Trang Chủ KINH THÁNH Đức Chúa Trời và con người

Đức Chúa Trời và con người

5167
0
SHARE

GIÊ-HÔ-VA ĐỨC CHÚA TRỜI

Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời tôi, Chúa thật lớn lạ kỳ (Thi Thiên 104:1).

Quyển sách này sẽ giới thiệu với bạn những con người trong Kinh Thánh mà những kinh nghiệm về đời sống của họ sẽ giúp bạn có những hiểu biết tốt hơn về Đức Chúa Trời và chính bản thân bạn. Bạn sẽ gặp họ trong từng văn cảnh họ xuất hiện, và khi bước đi theo những nguyên tắc trong cuộc đời họ, nhân cách của bạn có thể được cải thiện tốt hơn.

Kinh Thánh trình bày một câu chuyện thật với hàng ngàn nhân vật và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Câu chuyện này khá đơn giản đến nỗi trẻ con có thể nắm bắt nó nhưng lại rất sâu sắc trở thành một thách thức cho các nhà thần học lỗi lạc nhất. Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ, mười bốn sách trong Cựu Ước bắt đầu với chữ “và”, điều này nhắc nhở chúng ta rằng mỗi sách được nối kết với các sách khác như một sợi dây liên kết bền vững.

Bản tường thuật của Kinh Thánh bắt đầu tại vườn Ê-đen, là nơi tổ phụ đầu tiên của loài người đã đã ăn trái cây Biết Điều Thiện Ác và từ đó họ mang tội lỗi và sự chết vào trong những thế hệ về sau. Đỉnh cao của câu chuyện được nối kết với thành phố thiên đàng, nơi mà các cư dân tại đây ăn Trái Cây Sự Sống dọc hai bên bờ Sông của Sự Sống (Khải huyền 22:1-2).

Kinh Thánh mở ra với vườn Ê-đen và đóng lại với khu vườn Thiên đàng. Điểm bắt đầu là tội lỗi và sự chết, nhưng điểm kết thúc là sự thánh khiết và sự sống! Nguyên nhân nào có một sự thay đổi ngoạn mục như thế?

Giữa hai khu vườn đã đề cập trên đây còn có một vườn khác có tên gọi Ghết-sê-ma-nê. Nơi đây Con của Đức Chúa Trời đã cầu nguyện: Xin Ý Cha được nên, chớ không theo ý con (Lu-ca 22:42), và rồi Ngài đã đi đến cái chết đau đớn, sỉ nhục trên thập tự giá. Bởi vì Chúa Giê-su đã chết và sống lại, chính điều này bẻ gãy sự rủa rả trong khu vườn đầu tiên. Quyển sách cuối cùng của Cựu Ước kết thúc với từ “sự rủa sả” (Ma-la-chi 4:6), nhưng trong sách cuối của Tân Ước chúng ta thấy: “Chẳng còn có sự rủa sả nào nữa” (Khải huyền 22:3). Món quà sự sống đời đời đã sẵn sàng cho những ai đặt niềm tin của họ vào Chúa Giê-su. Kinh thánh ghi lại những câu chuyện đáng chú ý này để chúng ta có thể đọc và trải nghiệm tất cả những gì Chúa đã làm cho chúng ta.

Trước khi chúng ta nhìn vào bộ sưu tập đồ sộ về những con người trong Kinh Thánh, chúng ta phải nhìn vào Đức Chúa Trời. Tại sao như thế? Bởi vì sự tìm kiếm của chúng ta không phải là những yếu tố sự thật của lịch sử và tiểu sử của một ai đó, nhưng là những lẽ thật của thực tế và có giá trị vĩnh cửu. Như vậy chúng ta phải bắt đầu với Đức Chúa Trời. Câu chuyện của Kinh Thánh là nói về Đức Chúa Trời, chứ không phải là những hoạt động của con người. Đức Chúa Trời đặt chìa khóa của Kinh Thánh ở chỗ này: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên…” (Sáng thế ký 1:1). Loại bỏ Đức Chúa Trời ra ngoài, lịch sử sẽ là một huyền nhiệm – một vở kịch rối rắm với những phần bị bỏ sót mà không có một ý nghĩa rõ ràng nào cho chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu với Đức Chúa Trời, bởi vì Ngài vẽ thiết kế, viết ra kịch bản và lựa chọn các vai diễn. Ngài không vắng mặt trong bất cứ tình huống nào, Ngài ở đó luôn luôn trong mọi sự kiện. Không một ai có thể làm hỏng đi kịch bản của Ngài. Tất cả mọi điều phải diễn ra sau khi Ngài lên kế hoạch. Lịch sử là câu chuyện của Ngài.

Điều này không có nghĩa lịch sử của con người là một vở kịch rối rắm, mà ở đó Đức Chúa Trời cho phép con người làm theo ý muốn của họ, và rồi sau đó Ngài nhẹ nhàng loại bỏ họ qua một bên. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài có thể thay đổi số phận hay định mệnh của những con người, mặc dù các vai diễn có thể lựa chọn đi theo một hướng khác thì câu chuyện vẫn cứ tiến hành. Đức Chúa Trời hành động theo quyết định của Ngài chứ không phải theo sự đồng thuận của bất kỳ một ủy ban nào. Trước giả Thi thiên viết: “Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm” (Thi. 115:3). Những người vô thần phủ nhận điều này, người theo thuyết bất khả tri đặt câu hỏi tại sao, nhưng những người theo Chúa Giê-su Christ chấp nhận và vui hưởng Lời của Chúa đã tuyên bố.

Không một ai có thể hiểu biết tất cả về Đức Chúa Trời. Nhưng các lẽ thật căn bản về mối liên hệ của Đức Chúa Trời với con người đã được bày tỏ qua Kinh Thánh và chúng ta có thể nắm bắt lấy nó nếu chúng ta muốn hiểu về những con người trong sách này. Điều này sẽ dẫn đến một kết quả là chúng ta hiểu rõ về chính chúng ta và những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG SÁNG TẠO

Trước giả của tuyển dân viết về chủ đề thờ phượng:
Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy;
Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo Hóa chúng tôi! (Thi. 95:6)

Người theo chủ nghĩa duy vật hoài nghi đặt câu hỏi: Đức Chúa Trời đến từ đâu? Trong khi những tín hữu đặt vấn đề: sự sống đến từ đâu? Người theo chủ nghĩa duy vật trả lời câu hỏi này: Nó chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ, và viện dẫn những luận chứng cao siêu cho quan điểm của họ. Các môn đồ theo Chúa đưa ra câu trả lời: Đó là sự tể trị thần thượng và trưng ra quan điểm của họ về Đức Chúa Trời ba ngôi Cha, Con và Thánh Linh hiệp một trong công cuộc sáng tạo. Không có con đường nào khác để tránh né mệnh đề này: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng. 1:1).

Đức Chúa Trời không chỉ là Đấng Khởi Nguồn của sự sáng tạo nhưng Ngài cũng có mặt từ buổi bình minh của tuyển dân để dạy chúng ta về chính Ngài. Ngài cũng là khởi nguyên của mỗi đời sống cá nhân trên đất. Đa-vít đã viết:

Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi,
Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.
(Thi. 139:13)
Khi tôi được dựng nên trong nơi kín,
Chịu nắn nên cách xảo tại nơi thấp của đất,
Thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa.
Mắt Chúa đã thấy thể chất vô hình của tôi;
Số các ngày định cho tôi,
(Thi. 139:15-16)
Tất cả những người mà chúng ta bắt gặp trong Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời chuẩn bị sẵn sàng và chỉ định họ cho mục đích tối hậu của Ngài. Đây cũng là lẽ thật cho những người chúng ta gặp gỡ ngày hôm nay – và dĩ nhiên nó cũng là lẽ thật cho bạn và tôi!

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG CUNG ỨNG

Thật là vô cùng ý nghĩa khi Đức Chúa Trời đã tạo dựng vũ trụ, các từng trời và trái đất trước khi Ngài dựng nên con người đầu tiên. Điều này giống như những bậc cha mẹ trần gian yêu thương con cái thường dự bị mọi nhu cầu cho chúng nó trước khi những đứa trẻ được sinh ra. Cha Thiên Thượng đã sắm sẵn mọi thứ trên thế giới này cho chúng ta! Mọi điều chúng ta cần đang có sẵn ở đây, và Đức Chúa Trời không muốn chúng ta lãng phí hay phá hủy nó, nhưng phải sử dụng nó theo một đường lối khôn khoan đúng đắn.

Đức Chúa Trời cũng cung ứng cho chúng ta những khả năng để hiểu rõ và đánh giá đúng sự giàu có không dò lường được của Ngài khi Ngài tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Chúng ta không chỉ có thân thể và tâm hồn để vui hưởng thế giới vật lý chung quanh mà chúng ta còn có tâm linh để bước vào tận hưởng mối tương giao với chính Đức Chúa Trời và vui mừng nhận lãnh những sự phong phú trong thế giới thuộc linh. Chúng ta có tâm trí để nghĩ suy, ý chí để đưa ra quyết định và tấm lòng (hay trái tim) để yêu thương. Và Đức Chúa Trời đã bổ nhiệm chúng ta, ban cho chúng ta uy quyền để quản trị trên các vật thọ tạo và công việc của tay Ngài hầu cho hoàn thành những mục đích diệu kỳ của Ngài. Trong Thi thiên 8:6, Đa-vít viết: “Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chân người.” Thực tế này đã làm cho trước giả Thi thiên kinh ngạc: “Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến?” Tại sao một Đức Chúa Trời toàn năng vĩ đại, siêu việt như thế lại quan tâm đến con người bé nhỏ chúng ta?

Những con người trong Kinh Thánh có thể chia làm hai loại: 1/ Những người tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Họ khám phá rằng chính Chúa là Đấng cung ứng mọi nhu cầu cho họ. 2/ Những người không vâng lời Ngài – thậm chí tệ hơn đó là phản bội, chống lại Ngài. Họ đã từ chối sự giàu có, khôn ngoan, quyền năng, ân điển và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Giống như người con trai hoang đàng trong Lu-ca 15:11-24, họ đã gần như chết đói bên cạnh các máng thức ăn của đàn lợn vì sự chọn lựa của mình, trong khi lẽ ra họ phải vui hưởng yến tiệc tại bàn của người cha yêu thương.
Điều này dẫn chúng ta đến lẽ thật căn bản thứ ba về Đức Chúa Trời: Ngài là Cha.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA

Đức Chúa Trời đã phán dạy tuyển dân:

Y-sơ-ra-ên là con ta, tức trưởng nam ta (Xuất Ê-díp-tô ký 4:22). Bản Kinh Thánh Tiếng Anh dùng chữ “trưởng nam ta” là “firstborn” trong câu này (Israel is My son, even My firstborn) nghĩa là đứa con được sinh ra trước tiên. Và Ngài đối xử yêu thương với tuyển dân như một người cha yêu thương đứa con đầu tiên của mình. Trước giả Thi thiên đã viết:

Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài,
Khác nào cha thương xót con cái mình vậy. (Thi. 103:13).

Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi (Ê-sai 49:15).
Giống như những bậc cha mẹ biết lo xa cho con cái của mình, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Ngài ra khỏi Ai-cập khi họ phải sống cuộc đời nô lệ tại đây. Chúa tiếp tục nuôi dưỡng họ trong đồng vắng, nhưng khi họ phản loạn thì Ngài xử lý họ như một người cha yêu thương thi hành kỷ luật trên những con cái không biết vâng lời. “Vậy, khá nhận biết trong lòng rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sửa phạt ngươi như một người sửa phạt con mình vậy” (Phục truyền 8:5). Những người có khuynh hướng chỉ trích gọi Đức Chúa Trời trong Cựu Ước là một người hay bắt nạt hoặc là bạo chúa, hễ mà sai phạm chỗ nào là đánh phạt chỗ ấy. Những người đó đã không đọc và nghiên cứu kỹ về một Đức Chúa Trời yêu thương, bao dung, đầy sự thương xót, kiên nhẫn chịu đựng nhiều năm đối với tuyển dân của Ngài trong những lần họ bội nghịch.
Chúa Giê-su đã nói về Cha của Ngài: Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha (Giăng 14:9). Nếu Đức Chúa Trời là người hay bắt nạt kẻ yếu thế hay là một bạo chúa ngang ngược thì Ngài há sẽ đến giữa vòng chúng ta, cùng chia sẻ những gánh nặng và khó khăn, và cuối cùng hy sinh trên thập tự giá để đền tội cho chúng ta sao? Có thể nào Ngài đã lau nước mắt cho kẻ buồn rầu, tiếp nhận các con trẻ đến cùng Ngài, ban bánh cho kẻ đói, tha thứ cho người lỗi lầm và dạy dỗ những người đang ở dưới đáy của xã hội những lẽ thật về Đức Chúa Trời? Chức vụ và đời sống trên đất của Ngài có thể tóm lược trong một từ: Yêu thương. Vì Đức Chúa Trời chính là tình yêu.

Ngày hôm nay Đức Thánh Linh đang nội trú bên trong chúng ta để làm chứng về Cha thiên thượng và bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Ngài. Những ai đặt niềm tin vào Chúa Giê-su Christ sẽ tiếp nhận điều cao quí này: thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! (Rô-ma 8:15). Và Phao-lô cũng nói: Chúng ta được làm con nuôi Ngài. Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha! (Ga-la-ti 4:5-6). A-ba là nguyên ngữ Tiếng Aramaic, tương đương trong Tiếng Anh là Daddy, và từ ngữ đó được nói ra trong sự trìu mến yêu thương.

Ý chỉ của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. “Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời. Ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi. 33:11). Khi chúng ta trưởng thành trong tình yêu và đức tin thì những thuộc tính của Cha thiên thượng và kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta trở nên rõ ràng hơn. Lúc đó chúng ta sẽ yêu mến Ngài nhiều hơn, và mong muốn phục vụ Ngài cách tốt hơn. Trong khi Đức Chúa Trời biểu lộ tình yêu của Ngài vô điều kiện thì sự vui hưởng của chúng ta với tình yêu cả Ngài tùy thuộc vào hiểu biết và sự vâng phục của chúng ta đối với Lời của Ngài. Nếu chúng ta dâng nộp đời sống mình cho Chúa Giê-su thì Đức Chúa Trời là Cha của chúng ta. Ngược lại, Ngài không thể là Cha thiên thượng của chúng ta khi chúng ta bất tuân Lời Ngài, cho phép tội lỗi đi vào đời sống.

Bởi vậy Chúa phán rằng:
Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó,
Đừng đá động đến đồ ô uế,
Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.

Ta sẽ làm Cha các ngươi,
Các ngươi làm con trai con gái ta,
Chúa Toàn năng phán như vậy. (2 Cô-rinh-tô 6:17-18).
Cha mẹ trần gian mừng rỡ và vui hưởng sự trưởng thành của con cái khi chúng nó biết vâng lời và tôn trọng mình bao nhiêu thì Cha thiên thượng của chúng ta càng vui mừng hơn khi nhìn thấy con cái của Ngài biết vâng lời và lấy làm vinh dự chúng nó được mang Danh của Ngài.

Khi chúng ta bắt đầu làm quen với các nhân vật trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ nhìn thấy cách Đức Chúa Trời yêu thương họ, và rồi tình yêu của Ngài trở thành chất xúc tác khiến họ có động cơ để tiếp tục vâng phục Ngài. Nhờ đó họ càng được Chúa ban phước hơn nữa.

Tuy nhiên có một số người từ chối vâng phục Chúa, trong khi một số khác vui hưởng tình yêu của Chúa và chia sẻ nó ra cho người khác. Hãy nghe Lời của Chúa Giê-su phán:

Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến ta; người nào yêu mến ta sẽ được Cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết ta (Giăng 14:21).
Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người (Giăng 14:23). Đây chính là điều mà sứ đồ Phao-lô đã cầu nguyện trong Ê-phê-sô 3:14-21.

Ấy là vì cớ đó mà tôi quì gối trước mặt Cha, bởi Cha mà cả nhà trên trời và dưới đất đều được đặt tên, tôi cầu xin Ngài tùy sự giàu có vinh hiển Ngài khiến anh em được quyền phép bởi Thánh Linh mà nên mạnh mẽ trong lòng; đến nỗi Đấng Christ nhân đức tin mà ngự trong lòng anh em; để anh em khi đã đâm rễ vững nền trong sự yêu thương, được hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó là thể nào, và được biết sự yêu thương của Đấng Christ, là sự trổi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời.
Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng, nguyền Ngài được vinh hiển trong Hội thánh, và trong Đức Chúa Giê-su Christ, trải các thời đại, đời đời vô cùng! A-men.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ THẨM PHÁN TỐI CAO

Đức Chúa Trời yêu thương và công bình thi hành kỷ luật trên tuyển dân của Ngài và trên cả những người không tin Ngài, cho phép họ chịu một sự khổ nạn nào đó khi họ bất tuân các mạng lệnh của Ngài. Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời không đến một cách tình cờ vì Ngài luôn luôn gửi đến sự cảnh báo trước đó. Sự phán xét của Ngài không bao giờ là không công bình. Tổ phụ đức tin Áp-ra-ham đã đặt vấn đề: “Không lẽ nào Chúa làm điều như vậy, diệt người công bình luôn với kẻ độc ác; đến đỗi kể người công bình cũng như người độc ác. Không, Chúa chẳng làm điều như vậy bao giờ! Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” (Sáng 18:25). Và Môi-se đã đưa ra câu trả lời chính xác: “Công việc của Hòn-Đá là trọn vẹn;
Vì các đường lối Ngài là công bình.
Ấy là Đức Chúa Trời thành tín và vô tội;
Ngài là công bình và chánh trực” (Phục truyền. 32:4).

Sự phán xét của Đức Chúa Trời luôn bày tỏ thuộc tính thánh khiết và tình yêu của Ngài: “Ngài chuộng sự công bình và sự chánh trực; Đất đầy dẫy sự nhân từ của Đức Giê-hô-va” (Thi. 33:5). Và: “Vì ta, Đức Giê-hô-va, ưa sự chánh trực, ghét sự trộm cướp và sự bất nghĩa” (Ê-sai 61:8).

Đức Chúa Trời công bình không vi phạm các thuộc tính của Ngài hay bẻ gãy luật pháp mà chính Ngài đã lập. Ngài đã cảnh báo cho tổ phụ loài người trong vườn Ê-đen: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:16-17). Thế nhưng tổ phụ A-đam đã không vâng lời Chúa, và hệ quả là Chúa đã thi hành kỷ luật: “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng. 3:19). Đức Chúa Trời của ân điển tha thứ tội lỗi cho con người, nhưng trong sự công bình, Ngài không thay đổi cách hành động khi phải đưa ra một hình thức kỷ luật. Ân điển của Đức Chúa Trời và sự cai trị của Đức Chúa Trời được sứ đồ Giăng gọi là “ơn và lẽ thật” (Giăng 1:17). Hai phạm trù này không đối kháng nhau, vì ân điển cai trị xuyên qua sự công bình (Rô-ma 5:21).

Một mục sư kia đang giảng một sứ điệp có tựa đề: Tội Lỗi Của Các Thánh Đồ. Nhưng một số thành viên của hội thánh không cảm thấy hứng thú với sứ điệp đó. Họ nói: “Nếu ông giảng về tội lỗi, hãy giảng cho những người chưa tin. Và ông phải biết rằng tội lỗi của tín hữu chúng tôi thì khác biệt với tội lỗi của người ngoại bang.” Vị mục sư từ tốn trả lời: “Vâng, tội lỗi của chúng ta thì còn tệ hơn nữa.”

C.H Spurgeon đã nói: “Đức Chúa Trời không cho phép con cái của Ngài phạm tội một cách thành công.” Kinh Thánh nói gì về điều này?

Phải, khi Đức Giê-hô-va thấy sức lực của dân sự mình hao mòn,
Và không còn lại tôi mọi hay là tự chủ cho chúng nó,
Thì Ngài sẽ đoán xét công bình cho chúng nó,
Và thương xót tôi tớ Ngài (Phục truyền. 32:36).
Vì chúng ta biết Đấng đã phán rằng: Sự trả thù thuộc về ta; ta sẽ báo ứng, ấy là lời Chúa phán. Lại rằng: Chúa sẽ xét đoán dân mình. Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay! (Hê-bơ-rơ 10:30-31)

Đức Chúa Trời ban cho tuyển dân của Ngài những ân tứ và đặc ân, nhưng Ngài không bao giờ cho họ đặc quyền để phạm tội, rồi xem như là không có vấn đề gì. Chúng ta sẽ tìm thấy lẽ thật này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh. Những chương tiếp theo sau sẽ làm sáng tỏ hơn nữa điều này. Và ngay cả khi tội lỗi được tha thứ, thì chuyện này cũng để lại một số hậu quả.

Bản tường thuật của Kinh Thánh về những lẽ thật trên đây rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đức Chúa Trời đang phán dạy những lẽ thật cho con cái của Ngài. Những gì được viết ra là để cảnh báo chúng ta không phạm tội (1 Cô-rinh-tô 10:6-12). “Mọi điều đó đã xảy ra để làm gương cho chúng ta, hầu cho chúng ta chớ buông mình theo tình dục xấu, như chính tổ phụ chúng ta đã buông mình” (1 Cô-rinh-tô 10:6). Và những điều này cũng khích lệ chúng ta tiếp tục giữ vững sự trông cậy vào chính Đức Chúa Trời (Rô-ma 15:4). Khi một tín hữu phạm tội, người đó phải chịu đau khổ vì tội đó. Nhưng điều này không phải là lời bào chữa cho những người chưa tin vẫn tiếp tục sống trong tội lỗi. “Lại nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên thế nào?” (1 Phi-e-rơ 4:18) và: “Kìa, người công bình được báo đáp nơi thế thượng; Phương chi kẻ hung ác và kẻ có tội!” (Châm ngôn 11:31). Nếu hệ quả tạm thời của tội lỗi là mang đến sự đau khổ cho con cái Chúa trong cuộc đời này, thì hậu quả đời đời của tội lỗi sẽ ra sao cho những ai từ chối Chúa Giê-su Christ khi họ nhắm mắt lìa trần?

Hỡi những kẻ yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét sự ác (Thi. 97:10).
Nhưng ai phạm đến ta, làm hại cho linh hồn mình; Còn kẻ nào ghét ta, ắt ưa thích sự chết (Châm ngôn 8:36).

Warren W. Wiersbe
Translated by Tuong Vinh

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG MÀ CON NGƯỜI KHÔNG THỂ DÒ LƯỜNG HẾT ĐƯỢC
Một trong những thuộc tính quan trọng nhất cần suy ngẫm khi xem xét bản chất của Đức Chúa Trời là chúng ta không có khả năng hiểu tất cả những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Khi chúng ta khẳng định rằng Đức Chúa Trời không thể hiểu được, chúng ta đang nói rằng vẫn còn một bí ẩn về thân vị của Ngài mà chúng ta không thể biết mặc dù đã nghiên cứu cẩn thận. Phao-lô đề cập đến điều này khi ông viết, “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?” (Rô-ma 11:33-34).
Đức Chúa Trời đã bày tỏ rất nhiều về chính Ngài cho con người qua sự mặc khải phổ quát và mặc khải đặc biệt. Các sự mặc khải này cho phép chúng ta biết Ngài trong giới hạn. Nhưng vẫn còn nhiều điều về Chúa bị che giấu. Gióp công nhận rằng Đức Chúa Trời “thực hiện những điều kỳ diệu không thể tin được, những phép lạ không thể đếm được” (Gióp 9:10). Trước câu hỏi của Sô-pha, “Nếu ông dò xét, há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. Và thấu rõ Đấng Toàn năng sao?” (Gióp 11:7). Chúng ta phải trả lời câu này cách rõ ràng là không. Trong khi Đức Chúa Trời là “Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm” (Đa-ni-ên 2:47), thì Ngài vẫn giữ một số bí ẩn về chính Ngài. Chúa có thể được biết đến, nhưng không thể mổ xẻ và phân tích hết được. Ngài có thể được hiểu, nhưng con người không thể hiểu Ngài hoàn toàn. Một số điều thuộc về Ngài là bí mật (Phục truyền. 29:29).
Các nhà thần học thường xuyên phân tích Đức Chúa Trời đến mức họ cố gắng xóa bỏ bí ẩn về bản chất thiêng liêng của Ngài. Thật không may, họ kết luận về Đức Chúa Trời với một cái gì đó kém hơn nhiều so với Ngài. Họ nhìn thấy một Đức Chúa Trời nhỏ bé, một Đấng vĩ đại nhưng bị giới hạn bởi sự hiểu biết hữu hạn của chính họ. Là Cơ đốc nhân, chúng ta phải theo đuổi sự hiểu biết về Đức Chúa Trời. Nhưng đồng thời cũng phải cẩn thận để những lý giải thần học của chúng ta không làm giảm đi sự mầu nhiệm về bản chất thần thượng của Ngài.
Trích từ UNDERSTANDING CHRISTIAN THEOLOGY
translated by Hon Pham
GOD AND MAN

1.CHÚA VÀ CON NGƯỜI
Cơ đốc giáo, nếu sai, thì không quan trọng, và nếu đúng, thì vô cùng quan trọng. Nó không thể là quan trọng ở mức trung bình. C.S. LEWIS

Việc điều tra đức tin Kitô giáo là một công việc nguy hiểm. Chúng ta có thể bắt đầu cuộc điều tra của mình với một tâm thế cởi mở, sẵn sàng tìm thấy nhiều điều trong đức tin truyền cảm hứng và nâng cao tinh thần, cũng như một số điều mà chúng ta vẫn chưa tin.
Tuy nhiên, cuối cùng, chúng ta chỉ có thể đưa ra một trong hai phán quyết liên quan đến những tuyên bố to lớn mà Co doc giáo đưa ra. Hoặc là chúng ta sẽ kết luận rằng nó đúng hoặc là nó sai. Và cuộc sống của chúng ta sẽ chứng minh cho phán quyết của chúng ta. Nếu nó sai, thì vấn đề đã kết thúc. Chúng ta có thể an toàn đặt Kinh thánh và nhà thờ cùng với những hư cấu về giáo lý của chúng sang một bên, và bỏ qua những ràng buộc cá nhân và kỳ vọng văn hóa phát sinh từ chúng.
Tuy nhiên, nếu Kitô giáo là đúng, thì sự to lớn của những tuyên bố của nó có nghĩa là mọi thứ sẽ thay đổi đối với chúng ta. Mục đích sống của chúng ta sẽ thay đổi và với điều đó, chúng ta sẽ có một cơ sở hoàn toàn mới để đánh giá mức độ ưu tiên và tầm quan trọng của tất cả những gì chúng ta có thể làm. ‘Kitô giáo’ không thể chỉ là một phần mà chúng ta thêm vào cuộc sống bận rộn và viên mãn được chỉ đạo bởi một ánh sáng dẫn đường bên trong khác. Không; nếu
11

Kitô giáo là đúng, vậy thì Đức Chúa Trời mà nó phải là trung tâm của cuộc sống và mục đích sống của tôi.
Một thánh ca (hoặc bài hát) của Vua David, hầu hết các vị vua của Israel, được viết vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên,

1 Hỡi Đức Giê-hô-va là Chúa chúng tôi, Danh Chúa được sang cả trên khắp trái đất biết bao; Sự oai nghi Chúa hiện ra trên các từng trời! 2 Nhân vì các cừu địch Chúa, Chúa do miệng trẻ thơ và những con đang bú, Mà lập nên năng lực Ngài, Đặng làm cho người thù nghịch và kẻ báo thù phải nín lặng. 3 Khi tôi nhìn xem các từng trời là công việc của ngón tay Chúa, Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt, 4 Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó? 5 Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút, Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng. 6 Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, Khiến muôn vật phục dưới chân người: 7 Cả loài chiên, loài bò, Đến đỗi các thú rừng, 8 Chim trời và cá biển, Cùng phàm vật gì lội đi các lối biển. 9 Hỡi Đức Giê-hô-va là Chúa chúng tôi, Danh Chúa được sang cả trên khắp trái đất biết bao!

(Thi thiên 8)
ĐỨC CHÚA TRỜI NHƯ THẾ NÀO?
Theo Vua David, Đức Chúa Trời như thế nào? Câu trả lời được đưa ra trong một từ, cả ở phần đầu và phần cuối của bài Thi thiên này, là Đức Chúa Trời ‘ oai nghiêm’ kết thúc: ‘danh Ngài oai nghiêm biết bao đối với toàn thể trái đất’ (câu 1, ‘danh’ ở đây là toàn bộ tính cách của Đức Chúa Trời mà ông nói đến)

12

Bản thân David là một vị vua vĩ đại, và từ “vĩ đại” này có thể được dùng để mô tả bản thân ông và vị trí của ông trên vùng đất mà ông cai trị. Liên quan đến hoàng gia, từ “vĩ đại” ám chỉ đến quyền lực và sự lộng lẫy.
Nhưng, hơn thế nữa, Đức Chúa Trời mà ông dành cho sự uy nghiêm như vậy không chỉ là một vị thần địa phương và bộ lạc. Đức Chúa Trời này không ẩn mình trong sự tối tăm của một nơi nhỏ bé. Không, Đức Chúa Trời này đã cho “danh” của mình được biết đến “trên khắp trái đất” — tức là cho tất cả mọi người ở mọi nơi. Sự thật về Đức Chúa Trời không phải là điều khó khăn để các học giả lỗi lạc trong những tòa tháp ngà, đắm chìm trong học vấn và một đống ngôn ngữ cổ xưa có thể thu thập được. Đây là sự thật có thể tiếp cận được ở những nơi xa xôi nhất trên hành tinh Trái đất của chúng ta, đối với mọi nhóm người trên thế giới của chúng ta.
Sự thật về Đức Chúa Trời này chủ yếu được tiết lộ thông qua sự lộng lẫy của vũ trụ. Vua David đã làm một điều dễ dàng và đi dạo bên ngoài vào một đêm trăng sáng. Ông đã ngước mắt lên bầu trời. Ông dừng lại để xem xét sự bao la và vẻ đẹp của vũ trụ mà ông có thể nhìn thấy, và thấy rằng nó tuyên bố về Đức Chúa Trời là Đấng đứng sau tất cả — Đức Chúa Trời đã tạo ra tất cả và sở hữu tất cả. Các tầng trời mà Vua David nhìn thấy là của Chúa: các tầng trời của Ngài, công trình của ngón tay Ngài, ông nói. Mặt trăng và các vì sao — Chúa ơi, Ngài đã đặt chúng vào đúng vị trí (câu 3).
Rõ ràng là một Kinh thánh đáng tin cậy — như chúng ta đang giả định — không được diễn giải theo nghĩa đen cứng nhắc. Nói về ‘ngón tay’ hoặc ‘bàn tay’ của Chúa không có nghĩa là Chúa là một người đàn ông ở trên đó với mắt, tai, mũi và hai bàn tay với bốn ngón tay và một ngón cái trên mỗi bàn tay. Đây là ngôn ngữ nhân hình — nói cách khác, ngôn ngữ mang tính cá nhân, vật lý và con người (`bàn tay’ và ‘ngón tay’) đang được sử dụng để truyền đạt sự thật về hoạt động sáng tạo của Chúa trong việc tạo ra thế giới.
Và sự thật là vũ trụ này không phải là một sự ngẫu nhiên; nó là một sự sáng tạo và sự sáng tạo này tiết lộ Đấng sáng tạo của nó. Nó như thể được đóng dấu trên bầu trời là những từ ‘Được tạo ra bởi
13

Chúa’ hay nói chính xác hơn là ‘Do Ta Tạo Ra’. Vì các tầng trời không chỉ đơn thuần được con người gán cho Chúa, khi không có một lời giải thích khoa học sâu sắc nào khác. Các tầng trời là công trình của Chúa, và sự tráng lệ của chúng cho thấy sự uy nghiêm của Đấng tạo ra chúng với chúng ta. Và sự uy nghiêm của Chúa, cả quyền năng đáng sợ và sự huy hoàng không thể diễn tả được của Ngài, mà Ngài công bố ‘trên các tầng trời’ (câu 1) là để mọi người đều thấy. Vũ trụ là lời chứng của Chúa về chính Ngài, và là phương tiện chính để Ngài mặc khải chính Ngài cho toàn thể nhân loại: ‘Danh Chúa thật oai nghiêm… trên khắp trái đất.’
MỘT CÁI GÌ ĐÓ HAY AI ĐÓ?
Tuy nhiên, ngôn ngữ của những ngón tay và bàn tay này cho chúng ta biết nhiều hơn thế nữa rằng Chúa sáng tạo là Đấng toàn năng. Đức Chúa Trời này, mà Vua David nói đến, không chỉ toàn năng để sáng tạo, mà còn là Đấng cá nhân. David nói về vinh quang của Ngài’, các tầng trời của Ngài’, ‘mặt trăng và các vì sao mà Ngài đã đặt vào vị trí’, ‘công trình của các ngón tay Ngài’ và ‘công trình của bàn tay Ngài’. Và hơn tất cả những điều này, Vua David nói về danh Chúa: `Danh Chúa thật oai nghiêm trên khắp trái đất.’ Không giống như cách chúng ta có thể sử dụng ‘0 Chúa!’ như một lời cảm thán hoặc trong lúc nóng giận để bày tỏ sự thất vọng hoặc khó chịu, ‘0 CHÚA’ của Vua David là một cách xưng hô tôn kính với Chúa bằng cách sử dụng danh mà Người đã mặc khải trong lịch sử. Vì vậy, đối với Vua David để

2 Tập phim cụ thể về lịch sử của dân Chúa được ghi chép ở đây liên quan đến việc Chúa gọi Moses từ sự tương đối mơ hồ (và được ghi chép trong biên niên sử của cuộc lưu đày tự áp đặt) đến sự lãnh đạo của dân Chúa, chế độ nô lệ trong Xuất Ê-díp-tô ký chương 3-4. Cụ thể, ông phải dẫn họ ra khỏi Ai Cập, đến vùng đất mà Chúa đã định ban cho họ từ lâu, nửa nghi ngờ tiếng gọi của mình, và tự hỏi liệu ông có bao giờ có thể nói với những người Israel đồng hương của mình về thẩm quyền mà Chúa ban cho mình không, ông quay sang đã sai tôi đến với những người Israel và nói với họ, “Chúa đã sai tôi đến với các người,” và họ hỏi tôi, “Tên của Người là gì?” Để trả lời, Chúa nói rằng ‘TA LÀ ĐẤNG TA LÀ’, Tifol. 3’13 areetosay với những người Israel: “TA LÀ đã sai tôi đến với các người k tiếng Hebrew có nghĩa là CHÚA nghe giống như tiếng Hebrew có nghĩa là TA LÀ.
14

gọi Chúa là ‘CHÚA’ (viết hoa trong Kinh thánh của chúng ta), không chỉ đơn giản là trao cho Chúa một danh hiệu danh dự (Ngài, Tiến sĩ, Mục sư, v.v.) mà là gọi Chúa bằng tên này — CHÚA — mà Ngài đã mặc khải chính mình. Bản thân tất cả những lời nói về quyền năng của Chúa trong sáng tạo có thể gợi lên những khái niệm về các thế lực phi nhân cách. Nhưng Chúa đã tự tỏ mình ra không chỉ qua thiên nhiên, mà còn qua việc ban cho danh Ngài. Chúa đã tự tỏ mình ra không chỉ qua các hành động quyền năng trong sáng tạo, mà còn qua những lời giao tiếp cá nhân.
Theo ghi chép, Chúa đã mặc khải mình cho một số người, được mô tả là tổ phụ của dân Israel: Abraham, Isaac và Jacob, và sau đó là những người khác (bao gồm cả Moses). Thông qua sự mặc khải này được ban cho những người đàn ông này, và được họ truyền lại cho các thế hệ sau, Chúa đã có thể kêu gọi một dân tộc thuộc về Ngài. Vào thời điểm Vua David viết, đây là hiện thực; có một dân tộc thuộc về Chúa này — dân Israel. Để sử dụng ngôn ngữ của thánh vịnh này, ‘CHÚA’ (tức là danh Chúa) đã trở thành ‘Chúa’ của họ (tức là người cai trị hoặc vua được họ công nhận). Vì vậy, người viết thánh vịnh có thể bắt đầu và kết thúc bài hát này bằng cách xác định Chúa mà ông nói ‘Ô CHÚA, Chúa chúng ta’ [tôi in nghiêng].
Chúa toàn năng và hoàn toàn cá nhân này, trong lịch sử đã gọi một dân tộc, hậu duệ của Abraham, thuộc về chính mình, cũng chính là Chúa sáng tạo, ngày nay kêu gọi mọi người từ khắp các quốc gia thuộc về mình. Một vị thần toàn năng, nhưng không cá nhân, có thể buộc chúng ta phải sợ hãi (giống như người ta có thể sợ sức mạnh của biển cả), nhưng không thể tạo ra khả năng cho bất kỳ mối quan hệ nào. Mặt khác, một vị thần cá nhân, nhưng không phải là đấng sáng tạo toàn năng, có thể tập hợp một số bạn bè, nhưng không thể ra lệnh cho lòng trung thành của chúng ta. Trái ngược với những sự thật nửa vời này, Chúa của Kinh thánh, uy nghiêm về quyền năng và cá nhân về tính cách, vừa tạo ra khả năng cho mối quan hệ với Ngài
15

và, đúng vậy; ra lệnh cho lòng trung thành của tất cả những ai mà Ngài phán.
Sự mặc khải này về Chúa là Đấng toàn năng nhưng lại hoàn toàn cá nhân có nghĩa là thực sự không thể thờ ơ với Ngài. Cuối cùng, sẽ có những người vui vẻ ngợi khen Chúa và những người chống đối Ngài. Nhưng khi đối mặt với Chúa, sự trung lập về mặt tâm linh không phải là một lựa chọn trong cuộc sống này hoặc thậm chí là cuộc sống tiếp theo.
Sự tự mặc khải của Chúa không chỉ là điều chúng ta cần cân nhắc hết sức cẩn thận, biết rằng mức độ rủi ro cao đến mức nào, mà sự thật cơ bản này rằng Đấng sáng tạo toàn năng của vũ trụ là cá nhân và có thể biết được, cung cấp chìa khóa cho hai sự thật khác trong bài thánh ca này liên quan đến nhân loại và mục đích mà Chúa tạo ra chúng ta.

ĐƯỢC TẠO RA THEO HÌNH ẢNH CỦA CHÚA
Sự thật đầu tiên, khá đáng kinh ngạc, là Chúa tạo ra chúng ta để giống như Ngài. Cũng chính từ mà thánh vịnh dùng để nói về sự huy hoàng và uy nghiêm của Chúa, tức là `vinh quang’ (`Chúa đã đặt vinh quang của Chúa trên các tầng trời’ câu 1), giờ đây là từ được dùng để mô tả nhân loại: `Chúa đã dựng nên người thấp hơn các thiên thần một chút và đội cho người mão triều thiên vinh quang và danh dự’ (câu 5). Rõ ràng đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên; chúng ta được cho biết rằng đàn ông và phụ nữ được tạo ra để giống như Đấng tạo ra họ. Chúng ta thấy sự thật này được dạy trong câu chuyện về sự sáng tạo trong Sáng thế ký, cuốn sách đầu tiên của Kinh thánh, trong những từ `Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh của chúng ta, giống như chúng ta’, và sau đó một lần nữa trong những từ `Vì vậy, Đức Chúa Trời dựng nên con người theo hình ảnh của chính mình, Ngài dựng nên con người theo hình ảnh của Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên nam và nữ’
(Sáng thế ký 1:26-27).
Một hệ quả của sự thật này là chúng ta có thể học được điều gì đó về Chúa bằng cách nhìn vào nhân loại. Nhưng hệ quả quan trọng thứ hai là chúng ta học được mình được tạo ra như thế nào bằng cách nhìn vào Chúa. Vinh quang của Chúa
16

ít nhất là ở một số khía cạnh, là hình mẫu cho chính chúng ta. Đức Chúa Trời vinh quang đã trao vương miện cho nhân loại mà Ngài đã tạo ra với vinh quang. Hay nói theo ngôn ngữ của Sáng thế ký, Đức Chúa Trời đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của Ngài, giống như Ngài, và do đó, Ngài cung cấp trong chính bản chất và tính cách của Ngài khuôn mẫu mà bạn và tôi được tạo ra để tuân theo.
Đây là câu trả lời cho câu hỏi muôn thuở ‘Tôi là ai?’ Câu hỏi này đưa nhiều người trong chúng ta vào một cuộc tìm kiếm sâu rộng, nhưng cuối cùng là vô ích, để khám phá bản thân thực sự bên trong của chúng ta. Nhưng câu trả lời không được tìm thấy bằng cách nhìn vào chính chúng ta; mà được tìm thấy bằng cách nhìn ra bên ngoài chúng ta vào Đức Chúa Trời sáng tạo đã tạo ra chúng ta giống như Ngài, nghĩa là để phản ánh vinh quang của Ngài.
Bây giờ chúng ta không phản ánh vinh quang của Đức Chúa Trời đầy đủ như Ngài đã định, vì những lý do mà chúng ta sẽ thấy trong một chương sau. Nhưng việc phục hồi mục đích và phẩm giá thực sự của tôi, phản ánh vinh quang của Đức Chúa Trời đã tạo ra tôi, diễn ra thông qua việc thuộc về Khoản vay, với tư cách là Chúa của tôi và thông qua mối quan hệ cá nhân với Ngài.
Sự thật này có một số điểm tương đồng nhỏ trong các mối quan hệ của con người chúng ta vì chúng ta có xu hướng trở nên giống những người mà chúng ta kết bạn. Đối với người quan sát, chồng và vợ có thể trở nên giống nhau; con cái có thể trở nên giống cha mẹ chúng (giống cha, giống con trai’ hoặc ‘một mảnh gỗ vụn từ khối gỗ cũ’); những người bạn cùng lứa tuổi có ảnh hưởng phi thường đến nhau theo hướng tốt hoặc xấu (`áp lực từ bạn bè’); và bạn bè ở mọi lứa tuổi vô thức bắt chước nhau. Câu tục ngữ cũ rằng ‘bạn có thể biết một người đàn ông qua những người bạn mà anh ta kết bạn’ (you can tell a man by the company he keeps) phản ánh cùng một sự thật này, cũng như câu tương đương trong Kinh thánh là ‘bạn xấu làm hỏng tính cách tốt’.
Và những gì chúng ta quan sát được trong trải nghiệm của con người tìm thấy hệ quả của nó theo các thuật ngữ tâm linh; nếu nhân loại muốn phản ánh thần tính, thì nhân loại phải liên hệ với thần tính. Sự phản ánh của p Chúa và sự phục hồi hình ảnh của Người trong chúng ta sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ với Chúa. Nếu chúng ta muốn tìm thấy chính mình,

17

chúng ta phải biết Đấng sáng tạo của mình vì bản ngã thực sự của tôi được tạo ra để giống như Đức Chúa Trời thực sự. Có thể nói rằng CHÚA là Chúa của chúng ta, cuối cùng là cách mà vinh quang của Ngài sẽ, một lần nữa, đăng quang cuộc sống của chúng ta.
ĐƯỢC TẠO RA ĐỂ THỐNG TRỊ
Một sự thật đáng ngạc nhiên khác mà chúng ta thấy ở đây, liên quan đến mục đích mà Đức Chúa Trời tạo ra con người, là Đức Chúa Trời đã giao cho nhân loại một nhiệm vụ để thực hiện. Đức Chúa Trời tạo ra nhân loại để chăm sóc thế giới này cho Ngài:
Ngài đã lập con người cai trị các công trình của tay Ngài; Ngài đặt mọi vật dưới chân con người: ‘mọi bầy chiên và bầy bò, và các loài thú đồng, ‘các loài chim trời, và cá biển, tất cả những loài bơi lội trong các lối đi của biển (Thi thiên 8:6-8).
Nói về Đức Chúa Trời như là Đấng sáng tạo là đúng cho đến nay, nhưng sẽ không đủ nếu chúng ta kết luận rằng Đức Chúa Trời, sau khi tạo ra thế giới, đã gác chân lên để nghỉ cuối tuần dài vô tận, hoặc rằng Ngài đang thực hiện một dự án mới khác. Không, thế giới mà Đức Chúa Trời đã tạo ra là một thế giới mà Ngài vẫn tiếp tục cai trị. Nhưng phần lớn cách mà Chúa thực hiện sự cai trị nhân từ của Ngài đối với thế giới là giao phó nó cho chúng ta chăm sóc. Chúa nói với nhân loại — các ngươi cai trị các vương quốc thực vật và động vật.
Sách đầu tiên của Kinh thánh, Sáng thế ký, kể với chúng ta rằng Chúa đặt một người đàn ông và một người phụ nữ vào một khu vườn, và giao cho họ nhiệm vụ làm việc và chăm sóc nó. Đó là một nhiệm vụ lớn, và thậm chí còn lớn hơn nữa để thực hiện một cách có trách nhiệm, như những người vận động vì môi trường thường nhắc nhở chúng ta. Đối với ủy ban cai trị thế giới, cả động vật và thực vật, không phải là cái cớ để cướp bóc tài nguyên của thế giới một cách liều lĩnh và gây ô nhiễm những gì chúng ta không tiêu thụ. Cũng không phải là sự cho phép để nhàn rỗi trong khi nhu cầu của những người đồng loại trên khắp thế giới bị bỏ bê một cách nghiêm trọng và của thế giới.

18

tài nguyên bị khai thác một cách cẩu thả. Chúa đã ban cho nhân loại những tài nguyên cần thiết để chăm sóc và cung cấp cho cuộc sống của con người và thực hiện sự chăm sóc có trách nhiệm đối với vương quốc động vật. Đây là một sự tin tưởng long trọng.
Chắc chắn điều này không dễ dàng đạt được. Và sự khéo léo mà Chúa ban cho con người đã chứng minh là một con dao hai lưỡi. Ở mức tốt nhất, nó thể hiện sự sáng tạo tuyệt vời, và những nỗ lực về nông nghiệp, khoa học và công nghệ trong ba nghìn năm kể từ khi Vua David viết thánh ca của mình chứng minh rằng nhân loại có một số khả năng để thực hiện lời kêu gọi cao cả này. Nhưng bằng chứng không phải là một cách duy nhất. Theo sách Sáng thế, khi Chúa hoàn thành từng khía cạnh trong công trình sáng tạo của mình, ‘Chúa thấy rằng điều đó là tốt đẹp.’ Bằng chứng ngày nay còn hỗn tạp hơn thế. Không phải lúc nào cũng có sự chăm sóc và cai trị nhân từ đối với vương quốc động vật xứng đáng với sự sáng tạo hoàn hảo của đấng sáng tạo tốt lành. Và nhiều điều mà con người phải chịu đựng trên thế giới này có lý do khác ngoài việc thực sự thiếu tài nguyên vật chất để đáp ứng nhu cầu. Ví dụ, Miến Điện là một quốc gia màu mỡ đến mức từng được gọi là `vựa lúa của Châu Á’, tuy nhiên, cách đây không lâu, một trong ba trẻ em ở đây bị suy dinh dưỡng, theo Chương trình Lương thực Thế giới. Năm 2000, The Economist tuyên bố Miến Điện là `quốc gia khốn khổ không cần thiết nhất’. Kể từ đó, tình hình đã trở nên tồi tệ hơn nhiều.
Trong một lời nhắc nhở gần đây và bổ ích, Ngài Rees (Nhà thiên văn học Hoàng gia và Chủ tịch Hội Hoàng gia) đã viết `hành tinh của chúng ta đã tồn tại trong 45 triệu thế kỷ. Nhưng thế kỷ này là thế kỷ đầu tiên mà một loài — loài của chúng ta — có thể đe dọa toàn bộ sinh quyển.
Những số liệu thống kê như thế này làm nổi bật nhiệm vụ to lớn mà, theo Chúa, là của chúng ta. Chỉ có một sự kiêu ngạo đến nghẹt thở

19

về phần chúng tôi sẽ nói rằng nhiệm vụ do Chúa giao phó này có thể được hoàn thành mà không cần đến các nguồn lực tình yêu và trí tuệ do Chúa ban tặng — ý chí quan tâm và khả năng cung cấp. Tất cả những điều này là một dấu hiệu chắc chắn rằng mối quan hệ đúng đắn với Chúa là cách duy nhất để nhân loại có thể cai trị đúng đắn cho Chúa. Nhân loại được tạo ra để cai trị cho Chúa trên thế giới này, nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được với các nguồn lực bên trong đến từ Chúa. Nếu để mặc chúng ta tự quyết định, thế giới này, con người cũng như các loài động vật và thực vật khác, ở mức độ lớn hơn hoặc nhỏ hơn, sẽ phải chịu những tác động của sự cai trị sai trái của con người, dù là thông qua sự chuyên chế của các chế độ áp bức hay sự bất tài của những chế độ nhân từ.
Điều đáng buồn là mọi thứ không bao giờ có nghĩa là như vậy. Chúng ta được tạo ra để cai trị, nhưng cũng giống như nhiệm vụ cai trị bắt nguồn từ Chúa, thì khi liên hệ và phục tùng Ngài, chúng ta cũng phải tìm thấy sự nhạy bén về mặt tinh thần và sự khôn ngoan về mặt tâm linh cần thiết cho nhiệm vụ này. Một lần nữa, theo lời của thánh vịnh này, chính khi biết “Chúa” là “Chúa chúng ta” mà Chúa muốn chúng ta cai trị thế giới này, thế giới này là của Người theo quyền sở hữu và chỉ của chúng ta để quản lý.
VẤN ĐỀ LỚN
Vì vậy, khi liên hệ với Chúa, Chúa, là Chúa chúng ta, đã và sẽ là chìa khóa để tìm ra danh tính do Chúa ban cho chúng ta (phản ánh vinh quang của Người) và hoàn thành mục đích do Chúa ban cho chúng ta (cai trị tạo vật của Người).
Tuy nhiên, khi Vua David cầm bút viết thánh vịnh này, đây không phải là những suy nghĩ quan trọng nhất trong tâm trí ông; cho dù chúng có mới mẻ với chúng ta hay không, thì chúng cũng không phải là mới mẻ với ông. Những lẽ thật này chỉ đơn giản là một phần trong sự mặc khải của Chúa và các mục đích của Người thể hiện rõ qua sự sáng tạo xung quanh và trên Người. Sự mặc khải đó của Chúa sẽ được chứng thực trong lời chỉ dạy mà ông sẽ nhận được tại nhà cha mẹ mình và trong cộng đồng người Israel rộng lớn hơn mà gia đình ông là một phần.

20

Không, trong bài thánh ca này, David không chỉ lặp lại một tín điều; càng không phải là ông tạo ra một tín điều. Thay vào đó, ông đang kinh ngạc về những gì ông tin. Hai chân lý song sinh về Chúa là đấng sáng tạo và về con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa để cai trị thế giới cho Ngài, có thể được xem xét riêng biệt trong tâm trí chúng ta. Nhưng bây giờ, tác giả đặt chúng lại với nhau và bên cạnh nhau, chúng làm bùng nổ tâm trí con người. Đọc bài thánh ca này một cách cẩn thận, có thể là đọc to, cho thấy cảm giác ngạc nhiên và kinh ngạc của tác giả. Rõ ràng Vua David không phải là người mơ mộng đãng trí; ông là một người đàn ông bận rộn với vô số nhiệm vụ cấp bách và thực tế khiến ông phải đứng vững trên mặt đất. Nhưng một đêm nọ, ông dừng lại để xem xét sự bao la của vũ trụ xung quanh mình so với sự nhỏ bé của chính ông và những người đồng loại:
Khi tôi ngắm nhìn các tầng trời, công trình của ngón tay Chúa, mặt trăng và các vì sao mà Chúa đã đặt vào vị trí, 4con người là gì mà Chúa nhớ đến, con người là gì mà Chúa quan tâm đến? (Thi thiên 8:3-4).
Chỉ có hai phản ứng mà người ta có thể đưa ra khi chúng ta cân nhắc kỹ lưỡng sự chênh lệch giữa sự hùng vĩ của vũ trụ và bản chất nhỏ bé của loài người đang sống trên hành tinh Trái đất. Phản ứng đầu tiên là kết luận rằng chúng ta thực sự tầm thường như chúng ta nhỏ bé; chỉ là những hạt bụi, trên một hành tinh nhỏ, trong một thiên hà không quan trọng. Người ta đồn rằng Franklin D. Roosevelt từng có một nghi lễ nhỏ với nhà tự nhiên học nổi tiếng, William Beebe. Sau một buổi trò chuyện buổi tối, hai người đàn ông sẽ ra ngoài và nhìn lên bầu trời đêm. Nhìn vào các vì sao, họ sẽ thấy góc dưới bên trái của hình vuông lớn của Pegasus. Một trong số họ sẽ đọc những từ này, như một phần của nghi lễ của họ: ‘Đó là một thiên hà xoắn ốc của Andromeda. Nó lớn bằng Ngân Hà của chúng ta. Nó là một trong một trăm triệu

21

thiên hà. Nó cách xa 750.000 năm ánh sáng. Nó bao gồm 100 tỷ mặt trời, mỗi mặt trời lớn hơn mặt trời của chúng ta.’ Sau đó, họ dừng lại, và cuối cùng Roosevelt nói, ‘Bây giờ tôi nghĩ chúng ta cảm thấy đủ nhỏ bé rồi. Chúng ta đi ngủ thôi!’
Câu trả lời khác là kết luận rằng mặc dù chúng ta nhỏ bé đến mức vi mô so với vũ trụ bao la mà chúng ta đang sống, tuy nhiên, Chúa đã giao cho chúng ta, trong số tất cả các loài vật ở bất cứ đâu, một vị trí nổi bật thực sự và một địa vị có ý nghĩa thực sự — được kêu gọi để chăm sóc thế giới của Người. Và hơn nữa, chúng ta được Người yêu thương và chăm sóc.
Tác giả Thi thiên cam kết bằng chính sự quan sát của mình với câu trả lời thứ hai này. Đối với ông, điều hiển nhiên là Đấng sáng tạo đã giao cho loài người chức năng độc nhất là cai trị thế giới của Người, vì vậy chúng ta không chỉ là những hạt bụi tầm thường hay chỉ là những con khỉ thông minh. Suy nghĩ ngoạn mục đối với Vua David là Đức Chúa Trời toàn năng và uy nghiêm, Đấng có vinh quang hiển hiện ở khắp mọi nơi đối với Người trong tạo vật, thực sự quan tâm đến những người bé nhỏ như bạn và tôi. Đối với Vua David, thật tuyệt vời khi điều đó xảy ra.
Thật đáng để tạm dừng một chút để hỏi xem đàn ông và phụ nữ tìm thấy bất kỳ ý thức nào về phẩm giá và ý nghĩa ở đâu. Sự thật trần trụi và kinh khủng là nhiều người không tìm thấy điều đó và đối với một số người, tự tử là cách hiển nhiên để chấm dứt trò hề phù phiếm, đau đớn và vô nghĩa của cuộc sống. Năm tôi có ý thức trở thành một tín đồ Cơ đốc, năm 1977, cũng là năm mà nhiều người hơn bao giờ hết nhảy xuống cầu Cổng Vàng, San Francisco (Golden Gate Bridge, San Francisco) để tự tử. Những người khác có thái độ lạc quan hơn thì không bi quan như vậy. Cuộc sống thực sự có thể không có mục đích hoặc ý nghĩa cuối cùng nhưng khi không có bất kỳ phiên bản được ủy quyền nào về cuộc sống của con người nên như thế nào, hoặc mục đích mà nó nên hoàn thành, thì thế giới là một sân chơi xa xỉ do con người tạo ra.

22

Có âm nhạc và thể thao, nghệ thuật và kịch, tiền bạc và tình dục, gia đình và bạn bè, bằng cấp và sự nghiệp. Và những hoạt động và thú vui này mang lại cho tôi cảm giác về phẩm giá, ý nghĩa và giá trị. Công việc tôi làm, tài sản tôi tích lũy và các mối quan hệ tôi tận hưởng mang lại cho tôi tất cả sự thỏa mãn mà tôi tìm kiếm.
Nhưng nếu không có Chúa sáng tạo, cuộc sống sẽ vô nghĩa. Công việc và giải trí, bạn bè và gia đình, tiền bạc và tài sản có thể làm dịu nỗi đau và sẽ tăng thêm niềm vui, nhưng chúng không thể cung cấp mục đích hoặc gắn giá trị hoặc giá trị cho cuộc sống của chúng ta theo nghĩa khách quan và tối thượng. Đó là một suy nghĩ mà nhiều người đã thể hiện trong âm nhạc và bài hát:
Tôi cho rằng bạn nghĩ rằng bạn quan trọng. Vậy thì bạn quan trọng với ai đến mức nào? Sẽ dễ dàng hơn nhiều vào ban đêm, khi có bạn bè và ánh đèn sáng hơn là ở một mình trong phòng sau đó. Bạn có nghĩ rằng họ sẽ bỏ lỡ một trong một tỷ người Khi bạn kết thúc giống người già này không? Có thực sự tạo ra nhiều sự khác biệt không Khi bạn bè đã quên khuôn mặt bạn?
Tự truyện A Child Called ‘It’ của Dave Pelzer chỉ là một cuốn sách phát triển chủ đề về giá trị của một con người. Khi còn nhỏ, tác giả đã bị đánh đập dã man và bỏ đói bởi người mẹ nghiện rượu, không ổn định về mặt cảm xúc của mình; một người mẹ đã chơi những trò chơi gian trá, khó lường khiến một trong những đứa con trai của bà gần như chết. Bà không còn coi cậu là con trai nữa mà là nô lệ; không còn là một cậu bé nữa mà là một ‘nó’.
Liệu đó chỉ là một câu chuyện ‘xui xẻo’ đơn lẻ? Nếu chúng ta có thể đến một bãi rác ở một vùng nghèo trên thế giới và tìm thấy một đứa trẻ bị bỏ rơi và dị dạng ở đó, và hỏi

23

câu hỏi: đứa bé đó có giá trị và đáng trân trọng không? Trí tuệ thông thường của con người, hoạt động bên ngoài khuôn khổ đức tin vào Chúa sáng tạo, sẽ trả lời câu hỏi đó như thế nào? Nếu không có Chúa và không ai coi trọng đứa trẻ bị bỏ rơi đó thì có lẽ đứa trẻ không có giá trị. Một người có thể trả lời rằng nếu họ đi ngang qua bãi rác đó, họ sẽ cứu và chăm sóc đứa trẻ — do đó mang lại cho đứa trẻ một giá trị. Đúng là trong những trường hợp đó, đứa trẻ có giá trị đối với người chăm sóc. Nhưng câu hỏi vẫn còn đó — đứa trẻ có giá trị trong những trường hợp không có người nào như vậy đi ngang qua không; đứa trẻ có giá trị nội tại không? Và câu trả lời mà Vua David sẽ đưa ra là `có’. Đứa trẻ đó, bất kể được ai chăm sóc hay không, đã được Chúa tạo ra theo hình ảnh và giống Chúa.
Mục đích của lập luận này, được đưa đến mức cực đoan, chỉ đơn giản là để nhấn mạnh rằng hoặc chúng ta vô giá trị, như các triết lý vô thần của thế giới chúng ta cuối cùng phải nói với chúng ta (nếu chúng trung thực), hoặc chúng ta có giá trị thực sự. Tác giả của bài thánh ca này đang nói rằng chúng ta có một giá trị không phụ thuộc vào những thành tựu, của cải và mối quan hệ của chúng ta, và thay đổi theo những ‘dấu hiệu giá trị’ này. Giá trị thực sự của chúng ta là cố định, không phải là dao động, và là vấn đề của sự chắc chắn tỉnh táo, không phải là suy nghĩ viển vông. Nó dựa trên thực tế rằng chúng ta được Chúa tạo ra và vô cùng có giá trị đối với Người. Và một lần nữa, thật tuyệt vời đối với tác giả của chúng ta khi điều này là như vậy.
Do đó, bài thánh ca này dạy chúng ta biết phải đi đâu để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi, Tôi có giá trị gì không?’ Chúng ta không nên đi tìm của cải của mình; chúng có thể biến mất vào ngày mai, và một ngày nào đó rất sớm thôi, chúng ta sẽ bỏ lại tất cả chúng phía sau. Chúng ta không nên nhìn vào những thành tựu của mình; chúng chắc chắn ít quan trọng hơn nhiều so với những gì chúng ta thích thú và tưởng tượng một cách phù phiếm, và nếu chúng ta có thể nhìn vào tương lai, chúng ta sẽ thấy rằng sách lịch sử ít nhớ đến chúng ta và

24

ghi công cho chúng ta ít hơn. ‘Không có ký ức về những người xưa, và ngay cả những người chưa đến cũng sẽ không được những người theo sau nhớ đến” Chúng ta không nên hỏi bạn bè của mình; họ có thể nịnh hót chúng ta, biết rằng cái tôi mong manh của chúng ta không thể chịu đựng quá nhiều sự thật. ‘Ngay cả những người thề sẽ nhớ bạn cũng không thực sự làm như vậy: Chúng ta phải đến với Chúa vĩnh cửu.
Chỉ có Chúa, đấng sáng tạo hoàn hảo của chúng ta, và là thẩm phán hoàn toàn công bằng, nhìn thấy mọi thứ và biết chúng ta hoàn toàn. Do đó, chỉ có Chúa mới ở vị trí hoàn hảo để đưa ra đánh giá thực sự đáng lắng nghe và chú ý, cụ thể là chúng ta vô cùng có giá trị, vì Ngài đã tạo ra chúng ta và chăm sóc chúng ta.
Câu hỏi vẫn còn là liệu chúng ta có thể nhìn thấy Chúa là ai và tin tưởng Ngài về giá trị mà Ngài đặt vào cuộc sống của chúng ta hay không.
NHẠT NHÀN HAY MÙ?
Điều khiến tác giả của bài thánh ca này khá khác biệt so với hầu hết chúng ta là ông nhìn thấy Chúa một cách rõ ràng. Ngày nay, một số ít người lên tiếng phản đối vị thần mà họ không tin. Nhiều người đang sống với sự thù địch ngấm ngầm với Chúa. Nhưng đối với rất nhiều người, Đức Chúa Trời của người viết ở đây không hiện diện trong ý thức của họ. Ngài không gợi lên những bài ca ngợi lớn lao hay những biểu hiện dữ dội của sự phản đối thách thức. Đức Chúa Trời, nếu Ngài hiện hữu, thì rất nhạt nhẽo. Có lẽ một trải nghiệm trong nhà thờ đã xác nhận sự nghi ngờ rằng ít người tin vào một Đức Chúa Trời lấp đầy chân trời của tâm trí con người theo cách mà Ngài lấp đầy chân trời đối với người viết thánh vịnh này: ‘Lạy Chúa, xin cho vay, danh Chúa thật oai nghiêm trên khắp trái đất! Chúa đã đặt vinh quang của Ngài trên các tầng trời’ (Thi thiên 8: 1).

25

Nhưng những gì người theo đạo Thiên Chúa tin, dù họ có thể trình bày kém cỏi đến đâu, thì đó là Chúa thật vĩ đại! Và nếu chúng ta không thấy điều đó, thì không phải vì Chúa nhạt nhẽo mà vì chúng ta mù quáng và cần đôi mắt của tâm trí được mở ra. Có một câu chuyện kể về một người đàn ông tại Speakers’ Corner đã từng nói một cách khinh thường, ‘Họ bảo tôi rằng có Chúa; nhưng tôi không thấy Người! Họ bảo tôi rằng có thiên đường; nhưng tôi không thấy! Họ bảo tôi rằng có địa ngục; nhưng tôi không thấy!’ Có rất nhiều sự tán thành và vỗ tay cho những tình cảm phổ biến và đại chúng này. Sau một lúc, một diễn giả thứ hai bước lên bục. ‘Họ bảo tôi rằng…’, anh ta bắt đầu nói lắp bắp, `… họ bảo tôi rằng có cỏ xanh, nhưng tôi chưa bao giờ thấy. Họ bảo tôi rằng có bầu trời xanh, nhưng tôi chưa bao giờ thấy. Họ bảo tôi rằng có rất nhiều người xung quanh tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy họ. Bạn thấy đấy, tôi bị mù.’
Về mặt tâm linh, đây chính là tình trạng của con người. Chúng ta cần có khả năng cầu nguyện theo kiểu: ‘Lạy Chúa, nếu Ngài ở đó, và nếu Ngài là Đức Chúa Trời uy nghi và vinh hiển mà tác giả của thánh vịnh này nói và hát, xin mở mắt con và cho con thấy.’ Và nếu Đức Chúa Trời mở mắt chúng ta để thấy những gì tác giả ở đây thấy, thì điều gì sẽ lấp đầy tâm trí và trái tim chúng ta? Chúng ta sẽ thấy một Đức Chúa Trời, kết hợp trong một mình Ngài cả quyền năng sáng tạo tuyệt vời đã tạo nên mọi thứ và sự quan tâm thực sự đối với những người mà Ngài đã tạo ra, bạn nhỏ bé và tôi nhỏ bé.’ Chúa Giê-su đã nói về Đức Chúa Trời này, khi Ngài dạy các môn đồ cầu nguyện ‘Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời’. Nói về Đức Chúa Trời như ‘trời’ là nói về quyền năng vô hạn của Ngài: ‘Đức Chúa Trời chúng ta ở trên trời; Ngài làm bất cứ điều gì đẹp lòng Ngài’ (Thi thiên 115:3). Nói về Đức Chúa Trời như Cha là nói về sự chăm sóc cá nhân của Ngài đối với con cái Ngài. Vì vậy, Chúa Giê-su có thể nói đừng lo lắng, khi nói rằng, “Chúng ta sẽ ăn gì?” hoặc “Chúng ta sẽ uống gì?” hoặc

26

“Chúng ta sẽ mặc gì?” Vì dân ngoại chạy theo tất cả những thứ này, và Cha các ngươi trên trời biết rằng các ngươi cần những thứ đó.’ (Ma-thi-ơ 6:31-32) Sự thật đáng kinh ngạc của bài thánh ca này là bạn và tôi có thể biết và được chăm sóc bởi, Đức Chúa Trời sáng tạo toàn năng và hoàn toàn có cá tính của vũ trụ.
BIẾT ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong viễn tượng này về Đức Chúa Trời, uy nghiêm trong quyền năng và quan tâm đến nhân loại được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài, nằm ở sự đảm bảo vững chắc và tuyệt vời rằng cuộc sống của chúng ta có giá trị và cuộc sống có mục đích.
Từ góc nhìn này, rõ ràng là những câu hỏi quan trọng cần đặt ra và trả lời là những câu hỏi về cách chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời này một cách cá nhân. Trong bài thánh ca này, Vua David bắt đầu giải quyết câu hỏi đó vì ông nhận ra rằng có một cách đúng và một cách sai để liên hệ với Đức Chúa Trời. Và ngay cả trong hiện tại, nhân loại đã chia rẽ trong cách đáp lại Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ hoặc là quy phục Chúa hoặc chế giễu Ngài:

Từ môi trẻ thơ và trẻ sơ sinh, Ngài đã truyền lệnh ngợi khen vì kẻ thù của Ngài, để làm im tiếng kẻ thù và kẻ báo thù (Thi thiên 8:2).
Đối mặt với những tuyên bố to lớn được đưa ra cho Chúa trong thánh vịnh này, điều không thể tránh khỏi là chúng ta sẽ thừa nhận Ngài là Chúa của chúng ta hoặc chúng ta sẽ từ chối Ngài.
Chắc chắn Chúa có kẻ thù; thực sự thì sống như kẻ thù của Chúa là đặc điểm của bản chất con người?’ Nhưng, cũng vậy, Chúa đang hoạt động trong thế giới của Ngài để dấy lên một dàn hợp xướng và điệp khúc ngợi khen Ngài là Chúa sáng tạo uy nghiêm và vinh quang. Và rất thường xuyên, khả năng nhìn thấy Chúa như Ngài là ai đến từ những nơi không ngờ tới. Trong thánh vịnh này, không phải những người khôn ngoan và có học thức trong số những người nhìn thấy Chúa như Ngài là ai và quy phục Ngài. Đó là ‘trẻ em và trẻ sơ sinh’

27

những người nhìn thấy Chúa như Ngài là ai và Chúa chọn ai để làm chứng cho Ngài bằng lời ngợi khen và tôn thờ.
Nhưng chính xác thì điều gì liên quan đến việc thừa nhận CHÚA là Chúa của chúng ta? Chúng ta chỉ cần hát những bài hát vào buổi sáng, buổi trưa và buổi tối? Phải chăng thiên đàng chỉ đơn giản là chơi đàn hạc trên một đám mây trên trời? Liệu Chúa có thực sự cần sự tôn thờ vô tận mà Ngài dường như muốn tạo ra không?”
Câu trả lời, như chúng ta đã bắt đầu thấy, không phải là Chúa cần lời ngợi khen mà chúng ta có thể ban tặng, mà là chúng ta cần Chúa đã tạo ra chúng ta, nếu chúng ta muốn hoàn thành tiềm năng con người của mình theo kế hoạch thiêng liêng của Ngài. Mối quan hệ đúng đắn với Chúa là chìa khóa để phản ánh vinh quang của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và cai trị thế giới này cho Ngài.
Ở đây, trong bài thánh ca này, rõ ràng là mối quan hệ đúng đắn với Chúa không chỉ là chức năng của đôi môi chúng ta. Chắc chắn một cuộc sống có mối quan hệ đúng đắn với Chúa sẽ bao gồm lời ngợi khen của đôi môi xưng nhận danh Ngài và tôn vinh Ngài trong âm nhạc và bài hát; bài thánh ca này là một bài hát ngợi khen Chúa như vậy: `Lạy Chúa, Chúa chúng con, danh Chúa thật oai nghiêm trên khắp trái đất!’ Nhưng liên hệ đúng đắn với Chúa không chỉ là những bài hát chúng ta hát. Lời ngợi khen xứng đáng với Chúa cần được thể hiện không chỉ bằng lời nói và bài hát trên môi chúng ta, mà còn — và quan trọng — bằng sự chỉ đạo và lòng tận tụy của cuộc sống chúng ta. ‘Những đứa trẻ và trẻ sơ sinh’ ở đây ngợi khen Chúa, trái ngược với ‘kẻ thù và kẻ báo thù’ là kẻ thù của Chúa và chống đối Ngài; việc hát những bài hát mừng Giáng sinh mỗi năm không phải là dấu hiệu của — hoặc thay thế cho — một cuộc sống lấy Chúa làm trung tâm.
CẢM ƠN, NHƯNG KHÔNG CẢM ƠN.
Nhưng điều gì sẽ quyết định liệu tôi có nằm trong số những người nhìn thấy Chúa như Ngài là ai và biết đến Ngài hay không

28

cá nhân tôi là Chúa của tôi, hay liệu tôi sẽ nằm trong số những người không thấy Ngài hay biết Ngài? Một phần của câu trả lời được tìm thấy bằng cách đặt ra một câu hỏi xa hơn, cụ thể là ‘tôi có muốn thấy và biết Chúa không?’
Nếu sự vô tâm về mặt tinh thần của chúng ta thực sự là sự mù quáng của chúng ta chứ không phải là sự nhạt nhẽo của Chúa, chúng ta sẽ được giúp đỡ bằng cách học cách không dễ dàng hài lòng với những điều nhỏ nhặt và thú vui nhỏ bé thường khiến chúng ta hài lòng! Chúng ta được tạo ra để có những niềm vui lớn lao và những kho báu lâu dài như vậy! Có lẽ chúng ta đã thấy trẻ em cãi nhau vì một món đồ chơi nhỏ bị hỏng; đối với chúng, cuộc sống là tất cả về việc giành chiến thắng trong cuộc chiến giành đồ chơi! Có lẽ chúng ta bị hấp dẫn và say mê bởi bạn trai hoặc bạn gái, chồng hoặc vợ, gia đình hoặc bạn bè. Cuộc sống, chúng ta nghĩ, không thể tốt hơn khi ở bên họ! Hoặc có thể chúng ta hài lòng với sự tôn trọng xã hội và sự an toàn về tài chính đi kèm với thành công trong sự nghiệp của mình. Một khi chúng ta có được điều này, chúng ta đã đạt được!
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời uy nghi của vũ trụ luôn vẫy gọi chúng ta tận hưởng ‘những lạc thú vĩnh cửu bên hữu Ngài’ (Thi thiên 16:11), trong đó những thú vui do của cải, mối quan hệ và thành công trên thế gian này mang lại chỉ là một tiếng vọng rất yếu ớt và là sự phản chiếu mờ nhạt nhất. Chúng ta có thể trả lời ‘cảm ơn, nhưng không cảm ơn’ khi được đề nghị biết đến Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo của chúng ta. Nhưng nếu người viết Thi thiên nói đúng – và tôi nói ‘không cảm ơn Chúa’ – thì tôi đã đánh mất mục đích mà tôi được tạo ra – sự hiểu biết về Đức Chúa Trời, uy nghi trong quyền năng của Ngài và gần gũi trong sự chăm sóc của Ngài.
Người viết của chúng ta không mắc phải sai lầm như vậy trong Thi thiên này. Tâm trí của ông tràn ngập viễn cảnh về sự uy nghiêm của Đức Chúa Trời. Đường chân trời của ông tràn ngập hình ảnh về vinh quang của Đức Chúa Trời. Trái tim ông khiêm nhường trước ý nghĩ về quyền năng của Đức Chúa Trời. Môi ông đầy những lời ngợi khen Đức Chúa Trời. Cuộc đời của ông là sự phản ánh được cân nhắc về chủ đề Đức Chúa Trời chăm sóc tạo vật của Ngài và nhân loại là đỉnh cao của trật tự được tạo ra.

29

cuộc sống thực sự thể hiện một sự tồn tại có trật tự, ở trung tâm là Chúa Tạo Hóa được tôn kính và kính trọng.
CÂU HỎI LỚN
JACK HỎI:
Bạn nói rằng Chúa là đấng sáng tạo. Điều đó có nghĩa là những người theo đạo Thiên chúa tin rằng thuyết tiến hóa hoàn toàn sai; rằng vũ trụ được tạo ra trong sáu ngày và Homo sapiens có tuổi đời khoảng 6.000 năm?
JONATHAN TRẢ LỜI:
Không nhất thiết. Đối với tất cả những cuộc xung đột đã từng xảy ra trong lịch sử giữa khoa học và tôn giáo, về cơ bản họ đang đặt ra và trả lời hai câu hỏi hoàn toàn khác nhau. Phương pháp khoa học (và nhiều người theo đạo Thiên chúa là nhà khoa học và cam kết với điều đó) đang giải quyết câu hỏi ‘làm thế nào’ — ví dụ ‘thế giới này đã hình thành như thế nào?’, hoặc ‘con người đã xuất hiện như thế nào?’ Tuy nhiên, về cơ bản, đạo Thiên chúa đang đặt ra câu hỏi ‘tại sao?’ hoặc ‘ai?’ — ví dụ `tại sao chúng ta ở đây?’ hoặc ‘ai đã đưa chúng ta vào sự tồn tại?’
Trong khi các nhà khoa học có thể giải thích cách một điều gì đó đã xảy ra, họ không giải thích Chúa, mặc dù một số người trong chúng ta không có nền tảng khoa học có thể hiểu sai những phát hiện của họ theo cách đó. Thay vào đó, họ đã giải thích cách Chúa đã hoạt động trong việc thực hiện các quyền năng sáng tạo của mình. Quan điểm này về thành quả của nghiên cứu khoa học đã được nói đến như là ‘suy nghĩ về những suy nghĩ của Chúa sau khi Ngài’ ‘thinking God’s thoughts after him’ — vì chúng ta có thể đưa ra một lời giải thích khoa học

30

đối với một hiện tượng cụ thể mà chúng ta quan sát, và chúng ta có thể tiếp tục quy kết cho sức mạnh thần thánh và sáng kiến ​​sáng tạo của Chúa. Để sử dụng phép so sánh, ai đó có thể quan sát thấy ấm nước đang sôi, và để giải thích, hãy nói rằng nhiệt của nguyên tố tác dụng lên nước gây ra sự truyền năng lượng cho các phân tử nước để chúng chuyển động mạnh mẽ, một số thoát ra ngoài khí quyển khiến hơi nước bốc lên. Một lời giải thích khác cho ấm nước đang sôi có thể là Bố đã đun ấm nước để chúng ta có thể uống một tách trà. Cả hai lời giải thích về ấm nước đang sôi đều đúng nhưng theo các góc độ khác nhau về ‘cách thức’ và ‘lý do’.

Vì vậy, những người theo đạo Thiên chúa không bắt buộc phải sống trong hai thế giới tư tưởng trái ngược nhau, thờ phượng Chúa vào Chủ Nhật và khoa học trong suốt tuần làm việc và suy nghĩ. Tôi thường nói với mọi người rằng ‘bất cứ điều gì mà một nhà khoa học có thể nói với bạn chắc chắn là đúng’, và nếu chúng ta, những người theo đạo Thiên chúa, đã đọc Kinh thánh như thể đó là một cuốn sách giáo khoa khoa học (mà thực tế không phải vậy), chúng ta cần phải thừa nhận, thành thật và nói rằng chúng ta đã hiểu sai. Nói như vậy, lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ và các loài thường chỉ là lý thuyết. Và chắc chắn những người theo đạo Thiên chúa tin vào một vị Chúa sáng tạo, có khả năng chỉ đạo và cai quản mọi thứ diễn ra trên thế giới này (xem chương 2) không nhất thiết phải mất rất nhiều thời gian (hàng tỷ năm) như những người mà cách duy nhất có thể khiến con người đạt được trạng thái hiện tại của họ là thông qua một quá trình đột biến gen ngẫu nhiên hoàn toàn, không được bất kỳ đấng thần thánh nào hướng dẫn.
Nhưng điều quan trọng là, Chúa không tự mâu thuẫn với chính mình khi nói một điều trong Kinh thánh và một điều khác trong vũ trụ vật chất và vật lý mà chúng ta là một phần.

31

Vẫn là trường hợp mà bất cứ điều gì có thể được suy ra một cách chắc chắn từ sự sáng tạo của chúng ta bởi cộng đồng khoa học chắc chắn là đúng. Và việc thừa nhận một vị Chúa sáng tạo không đóng lại bất kỳ cuộc thảo luận nào về cách Chúa tạo ra thế giới hoặc thậm chí là mốc thời gian cho hoạt động sáng tạo đó — một vấn đề mà chính những người theo đạo Thiên chúa cũng có quan điểm khác nhau. Việc thừa nhận một vị Chúa sáng tạo chỉ đơn giản là thừa nhận rằng, bằng bất kỳ phương tiện nào và trong bất kỳ thời kỳ nào, Chúa đã tạo ra vũ trụ. Tương tự như vậy, việc thừa nhận Chúa là Đấng sáng tạo không phải là một lời giải thích tạm thời của và dành cho con người nguyên thủy cho đến khi quá trình nghiên cứu khoa học dần dần khiến thế giới của chúng ta tiết lộ những bí mật về khởi đầu của nó. Nếu chúng ta chỉ đơn giản sử dụng ‘Chúa’ để lấp đầy những khoảng trống trong kiến ​​thức của con người, thì tất nhiên khi kiến ​​thức của con người tăng lên và những khoảng trống trong kiến ​​thức của chúng ta giảm đi, niềm tin vào một vị Chúa như vậy (`vị thần của những khoảng trống’) ngày càng trở nên không cần thiết. Nhưng trên thực tế, bất kỳ câu trả lời nào mà phương pháp khoa học có thể đưa ra về ‘cách’ chúng ta đến đây, thì chúng sẽ không loại trừ câu hỏi liệu có một lý do hay nguyên nhân cuối cùng (Ca nguyên nhân đầu tiên’) đằng sau tất cả, giải quyết câu hỏi tại sao chúng ta ở đây.
JILL HỎI:
Bạn nói về quyền năng vô hạn của Chúa và sự chăm sóc cá nhân của Người. Nhưng làm sao bạn có thể cân bằng niềm tin vào một Chúa toàn năng và yêu thương với tất cả những đau khổ trên thế giới của chúng ta?
JONATHAN TRẢ LỜI:
Sự phản đối này đối với Chúa mà những người theo đạo Thiên chúa tin tưởng đã cộng hưởng với tất cả những người suy nghĩ, cảm xúc. Ví dụ, khi một tiêu đề báo có nội dung: ‘Cuộc thảm sát ẩn’, và bản báo cáo tiếp tục, ‘hơn 20.000 thường dân Tamil đã bị giết trong những cơn đau cuối cùng của cuộc nội chiến Sri Lanka

32

nội chiến, phần lớn là do chính phủ pháo kích…’, chúng ta buộc phải hỏi ở đâu là một vị Chúa của quyền năng và tình yêu trong tình huống đó?
Chúng ta nên cân nhắc quan điểm thay thế trong giây lát. Nếu thực tế đau khổ (mà bạn có thể có kinh nghiệm cá nhân, đau đớn) thực sự khiến niềm tin vào một vị Chúa toàn năng và yêu thương trở nên bất khả thi hoặc khó tin, thì hai hậu quả sẽ xảy ra. Đầu tiên, chúng ta vẫn (cũng như những người có niềm tin khác) bị nhốt trong một thế giới mà chắc chắn sẽ có đau khổ khủng khiếp; ‘sự hoài nghi’ của chúng ta tất nhiên sẽ không thay đổi dữ liệu thô của trải nghiệm con người. Nhưng thứ hai — và điều này sẽ khác — chúng ta bị nhốt trong một thế giới quan không thể mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, không có sự an ủi trong đau khổ và không có triển vọng về ánh sáng ở cuối đường hầm — chỉ có cái chết và (hy vọng là) sự hủy diệt cảm giác đau đớn. Có thể lập luận rằng thế giới quan này nhân lên nỗi đau của chúng ta; ít nhất là nó không làm gì để khiến nỗi đau trở nên dễ chịu hơn. Nhiều khả năng nó khiến việc giảm đau và theo đuổi khoái lạc trở thành mục tiêu chính của sự tồn tại của chúng ta (mặc dù cuối cùng là những mục tiêu vô ích).

Nhưng có một giải pháp thay thế nào không? Chúng ta có thể cân bằng sự tồn tại của một vị Chúa của tình yêu và quyền năng với những gì chúng ta trải qua về đau khổ trong thế giới của mình không? Không có một câu trả lời rõ ràng và dứt khoát nào cho vấn đề đau đớn và đau khổ. Nhưng Kinh thánh đưa ra một số dấu hiệu cho thấy tại sao thực tế về đau đớn và đau khổ không nhất thiết phải trái ngược với sự tồn tại của một vị Chúa của tình yêu và quyền năng.
Đầu tiên, Chúa trong tình yêu của Ngài đã ban cho chúng ta quyền tự do lựa chọn. Một người cha mẹ có thể bảo vệ con khỏi rất nhiều đau khổ bằng cách tước đi rất nhiều quyền tự do. Nếu đứa trẻ được tự do đi xe đạp, thì sớm muộn gì đứa trẻ cũng sẽ trải qua nỗi đau khi ngã. Những vết bầm tím và chảy máu có thể xảy ra sau đó không nên được hiểu là do thiếu tình yêu của cha mẹ. Trừ khi Chúa

33

liên tục đình chỉ các quy luật tự nhiên của nhân quả — điều này thực sự khiến vũ trụ này trở nên hoàn toàn không thể đoán trước và thực sự nguy hiểm — cảm giác hồi hộp khi đạp xe sẽ liên quan đến nguy cơ bị tai nạn và cảm giác hồi hộp khi leo núi sẽ liên quan đến nguy cơ bị ngã; là con người, với cơ thể, sẽ liên quan đến đau khổ về thể xác.
Nhưng thứ hai, chúng ta phải hiểu thế nào về ‘thảm họa thiên nhiên’? Con người đã đưa ra những lựa chọn nào ở đó? Đúng là mặc dù thế giới này theo nhiều cách vẫn duy trì sự sống của khoảng bảy tỷ người một cách an toàn, nhưng đây không phải là môi trường hoàn toàn an toàn và thân thiện với con người. Có lũ lụt và hạn hán, sóng thần và bão. Chúng gây ra sự tàn phá khủng khiếp. Chúng ta cần biết rằng Kinh thánh không bỏ qua điều này. Và thực sự là không. Ngược lại, Kinh thánh dạy rõ ràng rằng một hậu quả của việc loài người quay lưng lại với Chúa (sẽ nói thêm về điều này trong các chương tiếp theo) là môi trường vật chất mà chúng ta đang sống cũng bị hủy hoại. Nó không còn là tạo vật hoàn hảo mà Chúa đã tạo ra nữa. Nó đã bị phá vỡ. Rất nhiều đau khổ xảy ra khi con người sao nhãng vai trò của mình là người quản lý tạo vật này mà không tính đến thực tế là thế giới đổ vỡ mà chúng ta đang sống.
Ví dụ, trận động đất xảy ra ở Haiti vào ngày 13 tháng 1 năm 2010 được cho là đã cướp đi sinh mạng của 200.000 người. ‘Có một vị Chúa toàn năng, toàn năng mà bạn nói đến’, một số người có thể bình luận một cách hoài nghi. Nhưng như một nhà báo đã bình luận, ‘Đây là một thảm họa do con người gây ra’. `Đây không phải là một câu chuyện về thảm họa thiên nhiên’, David Brooks đã nói trên tờ The New York Times. ‘Đây là một câu chuyện về sự nghèo đói. Vào tháng 10 năm 1989,

34

một trận động đất khác có cường độ 7,0 độ richter đã tấn công Bay Area đông dân nhưng giàu có ở Bắc California; chỉ có sáu mươi ba người chết. ‘Số người chết ở Haiti vừa có thể dự đoán được vừa có thể tránh được’, David Rothkopf đồng ý trên Newsweek. ‘Những “siêu thảm họa” trên thế giới — trận động đất năm 2008 ở Tứ Xuyên, Trung Quốc; cơn bão Hargis ở Miến Điện; sóng thần Ấn Độ Dương — hầu như luôn tuân theo một mô hình. Những cộng đồng dễ bị tổn thương dựng nhà trên ‘vùng đất nguy hiểm: dưới mực nước biển, trên núi hoặc dọc theo các đường đứt gãy. Các chính phủ yếu kém hoặc không đủ năng lực không thiết lập được các quy tắc xây dựng, hệ thống cảnh báo sớm, giao thức cứu hộ hoặc cơ sở hạ tầng bảo vệ như tường chắn biển — và thiên nhiên sẽ làm phần còn lại.'”
Thứ ba, tình yêu của Chúa, một lần nữa, không phải là không tương thích với đau khổ trong những hoàn cảnh mà Chúa, trong tình yêu của Người, đã chủ động cảnh báo chúng ta không theo đuổi một lối sống sẽ dẫn đến đau khổ. Một người cha mẹ yêu thương sẽ cảnh báo con mình nếu hành động của con sẽ dẫn đến đau khổ. Và theo cách tương tự, Chúa lên tiếng để cảnh báo chúng ta khi quỹ đạo cuộc sống của chúng ta đi chệch khỏi Người — về cơ bản đó chính là địa ngục (nỗi đau khổ tột cùng): xa cách Chúa và khỏi sự hiện diện của mọi điều tốt đẹp mà Chúa đã tạo ra.
Cuối cùng, Chúa trong tình yêu của Người đã hành động để xóa bỏ hậu quả của đau khổ. Chính bệnh tật và cái chết khiến chúng ta cảm thấy đau khổ bất công và không đáng phải chịu nhất. Làm sao nỗi đau khổ này lại tương thích với một Chúa của tình yêu? Câu trả lời ngắn gọn là bệnh tật và cái chết không phải là một phần trong thiết kế ban đầu của Chúa dành cho nhân loại; bản thân chúng là những kẻ xâm nhập `không tự nhiên’ vào sự tồn tại của con người chúng ta. Tuy nhiên, chúng nằm trong số những hậu quả mà Chúa đã tiên đoán sẽ xảy ra sau sự phản loạn của con người chống lại Ngài. Theo nghĩa chung, chúng ta có thể nói rằng đau khổ và cái chết là hậu quả xứng đáng của toàn thể nhân loại phản loạn chống lại Chúa. Nhưng tin mừng về tình yêu của Chúa

35

Kinh Thánh nói rằng đau khổ và cái chết không nhất thiết phải là kết thúc cho bất kỳ ai. Với cái giá rất đắt, Chúa đã tạo ra một con đường để cuối cùng chúng ta có thể được giải cứu khỏi những kẻ xâm nhập vào thế giới hoàn hảo mà Chúa đã tạo ra ban đầu. Các chương sau sẽ khám phá điều này.

Có lẽ câu hỏi này được đặt ra bởi một người hiện đang phải chịu đau khổ rất nhiều. Bạn nên an ủi rằng Chúa Jesus, trong lời dạy của mình, đã cảnh báo rõ ràng về việc cố gắng tìm ra nguyên nhân cụ thể của đau khổ cá nhân trong tội lỗi cụ thể của một người” — như thể mọi đau khổ đều là sự phán xét hiện tại của Chúa. Thay vào đó, mọi đau khổ, trong nền kinh tế của Chúa, đều có thể cảnh báo chúng ta về những nguy hiểm mà chúng ta phải đối mặt khi không có Ngài, và cũng chỉ cho chúng ta biết Ngài là người có thể giải cứu chúng ta khỏi nỗi đau khổ tột cùng khi bị Chúa từ bỏ.
JACK HỎI:
Tại sao Chúa ra lệnh cho chúng ta thờ phượng Ngài? nghe có vẻ như Ngài đang cần sự giúp đỡ theo một cách nào đó, hoặc ‘tập trung vào Chúa’!
JONATHAN TRẢ LỜI:
Đây cũng là một lời phản đối thường được nêu ra đối với những gì các Cơ đốc nhân tin tưởng. Câu trả lời không phải là Chúa ‘cần’ những gì chúng ta có thể cung cấp cho Ngài, mà là chúng ta cần những gì Ngài cung cấp cho chúng ta.
Ngài không cần bất cứ thứ gì chúng ta có thể cung cấp — điều mà chúng ta sẽ khám phá thêm trong chương tiếp theo. Tuy nhiên, khi Chúa Giê-su được hỏi điều răn nào là lớn nhất trong Luật pháp, Ngài trả lời, “‘Hãy yêu Chúa là Đức Chúa Trời ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” Đây là điều răn đầu tiên và lớn nhất

36

‘điều răn.’ (Ma-thi-ơ 22:37-38, nơi Chúa Giê-su trích dẫn Đệ nhị luật 6:5). Nói cách khác, Chúa đã tạo ra chúng ta để thờ phượng Ngài. Tại sao vậy?
Câu trả lời cốt lõi là Chúa đã tạo ra chúng ta theo cách mà chúng ta đạt được tiềm năng của con người khi chúng ta thừa nhận tình trạng tạo vật của mình thay vì cố gắng đóng vai Chúa. Điều này là bởi vì chỉ có Ngài mới xứng đáng được chúng ta ngợi khen và tôn thờ bằng đôi môi và cuộc sống của mình. Và nếu cuộc sống của chúng ta trước hết không phải là sự thể hiện tình yêu dành cho Chúa và tuyên bố về sự vĩ đại của Ngài, thì chúng ta sống để tôn vinh một điều gì đó hoặc một ai đó không xứng đáng với sự tôn thờ tột cùng của trái tim chúng ta — nói cách khác, chúng ta sống trong sự dối trá và kết quả là chúng ta kém cỏi hơn con người. Người đó hoặc điều gì đó có thể là chính tôi, hoặc một người chồng, người vợ hoặc con cái, hoặc thú vui, công việc hoặc sự giàu có. Nhưng bất kể đó là ai hoặc bất cứ điều gì, Chúa Giê-su không nói gì cả và không ai có quyền yêu cầu tình yêu và lòng trung thành của cuộc sống chúng ta cao hơn một mình Chúa.
Ngoài ra, như chúng ta đã bắt đầu thấy trong chương cuối cùng này, việc thờ phượng Chúa, như Ngài truyền lệnh, sẽ không làm chúng ta nghèo đi — mà ngược lại, sẽ làm chúng ta giàu có hơn. Vì nếu không liên hệ đúng đắn với Chúa, dành cho Ngài vị trí tối cao trong tình cảm của chúng ta và tôn vinh Ngài là người cai trị hợp pháp của cuộc sống chúng ta, chúng ta không thể hoàn thành mục đích mà Ngài đã tạo ra chúng ta: mục đích phản ánh hình ảnh và vinh quang của Ngài và cai trị cho Ngài trên thế giới này.
Cuối cùng, Chúa kêu gọi chúng ta tôn vinh và thờ phượng Ngài bởi vì đây, và chỉ điều này thôi, là con đường dẫn đến niềm vui và hạnh phúc và — vâng — Chúa đã tạo ra chúng ta vì niềm vui của chúng ta cũng như của Ngài. Vì vậy, điều đó chứng tỏ rằng bổn phận của chúng ta (yêu Chúa bằng tất cả những gì chúng ta có) vừa là bổn phận vừa là niềm vui của chúng ta. Như một trong những giáo lý của nhà thờ đã nói, chúng ta được Chúa tạo ra ‘để tôn vinh Chúa và tận hưởng Ngài mãi mãi’. Và, như những người khác đã chỉ ra, đây không phải là hai mục tiêu riêng biệt mà là một: chúng ta tôn vinh Chúa trong chính công việc tận hưởng Ngài và vui thích nơi Ngài.

37

Một cách để làm rõ những gì người theo đạo Thiên chúa tin là – tích cực – nêu ra, như chúng ta đã bắt đầu làm trong chương này. Một cách khác để làm rõ đức tin đó là xác định một số cách mà đức tin đó bị hiểu sai một cách hiệu quả – và đó là cách tiếp cận khác của chương tiếp theo.
Cho dù chúng ta có ngưỡng mộ và đánh giá cao quá trình ‘tích cực’ trong việc xác định và khẳng định những gì người theo đạo Thiên chúa tin, chúng ta sẽ được giúp đỡ trong việc hiểu biết của mình bằng cách làm rõ những gì người theo đạo Thiên chúa không tin và bằng cách vạch trần những sai lầm phổ biến khiến chúng ta bối rối và lừa dối.
Nhiều người trong chúng ta chỉ tin một nửa ‘những gì người theo đạo Thiên chúa tin’ vì chúng ta đã tin vào những điều mà người theo đạo Thiên chúa không tin. Việc vạch trần những sai lầm này – những ý tưởng thường khiến chúng ta thoải mái và trân trọng – có thể khá đau đớn. Nhưng, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, việc tin vào một số sự thật nhất định có nghĩa là phải từ bỏ một số sai lầm nhất định.

38

the end chapter 1

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên