Trang Chủ BIỆN GIÁO ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA

687
0
SHARE

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA

Mười tám lần trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là Đấng Cứu Chuộc. Gióp có thể là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này về Đức Chúa Trời, khi ông nói, “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25). Đa-vít người viết thi thiên có chép, “Hỡi Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi và là Đấng cứu chuộc tôi, Nguyện lời nói của miệng tôi,
Sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi thiên 19:14). Ê-sai rất yêu thích hình ảnh này; ông đã sử dụng hình ảnh ấy đến mười ba lần. Ông viết, “Đấng chuộc ngươi tức là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên” (Ê-sai 54:5). Chúng ta có thể đã quá quen thuộc với danh xưng của Đức Chúa Trời là “Đấng Cứu Chuộc” của chúng ta đến nỗi chúng ta không nhận ra rằng điều đó thật ra là một phép ẩn dụ.

Từ “Đấng Cứu Chuộc” đến từ gaal có nghĩa là “thực hiện vai trò của một người thân và do đó cứu chuộc họ hàng của mình khỏi khó khăn hoặc hoạn nạn.”5 Điều nầy ngụ ý những công việc mà một người nhân đức và thành thật sẽ làm cho một người thân đang gặp cảnh khó khăn. Người họ hàng gần [“người bà con (nam),”] có trách nhiệm chuộc lại một mảnh ruộng mà trước đó đã được bán khi gặp cảnh khó khăn nhằm giữ lại tài sản của gia đình (Lê-vi 25:25). Người đó cũng có trách nhiệm mua lại và giải thoát cho một người họ hàng đã bán mình làm nô lệ vì nghèo đói (25:48-49). Người họ hàng cũng phải trả thù kẻ sát hại thành viên trong gia đình (Dân số ký 35:16-19). Ý tưởng đằng sau việc thi hành bổn phận này là sự thiệt mạng phải trả bằng mạng sống của kẻ sát nhân. Mỗi công việc “chuộc tội” này phải do người thân ruột thịt thực hiện.

Ba yêu cầu đối với một người chuộc lại. Thứ nhất, vì việc chuộc lại là nghĩa vụ của gia đình, nên chỉ người thân ruột thịt mới có quyền chuộc lại. Thứ nhì, vì việc chuộc lại rất tốn kém, nên người đó phải có đủ nguồn tài sản chuộc lại. Thứ ba, vì việc chuộc lại đòi hỏi phải có hành động dứt khoát, nên người ta phải có quyết tâm để chuộc lại. Sách Ru-tơ mô tả một “người bà con có quyền chuộc sản nghiệp” là người có quyền và tài sản để chuộc lại đất của Na-ô-mi và Ru-tơ nhưng không muốn làm như vậy (Ru-tơ 4: 1-8).

Khi Chúa được mô tả là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, hình ảnh cuối cùng nói đến Chúa Giê-su Christ. Đấng Christ đã trở thành người bà con của chúng ta khi Ngài mặc lấy thân xác con người và nhập thể qua sự hạ sinh bởi nữ đồng trinh (Ma-thi-ơ 1:18; Giăng 1:14). Là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, Đấng Christ có nguồn huyết báu của chính Ngài để trả giá cho sự cứu chuộc chúng ta (I Phi-e-rơ 1:18-19). Và Ngài đã quyết hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta (Mác 10:45). Chỉ một mình Chúa Giê-su Christ có thể ban cho “sự cứu rỗi [khỏi tội] bởi huyết Ngài” (Ê-phê-sô 1:7) và bởi ân điển Ngài (Rô-ma 3:24). Được làm dân sự của Đức Chúa Trời thật phước hạnh biết bao, khi biết rằng trong Ngài, họ có Đấng Cứu Chuộc mạnh mẽ (Giê-rê-mi 50:34).

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NƠI ẨN NÁU CỦA CHÚNG TA

Đa-vít cầu nguyện cùng Chúa rằng, “Chúa là nơi ẩn núp tôi; Chúa bảo hộ tôi khỏi sự gian truân” (Thi thiên 32:7). Hình ảnh này lại xuất hiện trong Thi thiên 119:114, “Chúa là nơi ẩn náu và cái khiên của tôi”. Đa-vít bày tỏ lòng tin tưởng rằng “trong ngày hoạn nạn” Đức Giê-hô-va sẽ “che khuất tôi trong đền của Ngài, Giấu tôi nơi kín mật của trại Ngài” (27:5).

Đường hầm Malinta nằm trên đảo Corregidor ở Vịnh Manila. Đường hầm này từng là kho vũ khí trước Thế chiến thứ hai. Nhưng khi Quân đội Nhật Bản xâm lược Philippines vào năm 1941, Đường hầm Malinta đã trở thành một bệnh viện quân đội và là tổng hành dinh của Tướng Douglas MacArthur. Sau nầy, khi máy bay chiến đấu Nhật Bản ném bom lên đảo Corregidor, đường hầm này đã đem lại sự sự che chở cho binh lính Mỹ và Philippines. Mặc dù ngày nay bị bỏ hoang, nhưng Đường hầm Malinta vẫn là một nhân chứng thầm lặng về sự bảo vệ mà nó mang lại cho những người lính khỏi các cuộc bắn phá chết người. Tôi hy vọng rằng không ai trong chúng ta từng phải đối mặt với những trận ném bom của máy bay chiến đấu. Nhưng thường thì dân sự của Đức Chúa Trời trải qua sự thù ghét của một thế giới đầy gian ác và không tin Chúa. Đối mặt với sự tấn công thuộc linh, các tín đồ có một nơi ẩn náu chắc chắn trong Đức Chúa Trời của chúng ta.

Yêu cầu duy nhất đối với những người tìm kiếm lối vào nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời là một thái độ ăn năn và đức tin. Sô-phô-ni đã chỉ dẫn những người trong thời của ông “tìm kiếm sự công bình” và “tìm kiếm sự nhu mì.” Kế đến ông khích lệ họ mà rằng, “hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va” (Sô-phô-ni 2:3).

Đức Chúa Trời là “nơi ẩn náu”, nơi con dân Ngài có thể tìm thấy sự an toàn và nương náu trong lúc nguy nan. Ngài là Đấng mà chúng ta có thể đến khi không ai khác biết hoặc hiểu những gì chúng ta đang trải qua. Là nơi ẩn náu của chúng ta, Ngài có thể ban sự che chở khi sự bảo đảm của con người bị thất bại.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NGUỒN NƯỚC SỐNG CỦA CHÚNG TA

Nếu Kinh thánh được viết ở Oregon là nơi có nhiều mưa chứ không phải tại xứ Y-sơ-ra-ên, thì hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước của chúng ta đã có thể không được nói đến. Nhưng phần lớn đất của Y-sơ-ra-ên chỉ hưởng được lượng mưa khá ít ỏi, nên nước ở đó rất quý báu. Trong những tháng mùa hè, khi mặt trời chiếu trực tiếp, rất dễ trở nên quá nóng và mất nước. Khi tôi đưa sinh viên đến Y-sơ-ra-ên, tôi nhắc họ mang theo nước trong các chuyến đi thực tế và uống thường xuyên.

Trong một vùng đất khô khan, Đức Giê-hô-va được tuyên bố là “nguồn nước sống của Y-sơ-ra-ên” (Thi thiên 68:26, NASB). Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời rằng, “Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa” (36:9). Qua diều này, ông muốn nói rằng Đức Chúa Trời là nguồn sự sống và sự tươi mát tâm linh cho những ai tin cậy Ngài.

Khi dân Y-sơ-ra-ên vào Xứ Đồi Núi sau cuộc chinh phục Ca-na-an, họ phát hiện ra rằng nhiều thành phố được xây dựng gần với suối nước tự nhiên. Ví dụ, Giê-ru-sa-lem cổ đại có Suối nước Gihon luôn chảy là nguồn nước chính của cư dân ở đó. Đây được gọi là “nước sống” vì trong dòng chảy liên tục của nó, nó sống động như thật và mang lại sự sống. Những con suối như vậy đã cung cấp cho dân Y-sơ-ra-ên một nguồn nước ngọt, trong lành. Nhưng khi các thành phố phát triển, nhu cầu về nước của họ thật sự cần phải đề cập đến. Nhu cầu này được đáp ứng bằng cách khoét các lỗ trên đá vôi và dẫn nước mưa vào các bể chứa trát vữa để sử dụng trong mùa khô kéo dài sáu tháng mỗi năm. Loại nước mưa này không ngọt và ngon như nước suối, đặc biệt khi có cặn hoặc tảo trong bể chứa. Nhưng vẫn còn hơn là không có nước!

Chúa đã sử dụng hình ảnh loại nước này khi khiển trách người Giu-đa trong Giê-rê-mi. 2:13. “Dân ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được.” Ở đây chúng ta khám phá ra rằng con người khao khát lẽ thật của Đức Chúa Trời, nhưng họ đang tìm kiếm sự thỏa mãn ở những nơi sai lầm. Họ tìm đến những “bể chứa” đầy bụi bặm và rạng nứt trong khi họ có thể tìm đến Nguồn nước sống làm nguôi cơn khát.

Hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước sống tâm linh và sự tươi mát đã cuối cùng được ứng nghiệm trong Chúa Giê-su. Ngài đã ban cho người nữ Sa-ma-ri “nước sự sống” (Giăng 4:10). Những ai uống từ giếng của Gia-cốp sẽ còn khát nữa, nhưng Chúa Giê-su phán, “Hễ ai…” (4:14). Chỉ có Chúa mới có thể làm dịu cơn khát thuộc linh của chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Đó là lý do tại sao Chúa Giê-su nói về nhu cầu thuộc linh của chúng ta mà rằng, “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống” (7:37). Thật đáng lưu tâm rằng chương cuối cùng của Kinh Thánh chứa đựng lời mời mọi người hãy thỏa mãn cơn khát thuộc linh của họ trong Đấng Christ: “Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không” (Khải huyền 22:17).


admin

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên