúng ta được tạo nên từ thép cứng và sẽ còn mãi trên trái đất này. H. C. Leupold đã dịch Truyền đạo 6:10, “Phàm điều gì có trước thì đã được đặt tên từ lâu rồi; loài người sẽ ra thể nào, thì đã biết từ trước rồi; người không thể cãi trả với Đấng mạnh hơn mình” ra ý này: “Con người có thể làm bất cứ điều gì, nhưng tên của họ đã được chỉ định từ trước và tên đó là A-đam bụi đất”. A-đam, ông ta chỉ là bụi đất. Ngay cả khi tên của bạn nổi tiếng khắp thế giới, thì tên gọi mà Đức Chúa Trời ban cho A-đam (có bạn trong đó) vẫn không thay đổi, nó chỉ là bụi đất. Một ngày nào đó bạn sẽ chết và tên của bạn bị lãng quên theo thời gian. Tôi có bốn quyển sách dày trong thư viện mang tựa đề Who Was Who. Đó là danh sách, tiểu sử những người nam và nữ nổi tiếng một thời, nhưng ngày hôm nay họ chỉ được một vài nhà viết sử biết đến. Trong lăng kính của Đức Chúa Trời, tất cả chúng ta đều có một cái tên chung: A-đam bụi đất.

Thân thể của A-đam đến từ đất, nhưng sự sống của ông đến từ Đấng ban hơi thở để ông trở nên “một linh hồn sống”.

Một trong những lý do mà nhiều người cảm thấy khó khăn khi phải định nghĩa con người đó là sự kết hợp giữa bụi đất và thần linh (deity). Trong thân thể vật lý con người được nối kết với trái đất, và trong bản chất thuộc linh con người được nối kết với thiên đàng. Nếu loại bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi câu chuyện sáng tạo thì khi ấy A-đam chỉ là một sinh vật như những sinh vật khác, có lẽ A-đam sẽ có rất nhiều tài năng nhưng cũng chỉ là một trong nhiều loài động vật trên đất.

Nhà tự nhiên học Roy Chapman Andrew giải thích con người là “động vật có khả năng bắt chước”, nhưng ông không trả lời được tại sao họ có khả năng này, và họ đến từ đâu? Thi sĩ người Anh T. S. Eliot đã viết về con người, “là một động vật cực kỳ thông minh, thích ứng nhanh với hoàn cảnh và tinh quái hơn cả các loài khác.” Còn Sigmund Freud, cha đẻ của ngành bệnh học tâm thần phát biểu, “Con người không khác biệt với các động vật khác, nhưng con người ở một đẳng cấp cao hơn.” Tuy nhiên Mortimer Adler, triết gia và nhà giáo dục người Mỹ viết trong tác phẩm Sự Khác Biệt Của Con Người

Và Điều Gì Làm Nên Sự Khác Biệt, “Con người là hữu thể duy nhất khác với các loài động vật, và nếu như vậy các ẩn ý đối với nhân loại về tính độc nhất này là gì?” Có phải chăng con người chỉ khác biệt với các động vật khác về đẳng cấp nhưng không khác biệt về loài giống?

Trong thế giới của chúng ta, những hình thái thấp hơn của sự sống được quay vòng theo chu kỳ, trong khi sự sống con người có lịch sử thay đổi. Bạn có thể viết một quyển sách tựa đề Đời Sống Của Con Ong, bởi vì đời sống của con ong này thì rất giống với đời sống của một con ong khác cùng chủng loại. Nhưng bạn không thể viết một cuốn sách có tựa đề Đời Sống Của Con Người, bởi vì mỗi một con người có những câu chuyện khác nhau. Mặc dù chúng ta được sinh ra theo cùng một cách, rồi mỗi người lớn lên và cuối cùng sẽ chết. Nhưng điều gì xảy ra giữa những biến cố trong đời sống của từng người là hoàn toàn độc nhất – không có hoàn cảnh nào giống nhau tuyệt đối. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên những thú nuôi và động vật hoang dã, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta thấy Ngài hà sinh khí trên chúng giống như Ngài đã làm cho A-đam (Sáng 1:24-25). Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sáng 1:27).

Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ đến tính cách nghịch lý của con người khi có cả hai hình ảnh của Đức Chúa Trời và hình ảnh của A-đam.

 

HÌNH ẢNH CỦA A-ĐAM VÀ HÌNH ẢNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Khi Đức Chúa Trời tạo dựng A-đam, Ngài tạo dựng con người đầu tiên này theo hình ảnh của Ngài (Sáng 26-27; 5;1). Nhưng khi con cái của A-đam được thụ thai, chúng nó sẽ được tạo nên theo hình ảnh và giống như cha của chúng (Sáng 5:3). Một chú thích rất có ý nghĩa trong bản Kinh Thánh Tiếng Anh NIV viết: “Đức Chúa Trời tạo dựng con người đầu tiên theo hình ảnh hoàn hảo của chính Ngài, bây giờ khi A-đam phạm tội (không còn hoàn hảo nữa) đã sinh ra những đứa con theo hình ảnh không hoàn hảo của chính ông.”

Được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời hàm ý rằng chúng ta có một số điều ở bản thể bên trong của chúng ta liên kết với Đức Chúa Trời. Cây cối và động vật có sự sống từ sự cung ứng của Đức Chúa Trời theo những cấp độ khác nhau, và Ngài chăm sóc chúng. Nhưng không có bằng chứng nào nói rằng chúng có thể thiết lập mối liên hệ với Đức Chúa Trời giống như con người. Các loài động vật và con người đều được tạo nên từ đất (Sáng 2:7, 19). Cả hai loại tạo vật này đều được ban cho cùng một loại thực phẩm (Sáng 1:29-30), cùng nhận một sự ủy thác về việc sinh sôi nẩy nở giống nòi (Sáng 1:22, 28), nhưng chỉ có con người được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời toàn năng muốn đóng dấu hình ảnh của Ngài vào những bình đất dễ vỡ là con người như một hành động mạnh mẽ của ân điển.

Bởi vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, chúng ta là những con người khác biệt với các tạo vật còn lại trên trái đất. Chúng ta có tâm trí để hiểu biết và suy nghĩ, có tấm lòng để nuôi dưỡng ước muốn và yêu thương, có ý chí để đưa ra những quyết định. Xa hơn nữa Đức Chúa Trời cũng ban cho chúng ta uy quyền để chia sẻ công tác quản trị trái đất với Ngài (Sáng 1;26-28). Chúng ta có trách nhiệm thờ phượng Ngài, vâng lời Ngài và dâng mọi vinh hiển cho Ngài về tất cả những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng có trách nhiệm yêu thương và giúp đỡ người khác để họ có thể nhìn thấy hình ảnh của Đức Chúa Trời qua chúng ta.

Trước khi A-đam phạm tội, tổ phụ đã hợp tác với Đức Chúa Trời để hoàn thành ý chỉ của Ngài. A-đam làm việc trong vườn Ê-đen, đặt tên cho các loài động vật và tiếp nhận ca giải phẫu thiên thượng để Đức Chúa Trời đem đến cho ông một người giúp đỡ thích hợp (Sáng 1:8-24). Ông và Ê-va đã ở trong mối tương giao với Đức Chúa Trời và vui hưởng các phước hạnh Chúa ban khi hai người cùng làm theo ý chỉ của Ngài.
Nhưng rồi sau đó A-đam đã không còn vâng lời Chúa, và điều này làm thay đổi mối liên hệ giữa vợ chồng của ông với Ngài. Hình ảnh của Đức Chúa Trời trong A-đam và Ê-va lúc này bị phá hỏng, và họ núp mình che giấu không dám trực diện với Đức Chúa Trời. Họ không còn vui hưởng sự hiện diện của Ngài! (Sáng 3:1-8).

Hành động không vâng lời của A-đam và Ê-va đã ảnh hưởng lên toàn bộ dòng giống của họ sau đó. Vì vậy trong suy nghĩ, hành động của chúng ta là những hậu tự của A-đam, chúng ta dễ dàng đi theo đường lối riêng của mình thay vì bước theo đường lối của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh diễn tả tình trạng đáng thất vọng của con người chúng ta trong Ê-phê-sô 4:17-19 và Rô-ma 1:18-32.

Vấn đề hiện nay là chúng ta có một bản chất bên trong bị chia cắt vì tội của A-đam. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời có thể làm thỏa mãn chúng ta, nhưng cũng giống như A-đam chúng ta tránh né hiện diện của Chúa vì trong chúng ta có những ước muốn khác hấp dẫn hơn là đi theo Lời Chúa. Augustine đã viết: “Đức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta cho chính Ngài, vì vậy lòng chúng ta không bao giờ được yên nghỉ cho đến khi chúng ta tìm được chỗ nghỉ yên trong Chúa”. Nhưng A-đam đã truyền lại cho chúng ta bản chất tội lỗi và chống nghịch Đức Chúa Trời. Ông cũng di truyền đến chúng ta một thân thể mà một ngày nào đó sẽ chết và trở về bụi đất. Nỗi sợ về sự chết sẽ đến– là một cảm giác thật ở bất kỳ một bản năng động vật nào nhưng chúng không thể dự liệu trước. Con người không thể tìm cách trì hoãn hay ngăn chận sự chết theo ý của mình. Đức Chúa Trời có quyền năng chữa lành những bệnh tật và vết thương của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phải đối diện với sự chết vào một ngày không hẹn trước. Điều này như một cái xiềng sắt trói chặt con người không thoát ra được. Sự chết là một kẻ thù mà con người không có bất kỳ một vũ khí nào để dành chiến thắng, tuy nhiên đến cuối cùng nó sẽ bị hủy diệt (1 Cô-rin-tô 15:26).

 

UY QUYỀN VÀ SỰ NÔ LỆ

Khi A-đam chưa phạm tội, ông và Ê-va thực hiện quyền quản trị mà Đức Chúa Trời ủy thác trên các động vật dưới nước, trên không trung và trên mặt đất. Từ khi hai con người đầu tiên này phạm tội thì hình ảnh của Đức Chúa Trời đã bị phá hỏng, họ đã đánh mất vương miện của công tác cai trị, trở thành nô lệ cho tội lỗi và di truyền điều này cho hậu tự của họ. Họ vẫn còn sử dụng thân thể, tâm trí và ý chí nhưng tri thức, sự ao ước, động cơ của họ đã bị chi phối, nhiễm độc bởi tội lỗi và họ không thể nào lường hết được những hậu quả của chúng.

Vấn đề này vẫn còn ảnh hưởng đến chúng ta ngày hôm nay, và trải qua nhiều thế kỷ nó được gia tăng cùng với sự phát triển của tri thức khoa học. Các nhà nghiên cứu phát triển những loại thuốc trừ sâu kéo theo những hệ lụy là giết chết các vật nuôi và nguồn nước bị ô nhiễm, cá cũng bị nhiễm độc dẫn đến các loại bệnh ung thư cho con người. Thảm thực vật đang bị phá hủy để lại những vùng đất xói mòn gây ra lũ lụt nhiều nơi. Hầu như khi con người phát triển một lĩnh vực nào đó rất tốt thì nó cũng kéo theo những điều xấu khác. Có nghĩa là khi chúng ta giải quyết được một vấn đề, thì sau đó chúng ta sẽ có hai hoặc nhiều hơn các vấn đề khác nữa cần giải quyết. Khi phạm tội, chúng ta sáng chế ra nhiều phương cách khác nhau để che giấu tội lỗi, và điều này chỉ làm cho tình trạng tội lỗi của chúng ta trở nên tệ hại hơn. Chúng ta không cố gắng làm đảo lộn cuộc sống hoặc sự cân bằng của tự nhiên, nhưng từ khi A-đam sa ngã, con người chúng ta là một sự pha trộn kỳ lạ của phát minh và phá hoại, của uy quyền và nô lệ. Chúng ta rất dễ sử dụng những ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho theo đường lối và mục đích sai trật. Được sáng tạo theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, chúng ta kém hơn thiên sứ nhưng cao trọng hơn các động vật khác, nhưng đôi khi chúng ta rơi vào tình trạng đạo đức thấp kém giống như các loài động vật thay vì cao hơn chúng nhiều cấp độ. Chúng ta thậm chí còn sử dụng tính chất của loài vật để chỉ một người nào đó. Chúng ta nói anh này dơ bẩn như heo, cứng đầu như một con la, ngu như bò, dễ tuột như cá chình, xảo trá như cáo, vụng về như bò đực…. Còn nếu chúng ta làm vài điều đáng tuyên dương, nhiều người sẽ gọi chúng ta là những thiên sứ.

Vậy thì chúng ta có thể vượt qua những bản chất tự nhiên của con người mặc dù tổ phụ A-đam sa ngã hay không? Có giải pháp nào cho đời sống con người vốn đầy những nghịch lý và mâu thuẫn?

Câu trả lời là có.

 

A-ĐAM ĐẦU TIÊN VÀ A-ĐAM SAU CÙNG

Theo Rô-ma 5:12-21 A-đam đại diện cho toàn thể loài người trong sáng tạo cũ. Các nhà thần học gọi A-đam là “thủ trưởng liên bang” hàm ý những gì ông làm để lại một hậu quả dây chuyền trên dòng dõi của ông. Có một vài điều áp dụng ở đây trong câu chuyện của người Phi-li-tin thách đấu với người Y-sơ-ra-ên: “Hãy chọn một người trong các ngươi xuống đấu địch cùng ta. Nếu khi đấu địch cùng ta, hắn trổi hơn và giết ta, thì chúng ta sẽ làm tôi các ngươi; nhưng nếu ta trổi hơn hắn và ta giết hắn, thì các ngươi sẽ làm tôi chúng ta, và hầu việc chúng ta” (1 Sa-mu-ên 17:8-11).

Một số người hoài nghi có thể hỏi: “Đức Chúa Trời có thực sự hợp lý khi buộc tội toàn thể loài người sau khi A-đam phạm tội không vâng lời?” Đây không phải là vấn đề của sự công bằng nhưng của ân điển. Nếu Đức Chúa Trời làm điều “hợp lý, công bằng”, Ngài sẽ kết án toàn thể loài người và quên đi sự cứu rỗi. Thật ra nếu bạn và tôi ở vào vị trí của A-đam, chúng ta cũng sẽ hành động như ông ta. Toàn thể loài người bị phán xét vì những gì A-đam đầu tiên đã làm trong vườn Ê-đen. Tuy nhiên đây là tin tốt lành: Bạn và tôi được cứu chuộc khỏi tội lỗi vì A-đam sau cùng đã chết trên thập tự giá đền tội cho chúng ta. “Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại” (1 Cô-rin-tô 15:22). Sự không vâng lời của A-đam mang đến tội lỗi và sự chết vào trong thế giới, nhưng sự hi sinh của Đấng Christ trên thập tự giá mang đến ân điển và lời hứa về sự phục sinh vinh hiển cho những ai đặt đức tin nơi Ngài. Đây là sự khôn ngoan và giải pháp đầy ân điển cho một vấn đề phức tạp.

Khi chúng ta sinh ra lần đầu tiên, chúng ta được sinh ra trong sáng tạo cũ và “trong A-đam”, điều này khiến chúng ta trở nên những tội nhân. Nhưng khi chúng ta được tái sanh nghĩa là được sanh ra trong sáng tạo mới (2 Cô-rin-tô 5:17), được “ở trong Đấng Christ”, chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô viết: “Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh hồn sống” được trưng dẫn từ Sáng thế ký 2:7, và sau đó vị sứ đồ nói tiếp: “A-đam sau cùng là thần ban sự sống” (1 Cô-rin-tô 15:45). Chúa Jesus Christ “cũng ban sự sống cho những kẻ Ngài muốn” (Giăng 5:21). Bởi vì đây là đời sống mới trong Đức Thánh Linh, hình ảnh của Đức Chúa Trời bị làm hỏng trong sáng tạo cũ, giờ đây đã được thay đổi và chúng ta càng ngày càng trở nên giống Chúa Jesus Christ khi tiếp tục bước đi với Ngài. Khi chúng ta cùng nhau suy gẫm Lời Chúa, cầu nguyện, thờ phượng và phục vụ Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ kinh nghiệm “mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Ê-phê-sô 4:24; Tham khảo: Cô-lô-se 3:9; Rô-ma 8:29).

A-đam đầu tiên quản trị trong cõi sáng tạo cũ, nhưng ông ta cùng với vợ trở thành kẻ trộm cắp trái cây mà Chúa không cho phép (trộm cắp tức là lấy những gì không phải của mình), và bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen. Chúng ta cũng có hình ảnh ý nghĩa này: Trong giờ phút đau đớn chuẩn bị chết trên thập giá, A-đam sau cùng đã quay qua tên trộm cắp kế bên và tuyên phán: “Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (Lu-ca 23:43).

Chúa Jesus đã không còn ở trên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn đang sống, thực hiện công tác cứu chuộc tội nhân và tiếp nhận họ vào trong Ba-ra-đi. Cảm tạ Chúa về A-đam sau cùng!

 

Bài 4

Ê-VA

 

A-đam gọi vợ là Ê-va, Ê-va nghĩa là sự sống vì là mẹ của cả loài người.

(Sáng thế ký 3:20)

 

A-đam có nghĩa là bụi đất, và cái tên này đồng nhất ông với sự chết (Sáng 3:19). Nhưng tên gọi Ê-va đồng nhất với sự sống và cũng mang ý nghĩa đó. A-đam đặt tên vợ mình là Ê-va, hành động này như một thông báo đức tin của ông vào lời hứa của Đức Chúa Trời  là dòng dõi người nữ sẽ sống và giày đạp đầu con rắn (Sáng 3:15).

Trước khi A-đam đặt tên cho vợ, Đức Chúa Trời đã cảnh báo rằng ông và vợ sẽ chết vì tội không vâng lời (Sáng 3:19), nhưng A-đam tin rằng lời hứa về sự cứu rỗi sẽ đến vì vậy ông đặt tên cho vợ mình là “sống” đối lập với “chết”. Đức Chúa Trời chấp nhận đức tin của A-đam và Ngài đã “lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho” (Sáng 3:21) sau khi họ phạm tội.  Huyết của một con sinh đã đổ ra, nó bị giết để lấy da may thành áo cho vợ chồng A-đam. Đây là minh họa đầu tiên cho ân điển của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Kinh Thánh – huyết đã đổ ra cho sự tha tội loài người.  Sáng thế ký 3:15 cũng là lời tiên tri đầu tiên về Chúa Cứu Thế trong Kinh Thánh.

Rõ ràng là có nhiều ngụ ý về tên của Ê-va (nghĩa là sự sống).

Ê-VA ĐƯỢC TẠO NÊN TỪ SỰ SỐNG

Trong phần chú giải Sáng thế ký 2:21, Matthew Henry đã viết, “Người nam ra từ bụi đất đã qua tinh chế của Người Thợ Gốm thiên thượng, nhưng người nữ là bụi đất mà đã qua hai lần tinh chế.” Đức Chúa Trời tạo nên A-đam từ bụi đất, rồi sau đó Ngài “hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Sáng 2:7). Nhưng Ê-va được tạo dựng theo một cách khác: từ xương sườn của A-đam –  một phần của cơ thể sống, và Kinh Thánh không nói rằng Đức Chúa Trời phài hà sanh khí vào lỗ mũi của Ê-va! Chúng ta tự hỏi có phải chăng sứ đồ Giăng đã nhìn thấy lẽ thật này khi ông viết Giăng 19:31-37 đề cập đến sườn của Chúa Jesus trên thập tự giá. A-đam đã nói về vợ mình, “Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra.” (2:23) và sứ đồ Phao-lô cũng viết về bức tranh của Đấng Christ và Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh trong Ê-phê-sô 5:30-32. A-đam đầu tiên đã ngủ mê, rồi từ đó ra một cô dâu, nhưng A-đam sau cùng đã chết đau đớn trên thập tự giá để cho ra đời một Cô Dâu khác là Hội Thánh.

 

Ê-va đã được chia sẻ từ sự sống của A-đam, thì người tín hữu cũng được chia sẻ từ sự sống của Đấng Christ. “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3:36). Và “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài” (1 Giăng 5:11).

Ê-VA ĐƯỢC TẠO DỰNG ĐỂ CHIA SẺ SỰ SỐNG

Trước khi A-đam đặt tên cho vợ mình, ông đã đặt tên “cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó.  A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết” (2:19-20). A-đam lúc ấy đã không tìm thấy trong các loài động vật “một người giúp đỡ phù hợp”. Từ “giúp đỡ” ở đây không hàm ý rằng Đức Chúa Trời sẽ gởi đến cho A-đam một người đầy tớ. Câu Kinh Thánh này phải được hiểu là: Người giúp đỡ là người tương ứng, phù hợp và bình đẳng với A-đam để hỗ trợ ông trong công tác mà Chúa ủy thác. “Người giúp đỡ” trong văn cảnh này không mang nghĩa là một người thấp bé hơn hay ở vào một vị trí kém hơn. Từ này nếu được hiểu là “một đối tác” thì nghĩa của nó sẽ gần hơn với ý tưởng được nói ở đây. Friedich Nietzsche, triết gia theo chủ nghĩa hoài nghi đã viết, “phụ nữ là tạo vật ngớ ngẩn thứ hai của Tạo hóa”, nhưng rõ ràng F. Nietzsche đã sai lầm. Ê-va  là tặng phẩm tuyệt vời nhất mà Đức Chúa Trời dành cho A-đam, cũng là cho nhân loại và thế giới.

Khi Phi-e-rơ nói rằng người vợ là một cái “bình yếu đuối hơn” (Bản KT Tiếng Anh KJV dùng từ weaker vessel. Bản KT Tiếng Việt dịch là giống yếu đuối hơn), vị sứ đồ hàm ý rằng người chồng phải xem vợ mình như là một bình sứ xinh đẹp, dễ vỡ đắt tiền, phải tỏ ra nhẹ nhàng lịch sự với cô ấy trong mọi cách cư xử (1 Phi-e-rơ 3:7). Người vợ và chồng phải đánh giá đúng những điểm mạnh và yếu của nhau, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc theo chuẩn mực của Lời Chúa.

Matthew Henry đã chú giải Sáng thế ký 2:22, ông yêu cầu chúng ta lưu ý về cách Đức Chúa Trời tạo nên người nữ, “Chúa không lấy một phần nào trên đầu của A-đam để tạo nên Ê-va, nếu vậy Ê-va sẽ cai trị trên A-đam. Người nữ cũng không được tạo nên từ xương bàn chân của người nam, nếu vậy người nam sẽ giày đạp người nữ. Nhưng người nữ được tạo nên từ xương sườn của người nam – có nghĩa là người nữ bình đẳng với người nam, cái xương sườn này ở dưới cánh tay để được người nam bảo bệ, và ở gần trái tim để được yêu thương”.

Trong hôn nhân, người nam và người nữ cùng bổ túc, bù đắp cho nhau những thiếu hụt của mỗi người. Vì vậy họ cần sự chăm sóc và yêu thương từ hai phía. Không phải tất cả mọi người đều kết hôn (Ma-thi-ơ 19:11-12), nhưng ai đã kết hôn trong Chúa thì phải xem người phối ngẫu là một đối tác để yêu thương phục vụ. Hai người phải đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi trong những lúc vui hay buồn, thành công hay thất bại.

Khi một người nam và nữ kinh nghiệm đời sống chăn gối trong hôn nhân, họ trở nên “một thịt”. Sự hiệp nhất giữa vợ chồng trở nên sâu đậm trong mỗi lĩnh vực của đời sống khi họ cùng ăn ở với nhau và phục vụ người khác theo ơn Chúa gọi. Ý chỉ của Đức Chúa Trời là người nam và nữ phải tách ra khỏi cha mẹ để tạo lập một gia đình mới trong Chúa, họ phải thực hiện cam kết ràng buộc yêu thương nhau trọn đời sống. Đức Chúa Trời “dựng nên người nam cùng người nữ, ban phước cho họ, và trong ngày đã dựng nên, đặt tên là người” (Sáng 5:2). Mỗi khi A-đam suy nghĩ về tên của mình, ông liên tưởng đến sự chết, nhưng khi nhìn vào Ê-va ông nghĩ đến sự sống.

Martin Luther đã khôi hài gọi Catherine, vợ mình, “Kitty, xương sườn của anh”. Ông làm chứng rằng đời sống hôn nhân của ông và Catherine rất hạnh phúc. Ông nói thêm, “Tài sản lớn nhất trên đất của tôi là người vợ yêu quí này”.

Sứ đồ Phao-lô am hiểu rõ ràng câu chuyện sáng thế, ông viết trong 1 Cô-rin-tô 11:9, “Bởi chưng không phải đàn ông ra từ đàn bà, bèn là đàn bà ra từ đàn ông”, nhưng lời phát biểu này không hàm ý người nữ thấp kém hơn người nam về phương diện địa vị trước mặt Chúa. Tiến sĩ Dwight Hervey, một chuyên gia về hôn nhân Cơ đốc giải thích, “Một người nữ khiêm nhường sẽ nhận biết rằng nàng được tạo dựng để dành cho người nam, và vinh hiển cho nàng khi biết rằng một mình nàng là chưa đầy đủ nếu không có chàng. Cũng giống như vậy, một người nam khiêm nhường sẽ nhận biết rằng một mình anh ta thì không đầy đủ nếu chưa có nàng, nhưng vinh hiển cho người nam là nàng được tạo nên để dành cho anh.” (1).

Ê-VA ĐƯỢC TẠO DỰNG ĐỂ  NUÔI DƯỠNG SỰ SỐNG

Trải nghiệm đời sống chăn gối trong hôn nhân làm cho người nam và nữ trở nên “một thịt”. Họ là hai người ăn ở với nhau, người nữ thụ thai và họ sẽ có thêm người thứ ba và còn có thể có thêm nữa! Khuynh hướng của một số người ngày nay xem con cái là những trở ngại cho đời sống tự do phóng túng của họ. Tình dục – họ chấp nhận, nhưng sinh con cái họ nói: Không. Phá thai là phương pháp của con người để kiểm soát việc sinh sản. Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương các con trẻ và trước giả Thi thiên nhìn nhận chúng là: “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra; Bông trái của tử cung là phần thưởng” (Thi 127:3). Tử cung không bao giờ được thiết kế để trở nên một nơi gieo rắc sự chết hay cản trở sự sống, bởi vì nó là nơi mà Đức Chúa Trời cho phép một đứa bé được hình thành và Ngài thấy “thể chất vô hình” của nó (Thi 139:13-16). Đức Chúa Trời tôn trọng người nữ trong thiên chức nuôi dưỡng sự sống ngay khi sự sống này vừa mới bắt đầu. Trong giai đoạn đầu của việc sinh con, người nữ phải thụ thai hơn chín tháng, rồi sau đó tiếp tục nuôi dưỡng con trẻ cho đến khi nó dứt sữa. Cánh tay người mẹ bảo bọc, ôm chặt con mình, tập cho nó ăn, khích lệ vỗ về nó, đôi khi mỉm cười hay rơi nước mắt vì con trẻ…vân vân…Người mẹ là người nuôi dưỡng sự sống!

 

Bởi vì các Cơ đốc nhân đôi khi dùng những thuật ngữ về giống đực để chỉ các thân vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, nên một vài người xem chúng ta là những người “phân biệt đối xử theo giới tính” và họ xếp Kinh Thánh vào loại “sách phân biệt đối xử theo giới tính”. Nhưng Đức Chúa Trời là thần linh và Ngài không có thân thể vật lý giống như con người, Ngài không có giới tính.  Khi chúng ta nói về Chúa là “Cha thiên thượng”, chúng ta hàm ý đến chức vụ và hoạt động của Ngài, chứ không nói đến giới tính của Ngài. Còn Chúa Jesus thì khác, Ngài đã chịu thụ thai bởi quyền phép Đức Thánh Linh và nhập thế vào đời với cơ thể một bé trai, Ngài là A-đam sau cùng, Chúa của cõi sáng tạo mới. Giống như Cha thiên thượng, Đức Thánh Linh cũng không có giới tính, Ngài ngự bên trong những tín hữu nam và nữ.

Tuy nhiên, điều quan trọng mà chúng ta cần biết đó là: “Chức năng làm mẹ” là một trong những khía cạnh (aspect) thuộc về Đức Chúa Trời mà chúng ta không thể phủ nhận hay phớt lờ. Giống như một người mẹ, Đức Chúa Trời không thay đổi  tình yêu của Ngài dành cho con cái. Ngài phán, “Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi” (Ê-sai 49:15). Trong tinh thần của một người mẹ, Chúa cũng phán, “Ta sẽ yên ủi các ngươi như mẹ yên ủi con, và ấy là tại trong Giê-ru-sa-lem mà các ngươi sẽ được yên ủi” (Ê-sai 66:13). Trẻ con khi bị đau ốm, tổn thương, hay sợ hãi một điều gì đó….chúng nó thường gọi mẹ cầu cứu, mặc dù chúng nó biết rằng người cha cũng rất yêu thương chúng. Tại sao? Bởi vì sự an ủi của người mẹ là vô cùng đặc biệt.

Đức Chúa Trời hào phóng chia sẻ niềm vui của Ngài, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi: Ngài sẽ vui mừng cả thể vì cớ ngươi; vì lòng yêu thương mình, Ngài sẽ nín lặng; và vì cớ ngươi Ngài sẽ ca hát mừng rỡ” (Sô-phô-ni 3:17). Bạn có thể tưởng tượng là Chúa ôm chặt các con cái Ngài trong cánh tay toàn năng và ca hát vui mừng với chúng? Thật là một bức tranh tuyệt vời về “chức năng làm mẹ” của Đức Chúa Trời.

Giống như một người mẹ, Đức Chúa Trời không thay đổi mục đích của Ngài. Mục đích đó là gì? Chính là nuôi dưỡng, hướng dẫn con cái đến tuổi trưởng thành để chúng nó bước đi trong sự khiêm nhường, ý thức được trách nhiệm cá nhân với gia đình và xã hội. Trước giả Thi thiên đã viết, Hỡi Đức Giê-hô-va, lòng tôi không kiêu ngạo, Mắt tôi không tự cao, Tôi cũng không tìm tòi những việc lớn, Hoặc những việc cao kỳ quá cho tôi. Tôi đã làm cho linh hồn tôi êm dịu an tịnh, Như con trẻ dứt sữa bên mẹ mình; Linh hồn ở trong mình tôi cũng như con trẻ dứt sữa vậy” (Thi 131:1-2).

Chúng ta có thể không thích khi Đức Chúa Trời lấy đi trong tay chúng ta những đồ chơi rồi thay vào đó là những dụng cụ để làm việc, nhưng đó là qui luật của đời sống. Chúa có một chương trình tuyệt vời cho mỗi cuộc đời chúng ta, Ngài rất yêu thương chúng ta đến nỗi không cho phép chúng ta cứ ở mãi trong tình trạng non nớt chưa trưởng thành chỉ biết ham thích các đồ chơi.

Người cha có trách nhiệm bảo vệ, cung ứng những nhu cầu căn bản cho mọi người trong gia đình và đôi khi ông thi hành kỷ luật trên con cái. Người mẹ mang nặng đẻ đau con trẻ từ khi nó còn là một bào thai, và tiếp tục theo đuổi từng bước chân của con cho đến khi nó trưởng thành. Tình mẫu tử thiêng liêng vỗ về, chăm chút cho con không gì thay thế được. Cả hai người cha và mẹ phải ”bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh” (1 Ti-mô-thê 2:15) nếu họ muốn Đức Chúa Trời  ban phước trên thiên chức của người mẹ trong việc nuôi dưỡng con trẻ. Trong thời xưa sinh con không phải là một công việc dễ dàng, và nhiều bà mẹ phải chết vì điều này. Tại thành phố Ê-phê-sô, nơi Ti-mô-thê đang phục vụ Chúa, nhiều bà mẹ dâng hiến chính họ và con trẻ trong đền thờ của nữ thần Diana để cầu xin sự ban phước. Nhưng sứ đồ Phao-lô khích lệ các cặp cặp vợ chồng trong hội thánh phải tin cậy và tìm kiếm sự ban phước từ Đức Chúa Trời.

Ê-VA CÓ MỘT VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG VIỆC CHUYỂN TẢI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI CHO THẾ GIỚI

Đức Chúa Trời phán với Satan, “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người” (Sáng 3:15).

Đây là lời hứa đầu tiên về một Đấng Cứu Rỗi sẽ đến trên dòng dõi của Ê-va sau khi Lucifer chiến thắng vợ chồng A-đam trong vườn Ê-đen. Đó là bản “tuyên ngôn chiến tranh” từ Đức Chúa Trời đối với Satan, và cuối cùng sự chiến thắng thuộc về Đức Chúa Trời và dòng dõi người nữ. Con của Đức Chúa Trời đã đến trong hình dạng của con loài người, Ngài đã đến phục vụ con người trong tinh thần của một đầy tớ, và cuối cùng Ngài đã vâng phục Đức Chúa Trời chịu chết trên thập tự giá hoàn thành chương trình cứu chuộc. Satan bị đánh bại tại thập tự giá của Đấng Christ. “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật”

(Giăng 1:14).  “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra” (Ga-la-ti 4:4).

Đấng Christ được sinh ra từ một người nữ!

Sáng thế ký 3:15 thông báo rằng Đấng Cứu Rỗi sẽ đến dưới hình dạng một con người từ dòng dõi người nữ. Ngài không phải là một thiên sứ. Sáng thế ký 12:1-3 bày tỏ Đấng Cứu Rỗi là một người thuộc tuyển dân Israel, không phải là người ngoại bang. Và Sáng thế ký 49:10 cho biết rằng Ngài đến từ chi phái Giu-đa. Đức Chúa Trời cũng phán với Đa-vít rằng Chúa Cứu thế sẽ ra từ gia đình ông (2 Sa-mu-ên 7), và tiên tri Mi-chê đề cập đến Bết-lê-hem là “thành của Đa-vít” hàm ý nơi mà Cứu Chúa sẽ được sinh ra. Lời tiên tri trong Ê-sai 7:14 bày tỏ một người nữ đồng trinh sẽ sinh ra một bé trai là Em-ma-nu-ên. Lu-ca 1: 26-56 ghi lại câu chuyện của Ma-ri, một nữ đồng trinh được chọn để sinh ra Cứu Chúa nhận được tin báo tốt lành từ thiên sứ Gáp-ri-ên.

A-đam được tạo dựng đầu tiên từ bụi đất. Ê-va được tạo dựng từ xương sườn của A-đam. Còn tất cả chúng ta được sinh ra theo cách thông thường từ cha mẹ. Tuy nhiên Cứu Chúa Jesus sinh ra từ một người nữ (từ dòng dõi của Ê-va) bởi quyền phép siêu nhiên của Đức Thánh Linh, không có yếu tố người nam trong câu chuyện giáng sinh này. Không có người nam nào tham gia trong quá trình thụ thai của Ma-ri. Ma-ri khiêm nhường dành sự tôn vinh chúc tụng cho Đức Chúa Trời trong sự kiện có một không hai này. Và sau cùng thiên sứ Gáp-ri-ên đã nói với nàng: “Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao” (Lu-ca 1:32).

Mỗi người chồng đều gọi tên vợ mình theo một nghĩa nào đó (dù nói ra hay không).

Phước hạnh thay cho những đôi vợ chồng trong Chúa, mà ở đó người chồng gọi vợ là “Sự Sống”.

 

Bài 5

CA-IN

“Chớ làm như Ca-in, là kẻ thuộc về ma quỉ…” 1 Giăng 3:12

A-đam và Ê-va bị đuổi vĩnh viễn ra khỏi vườn Ê-đen, và tiếp tục cuộc sống hôn nhân bên ngoài. Đức Chúa Trời ban phước cho hôn nhân của họ? Khi suy nghĩ về tình trạng hôn nhân hiện hay của xã hội phương tây, chúng ta thật khó khăn để tin rằng câu chuyện hôn nhân đã từng được bắt đầu trong vườn địa đàng. Nhưng đó là sự thật. Đức Chúa Trời là chủ cho lễ hôn nhân đầu tiên khi Ngài mang Ê-va đến với A-đam. A-đam sau giấc ngủ mê đã khám phá một người nữ được đưa tới cùng ông, ông hát bài ca cho tình yêu đầu tiên và bước vào đời sống hôn nhân.

Sau đó vì tội không vâng lời, A-đam và Ê-va đã đánh mất uy quyền quản trị mà Chúa ủy thác. Bi kịch bắt đầu từ đây. Nhưng họ vẫn còn một lời hứa về một Đấng Cứu Rỗi sẽ được sinh ra và phục hồi mọi thứ mà họ đã  đánh mất. Lời hứa này sẽ được hoàn thành trong Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 2:6-9). A-đam và Ê-va nghĩ rằng đứa con đầu tiên của họ sẽ làm trọn lời hứa trên? Nếu có suy nghĩ đó, họ đã sai vì Ca-in đã đi vào con đường lầm lạc.

MỘT TẶNG PHẨM TỪ CHÚA

Mặc dù phải sống bên ngoài vườn Ê-đen, A-đam và Ê-va vẫn được Đức Chúa Trời ban phước trên hôn nhân của họ, họ sẽ sản sinh ra những con cái. Vợ chồng A-đam ăn ở với nhau, và Chúa ban cho Ê-va thụ thai. Kinh Thánh không ghi lại những cảm xúc và trải nghiệm của Ê-va khi mang thai, nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời dạy cho người nữ đầu tiên này những bài học căn bản mà nàng cần phải biết trong suốt quá trình thụ thai, sinh con và nuôi dưỡng nó. A-đam và vợ trải nghiệm đời sống hôn nhân, họ đã chia sẻ công việc sáng tạo với Đức Chúa Trời khi cho ra đời đứa con đầu tiên, Ê-va nói rằng: “Nhờ Đức Giê-hô-va giúp đỡ, tôi mới sanh được một người” (Sáng 4:1). Ê-va đã dâng vinh hiển cho Chúa khi nàng nói như thế. Ê-va đặt tên con là Ca-in có nghĩa là “kiếm được” hay “giành được”.

Từ buổi bình minh của đời sống hôn nhân gia đình, Kinh Thánh đã dạy rõ ràng rằng con cái là tặng phẩm đến từ Chúa, nó là niềm vui của cha mẹ chứ không phải là gánh nặng. Chúng ta nhớ trường hợp của Ra-chên khi cô nói chuyện với chồng, “Hãy cho tôi có con, bằng không, tôi chết”. Gia-cốp đã hỏi lại vợ mình, “Há ta được thay quyền Đức Giê-hô-va, mà không cho ngươi sanh sản sao?” (Sáng 30:1-2). Gia-cốp hiểu rằng con người có thể tiến hành  giao phối cho việc thụ tinh trong hôn nhân, nhưng sự thụ thai thực sự đến từ cánh tay toàn năng của Đức Chúa Trời (Thi thiên 139:13-18). Khi con người từ chối một em bé đã hình thành trong bụng mẹ là từ chối một tặng phẩm của Đức Chúa Trời. Cũng vậy, khi con người thực hiện hành động phá thai là can thiệp vào phép lạ của Đức Chúa Trời trong việc thụ thai. Trong Sáng thế ký chương 33, Ê-sau nhìn thấy một nhóm người đang ở chung quanh Gia-cốp, ông hỏi em trai, “Các người mà em có đó là ai?” Gia-cốp trả lời, “Ấy là con cái mà Đức Chúa Trời đã cho kẻ tôi tớ anh” (câu 5). Nhiều năm sau đó, khi   Gia-cốp “nhìn  thấy các con trai Giô-sép, bèn hỏi rằng: Những đứa nầy là ai?  Giô-sép thưa rằng: Ấy là những con trai của con mà Đức Chúa Trời đã cho tại xứ nầy” (Sáng 48:8-9). Con cái thực ra là “cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra” (Thi 127:3).

Ca-in và A-bên là những món quà mà Đức Chúa Trời gởi đến cho vợ chồng A-đam.  Con cái là những tặng phẩm quí giá của Chúa ban cho chúng ta, và khi cha mẹ “dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó” (Ê-phê-sô 6:4) khác nào con cái được dâng trở lại cho Đức Chúa Trời. Không may là Ca-in và A-bên khác biệt trong tố chất và phẩm cách, và những điều xảy ra sau đó là bài học cho chúng ta hôm nay.

KẺ THUỘC VỀ MA QUỈ

Chớ làm như Ca-in, là kẻ thuộc về ma quỉ, đã giết em mình (1 Giăng 3:12; Sáng 4). Khi chúng ta suy nghĩ cẩn thận về công việc của Lucifer, chúng ta biết nó là một “kẻ giả mạo”, nó dẫn đắt người ta trở thành những con cái của nó (1 Giăng 3:10). Trong chuyện ngụ ngôn về cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:24-30, 36-43), Chúa Jesus đã dạy rằng con cái Đức Chúa Trời là những tín hữu thật giống như những hạt giống lúa tốt mà Chúa đã gieo trồng trong những nơi khác nhau để sinh ra kết quả. Nhưng bất cứ ở đâu khi Chúa gieo trồng những hạt giống của Ngài, thì ma quỉ cũng đến và gieo trồng hạt giống cỏ lùng của nó. Cả hai loại hạt giống này cùng phát triển và rất khó để tách biệt ra. Nói một cách khác, có những người trên thế giới này là những Cơ đốc nhân giả mạo – và có thể họ cũng nghĩ họ là Cơ đốc nhân thật sự, nhưng rồi đến ngày phán xét cuối cùng, họ bị Chúa Jesus từ chối. Chúa phán về điều này:

Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi.  Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?  Khi ấy, ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!” (Ma-thi-ơ 7:21-23).

Khi  Giăng Báp-tít là hạt giống tốt được Đức Chúa Trời “gieo trồng”  bên bờ sông Giô-đanh, thì những người Pha-ri-si và Sa-đu-sê kéo đến. Giăng gọi họ là “dòng dõi rắn lục”, con cái của ma quỉ. Chúa Jesus cũng xác nhận lại cụm từ này khi Ngài nói về người Pha-ri-si (Ma-thi-ơ 12:34; 23:33), Chúa phán thẳng thừng, “Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra” (Giăng 8:44). Chúa Jesus và Giăng đã không dùng những cụm từ này khi nói đến những người thâu thuế hay kỵ nữ đương thời. Chúa Jesus và Giăng chỉ dùng nó khi nói đến tầng lớp lãnh đạo trong tôn giáo tự mãn về nếp sống công bình riêng mà từ chối sự công bình của Đức Chúa Trời. Những người này mang tinh thần của Lucifer “ta sẽ làm ra mình bằng Đấng Rất cao”. Ngày nay nhiều người trong các nhà thờ rất lịch sự, chỉnh tề theo cách bề ngoài, họ giả mạo là Cơ đốc nhân tự lập sự công bình riêng của mình và khước từ sự công bình của Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:1-4). Ca-in và A-bên cùng lớn lên trong một gia đình, được cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục giống nhau, nhưng hai tính cách của họ đối kháng nhau. Ca-in làm nghề nông và lấy nông sản dâng lên trước bàn thờ Đức Chúa Trời, nhưng Ngài từ chối của dâng này vì nó không được dâng lên bởi đức tin. Điều khác biệt giữa Ca-in và A-bên là đức tin. Mỗi người đều dâng lên thành quả lao động của mình, nhưng của lễ của A-bên được Chúa chấp nhận vì ông đang thực hành đức tin. “Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình” (Hê-bơ-rơ 11:4). Tấm lòng của Ca-in không ngay thẳng với Đức Chúa Trời và em trai của mình. Tấm lòng ấy chứa đầy đố kỵ và giận dữ, điều đó tạo cơ hội cho tội lỗi “rình đợi trước cửa” (Sáng 4:6-7). Ma quỉ đứng bên ngoài chờ đợi để được mời vào. Ca-in đã đóng cánh cửa lòng của mình đối với Đức Chúa Trời và người em trai, nhưng ông lại mở ra cho ma quỉ, và rồi cơn giận bên trong  khiến ông thành kẻ giết người (Ma-thi-ơ 5:21-26). Khi Đức Chúa Trời hỏi Ca-in về sự vắng mặt của người em trai, ông đã phủ nhận  là không biết chỗ ở của A-bên. Giống như cha mình là Satan, Ca-in đã nói dối và giết người (Giăng 8:44). Ca-in có vẻ “bề ngoài giữ điều nhân đức” (2 Ti-mô-thê 3:5) nhưng ông ta không có sự công bình thật đến bởi đức tin. Ca-in là một kẻ giả mạo.

Kinh Thánh nói đến “đường của Ca-in” (Giu-đe 11). Đó là con đường của kẻ không có đức tin, tìm cách lập sự công bình riêng và mang một chiếc áo tôn giáo. Đó cũng là con đường của Satan, kẻ đã theo đuổi ý tưởng “ta sẽ làm ra mình bằng Đấng rất cao”. Đó là con đường của sự tự cao dẫn đến sự chết đời đời. Cho dù là như vậy, nhưng con đường của Ca-in lại trở nên phổ biến và nhiều người đang đi theo. Tại sao? Chúng ta thử xem xét vấn đề này.

NGƯỜI XÂY DỰNG THÀNH PHỐ.

Khi Ca-in giết A-bên, ông ta thực sự đã tấn công Đức Chúa Trời, bởi vì A-bên là hình ảnh của Ngài. Qua thực trạng này, Ca-in đã hành động như một kẻ gian ác. “Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại; vì Đức Chúa Trời làm nên người như hình của Ngài” (Sáng 9:6). Thay vì lấy mạng sống của Ca-in, Đức Chúa Trời làm cho ông sống cũng như chết, Ca-in trở thành kẻ bơ vơ, lang thang trên mặt đất. Ca-in không bao giờ ăn năn về tội lỗi của mình, ông chỉ lằm bằm về nỗi khổ bị trừng phạt đang gánh chịu. Cái chết không đến với Ca-in sau khi ông phạm tội. Để bảo đảm là Ca-in sẽ không bị người khác giết chết, Đức Chúa Trời đã đánh dấu trên người ông theo một cách đặc biệt, nhưng Ca-in sẽ sống phần đời còn lại trong hổ nhục và tội lỗi.

Ca-in chạy trốn khỏi hiện diện của Đức Chúa Trời, ông lang thang về phía đông của vườn Ê-đen, tại đó ông xây dựng một thành phố và cố gắng quên đi quá khứ. Vì hành động giết người của Ca-in, Đức Chúa Trời đã rủa sả đất canh tác (Sáng 4:10-12), Ca-in thôi không theo đuổi nghề nông nữa, ông chuyển sang xây dựng một thành phố. Ca-in trở thành người đặt nền tảng cho “thế gian” – theo cách nói của Kinh Thánh. Trong thành phố đó Ca-in tìm thấy những điều thay thế cho sự ban phước mà ông đã đánh mất vì cớ tội lỗi. Dòng dõi của Ca-in tiếp tục xây dựng những thành phố khác, họ sáng chế ra các nhạc cụ và rèn “các thứ khí giới bén bằng đồng và bằng sắt”. Kế hoạch ban đầu của Đức Chúa Trời dành cho hôn nhân con người đã bị phá vỡ và tình trạng bạo lực giữa con người với nhau bắt đầu xuất hiện (Sáng 4:16-24).

Các thành phố, nhạc cụ và âm nhạc, các thứ vũ khí… không có gì sai, nhưng khi con người để Đức Chúa Trời ra bên ngoài bức tranh toàn cảnh của mình thì đó là một thảm họa. Nhưng đây lại là chính xác những gì dòng dõi Ca-in đã làm. Nền văn minh mà Ca-in đã xây dựng rơi vào tình trạng bạo lực và đầy tội lỗi. Đã đến lúc Đức Chúa Trời phải ra tay làm sạch lại thế giới này qua trận đại hồng thủy (Sáng 6:1-13).

Ca-in là một kẻ giả mạo, và từ cuộc đời ông đã sản sinh ra những đứa con trai và con gái nối tiếp bước chân ông. Khi chúng ta so sánh những cái tên của hậu tự Ca-in (Sáng 4:16-18) với hậu tự của Sết là người thay chỗ của A-bên (Sáng 5), chúng ta thấy có vài điều tương tự lý thú. Hê-nóc/Ê-nót/Hê-nóc (4:7; 5:6, 18). Mê-hu-da-ên/Ma-ha-la-le (4:18; 5:12). Mê-hu-da-ên/Mê-tu-sê-la (4:18; 5:21) và Lê-méc/ Lê-méc (4:18; 5:25). Nhưng dòng dõi của Sết dẫn đến Nô-ê là người công bình đã được cứu cùng với gia đình của ông trong trận đại hồng thủy. Hê-nóc dòng dõi của Ca-in trùng tên với Hê-nóc, hậu tự của Sết, nhưng ông ta không bước đi cùng Đức Chúa Trời giống như Hê-nóc là hậu tự của Sết (Sáng 5:22-24).

Dòng dõi gian ác của Ca-in và dòng dõi tin kính của Sết càng ngày càng trở nên gần nhau, chẳng bao lâu sau đó họ kết hợp cùng nhau (Sáng 6:1-2), và rồi Nô-ê cùng với gia đình của ông được kể là những người công chính mà Đức Chúa Trời tìm thấy lúc bấy giờ. Đức Chúa Trời quyết định quét sạch khỏi mặt đất nền văn minh của Ca-in xây dựng và bắt đầu trở lại với gia đình Nô-ê. Mặc dù vậy, sau sự kiện đại hồng thủy tấm lòng của con người trên đất vẫn tiếp tục băng hoại. Nim-rốt đã khôi phục nền văn minh của Ca-in và xây dựng đế chế Ba-by-lôn (Sáng 18:8-10). Tháp Ba-bên (Sáng 11) là một dự án thách thức Đức Chúa Trời và Ngài phải ra tay khiến cho nó bị dừng lại nửa chừng. Tháp Ba-bên là biểu tượng của xã hội con người loại bỏ Đức Chúa Trời ra ngoài và cố gắng thay thế Ngài bằng sự vinh hiển loài người. Ba-by-lôn lớn là biểu tượng dâm đãng gớm ghiếc trong Khải huyền 17 – 18, nó tương phản với Cô dâu thánh khiết tinh sạch là Hội thánh.

Tất cả các tín hữu chân thật là cư dân của thiên đàng (Lu-ca 10:20; Phi-líp 3:19-20), những người này không thuộc về thế gian mà dòng dõi của Ca-in có thể lôi kéo (Giăng 17:14-17). Chúa Jesus phán trong Lu-ca 16:8, “Vì con đời nầy trong việc thông công với người đồng đời mình thì khôn khéo hơn con sáng láng.” Các con cái của đời này (thuộc dòng dõi Ca-in) biết cách kiếm tiền và giành được “sự thành công” theo cách nhìn của thế gian. Nhưng họ không thể nhìn xa hơn vào cõi đời đời, do đó không thể có sự thỏa lòng thực sự. Những vui hưởng thế gian của họ không bù đắp được sự thiếu hụt bên trong. Ba-by-lôn và hệ thống thế gian của nó cuối cùng sẽ kết thúc. Kinh Thánh nói gì về thực trạng này?

“Ba-by-lôn lớn đã đổ rồi, đã đổ rồi!”

Khải 18:2

“Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.”

1 Giăng 2:17

Bài 6

A-BÊN

“Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình.”

Hêb. 11:4

Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì chúng ta hay người khác đánh giá về chính mình, nhưng là Đức Chúa Trời đánh giá chúng ta. Chúa là vị thẩm phán công minh có uy quyền tối hậu, khi Ngài xem xét và đánh giá tất cả những động cơ, lời nói của chúng ta. Ngài phán với tiên tri Sa-mu-ên, “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (1 Sam. 16:7).

Theo cách nhìn của con người, cả hai anh em A-bên và Ca-in, đều là những người con tốt, làm việc chăm chỉ và có nếp sống thực hành tôn giáo. Tuy nhiên theo nhãn quan của Đức Chúa Trời, tấm lòng Ca-in thuộc về ma quỉ, trong khi tấm lòng của A-bên thuộc về Chúa.

Đức Chúa Trời đánh giá A-bên là công bình qua đức tin của ông. Nếu chúng ta muốn được Chúa chấp nhận, chúng ta phải học bài học quí báu này.

SỰ CÔNG BÌNH ĐẾN BỞI ĐỨC TIN

“Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình, vì Đức Chúa Trời làm chứng về người rằng Ngài nhậm lễ vật ấy” (Hêb.11:4). Đối tượng mà đức tin nhắm đến sẽ quyết định đức tin ấy có hiệu quả hay không. A-bên đã xác định đối tượng của đức tin là chính Đức Chúa Trời. Trước đó A-đam và Ê-va đã học biết rằng họ không thể nào lấy lá cây vả để che phủ thân thể tội lỗi của họ, đó chỉ là nỗ lực cá nhân. Sau khi vợ chồng A-đam phạm tội, Đức Chúa Trời đã giết một con chiên, Ngài lột da nó kết thành áo dài cho A-đam và Ê-va. Huyết vô tội đã phải đổ ra, và đó là chiếc áo công bình của Đức Chúa Trời mặc cho tổ phụ loài người (Sáng. 3:7; 21). Bằng một phương cách khó giải thích, A-bên đã học được bài học từ cha mẹ của mình, ông quyết định tin vào những lời phán dạy của Đức Chúa Trời. A-bên được cứu bởi đức tin và ông mặc lấy sự công bình của Đức Chúa Trời.

Sự công bình của Đức Chúa Trời được tiếp nhận bởi đức tin là lẽ thật căn bản được tìm thấy xuyên suốt kinh Thánh, bởi vì đây là con đường duy nhất mà qua đó Chúa cứu chuộc chúng ta.

“Áp-ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng 15:6). Đa-vít cũng viết trong Thi thiên, “Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình,
Được khỏa lấp tội lỗi mình!
 Phước thay cho người nào Đức Giê-hô-va không kể gian ác cho,
Và trong lòng không có sự giả dối!” (Thi 32:1-2). Sứ đồ Phao-lô đã trưng dẫn Sáng 15:6 và Thi 32:1-2 trong chương bốn của thư tín Rô-ma để giải thích lẽ thật kỳ diệu vể sự xưng công bình bởi đức tin thông qua Chúa Jesus Christ. Trước đó tiên tri Ha-ba-cúc đã tuyên bố một lời gồm bảy từ mạnh mẽ, “Người công bình sống bởi đức tin” (Ha-ba-cúc 2:4). Câu này được trưng dẫn lần nữa trong Rô-ma 1:17, Ga-la-ti 3:11 và Hê-bơ-rơ 10:37-38.

Đức Chúa Trời chấp nhận đức tin của A-bên  bởi vì ông đã dâng một của lễ đúng nghĩa. Phao-lô đã giải thích rõ ràng điều này trong Rô-ma 5:9, “nay chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình”. Sự xưng công bình không đơn giản là Đức Chúa Trời nhanh chóng lau sạch hồ sơ tội lỗi của con người chúng ta một cách vô điều kiện. Trước đó Đức Chúa Trời đã cảnh báo tổ phụ loài người là họ sẽ chết nếu bất tuân mạng lệnh của Ngài, vì vậy sự xưng công bình là vấn đề của  sự sống và sự chết. Chúa Jesus đã mang lấy tội lỗi của chúng ta khi Ngài chết trên thập tự giá, và khi chúng ta đặt đức tin vào Ngài chúng ta được mặc lấy sự công bình của Ngài. Sự xưng công bình cần phải có một giá để trả. Chúa Jesus đã trả giá đó thay cho chúng ta.

SỰ CÔNG BÌNH DẪN ĐẾN NHÂN CÁCH TỐT VÀ VIỆC LÀM TỐT

Sự công bình riêng sai trật của Ca-in được che đậy trong chiếc áo của những hoạt động tôn giáo. Người có động cơ không chính đáng có thể đến bàn thờ dâng của lễ, rồi sau đó quay lưng đi ra giết anh em mình, nhưng người tín hữu chân thật thì để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh  em trước đã rồi mới đến dâng của lễ (Ma-thi-ơ 5:23-24). A-bên đã kinh nghiệm sự thay đổi bên trong bởi đức tin, và kết quả của điều này là ông có được một nhân cách tốt và việc làm tốt. Còn Ca-in đã để cho sự lừa dối cai trị, hệ quả của nó là ông sống trong sự giả hình, trong khi đó A-bên kinh nghiệm “ân điển cai trị bởi sự công bình” (Rô-ma 5:21).

Tại sao Ca-in giết em trai của mình? “Bởi việc làm của Ca-in là dữ, còn việc làm của em người là công bình” (1 Giăng 3:12). Chúng ta không biết dấu hiệu nào cho biết  Đức Chúa Trời chấp nhận của lễ từ A-bên dâng lên, có lẽ lửa đến từ thiên đàng thiêu đốt của lễ hay là Chúa đã phán rõ ràng trong sự kiện này? Danh từ  số nhiều “offerings” trong Hê-bơ-rơ 11:4 có thể hàm ý rằng mỗi lần A-bên dâng của lễ tại bàn thờ ông được sự chấp nhận từ thiên thượng, và Ca-in có lẽ đã ghi nhận điều này vì thế ông càng trở nên giận dữ và phẫn uất. “By faith Abel brought God a better offering than Cain did. By faith he was commended as righteous, when God spoke well of his offerings. And by faith Abel still speaks, even though he is dead” (Hêb. 11:4).

Thật là một điều đáng thương cho Ca-in, khi ông đến thờ phượng Đức Chúa Trời rồi ra về với một tấm lòng nung đốt những ý tưởng giết người!

Bạn có thể đặt câu hỏi cho Ca-in, bạn sẽ khám phá là thần học của ông nghe có vẻ hợp lý. Ca-in tin vào Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo mọi điều. Ông tin rẳng Đức Chúa Trời mong đợi sự thờ phượng và lời tạ ơn từ con người. Ca-in cho rằng cả ông và người em trai đều làm việc chăm chỉ để chia sẻ gánh nặng trong gia đình và giống nhau trước mặt Chúa. Nhưng ma quỉ cũng tin có một Đức Chúa Trời, tuy nhiên chúng nó run sợ và không được cứu (Gia-cơ 2:19). Trong sự kiện này có một vài điều Ca-in đã không làm theo ý Chúa. Đó là lý do mà sứ đồ Gia-cơ nói, “xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy” (Gia-cơ 2:26).

Đức tin chết là đức tin lừa dối, nhưng nó không thể lừa dối Đức Chúa Trời. Đức tin thật nhận được sự cứu rỗi khiến cho người tín hữu trở nên một tạo vật mới. Người đó trao quyền cai trị đời sống cho một ông chủ mới, anh (chị) ta có những ưu tiên mới trong cuộc sống, anh ta có những động cơ và tình cảm mới với Đức Chúa Trời và những người chung quanh. Đức Chúa Jesus gọi A-bên là “người công bình” (Ma-thi-ơ 23:35), và sứ đồ Giăng cũng xác định hành động của A-bên được kể là công bình. Trong nhân cách và hành vi A-bên đã bày tỏ ông là người công bình.

SỰ CÔNG BÌNH DẪN ĐẾN LỜI CHỨNG TỐT

Sự công bình của A-bên không chỉ được tìm thấy trong đời sống và sự thờ phượng nhưng cũng trong sự chết của ông. A-bên đã bị giết chết bởi vì sự trung tín của ông trong hành động thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời. Ông đã bị giết bởi một thành viên trong gia đình (Ma-thi-ơ 10:36). Ca-in là người con trai đầu lòng, nhưng Đức Chúa Trời đã bỏ qua Ca-in để chọn người em trai của ông làm hình bóng thực hiện lời hứa về Đấng cứu chuộc. Đây là hành động Chúa vẫn thường làm trong lịch sử tuyển dân. Trong Sáng thế ký 17:17-20, Đức Chúa Trời đã từ chối Ích-ma-ên, con đầu lòng của Áp-ra-ham mà chọn Y-sác. Và rồi sau đó Ngài cũng bỏ qua Ê-sau, con đầu lòng của Y-sác để ban ân huệ cho Gia-cốp. Gia-cốp đã đổi chỗ của Ru-bên là con trai đầu của ông với Lê-a mà chọn Giô-sép là con trai của ông với Ra-chên (Sáng 49:1-4). Sau đó Gia-cốp cũng đã chọn Ép-ra-im là đứa cháu nhỏ hơn thay vì Ma-na-se để chúc phước lành (Sáng 48:15-50). Thông điệp nào được đưa ra từ những câu chuyện này? Đức Chúa Trời từ chối đứa con đầu lòng, vì vậy chúng ta cần đứa con thứ hai được sinh ra từ thiên thượng (Giăng 3:3-7), nếu chúng ta  muốn vui hưởng sự ban phước của Đức Chúa Trời. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài đã chọn những điều thấp kém để làm cho nó trở nên cao trọng (1 Cô-rin-tô 1:26-31).

Ca-in cố gắng che đậy tội lỗi kinh khủng của mình, nhưng tiếng của máu người em trai từ dưới đất kêu thấu đến Đức Chúa Trời. Điều này minh chứng Ca-in là kẻ đã ra tay với em mình (Sáng 4:9-12).

Trong Tiếng Anh, từ “người tuận đạo – martyr” có nguồn gốc từ một từ Hy lạp là “chứng nhân – witness”. Người tuận đạo là người phó dâng mạng sống mình để trở thành chứng nhân cho Đức Chúa Trời. A-bên là một chứng nhân – tuận đạo cho Chúa. Ông là người tuận đạo đầu tiên được Kinh Thánh ghi lại.

A-bên có nghĩa là “hư không” hay “không có ý nghĩa.” Nó tương tự như từ ngữ mà Sa-lô-môn đã sử dụng trong sách Truyền đạo ít nhất  ba mươi tám lần. Một trong những giáo sư Đại học của tôi đã giải thích từ A-bên có nghĩa là: “những gì còn lại sau khi bong bóng xà phòng tan vỡ.” Tại sao A-đam và Ê-va đã chọn tên đó để đặt cho đứa con trai thứ hai của họ vẫn còn là một huyền nhiệm? Có lẽ đời sống của họ sau khi rời khỏi vườn Ê-đen đã trở nên vô nghĩa trong một thế giới gian ác, vì vậy họ đặt tên cho con trai mình như thế?

Nhưng sự sống và cái chết của A-bên thì không vô nghĩa hay trở thành một thảm kịch, vì A-bên đã được liên hiệp với Chúa Jesus Christ. Là những tín hữu, chúng ta đến “gần Đức Chúa Jêsus, là Đấng trung bảo của giao ước mới, và gần huyết rưới ra, huyết đó nói tốt hơn huyết của A-bên vậy.” (Hêb. 12:24). Trong khi huyết của A-bên từ dưới đất kêu vang tới Đức Chúa Trời thì huyết của Chúa Jesus bày tỏ lòng thương xót và sự tha thứ từ thiên đàng. Bởi vì Chúa Jesus  “đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời” (Hêb. 9:12). A-bên đã chết như một người tuận đạo nhưng Chúa Jesus đã chết như một người chiến thắng và sống lại trở về trời trong vinh hiển.

Ao ước cháy bỏng của sứ đồ Phao-lô là Đấng Christ được tôn vinh trong thân thể ông: “dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi” (Phil 1:20). Và đó là những gì mà vị sứ đồ viết cho chúng ta trong 1 Cô-rin-tô 15 đề cập đến sự phục sinh kỳ diệu. Và đến câu cuối của chương 15, ông kết luận: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1 Côr. 15:58).

“Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không.” Vua Sa-lô-môn đã viết như thế trong phần mở đầu của sách Truyền đạo. Đời sống là A-bên (hư không) từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc?

Không phải như vậy! Sứ đồ Phao-lô nói, “công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” khi anh em phục vụ Chúa.

Đấng Christ đã phục sinh trong vinh hiển. A-bên đã được bào chữa là công bình trước mặt Chúa.

 

 

Bài 7

NÔ-Ê

“Nô-ê làm các điều nầy y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn.”   (Sáng 6:22)

Làm mọi điều theo như chỉ thị của Đức Chúa Trời không phải là một việc làm dễ dàng khi mà thế giới chung quanh chúng ta đang chuyển hướng nhanh chóng tới những điều gian ác. Tuy nhiên có ít nhất là bốn lần Kinh Thánh ghi lại trường hợp của Nô-ê đã làm mọi điều y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn (Sáng 6:22; 7:5, 9, 16).

Thân phụ của Nô-ê là Lê-méc, một hậu tự của Sết. Ông ta dễ bị nhầm lẫn với Ca-in Lê-méc là người có hai vợ và là kẻ giết người (Sáng 4:19-24). Lê-méc có con trai là Nô-ê khi ông đã 182 tuổi. Lê-méc làm nghề nông, ông cố gắng thu hoạch nông sản từ đất mà Đức Giê-hô-va đã rủa sả, và đó là lý do ông đặt tên cho con trai mình là Nô-ê – có nghĩa  yên nghỉ  hay an ủi (Sáng 5:8-29). Lê-méc nói về Nô-ê, “Đứa nầy sẽ an ủi lòng ta về công việc và về sự nhọc nhằn mà đất bắt tay ta phải làm”, nhưng ông không giải thích bằng cách nào mà Nô-ê có thể làm được điều đó. Lê-méc nhớ lời hứa của Đức Chúa Trời về một Đấng Cứu Rỗi sẽ đến chiến thắng ma quỉ và cất bỏ sự rủa sả (Sáng 3:14-15). Và có thể ông ta đặt kỳ vọng vào Nô-ê sẽ hoàn thành lời hứa đó của Đức Chúa Trời.

Dĩ nhiên Lê-méc đã không suy nghĩ hoàn toàn đúng, nhưng ông đang hướng đến một cứu cánh. Ở đây có những điểm tương đồng giữa Chúa Jesus và Nô-ê. Nô-ê là một người đóng tàu (xây dựng) và giảng đạo. Chúa Jesus cũng là người xây dựng những giá trị căn bản và giảng đạo. Khi Chúa Jesus khởi sự chức vụ của Ngài với công chúng, mọi người gọi Ngài là người thợ mộc (Mác 6:1-3), vì Ngài đã từng phụ giúp cho cha nuôi bảo dưỡng Giô-sép trong xưởng mộc suốt một thời gian dài cho tới khi bước ra thi hành chức vụ. Sứ đồ Phi-e-rơ đã nối kết Nô-ê và trận đại hồng thủy với công tác Đấng Christ (1 Phi-e-rơ 3:18-22). Nước lụt và những gì xảy ra trong thời Nô-ê mang một ý nghĩa hình bóng. Khi nước lụt đến, sự cứu hộ duy nhất có sẵn trong chiếc tàu của Nô-ê. Và hôm nay sự cứu rỗi duy nhất có sẵn trong Đấng Christ. Sứ đồ Phi-e-rơ cũng tuyên bố điều này trong sách Công vụ 4:12.

 

NÔ-Ê BƯỚC ĐI VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI

Cũng giống như Hê-nóc trước đó, Nô-ê đồng đi cùng Đức Chúa Trời (Sáng 5:22; 6:9). Ông là một người công bình trước mặt Chúa và không có điều chi đáng chê trách với những người chung quanh. Sự công bình của ông được Đức Chúa Trời xác nhận vì ông được ơn trước mặt Chúa và tin cậy vào lời hứa của Ngài. Nô-ê và gia đình của ông được cứu bởi ân điển – giống như chúng ta ngày hôm nay (Sáng 6:8) nhờ vào đức tin nơi Chúa Jesus Christ (Êph. 2:8-9; Hêb. 11:7). Các thành viên trong gia đình của Nô-ê đồng thuận với ông trong cả đức tin và việc làm. “Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?” (A-mốt 3:3). Tất cả mọi người trong gia đình Nô-ê đồng thuận với Chúa, vì vậy họ cùng bước đi với Ngài.

Khi chúng ta nhìn vào tình trạng gian ác của thế giới ngày hôm nay, chúng ta hiểu được những khó khăn mà gia đình Nô-ê phải chịu đựng khi họ kiên trì bước đi với Đức Chúa Trời. Người công chính vui hưởng sự bình an với Chúa nhưng họ phải chịu đựng những khó khăn từ phía những người vô tín, đối nghịch với Ngài. “Công bình sẽ sanh ra bình an, trái của sự công bình sẽ là yên lặng và an ổn mãi mãi” (Ê-sai 32:17). Nhưng “ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng” (Giăng 3:20). Ngày hôm nay chúng ta rất dễ phàn nàn vì có một số người tấn công, khủng bố các Cơ đốc nhân, nhưng Nô-ê ngày xưa đã từng đối lập với cả một thế giới chống nghịch với ông.

 

NÔ-Ê CÔNG BỐ SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Người ta thường quên rằng Nô-ê không chỉ là người đóng tàu nhưng ông cũng là “thầy giảng đạo công bình” (2 Phi-e-rơ 2:5). Là một người đóng tàu, ông chuẩn bị cho sự phán xét sắp đến. Còn trong tư cách là người giảng đạo ông kêu gọi tội nhân ăn năn và mời gọi họ tìm đến sự an ninh trong con tàu mà ông đang trong tiến trình hoàn thành. Nô-ê là một người công chính vì vậy ông có đủ tư cách công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời về sự công chính (Đọc Ê-xê-chi-ên 14:14, 20), nhưng con người không chú ý gì cả đến sứ điệp của ông. Trước đó trong Sáng thế ký 6:3, Đức Chúa Trời tuyên phán, “đời người sẽ là một trăm hai mươi năm mà thôi”, sau khi tổ phụ loài người sa ngã. Nhưng rồi sau đó cả nhân loại tiếp tục lún sâu vào sự gian ác. Điều này sẽ dẫn đến sự phán xét của Chúa (Sáng 6:5-6). Nhưng Nô-ê là một “người công bình trọn vẹn, được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va”. Ông và gia đình gồm 8 người được cứu khỏi sự phán xét trong cơn nước lụt. Quí vị là những người giảng đạo, giáo viên dạy Kinh Thánh, nhà truyền giáo hay chứng nhân cho Chúa cảm thấy mọi nỗ lực của chúng ta dường như thất bại trong công tác phục vụ Chúa, thì hãy nhớ đến trường hợp của Nô-ê. Sự kiên nhẫn và trung tín của Nô-ê là bài học nhắc nhở mỗi chúng ta.

Nô-ê được Chúa kêu gọi để giảng, công bố sự  công bình cho dân chúng đang sống trong sự không công bình, vì vậy sứ điệp của ông không được ưa chuộng và phổ biến vào thời đó. Trước Nô-ê, một người khác là Hê-nóc đã công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời trong một thời đại gian ác (Giu-đe 14-15), nhưng sau khi Hê-nóc được cất lên trời thì mọi thứ trên đất không trở nên tốt hơn chút nào. “Đức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn… Thế gian bấy giờ đều bại hoại trước mặt Đức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung ác” (Sáng 6:5; 11). Những gì mà “nền văn minh” của Ca-in đem lại là đáng hổ thẹn và Đức Chúa Trời phải nhịn nhục chờ đợi để chuẩn bị kết thúc nó.

NÔ-Ê VÂNG PHỤC CÁC MỆNH LỆNH CỦA CHÚA

 

Mục đích chiếc tàu của Nô-ê là để bảo tồn con người và những loài động vật sống. Hành động đóng tàu trong một thời gian dài của Nô-ê cũng là một sứ điệp mang tính cảnh báo con người vào thời đó. Rõ ràng là vào lúc đó trên thế giới không có mưa cho đến khi nước lụt đến (Sáng 2:4-6; Hêb 11:7), vì vậy những người chung quanh tự hỏi tại sao Nô-ê và các con trai của ông lại đóng một chiếc tàu trên đất khô? Nô-ê công bố sứ điệp của Chúa về sự đoán phạt sắp đến, mọi người cười chế nhạo ông. Họ tiếp tục ăn uống, tiệc tùng, cưới gã cho đến ngày Nô-ê vào tàu. Chúa Jesus phán dạy rằng thế giới chúng ta đang sống cũng sẽ như thế trước khi Chúa tái lâm (Mat 24:36-41).

Đức Chúa Trời ban cho Nô-ê những hướng dẫn cụ thể khi ông đóng con tàu đi vào lịch sử, cũng như sau đó Chúa ban cho Môi-se những chỉ dẫn chi tiết trong việc thiết kế đền tạm (Xuất 25:9, 40; Hêb 8:5). Đa-vít cũng nhận được điều đó khi lên kế hoạch xây dựng đền thờ (1 Sử ký 28: 11-19). Khi chúng ta vâng phục Đức Chúa Trời trong mỗi bước đi, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết con đường sự sống (Thi 16:11; 23:3).

Khi công việc đóng tàu hoàn tất, Đức Chúa Trời đưa các thú vật từng cặp, đực và cái , trống và mái  đến và Nô-ê dẫn chúng vào tàu để bảo tồn sự sống của chúng (Sáng 6:19-20; 7:8,9,15).  Nô-ê đưa gia đình vào tàu theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời, và Chúa đóng cửa tàu lại (Sáng 7:1, 16). D. L. Moody đã nói, “Nô-ê bước vào tàu trước tiên, kế đến là người vợ và cả gia đình theo ông. Nô-ê đã có một đời sống công chính và khiến cho con cái tin tưởng cha của chúng nó. Nếu cha mẹ không bước vào tàu thì làm thế nào mong đợi con cái bước theo”. Sẽ là một bi kịch khi đưa dẫn người khác vào con tàu cứu rỗi nhưng trong đó không có gia đình của chúng ta!

TÍNH KIÊN ĐỊNH CỦA NÔ-Ê

Nô-ê đã công bố sứ điệp của Chúa và đóng tàu trong suốt một trăm hai mươi năm. Ông đã bước đi cùng Chúa và tìm kiếm điều đẹp lòng Ngài.  Khi Đức Chúa Trời truyền lệnh cho Nô-ê, “Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu” thì sau đó bảy ngày, mưa bắt đầu rơi xuống trên khắp đất (Sáng 7:4). Gia đình Nô-ê và các thú vật đã ở trên tàu trong một năm mười bảy ngày (Sáng 8:13-14). Một số giáo phụ của hội thánh nói rằng những người ở trên chiếc tàu Nô-ê cũng giống như các tín hữu ở trong hội thánh ngày nay: nếu không có sự đoán phạt bên ngoài, bạn sẽ không bao giờ đứng ở bên trong. Ngay cả khi nước đã giảm bớt trên mặt đất, Nô-ê vẫn phải chờ đợi chỉ dẫn từ Đức Chúa Trời để bước ra khỏi tàu. Ông đã vâng phục Chúa trong mỗi chi tiết của đời sống (Sáng 8:13-19).

Khả năng chờ đợi sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời đánh dấu cho đức tin và sự trưởng thành thuộc linh của một người. Nô-ê là mẫu người đó. “Bất cứ ai tin sẽ chẳng hành động gấp rút” (Ê-sai 28:16).

 

SỰ THỜ PHƯỢNG CỦA NÔ-Ê

 

Không có phần Kinh Thánh nào ghi lại rằng Đức Chúa Trời truyền lệnh Nô-ê thiết lập bàn thờ và dâng các của lễ. Tuy nhiên Nô-ê đã làm một số điều để đáp lại ân điển và sự thương xót mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông và gia đình qua sự kiện nước lụt. Khi nghiên cứu về trường hợp của Ca-in, chúng ta biết rằng giá trị của lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời tùy thuộc vào tấm lòng biết ơn của người thờ phượng. Nô-ê là một người có tấm lòng đó. Ông là người thuộc về “cõi sáng tạo mới”, hành động đầu tiên của ông là dâng hiến tấm lòng và linh hồn ông cho Đức Chúa Trời. Ông  qui tất cả mọi vinh hiển về cho Đấng đã cứu gia đình ông.

Đức Chúa Trời hài lòng với Nô-ê, Ngài bảo đảm rằng trong tương lai thế giới mới sau Nô-ê sẽ không có trận lụt nào khác, chu kỳ luân chuyển bốn mùa trên đất sẽ không bị gián đoạn. Dấu hiệu cho giao ước này của Chúa sẽ là hình ảnh cầu vồng lần đầu tiên xuất hiện. Đây là dấu hiệu nhắc chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không bao giờ quên đi những lời hứa của Ngài.

 

 

HÀNH ĐỘNG XẤU HỔ CỦA NÔ-Ê

Nô-ê làm mọi điều theo lời Đức Chúa Trời phán dạy, ngoại trừ là ông đã  “uống rượu say, rồi lõa thể ở giữa trại mình” (Sáng 9:20-24). Kinh Thánh ghi lại rất trung thực những ưu và khuyết điểm của các tổ phụ đức tin, không bỏ sót những thất bại của họ. Áp-ra-ham đã hai lần nói dối về mối quan hệ thật sự giữa ông và người vợ Sa-ra. Và đến lượt Y-sác, con trai của Áp-ra-ham cũng theo gương xấu của cha. Môi-se đã phạm lỗi lầm khi dùng gậy đập vào hòn đá trong đồng vắng thay vì nói. Đa-vít đã phạm tội tà dâm cùng Bát-sê-ba, rồi sau đó dùng thủ đoạn để đưa chồng của Bát-sê-ba ra chiến trường chịu chết. Phi-e-rơ đánh mất dũng khí và chối thầy mình đến ba lần.

Một vài sinh viên Trường Kinh Thánh cảm nhận rằng Nô-ê đã không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra. Họ đưa ra giả thuyết là sau trận đại hồng thủy đã có nhiều điều thay đổi đến trên trái đất và bầu khí quyển. Nô-ê đã thấy một vài điều mà trước đây ông chưa hề thấy. Nhưng nếu như mùi vị lạ thường của sự lên men từ các trái nho làm ông phấn khởi quá mức không kềm chế đã dẫn ông đến chỗ uống nhiều rượu, thì tại chỗ này nói lên rằng Nô-ê đã không kiểm soát được bản thân. Và hậu quả là ông đã say rượu và lõa thể. Hai hành động đáng xấu hổ này thường song hành với nhau (Ca thương 4:21; Ha-ba-cúc 2:15-16).

Khi đối chiếu Sáng 9:24 và 10:21, chúng ta biết rằng Cham là người con trai nhỏ nhất của Nô-ê. Gia-phết lớn nhất và Sem ở chính giữa. Sem được gọi tên đầu tiên bởi vì anh ta được ban cho phước hạnh vượt trỗi và được đối xử như đứa con đầu lòng (Sáng 9:26). Đây cũng là một trường hợp trong Kinh Thánh mà người con thứ nhì “thay thế” chỗ của người con thứ nhất. Cham đã không tôn trọng cha mình, và Nô-ê đã công bố sự rủa sả trên các con cái của Cham (bao gồm Ca-na-an là đứa con nhỏ nhất) phải làm nô lệ cho dòng dõi của Sem  (Sáng 9:26; 10:6). Lịch sử cho biết rằng dân xứ Ca-na-an là một dân cực kỳ gian ác (Lê-vi ký 18), và đó chính là lý do mà Môi-se muốn tuyển dân Israel phải tiêu diệt họ. Còn những ai được sống sót phải trở thành nô lệ cho tuyển dân.  Lẽ ra tôi không cần phải có thêm chú thích này, nhưng vì lời nguyền của Nô-ê đã không ảnh hưởng gì đến các chủng tộc da màu. Vậy thì lời nguyền đó vẫn còn nguyên giá trị của nó.

Tại sao Môi-se tường thuật sự kiện say rượu của Nô-ê và hành động thiếu khôn ngoan của Cham? Lý do là sự kiện này nhấn mạnh đến dòng dõi của Sem, đặc biệt là Áp-ra-ham (Sáng 11:10 – 12:9) và dòng dõi của Ca-na-an sẽ có một vị trí đầy thử thách trong lịch sử tuyển dân. Nhưng vẫn còn một nguyên nhân khác: Đức Chúa Trời muốn nhắc nhở chúng ta về những tổ phụ đi trước đều là những con người khiếm khuyết, tội lỗi. Nô-ê là một con người vĩ đại, làm những việc vĩ đại. Nhưng ông đã không có một kết thúc tốt. Và chúng ta, không miễn trừ ai cũng có thể giống như Nô-ê nếu không học được bài học lịch sử này. “Nô-ê làm các điều nầy y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn” ngoại trừ một điều: uống rượu say. Nếu chúng ta muốn có một kết thúc tốt, chúng ta phải thận trọng trong đời sống cá nhân. Bài học này thật đáng giá cho chúng ta hôm nay.

 

 

 

Bài 8

ÁP-RA-HAM

“Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu.”  (Hêb 11:8)

Geoffrey A. Studdart-Kennedy, một nhà thơ cũng là một thầy dòng đã viết: “Đức tin là không tin vào những điều sai trật bất chấp những bằng chứng; Đức tin là vâng lời Đức Chúa Trời bất chấp những hậu quả.”

Ba người bạn của Đa-ni-ên hiểu rõ sống bởi đức tin có ý nghĩa gì. Họ có thể can đảm tuyên bố với vua Nê-bu-cát-nết-sa:

 Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua.  Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng (Đa-ni-ên 3:17-18). Đây chính là đức tin – vâng lời Chúa bất chấp những hậu quả theo sau. Đây là loại đức tin mà Áp-ra-ham thực hành, và chúng ta đáng phải bước theo gương mẫu này.

Tin cậy Đức Chúa Trời không có nghĩa là ngồi xuống và vui hưởng những cảm giác dễ chịu trong khi chúng ta suy nghĩ đến những điều tốt đẹp. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là vâng lời Ngài, dám đứng lên đối diện với những thử thách nghiệt ngã mà không sợ hãi. Những minh họa sinh động cho điều này là Giô-suê và đạo binh Israel  vượt qua sông Giô-đanh chinh phục miền đất hứa Ca-na-an. Đó là thiếu niên Đa-vít dũng cảm đối diện và chiến thắng kẻ thù khổng lồ Gô-li-át. Hay như hoàng hậu Ê-xơ-tê đã có một lời tuyên bố bất hủ đi vào lịch sử: “Nếu tôi phải chết thì tôi chết”. Và đó là trinh nữ Ma-ri ở Na-xa-rét đã nói với thiên sứ Gáp-ri-ên: “Tôi đây là tôi tớ Chúa, xin sự ấy xảy đến cho tôi như lời người truyền.” Và còn nhiều trường hợp khác trong Kinh Thánh…

Bên cạnh Chúa Jesus Christ, có thể nói rằng tổ phụ Áp-ra-ham là một trong những tấm gương lớn về đức tin được tìm thấy trong Kinh Thánh. Từ Sáng thế ký 11:27 đến chương 25:11 chúng ta có thể học tập những bước phiêu lưu của đức tin Áp-ra-ham và tránh những vết xe đổ của ông. Áp-ra-ham thỉnh thoảng có những lầm lỗi giống như tất cả chúng ta. Nhưng trong phương diện tổng quát, đời sống của ông được đánh dấu qua sự trung tín vâng lời Đức Chúa Trời. Bất luận Chúa kêu gọi ông làm điều gì, ông tin rằng sự kêu gọi của Ngài luôn bao hàm sự giúp đỡ thiên thượng cho phép ông thực hiện mạng lệnh của Ngài. Vì vậy ông bày tỏ đức tin qua hành động vâng lời Chúa trong những tình huống khó khăn. Áp-ra-ham đã có thể đi trọn con đường đức tin từ những lời hứa giới hạn của Đức Chúa Trời. Còn về phần chúng ta có toàn bộ lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh, chúng ta có ưu thế hơn nhiều so với tổ phụ!

Vì vậy chúng ta đáng phải học tập những bài học từ cuộc đời Áp-ra-ham để đáp ứng bằng hành động vâng lời trước sự kêu gọi của Đức Chúa Trời.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ BƯỚC TỚI MỘT TƯƠNG LAI CHƯA BIẾT TRƯỚC

Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp, người đi mà không biết mình đi đâu. (Hêb 11:8). Ở tuổi bảy mươi lăm, Áp-ra-ham nói lời từ biệt với Cha-ran, rồi từ đó đi đến Ca-na-an (Sáng 11:27 – 12:9). Chúng ta có thể nào biết nhiều hơn về hành trình của Áp-ra-ham, khi mà Kinh Thánh chỉ ghi lại rất sơ lược về những nơi ông đã đi qua? Nhưng đây là điều chúng ta biết: Áp-ra-ham vâng lời Đức Chúa Trời mỗi ngày, từng bước ông tin cậy vào sự dẫn dắt của Ngài, và Chúa đã không làm ông thất vọng.

Ngày hôm nay chúng ta ít khi đi theo cách đó của Áp-ra-ham. Những trợ giúp của các phương tiện hiện đại như hệ thống định vị GPS được nối kết với điện thoại thông minh, máy tính bảng và các công ty tổ chức các chuyến đi du lịch đều cho chúng ta biết cụ thể mỗi địa điểm đi qua với thời gian rõ ràng tương ứng với từng loại phương tiện. Và chúng ta ung dung lên đường.

Nhưng Áp-ra-ham thì khác, ông không hề biết nơi mình sẽ đi tới. Nhưng nếu chúng ta sử dụng tất cả những trợ giúp nói trên, chúng ta cũng thừa nhận rằng chúng ta không biết chắc về nơi mình đang đi tới. Chúng ta lên kế hoạch, nhưng rất có thể những điều ngoài mong đợi sẽ xảy ra. Tôi đã trải qua một kinh nghiệm đáng nhớ: Tôi đang lái xe trên đường về nhà vào một buổi tối kia nhưng tôi đã không về đến nhà cho mãi đến hai tuần sau đó. Một tài xế say rượu đã tông vào xe tôi với vận tốc trên 80 miles/1 giờ. Tôi được đưa vào bệnh viện cấp cứu và phải ở trong đó cho đến khi bình phục. Tạ ơn Chúa, tôi vẫn còn sống trở về nhà, và vui hưởng ngày lễ Phụ thân với các con tôi ngay sau khi rời bệnh viện. Làm thế nào chúng ta có thể biết chắc chắn nơi mình sẽ đến?

  1. Parker, một tác giả của các bài Thánh Ca đã viết:

Chúa nắm giữ chìa khóa của tất cả những điều chưa biết, và tôi rất vui.

Nếu bàn tay khác nắm lấy chìa khóa ấy

Hoặc nếu Ngài tin tưởng giao nó cho tôi

Tôi sẽ rất buồn

Nếu  những sự chăm sóc cho ngày mai của chúng ta có sẵn ở đây thì sao?

Tôi thà để Ngài bày tỏ từng ngày

Và như giai điệu của một bài ca

“Ý chỉ của Ta là tốt nhất”

Tôi không thể đọc các kế hoạch tương lai của Ngài, nhưng tôi biết điều này:

Tôi thấy nụ cười trên khuôn mặt của Ngài

Và tất cả những nơi ẩn náu trong ân điển Ngài

Trong khi ở đây, dưới đất này

Có đủ nhu cầu cho tôi – bao gồm tất cả các mong muốn của tôi, và vì vậy tôi yên nghỉ

đối với những gì tôi không thể làm, nhưng Ngài biết hết

Và trong sự chăm sóc của Ngài, tôi đã được cứu chuộc

Hưởng phước hạnh mãi mãi.

 

Rất có thể Áp-ra-ham cũng hát điệp khúc trên đây khi ông đi con đường đức tin theo Chúa từng ngày. Ông được kêu gọi đi tới một tương lai không biết trước, và ông đã đáp ứng với Chúa qua sự vâng lời.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐI ĐẾN MỘT NƠI CHỐN THỨ HAI

Khi đang tập chú vào đời sống đức tin của Áp-ra-ham, chúng ta sẽ không quá quan tâm đến những lỗi lầm của ông tại Ai-cập. Áp-ra-ham đã thẳng tiến đến Ca-na-an, xây dựng bàn thờ và bày tỏ đời sống tin kính với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên trong đời sống đức tin, có thời gian cho một người kết thúc một sự thử nghiệm, và rồi một thử nghiệm khác sẽ xảy ra sau đó. Trong suốt nhiều năm tôi được thôi thúc để viết một quyển sách với tựa đề “Luôn Luôn Có Một Điều Gì Đó Sẽ Xảy Ra”.

Khi Áp-ra-ham được kêu gọi đi ra khỏi quê hương, ông cũng chia tay với gia đình và những người thân thuộc của mình (Sáng 12:1). Ông dẫn theo  “Sa-rai, vợ mình, Lót, cháu mình, cả gia tài đã thâu góp, và các đầy tớ đã được tại Cha-ran, từ đó ra, để đi đến xứ Ca-na-an.” sau khi Tha-rê, cha của Áp-ra ham qua đời tại Cha-ran. Có một sai lầm của Áp-ra-ham ở đây, vì người cháu trai Lót đã gây nên nan đề cho ông. Sáng thế ký ghi lại, “Lót cùng đi với Áp-ram, cũng có chiên, bò, và trại.  Xứ đó không đủ chỗ cho hai người ở chung, vì tài vật rất nhiều cho đến đỗi không ở chung nhau được.  Trong khi dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít ở trong xứ, xảy có chuyện tranh giành của bọn chăn chiên Áp-ram cùng bọn chăn chiên Lót”. Thế rồi từ đó Áp-ra-ham và Lót phân rẽ nhau về mặt địa lý. Lót chọn lấy cho mình phần đất tốt theo cách nhìn cá nhân, còn Áp-ra-ham tiếp quản phần còn lại là phần không được Lót đánh giá cao.

Nếu Lót là một người trưởng thành thuộc linh, anh ta sẽ hành động theo một hướng khác. Nhưng không như vậy, con người này chỉ thấy lợi ích cá nhân và chọn lấy cho mình vị trí ưu thế hơn người bác Áp-ra-ham. Còn Áp-ra-ham là một người tin kính, ông đi theo tấm lòng của Đức Chúa Trời. Ông chọn nơi thứ hai, còn để cho Lót được quyền ưu tiên. Lót là người gây nên nan đề, trong khi Áp-ra-ham là người hòa giải (làm cho những người khác trở nên hòa thuận với nhau). Lót đo lường mọi thứ theo tiêu chuẩn của Ai-cập (Sáng 13:10) trong khi Áp-ra-ham tìm kiếm vinh hiển từ Đức Chúa Trời. Dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít nhìn vào đời sống của hai bác cháu Áp-ra-ham (Sáng 13:7). Áp-ra ham muốn trở nên một chứng nhân tốt giữa những người ngoại bang. Ông bước đi bởi đức tin, tin rằng những vùng đất mà Đức Chúa Trời ban cho sẽ thuộc về mình. Còn Lót bước đi bởi mắt thấy (Sáng 13:10). Lót nhìn chăm vào Sô-đôm nhưng Áp-ra-ham “chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập” (Hêb 11:10; 13-16). Áp-ra-ham hướng đến những giá trị đời đời, không phải là những gì trông có vẻ hấp dẫn nhưng rồi sẽ phai tàn tại Ai-cập.

Điều gì tạo nên sự khác biệt khi chúng ta phải tiếp nhận một nơi chốn thứ hai, một chỗ mà người khác không muốn, miễn là Chúa Jesus Christ được vinh hiển? Đức Chúa Trời đã hài lòng về Áp-ra-ham và ban cho ông mọi điều tốt đẹp trong sự kiểm soát thần thượng của Ngài. Áp-ra-ham không bao giờ đọc Ma-thi-ơ 6:33 nhưng ông đã thực hành câu Kinh Thánh ấy. Ông tiếp tục bước đi bởi đức tin.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ GIÚP ĐỠ MỘT NGƯỜI NÀO ĐÓ NHẬN SỰ CỨU RỖI MÀ DƯỜNG NHƯ ANH (CHỊ) ẤY KHÔNG XỨNG ĐÁNG

Lót đã chọn vùng đất xinh tươi màu mỡ bên sông Giô-đanh không chỉ vì nó gần nguồn nước với đồng cỏ xanh rì, nhưng cũng vì ông đã nhìn thấy Sô-đôm. Và rồi ông đã di chuyển đến thành phố đó. Nhưng điều này lại là một tai nạn cho Lót (Sáng 13:12, 14:12). Khi các vua trong vùng phát động chiến tranh, Vua của Sô-đôm thua trận và Lót nghiễm nhiên trở thành phu tù. Lúc này Áp-ra-ham vui hưởng sự bình an trong lều trại của mình, không bị ảnh hưởng gì với cuộc chiến. Nhưng Lót đã gặt hái chính xác những gì anh ta xứng đáng nhận. Áp-ra-ham không bỏ rơi Lót trong tình cảnh đó, ông đã giải cứu Lót và các cư dân của Sô-đôm bằng một chiến thuật khôn ngoan. Lót có lẽ sẽ không bao giờ làm được điều mà Áp-ra-ham đã làm.

Từ kinh nghiệm này, lẽ ra Lót nên đi theo con đường tin kính, thờ phượng Chúa giống như Áp-ra-ham là bác của mình. Nhưng anh ta đã không làm như thế. Khi Đức Chúa Trời quyết định phá hủy Sô-đôm và các thành phố khác trong vùng đồng bằng, Áp-ra-ham đã biện hộ và cầu thay cho dân cư trong thành phố. Lót sống trong Sô-đôm không hay biết gì cả về tai họa sắp xảy đến. Tại sao? “Đức Giê-hô-va kết bạn thiết cùng người kính sợ Ngài. Tỏ cho người ấy biết giao ước của Ngài.” (Thi 25:14). Lót không có sự kính sợ Chúa, vì vậy ông không biết những điều hệ trọng sắp xảy ra.

Biết những loại người gian ác sống trong Sô-đôm, hầu hết chúng ta sẽ bằng lòng khi nhìn thấy họ bị tiêu diệt. Nhưng Áp-ra-ham không như vậy. Ông cầu thay cho họ. Vì cớ đức tin và tấm lòng yêu thương con người của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã cứu Lót không bị hủy diệt chung với các thành tội lỗi (Sáng 19 và đặc biệt là xem câu  29). Chính đức tin và sự trung tín của Áp-ra-ham đã đem sự cứu rỗi đến cho Lót và hai cô con gái của Lót. Nhưng sau đó không lâu Lót phạm tội loạn luân với hai cô con gái của mình. Việc làm đáng xấu hổ này đã sản sinh ra hai dân tộc Am-môn và Mô-áp. Các dân tộc này là những kẻ thù của tuyển dân Israel. Đây có phải là hậu quả cho hành động cao đẹp của ông bác Áp-ra-ham dành cho Lót!

Bạn có bao giờ khước từ những quyền lợi của mình để giúp đỡ cho một người, rồi sau đó chính anh (chị) ta đem đến cho bạn những rắc rối? Bạn có bao giờ cầu nguyện xin Chúa cứu giúp cho những người đang ở trong những tình huống nguy kịch, mặc dù họ không xứng đáng để bạn cầu thay? Khi ấy bạn hãy đọc lại những câu Kinh Thánh trong Ma-thi-ơ 5:38-40 và Ga-la-ti 6:1-2 rồi đầu phục Lời của Chúa. Bạn cũng có thể bắt chước Chúa Jesus để cầu nguyện, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” (Lu-ca 23:34)

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ CHỜ ĐỢI

Đời sống đức tin không chỉ bao hàm công tác của Chúa đụng chạm đến với người khác thông qua chúng ta, mà còn là những công việc của Thánh Linh thực hiện bên trong đời sống của chúng ta. Đức Chúa Trời muốn chúng ta kinh nhiệm tình yêu và ân điển của Ngài hầu cho chúng ta có thể hoàn thành mục đích của Ngài. Chúng ta bước đi bởi đức tin và chúng ta cũng chờ đợi bởi đức tin. Hành động chờ đợi cũng quan trọng như hành động bước đi.

Trong Sáng thế ký 15 Đức Chúa Trời đã đem Áp-ra-ham đến với trải nghiệm được gọi là “đêm tối của linh hồn”. Áp-ra-ham bị “một cơn kinh hãi, tối tăm nhập vào” (câu 12). Hậu quả của điều này là sau đó tổ phụ đức tin Áp-ra-ham trở nên bối rối, do dự và đặt câu hỏi với Đức Chúa Trời là tại sao Chúa chưa ban cho ông và Sa-ra một đứa con trai theo như lời Ngài hứa?

Đức Chúa Trời cho phép những trải nghiệm đến với chúng ta lúc giữa đêm khuya, lúc ấy chúng ta có thể nhìn xem các vì sao trên bầu trời trong cõi không gian tĩnh mịch và nghe được tiếng phán êm dịu nhỏ nhẹ của Ngài, xác nhận những gì Ngài đã hứa với chúng ta. Đức Chúa Trời đã lập giao ước với Áp-ra-ham trong đêm và bảo đảm rằng dòng dõi ông sẽ đông như sao trên trời và nhận được đất, thậm chí là nhận những lãnh thổ từ mười dân tộc ngoại bang khác nhau. Áp-ra-ham sẽ gặp khó khăn khi nghe một lời hứa như vậy? Vâng, nhưng chính điều này đã làm cho đức tin của ông được lưu danh hậu thế và truyền cảm hứng đến cho nhiều thế hệ!

Nhưng rồi thời gian trôi qua, Áp-ra-ham và Sa-ra trở nên mất kiên nhẫn khi chưa nhìn thấy thực tế những gì Chúa hứa. Sa-ra phác thảo một kế hoạch riêng nhằm thúc đẩy cho lời hứa của Đức Chúa Trời trở thành hiện thực (Sáng 16). Đức tin là sống nhờ lời hứa của Chúa chứ không phải là lập một kế hoạch khôn ngoan theo ý riêng. Thế nhưng Áp-ra-ham đã nghe theo lời của Sa-ra, và đây là một sự trượt ngã của đức tin. Áp-ra-ham đã tin cậy Đức Chúa Trời trong đêm tối, nhưng giờ đây ông lại nghi ngờ lời hứa của Chúa giữa ban ngày!
Chờ đợi Đức Chúa Trời là yếu tố cần thiết cho sự trưởng thành đức tin. Nhưng đi trước ý muốn của Chúa và chạy theo kế hoạch riêng sẽ gây nên lắm nan đề. Điều đó có nghĩa là phước hạnh tốt nhất mà Chúa dành cho chúng ta có thể bị trôi mất.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ CHO ĐI NHỮNG GÌ CHÚNG TA YÊU MẾN

Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài và theo đúng thời điểm Ngài sẽ ban cho Áp-ra-ham một đứa con trai. Y-sác sẽ là tên của nó (Sáng 17:17). Y-sác có nghĩa là “cười”, bởi vì cả Áp-ra-ham và Sa-ra đều cười khi nghe nói đến viễn cảnh có con trai, lúc mà cả hai đều đã lớn tuổi (Sáng 17:17; 18:13-15; 21:6-7). Có thể lắm những người khác cũng cười về chuyện này!

Thế nhưng sau đó khi Y-sác đã được sinh ra theo lời hứa của Đức Chúa Trời, thì Ngài lại yêu cầu Áp-ra-ham dâng con trai Y-sác làm một sinh tế. Lần đầu tiên từ “yêu – love” được dùng trong Kinh Thánh (Sáng 22:2) [Then God said, “Take your son, your only son, whom you love—Isaac—and go to the region of Moriah. Sacrifice him there as a burnt offering on a mountain I will show you.” (Genesis 22:2).] Trong câu này Đức Chúa Trời xác nhận là Áp-ra-ham yêu con trai của ông (Cần lưu ý rằng Ích-ma-ên không được Chúa xác nhận như vậy mặc dù anh ta là con trai đầu tiên của Áp-ra-ham). Trong Tân Ước từ “yêu” được xuất hiện lần đầu tiên trong Ma-thi-ơ 3:17. Câu này Đức Chúa Cha xác nhận tình yêu của Ngài dành cho Đức Chúa Con Jesus Christ. Tại sao Đức Chúa Trời ban cho vợ chồng Áp-ra-ham một đứa con trai mà họ rất mực thương yêu, rồi sau đó lại truyền lệnh cho họ dâng nó lên làm của lễ?

Đây rõ ràng là bài trắc nghiệm đức tin lớn nhất dành cho Áp-ra-ham. Bởi vì đức tin mà chưa qua thử nghiệm thì nó không đáng tin cậy. Sự thử nghiệm đức tin mà Đức Chúa Trời cho phép xảy đến trên đời sống của chúng ta, là nhằm để giúp đỡ chúng ta khám phá chính mình. Trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất, chúng ta có còn đứng vững trên lời hứa của Đức Chúa Trời hay sẽ bị chao đảo? Áp-ra-ham đã tập chú vào sự thành tín của Chúa. Ông nhìn vào những lời hứa trong giao ước của Ngài với ông và tìm kiếm vinh quang của Đức Chúa Trời trong sự vâng phục trọn vẹn. Có thể nói rằng Đức Chúa Trời không muốn con trai của Áp-ra-ham (dành cho của lễ thiêu), nhưng Ngài muốn tấm lòng của ông – tấm lòng của sự vâng phục.

Điều căn bản của đời sống Cơ đốc là chúng ta dám cho đi những gì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta. Nếu không thì phước hạnh mà chúng ta nhận được từ Chúa có thể sẽ trở nên những hình tượng đứng giữa Đức Chúa Trời và chúng ta. Đức tin của Áp-ra-ham được bày tỏ qua hành động dâng Y-sác. Tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết:

Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng Y-sác trong khi bị thử thách: người là kẻ đã nhận lãnh lời hứa, dâng con một mình, là về con đó mà Đức Chúa Trời có phán rằng: Ấy bởi trong Y-sác mà ngươi sẽ có một dòng dõi lấy tên ngươi mà kêu.SaSt 21:12

 Người tự nghĩ rằng Đức Chúa Trời cũng có quyền khiến kẻ chết sống lại; cũng giống như từ trong kẻ chết mà người lại được con mình (Hêb 11:17-19). Kinh nghiệm thuộc linh ở đây là: cùng chết với Đấng Christ, thì cũng sẽ cùng sống với Ngài (Rô-ma 6:8) trong một sự sống dư dật. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta dâng cho Ngài điều quí báu nhất mà chúng ta đang nắm giữ, chúng ta hãy vâng phục Ngài trong đức tin. Vì đây chính là đường lối duy nhất để nhận trở lại những gì Chúa muốn ban cho chúng ta.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ KHÓC THAN CHO…

Sáng thế ký 23 tường thuật câu chuyện Áp-ra-ham chịu tang cho Sa-ra và than khóc vợ mình. Lần đầu tiên trong Kinh Thánh sự kiện một người qua đời và những giọt nước mắt được đề cập. Sa-ra là người phụ nữ duy nhất trong Kinh Thánh mà tuổi thọ của bà được ghi nhận.  Sa-ra là một người nữ của đức tin cũng giống như Áp-ra-ham là người nam của đức tin (Hêb 1:11). Cặp vợ chồng này là một đội hình cùng hầu việc Chúa.

Những giọt nước mắt của Áp-ra-ham không đánh dấu cho sự vô tín hay thất bại, nhưng nó là bằng chứng của tình yêu của ông dành cho Sa-ra – người vợ yêu dấu. Dân sự của Đức Chúa Trời đi qua những đau khổ nhưng họ không mất hy vọng (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13). Áp-ra-ham đã nêu một gương mẫu tốt cho chúng ta trong hành động tôn trọng Sa-ra và mai táng vợ mình, và ông cũng sử dụng cơ hội này để làm chứng cho những người ngoại bang hàng xóm chung quanh.

Cái hang đá mà Áp-ra-ham đã mua làm mộ địa cho Sa-ra trở thành nơi mai táng cho cả: Áp-ra-ham; Y-sác, Rê-bê-ca, Lê-a và Gia-cốp. Sách Sáng thế ký kết thúc với một ngôi mộ tập thể (Sáng 49:29-32). Nhưng đức tin của chúng ta đặt nền tảng trên một ngôi mộ trống, bởi vì Chúa Jesus đã bước ra khỏi hầm mộ và chiến thắng sự chết (1 Cô-rin-tô 15: 12-28, 54).

Càng sống lâu trên đất, chúng ta càng chứng kiến bạn bè và những người chúng ta yêu mến sẽ qua đời, chia tay với chúng ta. Nếu Chúa chưa tái lâm trong thời đại này, chúng ta cũng sẽ gia nhập chung với họ. Nhưng chúng ta không hề sợ hãi. Lời hứa trong Kinh Thánh là:

Vì Đức Chúa Trời nầy là Đức Chúa Trời chúng tôi đến đời đời vô cùng;
Ngài sẽ dẫn chúng tôi cho đến kỳ chết (Thi 48:14).

 

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ CHẾT

Áp-ra-ham đã sống 175 năm trên đất, điều này có nghĩa là ông đã bước đi liên tục với Chúa trong suốt một thế kỷ. Áp-ra-ham đã chết trong đức tin, cũng giống như ông đã từng sống trong đức tin. Tân Ước đề cập đến những anh hùng đức tin:

Hết thảy những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều hứa cho mình; chỉ trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là kẻ khách và bộ hành trên đất.  Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đương đi tìm nơi quê hương. Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành (Hêb 11:13-16).

Nhưng trước khi Áp-ra-ham qua đời, ông muốn Y-sác phải có một người vợ chính thức để rồi từ đó dòng dõi của ông – thế hệ tương lai sẽ viết tiếp lịch sử tuyển dân. Phước hạnh cho những ai ưu tư đến thế hệ tiếp theo! Áp-ra-ham là một gương mẫu sinh động cho chúng ta về việc chuẩn bị, đầu tư cho thế hệ tương lai.

Biết mình sẽ trở về với tổ tông, Áp-ra-ham chuyển giao tài sản cho Y-sác (Sáng 24:34-36; 25:5). Ông sai phái người quản gia trưởng trong nhà phải về quê hương để tìm một thiếu nữ trong vòng bà con làm vợ cho Y-sác. Sáng thế ký chương 24 ghi lại bàn tay kiểm soát và tể trị của Đức Chúa Trời trên mỗi chi tiết của câu chuyện hợp hôn Y-sác và Rê-be-ca. Đây hiển nhiên là sự thành tín của Đức Chúa Trời – Chúa giữ giao ước của Ngài với Áp-ra-ham được bày tỏ qua câu chuyện kịch tính và thú vị này. Đức tin của Áp-ra-ham và sự trung tín của người quản gia kết nối với nhau đem đến cho Y-sác một người vợ theo ý Chúa! Y-sác chắc sẽ hãnh diện vì ông có một người cha tuyệt vời như thế.

Bởi vì Áp-ra-ham lo nghĩ đến thế hệ tương lai và ông chuẩn bị mọi điều cho chúng. Y-sác, Gia-cốp và toàn bộ tuyển dân được nhận lãnh phước hạnh từ đức tin của Áp-ra-ham. Xa hơn nữa bạn và tôi có Cứu Chúa và quyển Kinh Thánh. Chúng ta biết “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp”.

Studdard Kennedy cũng đã viết: “Đức tin thật vượt qua những tình huống khó khăn, đi trước thời đại và không sợ chết. Đức tin thật là sống bởi đức tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời”. Và chúng ta có thể ôn lại câu này của ông: “Đức tin là không tin vào những điều sai trật bất chấp những bằng chứng; Đức tin là vâng lời Đức Chúa Trời bất chấp những hậu quả.”

 

Bài 9

 

SA-RA

“Hãy nghĩ đến tổ ngươi là Áp-ra-ham, cùng Sa-ra, là người đã sanh sản các ngươi;”   (Ê-sai 51:2)

Khi Đức Chúa Trời đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham, Ngài cũng đổi tên Sa-rai thành Sa-ra. Sa-ra có nghĩa là công chúa (Sáng 17:15-16). Cái tên này xuất hiện bốn mươi mốt lần trong Cựu Ước, và xuất hiện năm mươi tám lần trong toàn bộ Kinh Thánh. Tên của sứ đồ Giăng không được nhắc đến nhiều như thế. Đức Chúa Trời hứa rằng Sa-ra sẽ trở nên mẹ của các vua trên đất, vì vậy Ngài gọi tên bà là công chúa. Chỉ có một lần duy nhất tên của Sa-ra được nhắc đến trong Cựu Ước bên ngoài sách Sáng thế ký là Ê-sai 51:2. Tôi chọn câu Kinh Thánh này làm câu gốc cho bài viết sau đây.

Chúng ta thấy gì khi nhìn vào đời sống Sa-ra?

ÁP-RA-HAM NHÌN SA-RA VÀ BẮT GẶP MỘT TÌNH YÊU

Áp-ra-ham và Sa-ra lớn lên tại U-rơ thuộc Cha-ran, một thành phố thờ hình tượng. Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng Áp-ra-ham, khi ông còn ở tại Mê-sô-bô-ta-mi (Công 7:1) và phán bảo ông phải đi ra khỏi quê hương, đến một vùng đất mới mà Ngài sẽ chỉ cho. Đức Chúa Trời đã bỏ qua những người khác trong một thành phố rộng lớn, nhưng Ngài bày tỏ chính Ngài cho Áp-ra-ham. Đây quả thật là ân điển diệu kỳ!

Sa-ra đã trả lời Áp-ra-ham như thế nào khi Áp-ra-ham thông báo cho bà biết các hình tượng mà cư dân thành phố đang thờ phượng là sai lầm, và ông chuẩn bị ra khỏi thành phố quê hương? Sa-ra có lẽ đã hỏi chồng mình: “Chúng ta sẽ đi đâu?” Áp-ra-ham trả lời: “ta cũng không biết, vì Đức Chúa Trời không cho biết rõ ràng nơi sẽ đến.” Phản ứng của Sa-ra trước tình huống này? Kinh Thánh cho chúng ta biết Sa-ra là một phụ nữ có đức tin (Hê-bơ-rơ 11:1), vì vậy bà đã từ bỏ các hình tượng, đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời và đi theo Áp-ra-ham. Bà thuận phục chồng mình giống như thuận phục Chúa (Ê-phê-sô 5:21-33), trong khi Áp-ra-ham yêu thương, che chở vợ như chính bản thân mình. Sa-ra bước theo Áp-ra-ham, từ bỏ quê hương thực hiện một chuyến đi rủi ro, nguy hiểm đến một nơi chưa biết trước.

Vợ chồng Áp-ra-ham lên đường ra khỏi U-rơ. Tha-rê, cha của Áp-ra-ham và Lót người cháu trai đi cùng họ. Tha-rê qua đời tại Cha-ran (Sáng 11:31-32). Lót là người sau này gây ra lắm nan đề tiếp tục cuộc hành trình với Áp-ra-ham về miền đất hứa. Áp-ra-ham và Sa-ra có thể đã nói cho những người bà con của mình về một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, và rồi họ đã ra đi ra khỏi quê hương bỏ lại  phía sau những mối quan hệ họ hàng thân thiết. Ông nổi bật là người dẫn đường có đức tin, không cần bản đồ, la bàn hay bất cứ dụng cụ nào. Nhưng Áp-ra-ham cần Sa-ra, và ông biết điều đó. Tác giả James Strahan đã viết trong sách Hebrwe Ideals, “Sa-ra là công chúa – mẹ của nhiều vua. Bà hiểu sự kêu gọi thiên thượng của chồng mình, cùng chia sẻ khát vọng của ông, và song hành với ông trên mọi nẻo đường.” Không có gì ngạc nhiên khi sứ đồ Phi-e-rơ nói về Sa-ra, “Sa-ra vâng phục Áp-ra-ham, gọi người là chúa mình; nếu các chị em làm điều lành, không sợ chi hết mà rối trí, thì trở nên con gái của Sa-ra vậy.” (1 Phi-e-rơ 3:1-6). Sa-ra là một tấm gương tốt cho những người nữ theo Chúa trong suốt mọi thời đại.

Bởi vì Sa-ra yêu mến chồng mình, bà cùng chịu trách nhiệm với Áp-ra-ham về lời nói dối được ghi trong Sáng thế ký 20:11-13. Áp-ra-ham đã nói rằng Sa-ra là em gái trong họ hàng thay vì nói cô ấy vừa là em gái vừa là vợ của tôi. Lời nói một nửa sự thật này của Áp-ra-ham đã che chở cho ông và gia đình, nhưng nó chắc chắn đem nguy hiểm đến cho sự thuần khiết của Sa-ra, một người nữ mà qua đời sống của bà đứa con trai của lời hứa sẽ đến.

Đức tin chân thật không nên gắn kết với mưu đồ riêng. Áp-ra-ham đã hai lần không nói rõ về thân phận của Sa-ra. Điều này đã làm cho ông và người vợ gặp rắc rối sau đó.

Y-SÁC NHÌN VÀO SA-RA VÀ THẤY ĐỨC TIN

Đức tin của Áp-ra-ham và Sa-ra đã đem Y-sác, đứa con của lời hứa thành hiện thực. Bản Kinh Thánh NIV dịch câu Kinh Thánh Hê-bơ-rơ 11:11, “Cũng bởi đức tin mà Sa-ra dẫu có tuổi còn có sức sanh con cái được, vì người tin rằng Đấng hứa cho mình điều đó là thành tín.” Sa-ra đã vượt qua giới hạn của tuổi sinh con, vì vậy khi nghe tin một đứa con trai theo lời hứa sẽ được sinh ra từ chính mình, Sa-ra và Áp-ra-ham đã cười. Nhưng Đức Chúa Trời của sự trông cậy ban cho họ “đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an” (Rô-ma 15:13), và không bao lâu sau đó nụ cười hoài nghi của họ đổi thành nụ cười thánh thiện khi mà những gì bất khả thi trong chuyện sinh nở của Sa-ra lại trở thành hiện thực. Họ đã vui hưởng món quà Chúa ban cho và qui tất cả vinh hiển về cho Ngài. Bạn có thể giải thích những gì đã xảy ra chỉ là sự tình cờ và không có bàn tay của Chúa trong đó? Hay là bạn không thể giải thích những gì đã xảy ra và thừa nhận là Chúa đã làm như vậy, khi ấy tất cả chúng ta sẽ vui mừng ca ngợi Chúa và cười thỏa vui trước ân ban của Ngài.

Ê-SAI NHÌN VÀO SA-RA VÀ THẤY HY VỌNG

Bây giờ chúng ta tập chú vào những câu Kinh Thánh chỉ ra tính cách đặc trưng của đời sống Sa-ra. Những câu này nằm ở phần thứ hai của sách Ê-sai (từ chương 40 đến chương 66). Ê-sai đề cập đến khoảng thời gian người Israel bị lưu đày ở Ba-by-lôn. Họ chịu cảnh phu tù trong bảy mươi năm (Giê-rê-mi 25:8-14; Đa-ni-ên 9:1-3) rồi được phép về lại quê hương, nhưng không có nhiều người trở về. Đế quốc Ba-by-lôn đã khiến cho dân tộc Israel suy tàn, thành phố Giê-ru-sa-lem và đền thờ tại đó bị phá hủy. Tổng số dân Do Thái giảm xuống không còn như trước. Không có gì dễ chịu khi tuyển dân trở về từ Ba-by-lôn trong một cuộc hành trình gian khổ. Chỉ còn lại một ít người trở về khôi phục thành phố và đền thờ. Nhóm người Do Thái lưu đày trở về đối diện với muôn vàn khó khăn khi phải thực hiện những công việc bất khả thi.

Nhưng Ê-sai biết cách khích lệ tuyển dân. Đầu tiên ông bảo họ hãy nhìn chung quanh và vui hưởng sự vĩ đại của Đức Giê-hô-va (Ê-sai 40). Đời sống con người trên đất chóng qua như hoa sớm nở tối tàn, nhưng các công trình sáng tạo của Chúa vẫn được bảo tồn theo thời gian bằng một quyền năng siêu việt. Không người nào có thể lớn hơn Đức Chúa Trời. Tuyển dân Israel đã nhiều lần quay lưng lại với Đức Chúa Trời và đi theo các thần tượng khác. Và đó là lý do mà họ bị trừng phạt tại Ba-by-lôn. Mặc dù tuyển dân phản bội giao ước nhưng Đức Chúa Trời vẫn là Chúa của họ và Ngài sẽ hoàn thành mục đích đời đời của Ngài trên cuộc đời họ.

Đức Chúa Trời vẫn còn yêu thương tuyển dân bất luận họ thế nào? Họ đã bất tuân ý chỉ của Chúa và làm cho tấm lòng Ngài tan vỡ. Tiên tri Ê-sai khích lệ tuyển dân hãy nhìn lên để thấy cánh tay yêu thương của Đức Chúa Trời vẫn đang chăm sóc họ, “Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên; thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào lòng; từ từ dắt các chiên cái đương cho bú.” (Ê-sai 40:11). Ông nhắc lại điệp khúc: “Đừng sợ” (41:10, 13, 14; 43:1-2) cho tuyển dân vốn luôn có tâm lý bất an. Đức Chúa Trời sẽ thay mặt họ để chinh chiến với kẻ thù, vì vậy hãy lắng nghe lời Ngài, và công bố những lời hứa của Chúa. Hãy nhìn lên!

Trong Ê-sai 51:2, tiên tri của Đức Chúa Trời khích lệ tuyển dân hãy nhìn lui về đời sống của Áp-ra-ham và Sa-ra. Tuyển dân Israel không phải xuất phát từ thiên đàng rồi đi xuống trần gian trên những đám mây, nhưng họ đã được sinh ra từ một người nam đã bảy mươi lăm tuổi và vợ của ông ta đã sáu mươi lăm tuổi. Theo lẽ thông thường, đôi vợ chồng này không còn khả năng sinh đẻ nữa. Họ đã già rồi khó có thể có con! Nhưng Đức Chúa Trời ban cho họ một lời hứa kỳ diệu, đó là dòng dõi họ sẽ đông như sao trên trời, như cát bờ biển (Sáng 13:14-17; 15:5). Nếu Đức Chúa Trời có thể xây dựng một quốc gia từ đôi vợ chồng già Áp-ra-ham, thì tại sao Ngài không thể tái lập quốc gia Israel từ những người yếu đuối mất hết tinh thần sau một thời gian dài chịu cảnh lưu đày? Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa với Áp-ra-ham và bây giờ Ngài cũng sẽ làm như vậy với dòng dõi của ông.

Khi tuyển dân ra khỏi cảnh phu tù trở về xây dựng lại đền thờ. Đền thờ này dường như không bằng đền thờ nguy nga tráng lệ mà Sa-lô-môn đã xây dựng trước đó. “Nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, trưởng tộc, tức là những người già cả đã thấy đền thờ trước, bèn khóc tiếng lớn trong khi người ta xây nền của đền mới …” (E-xơ-ra 3:11-13; A-ghê 2:3). Đức Chúa Trời đã sai tiên tri Xa-cha-ri đến hỏi họ: “ai là kẻ khinh dể ngày của những điều nhỏ mọn?” (Xa-cha-ri 4:10). Hãy nhìn về quá khứ để thấy Áp-ra-ham và Sa-ra là những người đầu tiên đặt nền tảng cho tuyển dân. Đức Chúa Trời có thể làm những điều kỳ diệu bất chấp những nghĩ suy “bất khả thi” của con người. Từ một đôi vợ chồng già đã sản sinh ra một dân tộc lớn mạnh hùng cường để qui vinh hiển về cho Ngài. Những lời này dành cho những ai đã mất hết hy vọng: “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.” (Xa-cha-ri 4:6). Lời tuyên hứa này của Chúa vẫn còn có hiệu lực đến hôm nay!

HÔM NAY DÂN SỰ CỦA CHÚA NHÌN VÀO SA-RA VÀ THẤY TỰ DO

Sứ đồ Phao-lô đã nghiên cứu về câu chuyện của Sa-ra và A-ga trong Sáng thế ký 16 và 21. Ông giải thích ý nghĩa hình bóng của hai người nữ này trong Ga-la-ti 4:21-31. Hội thánh tại Ga-la-ti lúc bấy giờ đang lẫn lộn giữa luật pháp của Môi-se với Phúc Âm của Chúa Jesus Christ. Phao-lô giải thích:
A-ga, người nữ nô-lệ đại diện cho luật pháp (Giê-ru-sa-lem dưới đất).

Sa-ra, người nữ tự chủ đại diện cho ân điển (Giê-ru-sa-lem trên trời).

Ích-ma-ên, con trai người nữ nô lệ được sinh ra trong xác thịt.

Y-sác, con trai người nữ tự chủ được sinh ra bởi ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời.

Áp-ra-ham không bao giờ có ý định ăn nằm với A-ga. Tuy nhiên trong một phút yếu lòng ông đã nghe theo lời của Sa-ra, đồng nghĩa là ông bất tuân mạng lệnh của Chúa. Ông đã đi theo xác thịt. Từ ngày thứ sáu của công cuộc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên A-đam và Ê-va. Ngài đã sáng tạo mọi vật trên căn bản của ân điển. Và điều này tiếp tục khi Ngài đối xử với Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép. Đức Chúa Trời ban những lời hứa – đó là ân điển. Dân sự của Chúa tin cậy, vâng phục Ngài và Ngài chúc phước cho họ. Luật pháp đã  được đặt thêm (Ga-la-ti 3:19), nó vốn không có từ buổi bình minh sáng tạo. Lời hứa và ân điển của Chúa đã song hành cùng nhau và giải phóng quyền năng của Đức Chúa Trời. Luật pháp và những nỗ lực cá nhân sánh vai cùng nhau và khích lệ công việc của xác thịt. “Sức mạnh tội lỗi là luật pháp” (1 Cô-rin-tô 15:56). Sa-ra đã sai lầm khi đưa ra một kế hoạch riêng làm cho chồng mình có con với A-ga, nhưng Sa-ra đã đúng khi đề nghị Áp-ra-ham đuổi A-ga và con trai nàng ra khỏi nhà. Ân điển ban cho chúng ta sự tự do, nhưng luật pháp biến chúng ta thành nô lệ. Luật pháp cho chúng ta biết rằng chúng ta cần ân điển, và ân điển làm cho chúng ta có khả năng vâng theo luật pháp bởi quyền năng Đức Thánh Linh (Rô-ma 8:3). Ngày hôm nay người tín hữu không giống như Ích-ma-ên nhưng giống như Y-sác (Ga-la-ti 4:28). Chúng ta được sinh ra bởi quyền năng Đức Chúa Trời và có thể đáp ứng những lời hứa của Ngài. Chúng ta được sinh ra trong hoàng tộc, và chúng ta được tự do. Nếu Sa-ra đại diện cho ân điển và Áp-ra-ham là hình ảnh của đức tin thì Y-sác được sinh ra bởi ân điển, nhờ đức tin (Ê-phê-sô 2:8-9). Áp-ra-ham và Sa-ra không thể sinh con lúc đã vượt qua tuổi giới hạn, họ không thể phá bỏ luật tự nhiên trong sinh đẻ. Nhưng với Đức Chúa Trời thì mọi sự đều có thể. Và đó chính là ân điển!

Đức Chúa Trời không muốn Áp-ra-ham có một “gia đình pha trộn” giữa: luật pháp và ân điển; tự chủ và nô lệ; quyền năng của Đức Chúa Trời và nỗ lực của con người. Con người trong sáng tạo cũ cần luật pháp, nhưng con người mới trong Chúa được giải phóng khỏi những đòi hỏi của luật pháp: “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (Ga-la-ti 5:1). Vì vậy chúng ta vui hưởng sự tự do trong Christ và dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời.

NHỮNG NGƯỜI VỢ TIN KÍNH NHÌN VÀO SA-RA VÀ THẤY VẺ ĐẸP CỦA MỘT TẤM GƯƠNG

Áp-ra-ham tìm đến Ai-cập khi vùng đất hứa đối diện với nạn đói kém. Ai-cập là nơi mà dòng dõi ông bị vấp phạm nhiều lần sau đó (Xuất 16:1-3; 17:1-3; Dân 14:1-4; Ê-sai 30:1-5; 31:1-3; Giê 37:1-10). Khi vào trong đất Ai-cập Áp-ra-ham không muốn Sa-ra trở nên một góa phụ (ông sợ bản thân bị vua Ai-cập giết chết để chiếm đoạt Sa-ra) vì vậy ông nhắc nàng về bí mật trong mối quan hệ giữa hai người. Những người Ai-cập nhìn thấy Sa-ra là một phụ nữ xinh đẹp, và các viên chức triều đình cũng thấy như thế. Họ trầm trồ về nhan sắc của Sa-ra trước mặt vua Pha-ra-ôn, và thế là Sa-ra được mời vào hậu cung (Sáng 12:10-16). Câu chuyện này cũng được lập lại lần nữa trong Sáng thế ký 20. Chúng ta biết được những thỏa thuận ngầm giữa đôi vợ chồng Áp-ra-ham từ hai câu chuyện này. Sứ đồ Phi-e-rơ cũng đề cập đến Sa-ra trong thư tín, ông không lên án cho hành động của Áp-ra-ham mà lại còn tán dương Sa-ra là người phụ nữ mẫu mực đáng nên tôn trọng (1 Phi-e-rơ 3:1-6). Sa-ra trở thành tấm gương cho những người vợ tin kính khác.

Một số chị em trong hội thánh vào thời của sứ đồ Phi-e-rơ đang cố gắng chinh phục người chồng chưa được cứu của mình qua vẻ đẹp bề ngoài và theo đuổi những tiêu chuẩn của văn hóa đương thời. Nhưng sứ đồ Phi-e-rơ khuyên bảo họ hãy tìm kiếm “sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng” (1 Phi 3:4). Phi-e-rơ khích lệ họ hãy bắt chước những phụ nữ tin kính trong Kinh Thánh, đặc biệt là Sa-ra. Không cần thiết cho các chị em phải tìm kiếm các trang sức bên ngoài như: “gióc tóc, đeo đồ vàng, mặc áo quần lòe loẹt”. Những phụ trang ấy không kéo người chồng của họ đến với Đấng Christ. Vẻ đẹp thực sự của phụ nữ phải đến từ bên trong. Những tố chất Cơ đốc bên trong là điều làm Chúa vui lòng.

Những chị em này có thể sẽ e ngại vì họ không “hấp dẫn bề ngoài” so với các phụ nữ ngoại bang, có thể họ sợ chồng của họ sẽ không thích phong cách khác người như vậy. Ở đây Phi-e-rơ khuyên họ phải vâng phục chồng mình trong tình yêu và đức tin. Giống như “Sa-ra gọi Áp-ra-ham là chúa mình” (1 Phi 3:5), và bà đã vâng phục chồng giống như vâng phục Chúa. Sa-ra làm được điều đó vì bà yêu mến Áp-ra-ham và sẵn lòng vâng phục ông. Không có sự sợ hãi hay dao động nào trong tấm lòng của bà với chồng mình. Ngay cả khi Sa-ra già đi, bà vẫn luôn luôn là “người vợ xinh đẹp” của Áp-ra-ham.

Mỗi thời đại đều có những xu hướng thời trang mới và nó bày tỏ ra “đẳng cấp” của từng giới. Loài người xem bề ngoài, nhưng Chúa có cái nhìn khác (1 Sa-mu-ên 16:7). Cơ đốc nhân có thể không “thời trang và hấp dẫn” như người ngoại bang, nhưng chúng ta có bông trái của Đức Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-23). Sách Châm Ngôn là tiêu chuẩn của các chị em chúng ta: “Duyên là giả dối, sắc lại hư không; Nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giê-hô-va sẽ được khen ngợi” (Châm 31:30).

Chúng ta cần trưởng thành trong tình yêu, đức tin, hy vọng, sự tự chủ và vẻ đẹp chân thật bên trong. Chúng ta sẽ được giúp đỡ mỗi khi nhìn vào Công Chúa Sa-ra, mẹ của những người tin kính.

Bài 10

Y-SÁC

“Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” Sáng. 22:14

Giê-hô-va Di-rê, nghĩa là “Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” là một trong những danh xưng của Chúa được tìm thấy trong Cựu Ước. Tại nơi Áp-ra-ham chuẩn bị giết con trai mình để dâng của lễ thiêu, Đức Giê-hô-va đã sắm sẵn một con chiên đực để thay thế cho Y-sác. Nhưng mệnh đề “Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” không chỉ là diễn tả trải nghiệm của cha con Áp-ra-ham trên núi Mô-ri-a, mà còn là kinh nghiệm cá nhân trong suốt cuộc đời của Y-sác.

Y-sác là con của một người cha trứ danh, đồng thời ông cũng là cha của một người con nổi tiếng. Y-sác có những vinh quang và mạo hiểm như của Áp-ra-ham và Gia-cốp? Chúng ta thử nhìn việc này qua cuộc đời ông. Y-sác sống được 180 năm (Sáng. 28-29) hơn hẳn cả cha Áp-ra-ham và con trai Gia-cốp của ông. Tuy nhiên thời gian trên đất của ông không có nhiều sự kiện quan trọng. G. Campbell Morgan đã bình luận, “Chúng ta cho rằng đời sống của Áp-ra-ham thú vị hơn Y-sác, và đời sống của Gia-cốp thì có nhiều sự kiện ấn tượng hơn Y-sác, nhưng với cái nhìn của Đức Chúa Trời thì khác.” Sứ đồ Phao-lô dạy, “chúng ta cũng như Y-sác, là con của lời hứa.” (Gal. 4:28). Và một trong những lời hứa lớn nhất là, “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phil. 4:19). Vì vậy danh xưng thần thánh “Giê-hô-va di-rê” cũng diễn tả kinh nghiệm của chúng ta – là những người bước đi bởi đức tin ngày hôm nay.

 

ĐẤNG CUNG ỨNG CHO Y-SÁC
Khi Y-sác bước đi bởi đức tin, Đức Chúa Trời cung ứng cách chính xác những nhu cầu cho ông. Bắt đầu cho việc này, Chúa đã cung ứng cho ông một di sản. Áp-ra-ham xây dựng cơ nghiệp của mình trong nhiều năm. Gia-cốp cũng vậy. Nhưng Y-sác thì khác, ngay khi sinh ra ông đã là người giàu có. Sa-ra đã chuẩn bị một cơ nghiệp cho Y-sác, bà nói với chồng mình sau khi A-ga sinh Ích-ma-ên, “ Hãy đuổi con đòi với con nó đi đi, vì đứa trai của con đòi nầy sẽ chẳng được kế nghiệp cùng con trai tôi là Y-sác đâu.” (Sáng. 21:10). Áp-ra-ham sau đó cưới thêm Kê-tu-ra, người vợ thứ hai. Dòng dõi của Kê-tu-ra nhận được những tiền của từ Áp-ra-ham, nhưng hết thảy gia tài của ông là dành cho Y-sác (Sáng. 25:1-6). Điều này cũng được Ê-li-ê-se, quản gia của Áp-ra-ham xác nhận trong Sáng thế ký 24:35-36, “Đức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài cho chủ tôi chiên bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã giao gia tài mình lại hết cho con trai đó.” Y-sác cũng được Chúa ban phước bội phần trong nông nghiệp và chăn nuôi. Sáng-thế-ký 26:12-14 ghi lại: “Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Đức Giê-hô-va đã ban phước cho. Người nên thạnh vượng, của cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên rất lớn. Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân Phi-li-tin đem lòng ganh ghét.” Rõ ràng Y-sác đã tin cậy vào danh xưng của Đức Chúa Trời “Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” Và ông đã kinh nghiệm điều này.
Lưu ý rằng bài học từ Y-sác không có nghĩa là Chúa sẽ làm cho mỗi con cái của Ngài trở nên giàu có trong đời sống vật chất. Đôi khi chuyện đó không xảy ra. Những sự đầu tư của Cơ đốc nhân vào tài chánh và đất đai không phải lúc nào cũng mang lại kết quả nhân bội. Tuy nhiên Đa-vít đã viết trong Thi thiên 37:25 sự quan sát của ông: “Trước tôi trẻ, rày đã già. Nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ. Hay là dòng dõi người đi ăn mày.” Chúng ta nhận được sự ban phước thuộc linh trong Christ, “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời…. soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao.” (Êph. 1:3,18)

 

Chúng ta nhìn thấy con chiên đực mà Chúa dự bị để chết thay cho Y-sác. Cũng vậy Đức Chúa Trời cung ứng Chúa Jesus Christ – Con Ngài để chết thay cho chúng ta. Điều này thuyết phục Cơ đốc nhân tin rằng Đức Chúa Trời đã ban Chúa Jesus – là món quà tốt nhất cho chúng ta. Bây giờ có điều gì mà chúng ta chưa nhận được trong Chúa Jesus? Hay là Đức Chúa Trời từ chối không cho chúng ta những phước hạnh khác? Rô-ma 8:32 nói gì? “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” Vậy thì, khi chúng ta có Chúa Jesus Christ, còn điều gì nữa mà chúng ta chưa nhận lãnh?
Khi Y-sác bốn mươi tuổi, Đức Chúa Trời dự bị một người vợ đúng nhu cầu cho ông. Điều quan trọng là Y-sác đã có một người vợ trong chương trình của Chúa. Ông và Rê-be-ca đều liên quan đến lời hứa về Đấng Mê-si sẽ đến.
Trong Sáng thế ký 26:12-31, các người láng giềng của Y-sác đã tạo ra các nan đề về giếng nước. Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sác sự khéo léo và khôn ngoan để ông tránh khỏi các cuộc xung đột, và cuối cùng tình hữu nghị giữa hai bên đã thắng. Nhưng sau đó Ê-sau, con trai của Y-sác cưới hai người vợ ngoại bang. Chuyện này đã làm cho tấm lòng của Y-sác và Rê-be-ca đau khổ (Sáng. 26:34-35).
Điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời Y-sác là Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự bảo đảm về một cơ nghiệp trên thiên đàng. Những tổ phụ sống và chết bởi đức tin nhìn thấy trước một quê hương tốt hơn mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho họ. Họ “trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là kẻ khách và bộ hành trên đất…” (Hêb. 11:13-16). Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong một thế giới đầy rủi ro và biến động, nhưng bất luận điều gì xảy ra, chúng ta biết rằng chúng ta đã có một ngôi nhà đời đời trên thiên đàng. Chúa Jesus đang ở thiên đàng, và Ngài đã sắm sẵn một chỗ cho dân sự của Ngài (Giăng 14:1-6). Và khi giờ G đến, hội thánh sẽ được cất lên để gặp Ngài trong vinh hiển. Tương lai của chúng ta đã được Chúa bảo đảm.

 

SỰ CUNG ỨNG THÔNG QUA CHÚA JESUS.
Trong sách Phúc Âm Giăng, Chúa Jesus phán với những người lãnh đạo tôn giáo chống đối Ngài: “Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của ta; người đã thấy rồi, và mừng rỡ.” (Giăng 8:56).
Đối với những người này, lời Chúa phán như thế là phạm thượng, vì vậy họ lấy đá để ném vào Ngài. Nhưng những lời Chúa nói không hề có ý phạm thượng nào, vì trong đôi mắt đức tin Áp-ra-ham đã nhìn thấy những ngày của Chúa Jesus.

 

Đối với người nhạy cảm thuộc linh như Áp-ra-ham, thì những sự kiện trong cuộc đời ông đã chỉ ông đến với lời hứa về một Đấng Mê-si. Điều này được bao hàm trong câu chuyện về sự sinh ra của Y-sác, dâng Y-sác lên bàn thờ – chấp nhận mất đi đứa con trai yêu quí. Nhưng cuối cùng không phải mất, nhưng Áp-ra-ham lại nhận được con mình (Hêb. 11:19). Còn nữa, Rê-be-ca cũng là một phép lạ trong ân sủng (Sáng. 24). Ngày hôm nay, nhờ Thánh Linh chúng ta nhận ra lời hứa về Đấng Mê-si đến qua những chuỗi sự kiện này. Nhưng Áp-ra-ham đã trải nghiệm những điều đó cách đây nhiều thế kỷ, trong một ý nghĩa ông đã nhìn vào tương lai và thấy Chúa Jesus!
“Cha yêu Con, và đã giao hết mọi vật trong tay Con.” (Giăng 3:35). Câu này nhắc chúng ta nhớ đến Sáng thế ký 24:35-35 và 25:5. “Đức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài cho chủ tôi chiên bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã giao gia tài mình lại hết cho con trai đó…. Áp-ra-ham cho Y-sác hết thảy gia tài mình.” Lẽ thật này được nhắc lại một lần nữa trong Giăng 13:3 và 16:15. “Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình…. Mọi sự Cha có, đều là của ta;” Không giống như Y-sác, Chúa Jesus sinh ra trong khó nghèo. Tân Ước mô tả về Ngài: “Cáo có hang, chim trời có tổ, song Con Người không có chỗ gối đầu.” Trong suốt chức vụ, Chúa Jesus đã phải mượn: chiếc thuyền của Phi-e-rơ, bữa ăn trưa của một bé trai, con lừa của một môn đồ vô danh. Và sau khi chết Ngài được chôn trong một cái mộ mượn của người khác. Nhưng Con Người vô sản đó đã làm giàu cho biết bao người trên thế giới. “Vì anh em biết ơn của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài vốn giàu, vì anh em mà tự làm nên nghèo, hầu cho bởi sự nghèo của Ngài, anh em được nên giàu.” (2 Côr. 8:9)
Không có Chúa Jesus, nhân loại có thể giàu có trong thế giới hiện tại, nhưng nghèo khó trong đời hầu đến. Nhưng khi có Chúa Jesus, người ta có thể nghèo khó trong đời này, nhưng chắc chắn sẽ giàu có ở đời sau (Lu-ca 6:20-23), hoặc thậm chí giàu có trong đời này và đời sau cũng vậy (1 Tim. 6:17-19). Cơ đốc nhân là những đường ống dẫn nước, không phải hồ chứa nước. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta để chúng ta có khả năng ban phước cho người khác. “Vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình. Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự, vì Ngài là đầu của mọi quyền cai trị và mọi thế lực.” (Côl. 2:9-10). Y-sác sinh ra đã là người giàu có, và khi chúng ta được tái sinh trong Christ – chúng ta cũng giàu có như Y-sác. Chúng ta trở nên giống như Chúa Jesus và các sứ đồ: “ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng; ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có; ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự!” (2 Côr. 6:10). Thật là một nghịch lý, nhưng đó là thực tế sinh động của đặc quyền đời sống Cơ đốc!

 

ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHO SỰ CUNG ỨNG
Chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng trách nhiệm của con cái Chúa là làm vui lòng Ngài theo đường lối của Ngài. Trong lúc tuổi vị thành niên Y-sác đã làm vui lòng cha Áp-ra-ham, thậm chí dâng nộp đời sống mình cho cha. Nhưng khi về già ông đã xoay xở làm theo ý riêng (Sáng. 27). Thay vì chúc phước cho Gia-cốp là người con xứng đáng hơn Ê-sau (Ê-sau trước đó đã cưới hai người vợ dân Ca-na-an), thì ông đã thiên vị Ê-sau và định tâm chỉ chúc phước cho Ê-sau mà thôi. Vì thế mới xảy ra câu chuyện lừa đảo của hai mẹ con Rê-be-ca và Gia-cốp sau đó. Cuối cùng Chúa đã dùng sự thiên vị của Y-sác dành cho Ê-sau mà chuyển phước hạnh đến Gia-cốp. Đúng là “trong lòng loài người có nhiều mưu kế, nhưng chỉ có Ý Chúa mới thành tựu.” Bài học nào ở đây? Y-sác đã có một khởi đầu tốt, nhưng kết thúc lại không tốt.
Trong suốt 20 năm dài sau hôn nhân, Y-sác và Rê-be-ca chờ đợi sinh hạ một đứa con. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Y-sác cầu khẩn Đức Giê-hô-va về chuyện này, và Chúa đã trả lời sự cầu nguyện của ông. Chúng ta đọc Sáng. 25:21-23: “Y-sác khẩn cầu Đức Giê-hô-va cho vợ mình, vì nàng son sẻ. Đức Giê-hô-va cảm động lời khẩn cầu đó, nên cho Rê-bê-ca thọ thai. Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao điều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ.”
Lịch sử lập lại ở đây! Đức Chúa Trời “đảo ngược” phước hạnh của đứa con thứ nhất sang đứa con thứ nhì.
A-bên là em, không phải Ca-in; Sem và Gia-phết nhỏ hơn, không phải là Cham; Gia-cốp chứ không phải Ê-sau. A-bên, Sem, Gia-phết và Gia-cốp là những con thứ, không phải trưởng nam. Đứa con thứ nhì là kế hoạch của Chúa. Đấng Mê-si sẽ đến không qua dòng dõi Ê-sau là con trưởng nam, nhưng là Gia-cốp – đứa con thứ nhì.
Có phải kế hoạch giành lấy phước lành mà Y-sác chúc cho Ê-sau, của hai mẹ con Rê-be-ca và Gia-cốp là không đúng đắn? Làm sao để có thể thay đổi tâm trí của Y-sác vào lúc đó? Đức Chúa Trời đã cho phép hai mẹ con thành công trong kế hoạch hoán đổi Gia-cốp thành Ê-sau, nhưng đổi lại Gia-cốp phải ra đi sau đó không còn gặp lại mẹ của mình nữa. Và cuộc đời ông sau này cũng bị các con trai lừa dối trong việc bán Giô-sép qua xứ Ê-díp tô.
Tuy nhiên, Y-sác là nguyên nhân của rắc rối trong gia đình khi ông thiên vị Ê-sau và định tâm chúc phước cho con trai trưởng. Ông chúc phước cho Ê-sau vì nghĩ rằng mình sắp chết, nhưng thực ra sau đó ông còn sống thêm 40 năm nữa. Tổng cộng ông đã sống trên đất 180 năm. Những năm cuối đời thay vì sống theo ý Chúa, ông đã sống theo ý riêng. Ông tuỳ thuộc vào cảm xúc, đụng chạm, nếm thức ăn …thay vì tùy thuộc vào sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời trong việc bị Gia-cốp đánh lừa. Khi biết rằng Gia-cốp đã dùng mánh khóe lấy đi phước lành của Ê-sau, Y-sác xúc động mãnh liệt và ông biết mình đã phạm sai lầm (Sáng. 27:33).
Đức Chúa Trời tể trị mọi biến cố xảy ra. Ngài không cho phép con người hoàn thành kế hoạch của họ. Câu cổ ngữ này vẫn còn đúng: “Đức Chúa Trời ban điều tốt nhất cho những ai Ngài đã chọn.”

 

Bài 11

RÊ-BE-CA

Mẹ đáp rằng: Con ơi! Xin sự rủa sả đó để cho mẹ chịu; hãy cứ nghe lời mẹ, ra bắt hai dê con.

Sáng thế ký 27:13

Trước khi chết, Áp-ra-ham đã ban tất cả gia tài cho con trai Y-sác. Ông cũng ra lệnh cho Ê-li-ê-se, người quản gia trung tín nhất trong nhà đi tìm một người vợ cho Y-sác:  “Ngươi không cưới một cô nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, tức giữa dân ấy ta trú ngụ, làm vợ cho con trai ta.  Nhưng hãy đi về quê hương ta, trong vòng bà con ta, cưới một người vợ cho Y-sác, con trai ta” (Sáng 24:3-4). Chuyện tình duyên của Y-sác và Rê-be-ca khởi đầu trong vui mừng hạnh phúc, nhưng kết thúc lại là một câu chuyện buồn. Tuy nhiên Đức Chúa Trời tể trị mọi biến cố xảy ra và hoàn thành mục đích của Ngài.

 

SỰ HƯỚNG DẪN

Từ providence (sự dự phòng) trong Tiếng Anh đến từ hai từ Latin: pro và video. Hai từ này ghép lại có nghĩa là nhìn thấy trước. Các nhà thần học gọi sự dự phòng thần thượng từ trước là kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho con người  để hoàn thành ý muốn của Ngài trên chúng ta. Là những con cái vâng lời Chúa thì những gì xảy ra cho chúng ta không phải là ngẫu nhiên tình cờ, nhưng đó là kế hoạch thiên thượng mà Chúa đã lập trình cho chúng ta. Sáng thế ký chương 24 là minh họa tốt nhất cho điều này.

Vâng lời Áp-ra-ham, “người đầy tớ bắt mười con lạc đà trong bầy của chủ mình, đem theo đủ các tài vật của chủ đã giao, rồi đứng dậy đi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành của Na-cô” (câu 10) bắt đầu cuộc hành trình tìm vợ cho Y-sác. Trước đó Áp-ra-ham nhận được một lời hứa từ Đức Chúa Trời, “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy!” và ông truyền lệnh cho người quản gia trung tín, “Chính Chúa sẽ sai thiên sứ đi trước ngươi, và nơi đó ngươi hãy cưới một vợ cho con trai ta” (câu 7). Ê-li-ê-se đã lập lại điều này khi ông bước vào trong gia đình của Rê-be-ca (câu 40). Trong ơn thần hựu (chúng ta có thể xem là tình cờ) người quản gia trung tín đến đúng nơi chốn và cũng đúng thời điểm mà Rê-be-ca xuất hiện bên giếng nước. Ông hỏi nàng, “Cô là con gái của ai?” Đối với chúng ta ngày nay câu này cũng có nghĩa là: Bạn là con của Đức Chúa Trời hay là con cái của thế gian?

Ngay trong tình huống đầu tiên Rê-be-ca xuất hiện và trở thành người nữ mà Đức Chúa Trời đã chọn cho Y-sác. Rê-be-ca cũng như Sa-ra là những người nữ xinh đẹp, tài năng, tin kính trong Kinh Thánh. Y-sác còn có thể mong ước điều gì hơn thế!

QUYẾT ĐỊNH

Rê-be-ca là một người phụ nữ quyết định và thể hiện điều đó theo cách cô ấy chào đón người quản gia, chăm sóc ông cùng những con lạc đà của ông, và đưa ông đến nhà cô. Câu chuyện đầy kịch tính khi La-ban là anh trai của Rê-be-ca nhìn thấy “khoanh vàng và đôi xuyến nơi tay em gái”. La-ban đã nói với Ê-li-ê-se, “Hỡi người đã được Đức Giê-hô-va ban phước! Xin mời vào. Sao đứng ngoài nầy vậy? Tôi đã sửa soạn nhà và dọn dẹp một nơi cho mấy con lạc đà rồi” (câu 31). Rất hiếu khách và lịch sự! Đây cũng chính là La-ban, người mà sau đó đã cố gắng loại bỏ Gia-cốp khỏi mọi thứ anh ta kiếm được và sẽ thành công nếu Chúa không can thiệp. Như chúng ta sẽ thấy, bên dưới ân sủng và vẻ đẹp tuyệt vời của Rê-be-ca, người nữ này đã che giấu một số mưu tính của anh trai mình.

Trong thế giới hiện nay, tình bạn giữa hai người khác phái có thể dẫn đến tình yêu. Tình yêu gắn kết sẽ dẫn đến hôn nhân. Điều này không giống với thời đại của Rê-be-ca. Lúc đó hôn nhân đến trước, rồi tình yêu mới phát triển sau đó. Rê-be-ca và Y-sác phải học tập để yêu nhau. Việc cưới xin là đặc quyền của cha mẹ cô dâu hoặc người giám hộ để chọn một người chồng và sắp xếp cho cuộc hôn nhân. Vì vậy chúng ta thấy câu chuyện ở đây, người quản gia bước vào trong nhà của Rê-be-ca, trình ra các sính lễ, trình bày câu chuyện và chờ đợi sự quyết định từ phía gia đình người nữ.

Đến đây chúng ta bắt đầu phát hiện các vấn đề của gia đình? Bê-tu-ên là cha của Rê-be-ca vẫn còn sống (Sáng. 24:50), nhưng Rê-be-ca “chạy về, thuật chuyện nầy (chuyện đã gặp Ê-li-ê-se) lại cho nội nhà mẹ mình” (câu 28). Những phụ nữ thời đó sống trong những căn lều tách biệt, và có phải bất cứ chuyện gì xảy ra Rê-be-ca cũng thuật lại cho mẹ mình trước tiên? Chỉ có người quản gia của Áp-ra-ham đã đến mang theo những món quà quý giá. Có phải trực giác nữ tính của Rê-be-ca đã nói với cô ấy rằng đó là một lời cầu hôn được thực hiện, hay việc con gái chia sẻ tin tức đặc biệt trước với mẹ là điều tự nhiên? Rõ ràng là mẹ của Rê-be-ca theo cách tự nhiên sẽ bảo con gái mình thuật lại câu chuyện với cha và anh trai. Và tình huống xảy ra tiếp theo có vẻ như La-ban là người chịu trách nhiệm thay mặt gia đình giải quyết vấn đề. Cha của Rê-be-ca dường như không đóng vai trò chính trong những quyết định của gia đình mà thay vào đó là mẹ và anh trai. Trong câu 55 chúng ta thấy điều này: “Nhưng anh và mẹ nàng nói rằng: Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi: (câu 55). Bê-tu-ên nắm giữ một vai trò mờ nhạt hơn trong câu chuyện này, ông cũng nhận biết chuyện tình duyên của con gái bởi Đức Chúa Trời mà đến (câu 50) nhưng sự quyết định các chi tiết khác nằm trong quyền hạn của vợ ông và con trai. Có gợi ý ở đây rằng Rê-be-ca được thừa hưởng khả năng quyết định mạnh mẽ từ mẹ? Sau đó nàng đưa ra một quyết định “tôi sẽ đi” với người quản gia của Áp-ra-ham, và không có ai thảo luận hay ngăn cản nàng chuyện này.

 

SỰ THÀNH TÂM

Những sự kiện xảy ra trong cuộc hành trình dài của Rê-be-ca không được đề cập đến. Một lần nữa chúng ta thấy bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời trong việc Y-sác chuẩn bị đón rước Rê-be-ca. Khi Rê-be-ca đến từ đàng xa, y-sác đang đi dạo suy ngẫm trên cánh đồng. Y-sác “nhướng mắt lên, kìa ngó thấy lạc đà đâu đi đến” (Sáng. 24:63) và rồi cô dâu xuất hiện. Không cần giấy phép hoặc nghi lễ đặc biệt nào được bày ra để Y-sác nhận Rê-be-ca làm vợ. “Y-sác bèn dẫn Rê-bê-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình, lấy làm vợ, và yêu mến nàng” (Then Isaac brought her into his mother Sarah’s tent; and he took Rebekah and she became his wife, and he loved her) (câu 67). Điều này được mọi người mặc nhiên chấp nhận vào thời điểm đó.

Y-sác yêu mến người vợ xinh đẹp Rê-be-ca và nỗi buồn vì mẹ Sa-ra qua đời phai nhạt dần. Trong một chừng mực nào đó nhiều người vợ phải “làm mẹ” cho chồng của họ. Và ở đây Y-sác hiện ra như một người đàn ông nhiều cảm xúc và sống nội tâm. Nhưng nếu mẹ chồng của Rê-be-ca luôn hiện diện trong trái tim và ký ức của chồng, thì nàng liệu có dành được một chỗ nào trong tấm lòng của Y-sác? Chúng ta biết rằng Y-sác yêu mẹ mình và cảm thấy đau buồn sâu sắc trước cái chết của bà, nhưng giờ đây ông đã có một người vợ yêu quí xinh đẹp, và Rê-be-ca xứng đáng với tất cả tình cảm của ông dành cho nàng.

SỰ PHÂN CHIA

Cặp đôi hạnh phúc Y-sác và Rê-be-ca phải chờ đợi hai mươi năm trước khi Chúa ban cho những đứa con đầu tiên. Ngay trước khi hai đứa con sinh đôi chào đời, đã có sự xung đột của hai đứa trẻ trong lòng mẹ. “Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao điều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va.  Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ” (Sáng. 25:19-34). Bản Kinh Thánh Tiếng Anh NKJ ghi: “bọn trẻ chống lại nhau (the children struggled together within her. V 22). Điều này có nghĩa từ khi còn trong bụng mẹ, hai anh em Ê-sau và Gia-cốp đã hục hặc với nhau.
Khi hai trẻ sinh đối này lớn lên, Kinh Thánh ghi: “Ê-sau trở nên một thợ săn giỏi, thường giong ruổi nơi đồng ruộng; còn Gia-cốp là người hiền lành cứ ở lại trại.  Y-sác yêu Ê-sau, vì người có tánh ưa ăn thịt rừng; nhưng Rê-bê-ca lại yêu Gia-cốp” (câu 27-28). Chúng ta thấy rằng Y-sác là mẫu người suy ngẫm sống nội tâm trong khi Rê-be-ca là người hướng ngoại thích các hoạt động bên ngoài. Thông thường cha mẹ cố gắng truyền đạt cho con cái phong cách sống mà họ mong muốn nhưng không bao giờ có thể đạt được. Đôi khi con cái sống theo cách đối lập với cha mẹ chúng.

 

 

 

 

 

    

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên