Trang Chủ KINH THÁNH Bền Lòng Cầu Nguyện

Bền Lòng Cầu Nguyện

5
0
SHARE

Kinh thánh: Lu-ca 18:1-8

Câu gốc: “Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện” (Rô-ma 12:12)

Những điểm chính của bài giảng:

1. Những tấm gương về sự cầu nguyện:
  – Chúa Giê-su (Mác 1:35)

  – Người phụ nữ Ca-na-an (Ma-thi-ơ 15:22-28)

  – Hội thánh đầu tiên (Công vụ 4:31)

2. Cầu nguyện theo ý muốn Chúa sẽ tác động đến chính Ngài:  (1 Giăng 5:14 )

3. Đức tin để cầu nguyện:

  – Ít đức tin (Ma-thi-ơ 8:26;  Mác 9:17-23)

  – Đức tin lớn (Ma-thi-ơ 8:5-10)

Lu-ca 18:1-8

 Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ một thí dụ, để tỏ ra rằng phải cầu nguyện luôn, chớ hề mỏi mệt: 2 Trong thành kia, có một quan án không kính sợ Đức Chúa Trời, không vị nể ai hết. 3 Trong thành đó cũng có một người đàn bà góa, đến thưa quan rằng: Xin xét lẽ công bình cho tôi về kẻ nghịch cùng tôi. 4 Quan ấy từ chối đã lâu. Nhưng kế đó, người tự nghĩ rằng: Dầu ta không kính sợ Đức Chúa Trời, không vị nể ai hết, 5 song vì đàn bà góa nầy khuấy rầy ta, ta sẽ xét lẽ công bình cho nó, để nó không tới luôn làm nhức đầu ta. 6 Đoạn, Chúa phán thêm rằng: Các ngươi có nghe lời quan án không công bình đó đã nói chăng? 7 Vậy, có lẽ nào Đức Chúa Trời chẳng xét lẽ công bình cho những người đã được chọn, là kẻ đêm ngày kêu xin Ngài, mà lại chậm chạp đến cứu họ sao! 8 Ta nói cùng các ngươi, Ngài sẽ vội vàng xét lẽ công bình cho họ. Song khi Con người đến, há sẽ thấy đức tin trên mặt đất chăng?-

Bà góa này, giống như người đàn ông đã đòi bánh mì từ người hàng xóm giữa đêm khuya trong Lu-ca 11:5-8. Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Nếu một người trong các ngươi có bạn hữu, nửa đêm đến nói rằng: Bạn ơi, cho tôi mượn ba cái bánh, 6 vì người bạn tôi đi đường mới tới, tôi không có chi đãi người. 7 Nếu người kia ở trong nhà trả lời rằng: Đừng khuấy rối tôi, cửa đóng rồi, con cái và tôi đã đi ngủ, không dậy được mà lấy bánh cho anh; 8 ta nói cùng các ngươi, dầu người ấy không chịu dậy cho bánh vì là bạn mình, nhưng vì cớ người kia làm rộn, sẽ dậy và cho người đủ sự cần dùng.

Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC ÁP DỤNG TỪ LU-CA 18:1-8

 Tính cách nóng nảy của bà thật khác thường so với một người phụ nữ trong xã hội gia trưởng đó, nhưng bà mang trong mình trọng lượng của Kinh Thánh và công lý. Bà sống trên nền tảng đạo đức cao cả, và ai cũng biết điều đó. Vị thẩm phán này sẽ không dung thứ cho hành vi cằn nhằn này của một người đàn ông, nhưng ngay cả một vị thẩm phán không biết xấu hổ cũng phải tỏ ra kiên nhẫn trước một người phụ nữ được Kinh Thánh bảo vệ và sự đồng cảm của cộng đồng.

“Ông ta không chịu” (câu 4a). Có lẽ vị thẩm phán đang chờ hối lộ. Có lẽ ông ta dành sự ưu ái cho những người giàu có hoặc có thế lực hơn. Có lẽ ông ta chỉ không muốn bị làm phiền.

“Nhưng sau đó, ông tự nhủ: ‘Dù ta không kính sợ Đức Chúa Trời, cũng không nể nang ai cả, nhưng vì bà góa này cứ quấy rầy ta, ta sẽ bênh vực bà ta, kẻo bà ta cứ đến liên tục làm ta mệt mỏi’” (câu 4b-5). Tuy vị quan tòa không quan tâm đến Chúa hay con người, ông nhận ra rằng người phụ nữ này có thể gây rắc rối cho mình. Có hai khả năng khiến vị quan tòa lo lắng:

1/ Một là ông đơn giản là mệt mỏi vì sự hiện diện dai dẳng của bà ta và muốn thoát khỏi bà ta.

2/ Khả năng khác là ông có thể bị cộng đồng chỉ trích vì ngược đãi một góa phụ. Một số học giả bác bỏ lời giải thích này, bởi vì Chúa Giê-su nói với chúng ta rằng vị quan tòa này “không kính sợ Đức Chúa Trời, cũng không kính trọng người ta” hoặc “không biết xấu hổ” (câu 2). Tuy nhiên, các quan tòa thường rất tinh tường về mặt chính trị. Vị quan tòa này có thể không kính trọng người ta và không biết xấu hổ, nhưng ông biết rằng mọi người mong đợi ông giúp đỡ các góa phụ (qua đó ông có thể đánh bóng tên tuổi của mình). Việc ông liên tục từ chối làm như vậy có thể làm suy yếu vị thế của ông trong cộng đồng—thậm chí có thể khiến ông mất việc.

Nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến việc chúng ta hiểu câu chuyện ngụ ngôn này tại sao vị quan tòa này lại cho người phụ nữ những gì bà ta muốn. Vị quan tòa này không phải là “người thay thế” cho Chúa. Ngược lại, dụ ngôn này đối lập vị quan tòa gian ác này với Đức Chúa Trời yêu thương, công bình của chúng ta.

LU-CA 18:6-8. “Há chẳng phải Đức Chúa Trời XÉT LẼ CÔNG BÌNH cho những người Ngài đã chọn sao?”

6 Chúa phán: “Hãy nghe lời vị quan tòa bất công ấy nói. 7 Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không xét lẽ công bình cho những người Ngài đã chọn, là những người ngày đêm kêu xin Ngài, mà Ngài lại chậm đến cứu họ sao? 8 Ta nói cho các ngươi biết, Ngài sẽ mau chóng xét lẽ công bình  họ. Tuy nhiên, khi Con Người đến, liệu Ngài có còn thấy đức tin trên mặt đất nữa không?”

Tra cứu chéo từ Cựu ước:

Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì  thiện; cái điều mà Đức Giêva đòi ngươi há chẳng phải  làm sự công-bình, ưa sự nhân-từ và bước đi cách khiêm-nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao? (Mi-chê 6:8).
Chúa muốn con dân Ngài làm điều công bình, thì có lẽ nào chính Ngài lại từ chối làm điều công bình cho dân được tuyển chọn của Ngài?

“Chẳng lẽ Đức Chúa Trời lại xét lẽ công bình cho những người Ngài đã chọn” (câu 7a). Chúa Giê-su lập luận từ cấp thấp đến cấp cao. Nếu vị quan tòa bất công làm điều đúng đắn cho bà góa này, dù với lý do sai trái, thì chúng ta không thể mong đợi Đức Chúa Trời làm điều đúng đắn cho chúng ta sao? Chúng ta không thể mong đợi một Đức Chúa Trời yêu thương minh oan cho “những người Ngài đã chọn” sao?

Ý niệm về những người được chọn (hay người được chọn) xuất hiện xuyên suốt cả Cựu Ước và Tân Ước. Đức Chúa Trời đã chọn Áp-ram và dòng dõi Áp-ram, đưa họ vào mối quan hệ giao ước, khiến Y-sơ-ra-ên được biết đến là dân được chọn của Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 12:1-3; Phục truyền luật lệ ký 7:6). Tân Ước tiếp tục sự hiểu biết này, nhưng với Hội thánh là tập thể các dân tộc được Đức Chúa Trời chọn – những người được chọn (Cô-lô-se 3:12; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:4; 2 Ti-mô-thê 2:10; Tít 1:1; 1 Phi-e-rơ 1:1-2; 2:9).

“những người ngày đêm kêu cầu Ngài” (câu 7). Câu chuyện này cho thấy mỗi lời cầu nguyện phải thấm sâu vào tận đáy lòng, điều mà chỉ có thể đạt được bằng sự lặp đi lặp lại không ngừng.  Nỗi đau khổ của những người kêu cầu Đức Chúa Trời ngày đêm nhắc nhở chúng ta về lời cầu nguyện của Chúa Giê-su ngay trước khi Ngài chịu chết. “Trong cơn hấp hối, Ngài càng cầu nguyện thiết tha. Mồ hôi Ngài trở nên như những giọt máu lớn rơi xuống đất” (22:44). Chúa Cha không đáp lại bằng cách cất chén đau khổ đi, nhưng bằng cách: “Có một thiên sứ từ trên trời hiện xuống cùng Ngài, mà thêm sức cho Ngài” (Lu-ca 22:43). Khi Cha thiên thượng từ chối một lời cầu nguyện, thì người cầu nguyện cũng điều chỉnh lời cầu nguyện của mình để xin Ý Cha được nên. Đây là trường hợp của Chúa Giê-su cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Hay như trường hợp của Phao lô, khi ông ba lần cầu xin Chúa cất cái dằm xóc vào thân thể của ông, thì Chúa trả lời ân điển ta đủ cho ngươi rồi (2 Cô-rinh-tô 12:7-9).

“Ngài sẽ mau chóng xét lẽ công bình cho họ” (câu 8a). Bà góa chỉ xin công lý và vị thẩm phán cũng chỉ ban công lý. Dụ ngôn này không ám chỉ rằng Chúa viết những tấm séc trắng. Thay vào đó, lời cầu nguyện không ngừng mài mòn những góc cạnh sắc bén trong cuộc sống chúng ta cho đến khi ý chí của chúng ta phù hợp với mục đích cứu chuộc của Chúa, khiến Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta một cách đúng đắn.

Công lý của Chúa có thể không nhanh chóng đối với chúng ta, bởi vì Chúa đo lường thời gian từ một góc nhìn rộng hơn. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa sẽ minh oan cho những người Ngài đã chọn.

Trong những lúc khó khăn, chúng ta nghe người ta nói: “Điều duy nhất chúng ta có thể làm là cầu nguyện” – như thể lời cầu nguyện là một sự thay thế cho những phương thuốc hữu ích khác. Dụ ngôn này dạy chúng ta rằng lời cầu nguyện tự nó đã là một phương thuốc hữu ích—nó vận dụng quyền năng của Chúa, khiến mọi thứ trở nên khả thi.

7Vậy, có lẽ nào Đức Chúa Trời chẳng xét lẽ công bình cho những người đã được chọn, là kẻ đêm ngày kêu xin Ngài, mà lại chậm chạp đến cứu họ sao! 8Ta nói cùng các ngươi, Ngài sẽ vội vàng xét lẽ công bình cho họ. Song khi Con người đến, há sẽ thấy đức tin trên mặt đất chăng?”

 “Tuy nhiên, khi Con Người đến, liệu Ngài có tìm thấy đức tin trên mặt đất không?” (câu 8b). Đây chính là ý chính của dụ ngôn. Chúa Giê-su tự hỏi liệu Ngài có tìm thấy đức tin để cầu nguyện khi Ngài trở lại hay không. Ngài ngụ ý rằng đức tin bền bỉ là điều có thể đạt được khi có sự cầu nguyện bền bỉ. Những người trung tín sẽ cầu nguyện, và lời cầu nguyện của họ sẽ làm gia tăng đức tin của họ.

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên