
MỤC LỤC
1. Kinh Thánh đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời 2. Vương quốc Đức Chúa Trời là gì? 3. Ý nghĩa các dụ ngôn của Chúa Giê-su về Vương quốc. 4. Các sứ đồ dạy về Vương quốc. 5. Những nguyên tắc của Vương quốc. 6. Sự lãnh đạo trong Vương quốc. 7. Mối liên quan giữa Vương quốc, Y-sơ-ra-ên và hội thánh. 8. Vương quốc và xã hội. 9. Phúc Âm Vương quốc ảnh hưởng đến chính trị như thế nào? 10. Vương quốc và tương lai. 11. Vương quốc thiên hy niên. 12. Áp dụng các lẽ thật về Vương quốc trong công tác truyền giáo cho người Việt. Chương 1 Kinh Thánh đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời Tân Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời1 “Nhưng trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33) “Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó.”(Ma-thi-ơ 21:43) “Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành.” (Mác 1:15) “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:3) “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Ma-thi-ơ 5:10) “Vì ta phán cho các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng.” (Ma-thi-ơ 5:20) “Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh; Nước Cha được đến; Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma-thi-ơ 6:9-10) “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi.” (Ma-thi-ơ 7:21) “Ta cũng nói cùng các ngươi, có nhiều người từ đông-phương tây-phương sẽ đến, ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong nước thiên-đàng.” (Ma-thi-ơ 8:11) “Đức Chúa Giê-su đi khắp các thành, các làng, dạy-dỗ trong các nhà hội, giảng tin-lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật-bịnh.” (Ma-thi-ơ 9:35) “Mà nếu ta cậy Thánh-Linh của Đức Chúa Trời để trừ quỉ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến tận các ngươi.” (Ma-thi-ơ 12:28) “Ngài lấy ví-dụ khác mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như một hột cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình; hột ấy thật nhỏ hơn cả các giống khác, song khi đã mọc lên, thì lớn hơn các thứ rau, và trở nên cây cối, cho đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được.” (Ma-thi-ơ 13:31-32) “Ngài lấy ví-dụ khác nữa mà phán rằng: Nước thiên-đàng giống như men mà người đàn-bà kia lấy trộn vào trong ba đấu bột, cho đến chừng nào bột dậy cả lên.” (Ma-thi-ơ 13:33) “Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua đám ruộng đó.” (Ma-thi-ơ 13:44) “Nước thiên-đàng lại giống như một người lái-buôn kiếm ngọc châu tốt, khi đã tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia-tài mình mà mua hột châu đó.” (Ma-thi-ơ 13:45-46) “Nước thiên-đàng cũng giống như một tay lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá. Khi lưới được đầy rồi, thì người đánh cá kéo lên bờ; đoạn, ngồi mà chọn giống tốt để riêng ra, đem bỏ vào rổ, còn giống xấu thì ném đi. Đến ngày tận-thế cũng như vậy: Các thiên-sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công-bình ra, ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc-lóc và nghiến răng.” (Ma-thi-ơ 13:47-50) “Ta sẽ giao chìa khóa nước thiên-đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 16:19) “Song Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên-đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy.” (Ma-thi-ơ 19:14) “Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết-quả của nước đó.” (Ma-thi-ơ 21:43) “Tin-lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” (Ma-thi-ơ 24:14) “Khi Con người ngự trong sự vinh-hiển mình mà đến với các thiên-sứ thánh, thì Ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh-hiển của Ngài. Muôn dân nhóm lại trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra; để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả. Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất. Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp-rước ta; ta trần-truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta.” (Ma-thi-ơ 25:31-36) “Ngài lại phán cùng môn-đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây, có mấy kẻ sẽ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời lấy quyền-phép mà đến.” (Mác 9:1) “Con lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời.” (Mác 10:25) “Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin-lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến.” (Lu-ca 4:43) “Nhưng Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao-giảng nước Đức Chúa Trời.” (Lu-ca 9:60) “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước thiên-đàng. Hãy bán gia-tài mình mà bố-thí. Hãy sắm cho mình túi không hư, và của báu không hề hao-kém ở trên trời, là nơi kẻ trộm không đến gần, sâu mọt không làm hư-nát. Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó.” (Lu-ca 12:32-34) “Người Pha-ri-si hỏi Đức Chúa Giê-su nước Đức Chúa Trời chừng nào đến, thì Ngài đáp rằng: Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.” (Lu-ca 17:20-21) “Đức Chúa Giê-su thấy người buồn-rầu, bèn phán rằng: Kẻ giàu vào nước Đức Chúa Trời là khó biết dường nào! Lạc-đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời! Những người nghe điều đó, nói rằng: Vậy thì ai được cứu? Ngài đáp rằng: Sự chi người ta không làm được, thì Đức Chúa Trời làm được. Phi-e-rơ bèn thưa rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ sự mình có mà theo thầy. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người nào vì cớ nước Đức Chúa Trời mà bỏ nhà-cửa, cha mẹ, anh em, vợ con, thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn, và đời sau được sự sống đời đời.” (Lu-ca 18:24-30) “Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp-rước mọi người đến thăm mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy-dỗ về Đức Chúa Giê-su-Christ cách tự-do trọn-vẹn, chẳng ai ngăn-cấm người hết.” (Công vụ 28:30-31) “Đức Chúa Giê-su cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Giăng 3:3) “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn-uống, nhưng tại sự công-bình, bình-an, vui-vẻ bởi Đức Thánh-Linh vậy.” (Rô-ma 14:17) Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng-lực.” (1 Cô-rinh-tô 4:20) “Anh em há chẳng biết những kẻ không công-bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: Phàm những kẻ tà-dâm, kẻ thờ hình-tượng, kẻ ngoại-tình, kẻ làm dáng yểu-điệu, kẻ đắm nam-sắc, kẻ trộm-cướp, kẻ hà-tiện, kẻ say-sưa, kẻ chưởi-rủa, kẻ chắt-bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu.” (1 Cô-rinh-tô 6:9-10) “Kế đó, cuối-cùng sẽ đến, là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá-diệt mọi đế-quốc, mọi quyền cai-trị, và mọi thế-lực; vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù-nghịch dưới chân mình.” (1 Cô-rinh-tô 15:24-25) “Ngài đã giải-thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối-tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu-dấu Ngài.” (Cô-lô-se 1:13) “Anh em cũng biết rằng chúng tôi đối-đãi với mỗi người trong anh em, như cha đối với con, khuyên-lơn, yên-ủi, và nài-xin anh em ăn-ở một cách xứng-đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em đến nước Ngài và sự vinh-hiển Ngài.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:11-12) “Hỡi anh em rất yêu-dấu, hãy nghe nầy: Đức Chúa Trời há chẳng lựa kẻ nghèo theo đời nầy đặng làm cho trở nên giàu trong đức-tin, và kế-tự nước Ngài đã hứa cho kẻ kính-mến Ngài hay sao?” (Gia-cơ 2:5) “Vị thiên-sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế-gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị-vì đời đời.” (Khải huyền 11:15) Cựu Ước đề cập đến Vương quốc Đức Chúa Trời 2 “Hỡi Đức Giê-hô-va! sự cao-cả, quyền-năng, vinh-quang, toàn-thắng, và oai-nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! Vương quốc thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa-tể của muôn vật.” (1 Sử ký 29:11) “Ta sẽ giảng ra mạng-lịnh: Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Ngươi là Con ta; Ngày nay ta đã sanh Ngươi. Hãy cầu ta, ta sẽ ban cho Con các ngoại-bang (các quốc gia, các dân tộc) làm cơ-nghiệp, và các đầu cùng đất làm của-cải.” (Thi thiên 2:7-8) “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai-trị trên muôn vật.” (Thi thiên 103:19) “Hỡi Đức Giê-hô-va, các công việc Ngài sẽ ngợi-khen Ngài; Những người thánh Ngài cũng sẽ chúc-tụng Ngài. Họ sẽ nói về sự vinh-hiển nước Chúa, Thuật lại quyền-năng của Chúa. Đặng tỏ ra cho con loài người biết việc quyền-năng của Chúa, Và sự vinh-hiển oai-nghi của nước Ngài. Nước Chúa là nước có đời đời, Quyền cai-trị của Chúa còn đến muôn đời.” (Thi thiên 145:10-13) “Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy-diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân-tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy-diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời.” (Đa-ni-ên 2:44) “Ta lại nhìn-xem trong những sự hiện-thấy ban đêm, nầy, có một người giống như con người đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng-cổ và bị dẫn đến trước mặt Ngài. Người được ban cho quyền-thế, vinh-hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng đều hầu-việc người. Quyền-thế người là quyền-thế đời đời chẳng qua đi, và nước người không bao giờ phải hủy-phá.” (Đa-ni-ên 7:13-14) “Nhưng các thánh của đấng Rất Cao sẽ nhận lấy nước, và được nước làm của mình đời đời, cho đến đời đời vô-cùng.” (Đa-ni-ên 7:18) “Bấy giờ nước, quyền-thế, và sự tôn-đại của muôn nước ở dưới cả trời, sẽ được ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài là nước đời đời, và hết thảy các quyền-thế đều hầu-việc và vâng lời Ngài.” (Đa-ni-ên 7:27) “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một.” (Xa-cha-ri 14:9) THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 1 1. https://christianitypath.com/bible-verses-about-kingdom-of-god/ Ngày truy cập 28 tháng 2/2025 2. https://understandyourbible.org/theme/gods-master-plan/kingdom-god-old-testament. Ngày truy cập 4 tháng 3/2025 Chương 2 Vương quốc Đức Chúa Trời là gì? “Vương quốc Đức Chúa Trời được đề cập thường xuyên trong những sách Phúc Âm (ví dụ trong Mác 1:15; 10:15; 15:43; Lu-ca 17:20) và ở những chỗ khác trong Tân Ước (ví dụ Công vụ 28:31; Rô-ma 14:17; I Cô-rinh-tô 15:50). Vương quốc Đức Chúa Trời có ý nghĩa tương đồng với vương quốc thiên đàng (Ma-thi-ơ 19:23). Khái niệm về vương quốc Đức Chúa Trời mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong những phân đoạn Kinh Thánh khác nhau.”1 Trong sự tổng hợp các lời giải thích về Vương quốc Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy những quan điểm sau đây căn cứ trên nền tảng của Kinh Thánh: Các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo một ngày mà con người sẽ chung sống trong hòa bình. Khi đó, “luật-pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ làm sự phán-xét trong các nước, đoán-định về nhiều dân. Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi-cày, lấy giáo rèn lưỡi-liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến-tranh (Ê-sai 2:3-4). Không chỉ các vấn đề của xã hội loài người sẽ được giải quyết, mà những điều xấu xa trong môi trường vật chất của con người cũng sẽ không còn nữa. “Bấy giờ muông-sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư-tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” (Ê-sai 11: 6). Hòa bình, an toàn, an ninh – tất cả những điều này đã được hứa cho một vương quốc trong tương lai. Sau đó, Chúa Giê-su đến thành Na-xa-rét công bố sứ điệp, “Hãy ăn năn, vì vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 4:17). Chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến gần là trọng tâm trong sứ mệnh của Ngài. Lời dạy của Ngài được thiết kế để chỉ cho con người cách họ có thể vào Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:20; 7:21). Những việc làm vĩ đại của Ngài có mục đích chứng minh rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Những dụ ngôn của Ngài minh họa cho các môn đồ của Ngài sự thật về Vương quốc Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 13:11). Đây là một chủ đề nổi bật trong Kinh thánh nhận được những cách giải thích khác nhau. Một số nhà giải kinh đã thu hẹp Vương quốc của Chúa thành phạm vi chủ quan, hiểu nó theo cảm xúc con người và mối quan hệ với Chúa. Vương quốc của Chúa là một sức mạnh bên trong đi vào tâm hồn con người và nắm giữ nó. Nó bao gồm một số chân lý tôn giáo cơ bản có ứng dụng phổ quát. Ở thái cực khác một số người định nghĩa thông điệp của Chúa Giê-su về Vương quốc là một vương quốc sẽ được khai sinh bởi một hành động siêu nhiên của Chúa khi lịch sử sẽ bị phá vỡ và một trật tự mới bắt đầu. Vương quốc của Chúa không phải là một thực tại trong tâm linh con người; nó hoàn toàn thuộc về tương lai và siêu nhiên. Nhà giải kinh Richard Horsley lập luận rằng Chúa Giê-su phải được hiểu trong bối cảnh đế chế La Mã áp bức Y-sơ-ra-ên. Lời tuyên bố về vương quốc của Chúa Giê-su bao hàm sự phán xét đối với những người cai trị áp bức và sự đổi mới của Y-sơ-ra-ên. Các sách Phúc âm bắt nguồn từ những bản văn kêu gọi những người theo Ngài thực hiện một cuộc cách mạng xã hội trong việc thiết lập “mối quan hệ kinh tế xã hội bình đẳng và hỗ trợ lẫn nhau”2. Một loại giải thích khác liên hệ Vương quốc của Chúa với Giáo hội. Kể từ thời Augustine, Vương quốc đã được xác định là Giáo hội. Khi Giáo hội phát triển, Vương quốc phát triển và được mở rộng trên thế giới. Nhiều nhà thần học Tin lành đã đi theo cách giải thích này, cho rằng Vương quốc của Chúa có thể được xác định với Giáo hội chân chính được thể hiện trong Giáo hội hữu hình tại mỗi địa phương. Khi Giáo hội mang Phúc âm đến khắp thế giới, nó mở rộng Vương quốc của Chúa. Một phiên bản lạc quan cho rằng sứ mệnh của Giáo hội là giành được toàn bộ thế giới cho Chúa Giê-su và do đó biến đổi thế giới thành Vương quốc của Chúa. Đồng thời, Vương quốc là một di sản mà Đức Chúa Trời sẽ ban cho dân sự Ngài khi Đấng Christ đến trong vinh quang. “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma-thi-ơ 25:34). Làm sao Vương quốc của Đức Chúa Trời có thể là một thực tại tâm linh trong hiện tại nhưng vẫn là một di sản được ban cho dân sự của Đức Chúa Trời khi Đấng Christ tái lâm? Một khía cạnh khác của lẽ thật về Vương quốc phản ánh sự kiện rằng Vương quốc là một nơi mà những người theo Chúa Giê-su Christ đã bước vào. Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời đã “giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và chuyển chúng ta sang Vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13). Câu Kinh thánh này nói rất rõ rằng những người được cứu chuộc đã ở trong Vương quốc của Đấng Christ. Tất nhiên, người ta có thể phản đối rằng chúng ta phải phân biệt giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Vương quốc của Đấng Christ; nhưng điều này là không thể, vì Vương quốc của Đức Chúa Trời cũng là Vương quốc của Đấng Christ. Chúng ta đọc phần Kinh thánh sau đây, để xác nhận điều này. “Vì anh em phải biết rõ rằng kẻ gian dâm, ô uế, tham lam, tức là kẻ thờ hình tượng, không một kẻ nào được dự phần kế nghiệp của nước Đấng Christ và Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 5:5). “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (Khải huyền 11:15). Hơn nữa, Chúa chúng ta mô tả những người đã tiếp nhận sứ điệp và sứ mệnh của Ngài là những người hiện đang bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời (Lu-ca 16:16). Đồng thời, Vương quốc của Đức Chúa Trời là một vương quốc tương lai mà chúng ta phải bước vào khi Đấng Christ tái lâm. Phi-e-rơ hướng đến một ngày tương lai khi “anh em sẽ được cho vào cách rộng-rãi trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-su-Christ là Chúa và Cứu-Chúa của chúng ta.” (2 Phi-e-rơ 1:11). Chính Chúa chúng ta thường nhắc đến sự kiện tương lai này. “Nhiều người sẽ đến từ phương đông và phương tây và ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong vương quốc thiên đàng” (Ma-thi-ơ 8:11). Sự tái lâm tương lai của Vương quốc này sẽ được tham dự với vinh quang lớn lao. Chúa Giê-su đã nói về ngày mà các thiên sứ sẽ, “thâu mọi gương xấu và những kẻ làm ác khỏi nước Ngài, và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc-lóc và nghiến răng. Khi ấy, những người công-bình sẽ chói-rạng như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai, hãy nghe!” (Ma-thi-ơ 13:41, 43). Mặt khác, khi được những người Pha-ri-si hỏi khi nào Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ đến, Chúa Giê-su trả lời, “Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ-ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:20-21). Vương quốc đã hiện diện giữa loài người; và với câu trả lời này Chúa Giê-su muốn những người Pha-ri-si tìm kiếm một Vương quốc trong thực tại. Những dụ ngôn về Vương quốc cho thấy rõ rằng theo một nghĩa nào đó, Vương quốc hiện diện và đang hoạt động trên thế giới. Vương quốc của Chúa giống như một hạt cải nhỏ bé trở thành một cây lớn; giống như men mà một ngày nào đó sẽ thấm vào ba đấu bột, cho đến chừng bột dậy cả lên (Lu-ca 13:18-21). Tuy nhiên, mặt khác, khi Phi-lát thẩm vấn Chúa Giê-su về những lời dạy của Ngài, Chúa Giê-su trả lời: “Vương quốc của ta không thuộc về thế gian này” (Giăng 18: 36). Chính sự phức tạp của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là một trong những lý do tại sao những cách giải thích khác nhau như vậy làm cho thần học có nhiều trường phái giải thích. Có thể trích dẫn những câu riêng lẻ cho hầu hết các cách giải thích có thể tìm thấy trong tài liệu thần học của chúng ta. Vương quốc là một thực tại hiện tại (Ma-thi-ơ 12:28), nhưng lại là một phước lành trong tương lai (1 Cô-rinh-tô 15:50). Đó là một phước lành thuộc linh bên trong (Rô-ma 14:17) chỉ có thể được trải nghiệm thông qua sự tái sinh (Giăng 3:3), nhưng nó sẽ liên quan đến các quốc gia trên thế giới. “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (Khải huyền 11:15). Vương quốc Đức Chúa Trời là một nước mà con người có thể bước vào ngay bây giờ (Ma-thi-ơ 21:31), nhưng đó cũng là một vương quốc mà họ sẽ bước vào trong tương lai (Ma-thi-ơ 8:11). Đồng thời, vương quốc là một món quà của Đức Chúa Trời sẽ được ban cho trong tương lai (Lu-ca 12:32) nhưng phải được tiếp nhận trong hiện tại (Mác 10:15). Rõ ràng là không có lời giải thích đơn giản nào có thể công bằng với sự đa dạng nhưng phong phú của nhiều điều trông có vẻ nghịch lý như vậy. Tuy nhiên, có một giải pháp cơ bản cho vấn đề phức tạp này, giải pháp này sẽ cung cấp chìa khóa để mở cánh cửa vào kho tàng hiểu biết và phước lành. Chìa khóa này cung cấp cách tiếp cận đơn giản nhất đối với lẽ thật Kinh thánh phức tạp và đa dạng này. Đây là chìa khóa thường bị bỏ qua vì sự khác biệt giữa các thành ngữ hiện đại và cổ xưa. Chúng ta phải đặt câu hỏi cơ bản nhất: Ý nghĩa của “vương quốc” là gì? Câu trả lời hiện đại cho câu hỏi này mất đi chìa khóa ý nghĩa đối với chân lý Kinh thánh cổ xưa này. Trong thành ngữ phương Tây, vương quốc chủ yếu là một lãnh thổ mà một vị vua thực hiện quyền lực của mình. Không còn nhiều vương quốc trong thế giới hiện đại của chúng ta với các lợi ích dân chủ của nó. Tuy nhiên khi nghĩ về Vương quốc Thái Lan công nhận vua là người cai trị danh dự của họ. Vương quốc Anh thì có Nữ hoàng là người cai trị của họ. Từ điển Oxford đi theo dòng suy nghĩ này bằng cách đưa ra định nghĩa vương quốc là, “một quốc gia, một tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ mà người đứng đầu là một vị vua hoặc nữ hoàng cai trị.” (a country, state, or territory ruled by a king or queen)3 Nghĩa thứ hai của vương quốc là những người thuộc về một quốc gia nhất định. Vương quốc Anh có thể được xem là tập hợp những công dân mà Nữ hoàng thực hiện quyền cai trị của mình. Người dân nước Anh là công dân của vương quốc đó. Việc áp dụng một trong hai ý tưởng này vào giáo lý Kinh thánh về Vương quốc khiến chúng ta đi lệch khỏi sự hiểu biết đúng đắn về chân lý Kinh thánh. Bản thân từ điển tiếng Anh cũng mắc lỗi này khi đưa ra định nghĩa thần học về vương quốc Đức Chúa Trời là “Vương quốc thuộc linh có Đức Chúa Trời là người cai trị”. Định nghĩa này không thể chính xác với những câu Kinh thánh nói về sự xuất hiện của Vương quốc khi Chúa Giê-su tái lâm. Mặt khác, những người bắt đầu bằng ý tưởng về một vương quốc tương lai được khai sinh qua sự tái lâm của Chúa Giê-su thì không đồng nghĩa với những câu Kinh thánh nói về Vương quốc như một thực tế của đời sống tâm linh trong hiện tại. Chúng ta có thể tìm hiểu ý nghĩa chính của từ “Vương quốc” trong Cựu Ước để mô tả sự cai trị của một vị vua. E-xơ-ra 8:1 nói đến sự trở về của tuyển dân từ Ba-by-lôn. Lúc đó là vương quốc của Ạt-ta-xét-xe, tức là triều đại của ông. 2 Sử ký 12:1 nói về việc thành lập vương quốc hoặc sự cai trị của Rô-bô-am. Đa-ni-ên 8:23 viết, “Đến kỳ sau-rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội-nghịch đã đầy, thì sẽ dấy lên một vua” ám chỉ đến giai đoạn cuối của một vương quốc trần gian. Cách sử dụng từ “vương quốc” này như một triều đại của con người cũng có thể được tìm thấy trong các đoạn văn như: Giê-rê-mi 49: 34; 2 Sử ký 11: 17, 12: 1, 26: 30; E-xơ-ra 4: 5; Nê-hê-mi 12: 22. Khi nói đến Vương quốc Đức Chúa Trời, cụm từ này luôn ám chỉ đến triều đại của Ngài, sự cai trị của Ngài, quyền tối cao của Ngài, Thi thiên 103:19, xác nhận “Chúa đã lập ngôi Ngài trên các tầng trời, và vương quốc Ngài cai trị trên tất cả.” Vương quốc của Chúa, là sự cai trị phổ quát của Ngài, quyền tối cao của Ngài trên toàn trái đất. Thi Thiên 145: 11, “Người ta sẽ nói về sự vinh hiển của nước Chúa, và thuật lại quyền năng của Chúa.” Trong phép song hành của thơ ca Do Thái, hai câu này diễn đạt cùng một chân lý. Nước Chúa là quyền năng của Ngài. Thi Thiên 145:13, “Nước Chúa là nước đời đời, quyền thống trị của Chúa tồn tại qua các thế hệ.” Vương quốc của Chúa là bầu trời và mặt đất, nhưng câu Thi thiên này đề cập đến sự trường tồn của vương quốc. Quyền cai trị của Chúa là quyền năng đời đời. Đa-ni-ên 2: 37, “Hỡi vua, vua của các vua, Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho vua nước, quyền năng, sức mạnh và vinh quang.” Hãy chú ý đến các từ đồng nghĩa với Vương quốc: quyền năng, sức mạnh, vinh quang – tất cả đều là cách diễn đạt về thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Những thuật ngữ này xác định vương quốc của con người là “quyền cai trị” mà Chúa đã ban cho các vua trên đất. Chúng ta đọc về vua Bên-xát-sa, “Đức Chúa Trời đã đếm nước vua và khiến nó đến cuối-cùng” (Đa-ni-ên 5:26). Rõ ràng là vương quốc mà Bên-xát-sa cai trị không bị phá hủy. Vương quốc của người dân Ba-by-lôn không bị chấm dứt; họ được chuyển giao cho một người cai trị khác. Nhưng quyền cai trị của nhà vua đã bị chấm dứt, và nó được trao cho Đa-ri-út người Mê-đi. “Ngay đêm đó, vua người Canh-đê là Bên-xát-sa bị giết. Rồi Đa-ri-út là người Mê-đi được nước” (Đa-ni-ên 5:30-31). Một tài liệu tham khảo khác trong Phúc âm của chúng ta làm cho ý nghĩa này rất rõ ràng. Chúng ta đọc trong Lu-ca 19:11-12, “Họ nghe những lời ấy, thì Đức Chúa Giê-su thêm một thí-dụ nữa, vì Ngài gần đến thành Giê-ru-sa-lem, và người ta tưởng rằng nước Đức Chúa Trời sẽ hiện ra ngay. Vậy, Ngài phán rằng: Có một vị thế-tử đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua rồi trở về.” Vị thế tử đi xa để có được một vương quốc, một lãnh địa để cai trị. Lãnh thổ mà ông sẽ cai trị là nơi ông rời đi. Vấn đề là lúc đó vị thế tử không phải là vua. Ông cần thẩm quyền để cai trị. Ông đã đi để có được một “vương quốc”, ông cần vương quyền, thẩm quyền để cai trị. Chính điều này đã xảy ra vài năm trước khi Chúa Giê-su giáng sinh. Vào năm 40 TCN, tình hình chính trị ở Palestine trở nên hỗn loạn. Người La Mã đã chinh phục đất nước Y-sơ-ra-ên vào năm 63 TCN, nhưng tiến trình ổn định rất chậm. Cuối cùng, Hê-rốt Đại đế đã đến Rô-ma, giành được vương quốc từ Thượng viện La Mã và được tuyên bố là vua. Ông thực sự đã đến một quốc gia xa xôi để nhận được vương quyền, nhận được thẩm quyền làm vua cho dân Do Thái. Có thể Chúa chúng ta đã nghĩ đến sự việc này trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây. Trong trường hợp này, nó minh họa cho ý nghĩa cơ bản của một vương quốc trần gian. Vương quốc của Chúa là vương quyền của Ngài, sự cai trị của Ngài, thẩm quyền của Ngài. Khi đã nhận ra điều này, chúng ta có thể đọc Tân Ước và tìm thấy từng đoạn văn trong đó ý nghĩa này được thể hiện rõ ràng, nơi Vương quốc không phải là một lãnh địa hay một dân tộc mà là sự cai trị của Chúa. Chúa Giê-su đã nói rằng chúng ta phải “tiếp nhận vương quốc Đức Chúa Trời” như những đứa trẻ (Mác 10:15). Điều gì được con người tiếp nhận? Điều được tiếp nhận là sự cai trị của Chúa trên cuộc đời của mỗi người. Để bước vào Vương quốc, người ta phải hoàn toàn tin tưởng vào sự cai trị của Chúa ở đây và ngay bây giờ. Chúng ta cũng phải “trước hết hãy tìm kiếm Vương quốc của Ngài và sự công bình của Ngài” (Ma-thi-ơ 6:33). Mục đích tìm kiếm của chúng ta là gì? Hội thánh? Thiên đàng? Không phải vậy. Chúng ta phải tìm kiếm sự công bình của Chúa, tìm kiếm sự kiểm soát của Ngài, sự cai trị của Ngài trong cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta có đang cầu nguyện cho thiên đàng ngự xuống trần gian không? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đang cầu nguyện cho điều này. Nhưng thiên đàng chỉ là đối tượng của sự mong muốn vì triều đại của Chúa sẽ được thực hiện hoàn hảo hơn hiện tại. Người Mỹ có một câu nói hay, “The best is yet to come” (Điều tốt nhất vẫn chưa đến). Câu này cũng hàm ý cho chúng ta biết rằng điều tốt nhất là Vương quốc tương lai vẫn chưa đến, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu không có triều đại của Chúa, không có Chúa cai trị thì thiên đàng là vô nghĩa. Do đó, điều chúng ta cầu nguyện là, “Nước Cha được đến; ý Cha được nên ở đất như trời.” Lời cầu nguyện này là lời thỉnh cầu Chúa ngự trị, để thể hiện quyền tối cao của Ngài, để xua đuổi mọi kẻ thù của sự công chính và để chỉ một mình Chúa là Vua trên khắp thế gian. Tuy nhiên, một triều đại không có lãnh địa để cai trị thì giống như một chính phủ lưu vong. Do đó, chúng ta thấy rằng Vương quốc của Chúa cũng là lãnh địa mà triều đại của Chúa thực thi quyền cai trị. Nhưng một lần nữa, các sự kiện trong Kinh thánh không đơn giản. Đôi khi Kinh thánh nói về Vương quốc như là lãnh địa mà chúng ta bước vào ngay trong hiện tại, đôi khi như thể nó thuộc về tương lai vẫn còn ở phía trước. Nó là tương lai trong những câu như Mác 9: 47, “Thà rằng một mắt mà vào vương quốc của Chúa còn hơn là hai mắt mà bị ném vào địa ngục.” (Mác 10: 23, 14: 25, Ma-thi-ơ 7: 21) Trong những đoạn văn như vậy, Vương quốc của Chúa tương đương với khía cạnh của sự sống vĩnh cửu mà chỉ có thể trải nghiệm sau khi Chúa Giê-su tái lâm. Trong những đoạn văn khác, Vương quốc hiện diện và có thể được bước vào ở đây và bây giờ. Trong sách Lu-ca 16:16, “Luật pháp và các tiên tri có cho đến thời Giăng; từ đó, tin lành về Vương quốc Đức Chúa Trời được rao giảng, và mọi người dùng sức mạnh mà vào đó.” Theo Phúc âm Ma-thi-ơ 21:31, “Những người thu thuế và gái điếm vào Vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi.” Và cũng trong Lu-ca 11:52, “Khốn cho các ngươi, là thầy dạy luật, vì các ngươi đã đoạt lấy chìa khóa của sự biết, chính mình không vào, mà người khác muốn vào, lại ngăn-cấm không cho!” Vậy thì chủ đề Vương quốc Đức Chúa Trời nằm ở ba lĩnh vực4 này: (1) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc của Đức Chúa Trời. Có nghĩa là Đức Chúa Trời là Vua, là Đấng cầm quyền cai trị tuyệt đối. (2) Một số đoạn Kinh thánh gọi Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc mà chúng ta có thể bước vào để trải nghiệm các phước lành ngay bây giờ. (3) Một số đoạn Kinh thánh khác lại nói đến một Vương quốc trong tương lai mà chỉ đến khi Chúa Giê-su Christ tái lâm, khi đó chúng ta sẽ bước vào và trải nghiệm sự trọn vẹn của vương quốc. Do đó, Vương quốc Đức Chúa Trời có ba ý nghĩa khác nhau trong các phần Kinh thánh khác nhau. Chúng ta cần nghiên cứu tất cả các tài liệu tham khảo theo bối cảnh của chúng và sau đó kết hợp chúng lại với nhau trong một cách diễn giải tổng thể. Về cơ bản, như chúng ta đã thấy, Vương quốc Đức Chúa Trời là triều đại tối cao của Chúa; nhưng triều đại của Chúa thể hiện ở các giai đoạn khác nhau thông qua lịch sử cứu chuộc. Do đó, con người có thể bước vào Vương quốc của Chúa trong nhiều giai đoạn biểu hiện và trải nghiệm các phước lành của triều đại của Ngài ở các cấp độ khác nhau. Vương quốc Đức Chúa Trời là Vương quốc của thời đại tương lai, thường được gọi là thiên đàng; khi đó chúng ta sẽ nhận ra các phước lành của Vương quốc trong sự hoàn hảo. Nhưng Vương quốc cũng ở đây ngay bây giờ. Có một Vương quốc thuộc linh mà chúng ta có thể bước vào hôm nay và tận hưởng một phần những phước lành – tiền vị của Vương quốc Đức Chúa Trời. Chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến, ý Cha được nên dưới đất cũng như trên trời.” Niềm tin rằng lời cầu nguyện này sẽ được đáp lại khi Chúa đưa lịch sử loài người đến sự viên mãn theo thời điểm của Ngài, giúp Cơ đốc nhân giữ được sự cân bằng và tỉnh táo trong một thế giới điên loạn mà chúng ta đang sống. Cảm tạ Chúa, Vương quốc của Ngài đang đến. “Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến.” Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, “Nước Cha được đến”, chúng ta cũng cầu xin ý Chúa được thể hiện ở đây và ngay hôm nay. Điều này nên là mối quan tâm chính của chúng ta – những người đã trải nghiệm sự tái sanh và thực hiện nếp sống vương quốc. Chúng ta cũng nên cầu nguyện, “Nước Cha được đến, ý Cha được thể hiện trong hội thánh mà tôi đang sinh hoạt như trên thiên đàng. Cuộc sống và sự hiệp thông của một hội thánh Cơ đốc phải là sự hiệp thông của những người mà ý muốn của Chúa được thực hiện trên trái đất. Nước Cha được đến, ý Cha được nên trong cuộc sống của tôi ở đây cũng như trên thiên đàng.” Điều này được bao gồm trong lời cầu nguyện của chúng ta cho sự đến của Vương quốc. Đây là một phần của Phúc âm về Vương quốc của Chúa. THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 2 1. https://gotquestions.org. Truy cập ngày 7 tháng 2/2025 2. Jesus and Empire: The Kingdom of God and the New World Disorder (Minneapolis: Fortress, 2003. Page 105) 3. https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/us/ Truy cập ngày 25 tháng 3/2025 4.George Eldon Ladd (1959). The Gospel of the Kingdom. William B. Eerdmans Publishing Company Grand Rapids, Michigan Chương 3 |
|
Các dụ ngôn của Chúa Giê-su về Vương quốcĐức Chúa Trời
Các dụ ngôn của Chúa Giê-su được ghi
chép trong các Sách Phúc Âm. Các dụ ngôn này thường là những câu chuyện đơn
giản và dễ nhớ, có hình ảnh gần gũi với đời thường, nhưng cũng có dụ ngôn mang
nghĩa về chủ đề tôn giáo, các luật lệ. Các tín hữu xem dụ ngôn là một phần quan
trọng trong giáo huấn của Giê-su, thể hiện phương cách giảng đạo linh hoạt của
Ngài đối với những người bình dân. Trong nền văn minh phương Tây, các dụ ngôn
của Chúa Giê-su là chất liệu tạo nên các thuật ngữ thời hiện đại, ngay cả đối
với những người không biết nhiều về Kinh Thánh, khiến cho chúng nằm trong số
những câu chuyện nổi tiếng và truyền cảm hứng nhất trên thế giới.
Dụ ngôn trong Kinh Thánh diễn tả tình yêu vô bờ bến của Đức Chúa Trời với nhân
loại và lòng tha thứ vô biên vượt khỏi sự mong đợi của tội nhân. Mục đích chính
của dụ ngôn hướng dẫn ta về những điều mầu nhiệm của Nước Trời (hay Vương quốc
Đức Chúa Trời, hay nước thiên đàng).
“Khảo sát tổng quát từ những lời dạy trong các câu chuyện của Chúa Giê-su, chúng ta thấy Vua Giê-su đã nhìn thấy Vương quốc Đức Chúa Trời theo như lịch sử của nó. Những dụ ngôn, hình ảnh này nói lên quan điểm của Ngài về nước thiên đàng, hay Vương quốc Đức Chúa Trời.”1
- Dụ ngôn Hạt cải
là một dụ ngôn ngắn: “Nước thiên đàng giống như hạt cải mà người kia lấy gieo
trong ruộng mình. Hạt cải tuy nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng khi lớn lên
thì lớn nhất trong các loại cây và trở thành cây lớn, đến nỗi chim chóc đến làm
tổ trên cành” (Ma-thi-ơ 13:31–32).
Giống như mọi dụ ngôn khác, mục đích của Dụ ngôn Hạt cải là dạy một khái niệm hoặc “ý tưởng lớn” bằng cách sử dụng nhiều yếu tố tường thuật hoặc chi tiết phổ biến, dễ nhận biết và thường tượng trưng cho điều gì đó khác. Mặc dù bản thân các yếu tố có tầm quan trọng, nhưng việc nhấn mạnh quá mức vào các chi tiết hoặc tập trung theo nghĩa đen vào một yếu tố thường dẫn đến lỗi diễn giải và bỏ lỡ điểm chính của dụ ngôn.
Một trong những lý do thực tế có thể khiến Chúa Giê-su sử dụng các dụ ngôn như thế này là bằng cách mô tả các khái niệm bằng hình ảnh từ ngữ, thông điệp không dễ bị mất đi do những thay đổi trong cách sử dụng từ ngữ, công nghệ, bối cảnh văn hóa hoặc sự trôi qua của thời gian. Những câu chuyện chi tiết theo nghĩa đen dễ trở nên lỗi thời hoặc lỗi thời hơn. Hai ngàn năm sau, hình ảnh vẫn còn sống động. Chúng ta vẫn có thể hiểu được khái niệm về hạt giống đang phát triển. Những câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giê-su rất tuyệt vời vì sự đơn giản của chúng. Cách kể chuyện này cũng thúc đẩy việc thực hành các nguyên tắc hơn là tuân thủ cứng nhắc các luật lệ.
Câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải có trong cả ba sách Phúc âm Nhất lãm (Ma-thi-ơ 13:31–32; Mác 4:30–32; Lu-ca 13:18–19). Trong câu chuyện ngụ ngôn này, Chúa Giê-su dự đoán sự phát triển đáng kinh ngạc của vương quốc thiên đàng. Hạt cải khá nhỏ, nhưng nó phát triển thành một bụi cây lớn – cao tới mười feet – và Chúa Giê-su nói rằng đây là hình ảnh về sự phát triển của vương quốc. Ý chính của Câu chuyện ngụ ngôn về hạt cải là một điều gì đó lớn lao và được ban phước – vương quốc của Chúa – đã có khởi đầu khiêm tốn. Chức vụ ngắn ngủi của Chúa Giê-su có thể quan trọng đến mức nào? Ngài chỉ có một số ít môn đệ thân tín, Ngài là một người không có địa vị và không có của cải, và Ngài sống ở nơi mà mọi người đều coi là vùng hẻo lánh của thế giới. Cuộc đời và cái chết của Đấng Christ không thu hút sự chú ý của thế giới nhiều hơn một hạt cải nằm trên mặt đất bên đường. Nhưng đây là công trình của Đức Chúa Trời. Những gì có vẻ không quan trọng lúc đầu đã phát triển thành một phong trào có ảnh hưởng trên toàn thế giới, và không ai có thể ngăn cản nó (xem Công vụ 5:38–39). Ảnh hưởng của vương quốc trên thế giới này sẽ lớn đến mức mọi người liên quan đến nó đều tìm thấy lợi ích. Nó được mô tả như những chú chim đậu trên cành cây cải trưởng thành.
Ở những nơi khác trong Kinh thánh, vương quốc của Đức Chúa Trời cũng được mô tả như một cái cây. Ví dụ, một đoạn trong Ê-xê-chi-ên, có nhiều điểm tương đồng với Dụ ngôn về Hạt cải. Trong lời tiên tri này, Đức Chúa Trời hứa sẽ trồng một chồi “trên một ngọn núi cao và hùng vĩ” (Ê-xê-chi-ên 17:22). Lời tiên tri bày tỏ về kế hoạch của Cha thiên thượng: “Thật, Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Y-sơ-ra-ên; nó sẽ nứt nhánh, ra trái và sẽ trở nên cây bá hương xinh tốt. Mọi loài chim sẽ đến núp dưới nó và tất cả những giống có cánh sẽ núp dưới bóng các cành của nó” (Ê-xê-chi-ên 17:23). Lời tiên tri về Đấng cứu thế này báo trước sự phát triển của vương quốc của Đấng Christ từ những khởi đầu rất nhỏ đến một nơi trú ẩn rộng lớn.
Một số người tự hỏi tại sao, trong Dụ ngôn về Hạt cải, Chúa Giê-su gọi hạt cải là hạt “nhỏ nhất” và cây cải trưởng thành là cây “lớn nhất” trong vườn, trong khi có những hạt nhỏ hơn và cây lớn hơn. Câu trả lời là Chúa Giê-su đang sử dụng phép cường điệu tu từ, một sự cường điệu để nêu bật quan điểm. Ngài không nói về thực vật học mà là về một hình ảnh minh họa. Chúa Giê-su nhấn mạnh vào sự thay đổi về kích thước – từ nhỏ đến lớn – và bản chất đáng ngạc nhiên của sự phát triển.
Lịch sử của hội thánh đã chứng minh Dụ ngôn về Hạt cải của Chúa Giê-su là đúng. Hội thánh đã trải qua tốc độ phát triển bùng nổ qua nhiều thế kỷ. Hội thánh được tìm thấy trên toàn thế giới, nó là nguồn nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho tất cả những ai tìm kiếm phước lành của vương quốc. Bất chấp sự đàn áp và những nỗ lực liên tục để dập tắt hội thánh, nó vẫn phát triển mạnh mẽ. Và đó chỉ là một bức tranh nhỏ về sự biểu hiện cuối cùng của vương quốc Đức Chúa Trời, khi Chúa Giê-su trở lại trái đất để cai trị từ Si-ôn. Lúc đó Ngài và các thánh đồ cai trị vương quốc thiên hy niên. Trong chương 11, chúng ta sẽ nói rõ hơn về vương quốc này.
- Dụ ngôn về men
được tìm thấy trong hai sách Phúc âm. Đây là một câu chuyện rất đơn giản—thực
sự là một bức ảnh chụp nhanh về cuộc sống: “Nước thiên đàng giống như men mà
người đàn bà kia lấy trộn vào một khối bột lớn, cho đến khi tất cả bột đều dậy
men” (Ma-thi-ơ 13:33, Lu-ca 13:20-21).
Chúa Giê-su sử dụng câu chuyện này như một bài học thực tế để minh họa cho vương quốc thiên đàng. Một người đàn bà lấy men (men) và trộn vào bột. Cuối cùng, toàn bộ khối bột đều lên men. Điều đó có nghĩa là gì?
Trước tiên, điều quan trọng là phải định nghĩa “vương quốc thiên đàng”. Qua đó, Chúa Giê-su ám chỉ đến lãnh địa của Ngài là Đấng Mê-si. Trong thời đại hiện tại, vương quốc thiên đàng là thuộc linh, tồn tại trong lòng những người tin (Lu-ca 17:21). Sau đó, vương quốc sẽ được biểu hiện hữu hình, khi Chúa Giê-su thiết lập sự cai trị của Ngài trên trái đất này (Khải huyền 11:15).
Trong Dụ ngôn về Men, chúng ta học được nhiều điều về cách thức hoạt động của vương quốc trong thời đại hiện tại. Mỗi bài học này đều bắt nguồn từ bản chất của men.
Đầu tiên, vương quốc của Chúa có thể khởi đầu nhỏ bé, nhưng rồi sẽ lớn mạnh. Men có kích thước cực nhỏ, và chỉ một ít được nhào vào bột. Tuy nhiên, theo thời gian, men sẽ lan tỏa khắp bột. Tương tự như vậy, lãnh địa của Chúa Giê-su bắt đầu với mười hai người đàn ông ở một nơi hẻo lánh của Ga-li-lê, nhưng đã lan rộng khắp thế giới. Và ngày nay Phúc âm vẫn đang tiến triển.
Thứ hai, Vương quốc của Chúa tác động từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài. Men làm cho bột nở ra từ bên trong. Trước tiên, Chúa thay đổi tấm lòng của một người, và sự thay đổi bên trong đó có những biểu hiện bên ngoài. Ảnh hưởng của phúc âm trong một nền văn hóa cũng hoạt động theo cách tương tự: Cơ đốc nhân trong một nền văn hóa đóng vai trò là tác nhân thay đổi, từ từ biến đổi nền văn hóa đó từ bên trong.
Thứ ba, hiệu ứng của vương quốc của Chúa sẽ toàn diện. Giống như men hoạt động cho đến khi bột nở hoàn toàn, lợi ích cuối cùng của vương quốc Đức Chúa Trời sẽ lan rộng khắp thế giới (Thi thiên 72:19; Đa-ni-ên 2:35). “Đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết về vinh quang của Đức Giê-hô-va như nước phủ kín biển” (Ha-ba-cúc 2:14).
Thứ tư, mặc dù vương quốc Đức Chúa Trời hoạt động một cách vô hình, nhưng hiệu quả của nó thì hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Men thực hiện công việc của mình một cách chậm rãi, bí mật và thầm lặng, nhưng không ai có thể phủ nhận hiệu quả của nó đối với bánh mì. Điều tương tự cũng đúng với công việc của ân điển trong lòng chúng ta.
Bản chất của men là phát triển và thay đổi bất cứ điều gì nó tiếp xúc. Khi chúng ta chấp nhận Đấng Christ, ân điển của Ngài phát triển trong lòng chúng ta và thay đổi chúng ta từ trong ra ngoài. Khi phúc âm biến đổi cuộc sống chúng ta, nó tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Lúc đó chúng ta “phản chiếu vinh quang của Chúa . . . Chúa là Đức Thánh Linh, khiến chúng ta ngày càng giống Ngài hơn khi chúng ta được biến đổi theo hình ảnh vinh quang của Ngài” (2 Cô-rinh-tô 3:18). - Dụ ngôn về kho báu ẩn giấu
tiết lộ nhiều điều về bản chất và giá trị của thiên đàng. Chúa Giê-su đã dạy
rằng: “Nước thiên-đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một
người kia tìm được thì giấu đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua
đám ruộng đó” (Ma-thi-ơ 13:44).
Mặc dù ngắn gọn, dụ ngôn này làm sáng tỏ một số thực tế quan trọng. Một chi tiết ban đầu là vương quốc thiên đàng bị che giấu khỏi tầm nhìn thông thường. Vương quốc của Chúa tồn tại trong phạm vi của tâm linh và không thể nhận thức được bằng các giác quan vật lý như thị giác và thính giác. Nhiều người sẽ bỏ lỡ vương quốc thiên đàng vì nó bị che khuất đối với họ thông qua sự chai sạn trong lòng và sự mù quáng về mặt tâm linh ( Ma-thi-ơ 13:11–17, 14; 2 Cô-rinh-tô 3:14; 4:4). Nhưng những người được Thánh Linh của Đức Chúa Trời mở mắt sẽ nhận ra lẽ thật tâm linh và tìm thấy kho báu thiên đàng được giấu kín, trong một đám ruộng (1 Cô-rinh-tô 2:12–15).
Một đặc điểm thứ hai mà câu chuyện ngụ ngôn minh họa là bản chất đáng ngạc nhiên hoặc tình cờ mà giá trị của kho báu được khám phá. Chúng ta quá bận rộn với cuộc sống của mình, đi theo con đường riêng của mình, đến nỗi, nếu không có Đức Chúa Trời chủ động tiết lộ giá trị của vương quốc Ngài cho chúng ta, chúng ta sẽ vẫn lạc lối một cách vô định (Ê-sai 53:6; Ma-thi-ơ 18:12–14; Rô-ma 5:6–8; Ê-phê-sô 2:8; 1 Giăng 4:10, 19). Tuy nhiên, một khi mắt chúng ta mở ra để thấy giá trị vô song của vương quốc, chúng ta tràn ngập niềm vui sâu sắc và không thể diễn tả được (Thi thiên 4:7; 132:16; Ê-sai 12:3; 1 Phi-e-rơ 1:8).
Giá trị của kho báu trên trời của chúng ta là vô giá; nó đáng giá mọi thứ chúng ta có. Trong hành trình của người thanh niên trẻ tuổi giàu có tìm kiếm vương quốc thiên đàng, Chúa Giê-su đã khuyên, “Còn một điều ngươi chưa làm. Hãy bán hết gia tài mình và phân phát cho người nghèo, thì ngươi sẽ có kho báu trên trời. Sau đó, hãy đến, theo ta” (Lu-ca 18:22). Thật không may, chàng trai trẻ đã không thấy được giá trị của những gì Chúa Giê-su ban tặng, và anh ta đã quay lưng lại với Đấng Cứu Rỗi (câu 23).
Sứ đồ Phao-lô viết về sự thay đổi quan điểm của mình sau khi tìm thấy kho báu ẩn dụ được giấu trong một đám ruộng: “Tôi từng nghĩ những thứ này có giá trị, nhưng bây giờ tôi coi chúng là vô giá trị vì những gì Đấng Christ đã làm. Đúng vậy, mọi thứ khác đều vô giá trị khi so sánh với giá trị vô hạn của việc biết Chúa Giê-su Christ, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đã từ bỏ mọi sự khác, coi mọi sự như rác rưởi, để có thể có được Đấng Christ và trở nên một với Ngài” (Phi-líp 3:7–9).
Mặc dù kho báu trên trời của chúng ta đáng giá, nhưng vẫn có một cái giá phải trả—có một cái giá phải trả cho việc làm môn đồ. Những người tìm kiếm Vương quốc phải chấp nhận mọi hy sinh và trách nhiệm đi kèm với việc sở hữu kho báu này. Chúa Giê-su đã dạy các môn đồ của Ngài, “Nếu ai trong các ngươi muốn theo Ta, thì phải từ bỏ đường lối riêng của mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Nếu ai cố giữ mạng sống mình, thì sẽ mất nó. Nhưng nếu ai vì Ta mà từ bỏ mạng sống mình, thì sẽ cứu được nó. Và nếu các ngươi được cả thế gian mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Có điều gì đáng giá hơn linh hồn mình không?” (Ma-thi-ơ 16:24–26).
Chừng nào chúng ta còn sống trên trái đất này, chúng ta sẽ phải chịu đựng sự ngược đãi, khó khăn và mất mát với tư cách là những người tin Chúa. Kho báu vô giá mà chúng ta tìm thấy ẩn giấu trong một cánh đồng giờ đây được giữ trong “những chiếc bình đất sét mỏng manh” để làm rõ “quyền năng lớn lao của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời, chứ không phải từ chính chúng ta. Chúng ta bị ép buộc từ mọi phía bởi những rắc rối, nhưng chúng ta không bị nghiền nát. Chúng ta bối rối, nhưng không bị đẩy đến tuyệt vọng. Chúng ta bị săn đuổi, nhưng không bao giờ bị Đức Chúa Trời bỏ rơi. Chúng ta bị đánh đập, nhưng chúng ta không bị hủy diệt. Qua sự đau khổ, thân thể chúng ta tiếp tục chia sẻ sự chết của Chúa Giê-su để sự sống của Chúa Giê-su cũng có thể được nhìn thấy trong thân thể chúng ta. Vâng, chúng ta sống . . . khi đối mặt với cái chết, và điều này đã dẫn đến sự sống đời đời” (2 Cô-rinh-tô 4:7–12).
4. Dụ ngôn về Lưới kéo, hay Dụ ngôn về Nhiều loại cá, trong Ma-thi-ơ
13:47-50. Chúa Giê-su mở đầu dụ ngôn bằng cách nói rằng nó minh họa một khía
cạnh của vương quốc thiên đàng. Câu chuyện kể về những người đánh cá sử dụng
lưới kéo, một tấm lưới có trọng lượng kéo dọc theo đáy của một vùng nước để thu
thập nhiều loại cá.
Trong dụ ngôn, lưới kéo được thả xuống biển và kéo lên bờ đầy đủ các loại cá.
Sau đó, những người đánh cá ngồi xuống để phân loại cá thành “tốt” và “xấu”.
Những con cá đáng giữ lại được gom vào các thùng chứa, nhưng những con còn lại
bị ném đi.
Sau đó, Chúa Giê-su giải thích dụ ngôn cho các môn đồ của Ngài: “Vào ngày tận
thế, các thiên sứ sẽ đến và tách những kẻ ác ra khỏi những người công chính và
ném họ vào lò lửa, nơi sẽ có tiếng khóc lóc và nghiến răng” (các câu 49-50).
Dụ ngôn này tương tự như Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43). Cả
hai dụ ngôn đều liên quan đến sự phân loại vào thời kỳ cuối cùng, với sự hỗ trợ
của các thiên sứ, khi những người tin Chúa sẽ được tách khỏi những người không
tin Chúa một lần và mãi mãi.
Giống như lưới được thả xuống biển kéo theo nhiều cá, sứ điệp phúc âm được
truyền bá khắp thế giới, thu hút nhiều người đến với nó. Giống như lưới thu
thập đủ loại cá, bất kể giá trị của chúng, phúc âm cũng thu hút nhiều người không ăn năn cũng muốn theo Chúa
Giê-su. Giống như cá không thể được phân loại cho đến khi lưới được kéo vào
bờ, những tín đồ giả mạo là Cơ đốc nhân chân chính sẽ bị loại ra trong ngày tận
thế.
Những “con cá xấu” hoặc tín đồ giả này có thể được ví như đất sỏi đá và đất gai
gốc trong Ma-thi-ơ 13:5-7 và cỏ lùng trong câu 40. Họ tuyên bố có mối quan hệ
với Chúa Giê-su, nói rằng “Lạy Chúa, lạy Chúa” (Ma-thi-ơ 7:22), và câu trả lời
của Chúa Giê-su sẽ là “Ta không hề biết các ngươi. Hãy tránh xa Ta, hỡi những
kẻ làm điều gian ác!” (câu 23).
Điểm chính đáng suy ngẫm của câu chuyện ngụ ngôn có thể được nêu như sau: “Sẽ
đến ngày phán xét khi Chúa sẽ tách những người tin thật ra khỏi những kẻ giả mạo,
và những kẻ bị phát hiện là gian dối sẽ bị ném vào địa ngục.”
5. Dụ ngôn Lúa mì và Cỏ lùng (Ma-thi-ơ 13:36-43)
Dụ ngôn về Lúa mì và Cỏ lùng, hay Cỏ lùng, chứa đầy ý nghĩa và chân lý thuộc linh. Nhưng, bất chấp lời giải thích rõ ràng về dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã đưa ra (Ma-thi-ơ 13:36-43), dụ ngôn này rất thường bị hiểu sai. Nhiều bài bình luận và bài giảng đã cố gắng sử dụng câu chuyện này như một minh họa về tình trạng của hội thánh, lưu ý rằng có cả những tín đồ chân chính (lúa mì) và những giáo sư giả (cỏ lùng) trong cả hội thánh nói chung và các hội thánh địa phương riêng lẻ. Mặc dù điều này có thể đúng, Chúa Giê-su giải thích rõ ràng rằng cánh đồng không phải là hội thánh; đó là thế giới (câu 38).
Ngay cả khi Ngài không nói cụ thể với chúng ta rằng thế giới là bối cảnh của câu chuyện, thì điều đó vẫn rất rõ ràng. Người chủ đất bảo những người hầu không được nhổ cỏ lùng trong đám ruộng, mà hãy để chúng cho đến tận thế. Nếu đám ruộng là hội thánh, thì mệnh lệnh này sẽ trực tiếp mâu thuẫn với lời dạy của Chúa Giê-su trong Ma-thi-ơ 18, trong đó cho chúng ta biết cách đối phó với những tội nhân không ăn năn trong hội thánh: họ phải bị đuổi khỏi sự thông công và bị đối xử như những kẻ không tin. Chúa Giê-su không bao giờ chỉ thị chúng ta để những tội nhân không ăn năn ở lại giữa chúng ta cho đến tận thế. Vì vậy, Chúa Giê-su đang dạy ở đây về “Vương quốc thiên đàng” (câu 24) trên thế giới.
Trong xã hội nông nghiệp thời Chúa Giê-su, nhiều nông dân phụ thuộc vào chất lượng mùa màng của họ. Một kẻ thù gieo cỏ dại sẽ phá hoại một nông trại. Cỏ lùng trong câu chuyện ngụ ngôn có thể là cỏ lùng vì loại cỏ dại đó, cho đến khi trưởng thành, trông giống như lúa mì. Nếu không có thuốc diệt cỏ hiện đại, một người nông dân khôn ngoan sẽ làm gì trong tình huống khó xử như vậy? Thay vì nhổ lúa mì cùng với cỏ lùng, người chủ đất trong câu chuyện ngụ ngôn này đã khôn ngoan đợi đến mùa thu hoạch. Sau khi thu hoạch toàn bộ cánh đồng, cỏ lùng có thể được tách ra và đốt. Lúa mì sẽ được lưu trong kho thóc.
Trong lời giải thích về dụ ngôn, Chúa Giê-su tuyên bố rằng chính Ngài là người gieo giống. Ngài gieo hạt giống được cứu chuộc của Ngài, những tín đồ chân chính, trên cánh đồng thế gian. Nhờ ân điển của Ngài, những Cơ Đốc nhân này sinh hoa trái của Thánh Linh (Ga-la-ti 5:22-24). Sự hiện diện của họ trên đất là lý do khiến “vương quốc thiên đàng” giống như cánh đồng thế gian. Khi Chúa Giê-su nói, “Vương quốc thiên đàng đã đến gần” (Ma-thi-ơ 3:2; 4:17), Ngài muốn nói đến một thế giới tâm linh tồn tại trên đất song song với thế giới của kẻ ác (1 Giăng 5:19). Khi vương quốc thiên đàng thành tựu, thiên đàng sẽ trở thành hiện thực và sẽ không có “cỏ dại” giữa “lúa mì”. Nhưng hiện tại, cả hạt giống tốt và xấu đều phát triển trên thế gian. “Ruộng là thế gian.”
Kẻ thù trong dụ ngôn là Sa-tan. Đối lập với Chúa Giê-su, ma quỷ cố gắng phá hoại công việc của Chúa bằng cách đưa những tín đồ và thầy giảng giả mạo vào thế gian để dẫn dắt nhiều người đi lạc. Người ta chỉ cần nhìn vào các vụ bê bối của Cơ đốc giáo trên các phương tiện truyền thông mới nhất là biết thế giới đầy rẫy những người tự nhận là “Cơ đốc nhân” nhưng lại có hành động vô đạo đức làm ô danh Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không được truy đuổi những người như vậy để tiêu diệt họ. Trước hết, chúng ta không biết liệu những tín đồ ngây thơ và non nớt có thể bị tổn thương bởi những nỗ lực của chúng ta hay không. Hơn nữa, người ta chỉ cần nhìn vào Tòa án dị giáo Tây Ban Nha, các cuộc Thập tự chinh để thấy kết quả của việc con người tự mình gánh vác trách nhiệm tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả, một nhiệm vụ chỉ dành riêng cho Chúa. Thay vì yêu cầu những tín đồ giả này phải bị nhổ tận gốc khỏi thế gian và có thể làm tổn thương những tín đồ non nớt trong quá trình này, Chúa Giê-su cho phép họ ở lại cho đến khi Ngài tái lâm. Vào thời điểm đó, các thiên sứ sẽ tách biệt những tín đồ chân chính khỏi những tín đồ giả mạo.
Ngoài ra, chúng ta không được tự mình nhổ tận gốc những người không tin vì sự khác biệt giữa những tín đồ chân chính và tín đồ giả không phải lúc nào cũng rõ ràng. Cỏ lùng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển, giống như lúa mì. Tương tự như vậy, một tín đồ giả có thể giống với một tín đồ chân chính. Trong Ma-thi-ơ 7:22, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nhiều người tuyên xưng đức tin nhưng không biết Ngài. Vì vậy, mỗi người nên xem xét mối quan hệ của chính mình với Đấng Christ (2 Cô-rinh-tô 13:5). Thư tín Giăng thứ nhất là một bài kiểm tra tuyệt vời về sự cứu rỗi.
Một ngày nào đó, Chúa Giê-su Christ sẽ thiết lập sự công chính thật. Sau khi Ngài cất Hội thánh thật ra khỏi thế gian này, Đức Chúa Trời sẽ trút cơn thịnh nộ công chính của Ngài xuống thế gian. Trong cơn hoạn nạn đó, Ngài sẽ thu hút những người khác đến với đức tin cứu rỗi nơi Chúa Giê-su Christ. Vào cuối cơn hoạn nạn, tất cả những người không tin sẽ bị phán xét vì tội lỗi và sự không tin của họ; sau đó, họ sẽ bị loại khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Những người theo Chúa Giê-su thực sự sẽ trị vì với Ngài trong vương quốc thiên hy niên. Đây là một hy vọng cho tương lai của tất cả những Cơ đốc nhân trung tín.
6. Dụ ngôn về người làm công. “Vả, nước thiên đàng giống như người chủ nhà kia, tảng sáng đi ra để mướn người làm công cho vườn nho mình. Khi người chủ đã định giá với người làm công, mỗi ngày một đơ-ni-ê, thì sai họ vào vườn nho mình. Ước chừng giờ thứ ba, người chủ lại ra, thấy những kẻ khác rảnh việc đứng trong chợ, thì nói cùng họ rằng: Các ngươi hãy đi vào vườn nho ta, và ta sẽ trả tiền công phải cho. Họ liền đi. Ước chừng giờ thứ sáu và giờ thứ chín, người chủ lại ra, cũng làm như vậy. Ước chừng giờ thứ mười một, chủ ra, lại thấy những kẻ khác đứng trong chợ, thì hỏi rằng: Sao các ngươi đứng đây cả ngày không làm gì hết! Họ trả lời rằng: Vì không ai mướn chúng tôi. Người chủ nói với họ rằng: Các ngươi cũng hãy vào đi trong vườn nho ta.
Đến tối, chủ vườn nho nói với người giữ việc rằng: Hãy gọi những người làm công mà trả tiền công cho họ, khởi từ người rốt cho đến người đầu. Những người làm công mướn từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Rồi tới phiên những người đầu đến, tưởng lãnh được nhiều hơn; song họ cũng lãnh mỗi người một đơ-ni-ê. Khi lãnh rồi, lằm bằm cùng chủ nhà, mà rằng: Những người rốt ấy chỉ làm một giờ, mà chủ đãi cũng như chúng tôi, là kẻ đã chịu mệt nhọc cả ngày và giang nắng. Song chủ trả lời cho một người trong bọn họ rằng: Bạn ơi, ta không xử tệ với ngươi đâu; ngươi há chẳng định cùng ta một đơ-ni-ê sao? Hãy lấy của ngươi mà đi đi; ta muốn trả cho kẻ rốt này bằng như đã trả cho ngươi vậy. Ta há không có phép dùng của cải ta theo ý muốn ta sao? Hay là ngươi thấy ta ở tử tế mà lấy mắt ganh sao? Đó, những kẻ rốt sẽ nên đầu và kẻ đầu sẽ nên rốt là như vậy” (Ma-thi-ơ 20:1-16).
Đơ-ni-ê là đồng tiền đúc bằng bạc được sử dụng trong thời chính quyền La-mã cai trị xứ Palestine. Giờ làm việc bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng, như vậy giờ thứ mười một là khoảng 4 hoặc 5 giờ chiều. Người làm công đa số là người nghèo nhận những công việc thời vụ trong mùa thu hoạch, họ cần tiền để đắp đổi qua ngày. Kinh thánh Cựu ước cũng khuyên dạy những người thuê mướn họ:
“Không được ức hiếp người làm thuê nghèo khó và bần cùng, dù người đó là anh em mình hay là ngoại kiều tạm cư trong xứ và trong thành của anh em. Phải thanh toán tiền công cho người ấy mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, vì người ấy vốn nghèo khó chỉ còn biết trông chờ vào đó. Nếu không, người ấy sẽ kêu van Đức Giê-hô-va về anh em và anh em phải mắc tội” (Phục truyền luật lệ ký 24: 14 – 15)
Câu chuyện lấy bối cảnh trong cuộc sống hằng ngày nhưng ngụ ý về Vương quốc. Vườn nho biểu trưng cho hội thánh, chủ vườn là Chúa. Những người làm công biểu trưng cho những người đáp lời kêu gọi của Chúa, thời gian trong ngày là đời người, và tiền công là sự sống vĩnh cửu. Sự kêu gọi đến với mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời. Một số đáp lời sớm, một số trễ hơn, và số khác chỉ đáp lời lúc cuối đời. Nhưng bất cứ ai chấp nhận lời mời đều sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Thông điệp của dụ ngôn này thật rõ ràng. Trong khi chúng ta vẫn mặc định rằng người làm việc khó nhọc hơn xứng đáng với tiền công lớn hơn, thì người chủ vườn nho hành động ngược lại; do đó một số người xem đó là không công bằng. Nhưng chủ vườn bảo với họ rằng không ai bị xử tệ cả, bởi vì họ đã đồng ý với chủ vườn về số tiền họ sẽ nhận cho ngày làm việc của họ (một đơ-ni-ê cho một ngày công là tiền lương khá hậu hĩnh vào thời đó). Ông cũng bảo cho họ biết ông đang sử dụng tài sản của ông theo ý ông muốn. Luật lệ trên Vương quốc Thiên đàng là do Đức Chúa Trời thiết lập: sự cứu rỗi dành cho loài người hoàn toàn phụ thuộc vào ân điển của Ngài, không do công đức hoặc nỗ lực hoặc nếp sống khổ hạnh của bất cứ ai, bởi vì không ai có thể đáp ứng những chuẩn mực đạo đức của Đức Chúa Trời.
Ai là người làm công được nhận vào giờ thứ mười một? Có thể là những người tiếp nhận ân điển lúc lâm chung, cũng có thể là những kẻ bị xem thường dưới mắt những tín đồ lâu năm luôn sốt sắng trong các bổn phận tôn giáo. Nhưng chớ vội vàng kết luận. Trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng ta đều là người làm công giờ thứ mười một, và chúng ta đều được Chúa mời vào vương quốc của ngài cách vinh dự. Vì vậy, không cần phải đoán định ai là người làm công giờ thứ mười một. Thông điệp của dụ ngôn là chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi ân điển của Chúa, không bởi những gì chúng ta có.
Phản ứng của một vài người trong số những người làm công trong vườn nho đối với điều họ cho là bất công, biểu trưng cho sự tự mãn thuộc linh thường dễ nhận thấy trong vòng những tín hữu lâu năm. Họ tin rằng phần thưởng dành cho họ phải tương xứng với thời gian họ phụng sự Chúa. Đó là kết quả của cách suy nghĩ cho rằng sự cứu rỗi đến từ công đức, và đó là điều mà dụ ngôn này muốn bác bỏ.
KẾT LUẬN
Tuy nhiên, thông điệp của Chúa Giê-su được kể qua các dụ ngôn không phải ai nghe cũng hiểu được. Trong một lần, các môn đồ hỏi thầy tại sao Ngài lại dùng cách dạy này và Chúa trả lời rằng thông điệp của Ngài sẽ chỉ có những ai có đức tin nơi Ngài và Đức Chúa Trời mới có thể hiểu được.2
“Môn đồ bèn đến gần Ngài mà hỏi rằng: sao thầy dùng thí dụ mà phán cùng chúng vậy? Ngài đáp rằng: bởi vì đã ban cho các ngươi được biết những điều mầu nhiệm của nước thiên đàng, song về phần họ, thì không ban cho biết. Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ được dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì lại cất luôn điều họ đã có nữa. Vậy nên ta phán thí dụ cùng chúng; vì họ xem mà không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết” (Ma-thi-ơ 13: 9-13).
Những người có tấm lòng cứng cỏi và không tin nhận Chúa cho dù họ có lắng nghe bao nhiêu đi nữa, sẽ không bao giờ hiểu được những lẽ thật về Vương quốc Đức Chúa Trời. Những lời này của Chúa Giê-su đã ứng nghiệm những gì Đức Chúa Trời phán qua tiên tri Ê-sai 30: 9-10, “Dân nầy là bội nghịch, là con cái nói dối, con cái không muốn nghe luật pháp Đức Giê-hô-va; nói với kẻ tiên kiến rằng: Đừng tiên kiến làm chi! nói với kẻ tiên tri rằng: Đừng nói tiên tri về lẽ thật! Hãy nói cho chúng tôi những điều vui thú, hãy lấy những sự huyễn hoặc bảo chúng tôi!”
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 3
- Dr. G. Campbell Morgan. Những thí dụ và ẩn dụ của Chúa chúng ta. Phòng sách Tin Lành 1967.
- https://vi.postposmo.com/ Ngày truy cập 16 tháng 12/2024.
Chương 4
CÁC SỨ ĐỒ DẠY VỀ VƯƠNG QUỐC
Trong chức vụ của mình, Chúa Giê-su đã công bố vương quốc của Đức Chúa Trời là sứ điệp trung tâm của Ngài. Trong Công vụ các Sứ đồ và trong các thư tín của Phao-lô, các sứ đồ tiếp tục chia sẻ lời dạy của Chúa Giê-su về vương quốc. Họ tiếp tục dạy những gì thầy của họ đã dạy.
Chúa Giê-su giờ đây là Đấng Mê-si và là Chúa được tôn cao, và Đức Thánh Linh hiện diện trong hội thánh và hoạt động trên thế giới. Vì vậy, thay vì chỉ nói về vương quốc của Đức Chúa Trời, các sứ đồ cũng nói về Chúa Giê-su là Vua (tức là Quyền tể trị của Chúa Giê-su, Đấng ngự bên hữu Đức Chúa Cha), và về quyền năng của Đức Thánh Linh, Đấng tiếp tục công việc của Chúa Giê-su trên thế giới.
Trước tiên, chúng ta sẽ xem Công vụ các Sứ đồ và sau đó là lời dạy của Phao-lô. Vì cụm từ “Vương quốc của Đức Chúa Trời” xuất hiện không nhiều, nên chúng ta cần liệt kê và tô đậm những câu này. Sau khi làm vậy, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa quyền tể trị của Đấng Christ và quyền năng của Đức Thánh Linh với vương quốc của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét đến sách Khải huyền của Giăng với chủ đề về Vương quốc.
1. Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời. (Công vụ 1:3).
2. Phi-líp đang rao giảng ở Sa-ma-ri, và Lu-ca mô tả việc này là rao giảng tin mừng về vương quốc Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ. “Nhưng khi chúng đã tin Phi-líp, là người rao giảng Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Giê-su Christ cho mình, thì cả đàn ông, đàn bà đều chịu phép báp-tem” (Công vụ 8:12).
3. Ba-na-ba và Phao-lô “giục các môn đồ, vững lòng, khuyên phải bền đổ trong đức tin, và bảo trước rằng phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời ( Công vụ 14:22).
4. “Phao-lô vào nhà hội, và trong ba tháng giảng luận một cách dạn dĩ ở đó; giải bày những điều về nước Đức Chúa Trời mà khuyên dỗ các kẻ nghe mình” (Công vụ 19:8)..
5. “Hiện bây giờ, tôi biết rằng giữa anh em mà tôi đã ghé qua giảng về nước Đức Chúa Trời, thì chẳng có một ai sẽ thấy mặt tôi nữa” (Công vụ 20:25).
6. “Họ đã hẹn ngày với người, bèn đến thăm tại nơi nhà trọ rất đông; từ buổi sáng đến chiều, người cứ làm chứng và giảng giải với họ về nước Đức Chúa Trời, lấy luật pháp Môi-se và các đấng tiên tri mà gắng sức khuyên bảo họ về Đức Chúa Giê-su” ( Công vụ 28:23).
7. Phao-lô “giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết” ( Công vụ 28:31)
Những đoạn văn này làm rõ rằng các sứ đồ đã giải thích vương quốc của Đức Chúa Trời dưới góc nhìn của Chúa Giê-su Christ. Điều này được xác nhận nếu chúng ta xem xét các bài giảng đầu tiên của Hội thánh, được ghi lại trong Công vụ 2:14-36; 2:38- 39; 3:12-26; 10:34-43.
Có thể tóm lược nội dung 1 các sứ đồ đã giảng về Chúa Giê-su:
1. Các lời tiên tri của Cựu Ước về Đấng Christ đã được ứng nghiệm, và thời đại mới là hiện thực thông qua sự xuất hiện của Chúa Giê-su.
2. Chúa Giê-su sinh ra từ dòng dõi Vua Đa-vít.
3. Chúa Giê-su đã chết như các tiên tri đã báo trước để giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và thời đại gian ác hiện tại.
4. Chúa Giê-su đã được chôn cất và do đó thực sự đã chết.
5. Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba, như các tiên tri đã báo trước.
6. Chúa Giê-su hiện được tôn lên bên hữu Đức Chúa Cha với tư cách là Đấng Mê-si.
7. Chúa Giê-su sẽ tái lâm với tư cách là Đấng phán xét thế gian.
8. Sự tha thứ được ban cho những ai ăn năn và tin nhận Phúc âm.
CHÚA GIÊ-SU RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC
Theo Mác, Chúa Giê-su đi vào Ga-li-lê khi bắt đầu chức vụ công khai của mình và tuyên bố, “Kỳ đã trọn, và vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần; hãy ăn năn và tin nhận phúc âm” (1:15).
Trong chức vụ công khai của mình, Chúa Giê-su đã kêu gọi mọi người tin và tiếp nhận lời của Ngài về Đức Chúa Trời và vương quốc Đức Chúa Trời. Các sứ đồ kêu gọi mọi người tin nhận Chúa Giê-su. Trọng tâm của sứ điệp của Chúa Giê-su là vương quốc Đức Chúa Trời và trọng tâm sứ điệp của các sứ đồ là Chúa Giê-su. Ngài là Đấng Mê-si đã chết, đã phục sinh, thăng thiên và hiện ngồi bên hữu Đức Chúa Trời trên thiên đàng.
Sách Công vụ các sứ đồ nêu rõ rằng sự cứu rỗi của Chúa Giê-su được hiện thực hóa trong cuộc sống cá nhân thông qua sự hiện diện của Chúa Thánh Linh. Đức Thánh Linh đã đến với một trăm hai mươi môn đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, vương quốc của Đức Chúa Trời hiện được trải nghiệm thông qua đức tin vào Chúa Giê-su và bày tỏ qua việc tiếp nhận ân tứ ĐứcThánh Linh.
Khi Chúa Giê-su đuổi quỷ và chữa lành người bệnh bằng quyền năng của Đức Thánh Linh, Ngài nói rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến với họ (Ma-thi-ơ 12:28). Trong sách Công vụ các sự chữa lành được xác định là nhờ quyền năng trong danh Chúa Giê-su (hay quyền năng của Đức Thánh Linh).
CÁC THƯ TÍN CỦA PHAO-LÔ NÓI ĐẾN VƯƠNG QUỐC.
“Phao-lô được trao cơ hội để làm những điều phi thường cho Vương quốc của Đức Chúa Trời, đặc biệt những năm cuối đời của ông cho thấy sự khác biệt rõ rệt khi ông sống cho Đấng Christ và cho sự phát triển của Vương quốc Ngài.
Trong Công vụ 28:31, Phao-lô chia sẻ tin lành về Chúa Giê-su Christ: ông “giảng về Nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn, chẳng ai ngăn cấm.” Phao-lô không ngại nói cho người khác biết những gì Chúa đã làm cho ông. Vị sứ đồ trứ danh này đã dành trọn cuộc đời mình, từ hoán cải đến chịu tử đạo, làm việc không mệt mỏi cho Nước Đức Chúa Trời.”2
Phao-lô là trước giả của 13 thư tín trong Tân ước. Trong chủ đề về Vương quốc, chúng ta có thể đề cập đến từng điểm mà ông nói đến sau đây:
1. Có một số bất đồng trong hội thánh tại Rô-ma về việc thức ăn và đồ uống nào được phép đối với Cơ đốc nhân. Khi đưa ra lời khuyên, Phao-lô nói rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời không phải là thức ăn và đồ uống mà là sự công bình, bình an và vui mừng trong Đức Thánh Linh (Rô-ma 14:17). Ở đây, ông tuyên bố rằng sự kiện chính mà Cơ đốc nhân tự hỏi là liệu Đức Chúa Trời có cai trị trong cuộc sống của họ hay không, và bằng chứng của sự cai trị đó là sự hiện diện của sự công bình, bình an và vui mừng, đến từ sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Vương quốc là một thực tại bên trong tấm lòng tín nhân. Quyền năng và sự hiện diện của Đức Thánh Linh nội trú bên trong tạo ra một đời sống thánh khiết.
2. Để hiểu được thực tại là gì, Phao-lô đã nói với người Cô-rinh-tô rằng Vương quốc Đức Chúa Trời không phải là lời nói mà là quyền năng (1 Cô-rinh-tô 4:20). Sự hiện diện quyền năng của Thánh Linh trong cuộc sống giúp người tin Chúa không chỉ nói mà còn sống và hành động vì Đức Chúa Trời, nghĩa là tín nhân nhận được quyền năng từ Chúa để thi hành các mục vụ , trong đó bao hàm cả sức mạnh để chịu sự sỉ nhục và bắt bớ vì cớ Đấng Christ.
3. Trong một tuyên bố phủ định khác, Phao-lô nói, “Anh em không biết rằng những kẻ không công bình sẽ không được hưởng vương quốc Đức Chúa Trời sao?” (1 Cô-rinh-tô 6:9) và tiếp theo là: “Đừng để bị lừa dối; những kẻ gian dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ trộm cắp, kẻ tham lam, kẻ say sưa, kẻ chửi rủa, kẻ cướp bóc sẽ không được hưởng Vương quốc Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 6:9-10). Trong Vương quốc Đức Chúa Trời không có những con người được liệt kê trên đây.
5. Sau khi Đấng Christ tái lâm, sẽ có sự sống lại của người chết. Kế tiếp là khi Đấng Christ trao vương quốc cho Đức Chúa Cha sau khi đã phá hủy mọi quyền cai trị và mọi thế lực (1 Cô-rinh-tô 15:24). Điều này sẽ xảy ra vào cuối lịch sử loài người, khi vương quốc của Chúa đến trong sự trọn vẹn.
Từ khi Chúa Giê-su khi thăng thiên cho đến khi Ngài tái lâm, có một ý nghĩa thực sự rằng Đấng Christ, là Vua của Vương quốc Đức Chúa Trời, và đây là điều được nói đến.
6. Vì Vương quốc Đức Chúa Trời trong sự hoàn hảo của nó, nên thịt và huyết không thể thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời. “Hỡi anh em, tôi đoán quyết rằng thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời được, và sự hay hư nát không hưởng sự không hay hư nát được” (1 Cô-rinh-tô 15:50).
7. Phao-lô đã nói với người Ga-la-ti cũng giống như những gì ông đã nói với người Cô-rinh-tô. Những người có cuộc sống bị chi phối bởi những ham muốn tội lỗi thì không ở trong Vương quốc của Chúa. Các công việc của xác thịt rất rõ ràng: gian dâm, ô uế, ích kỷ, ganh tị và những điều tương tự. Những ai làm những điều như vậy sẽ không được thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời (Ga-la-ti 5:19-21).
8. Và ông có cùng một lời khuyên cho người Ê-phê-sô. “Không có kẻ gian dâm hay người ô uế nào có cơ nghiệp trong vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 5:5). Ở đây chúng ta có sự song hành thú vị của vương quốc của Đấng Christ và của Đức Chúa Trời. Điều này tương tự như 1 Cô-rinh-tô 15:24, “Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực.” Lời này nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ Đấng Christ là Chúa được tôn cao đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha với tư cách là Vua.
9. Một tham chiếu khác về Vương quốc thuộc về Đấng Christ được tìm thấy trong Cô-lô-se 1:13, “Ngài (Đức Chúa Trời) đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua Nước của Con rất yêu dấu Ngài.” Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trong cuộc sống con người đến với các Cơ Đốc nhân thông qua Chúa Giê-su Christ trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Theo thiết kế và ý muốn của Đức Chúa Cha, và thông qua công ơn cứu rỗi của Đấng Christ, sự cứu rỗi được dành cho tín nhân. Và điều này được Đức Thánh Linh áp dụng cho họ. Cho đến cuối lịch sử, Đức Chúa Con cai trị với tư cách là người đại diện của Đức Chúa Cha, và vì vậy Vương quốc thuộc về Ngài.
10. Phao-lô không làm việc một mình để công bố Vương quốc của Đức Chúa Trời, và ông mô tả những người làm việc với ông là những người đồng công cho Vương quốc của Đức Chúa Trời. “Giê-su gọi là Giúc-tu cũng có lời thăm anh em. Trong những người chịu cắt bì, chỉ ba người đó cùng tôi vì Nước Đức Chúa Trời mà làm việc” (Cô-lô-se 4:11). Ông đang nói rằng Đức Chúa Trời đã chọn con người làm phương tiện của ân điển để tin tức về Vương quốc và các phước lành của nó được biết đến trên trái đất. Đức Chúa Trời sử dụng những đầy tớ của Ngài như những phát ngôn nhân cho Vương quốc.
11. Khi Phao-lô ở Tê-sa-lô-ni-ca, ông đã thúc giục và khuyến khích các Cơ Đốc nhân sống một cuộc sống xứng đáng với Đức Chúa Trời, là Đấng gọi anh em vào vương quốc và vinh quang của Ngài (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12). Nhờ sự tái sinh, các tín đồ được sinh ra trong vương quốc của Đức Chúa Trời, và họ sẽ trải nghiệm sự trọn vẹn và vinh quang của vương quốc vào thời kỳ cuối cùng.
12. Trong thử thách và sự bắt bớ, các Cơ Đốc nhân ở Tê-sa-lô-ni-ca vẫn kiên định trong đức tin. Vì vậy, ông đã viết: Ngài muốn khiến anh em nên xứng đáng cho nước Ngài, là vì nước đó mà anh em chịu khổ (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5). Nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, các Cơ Đốc nhân vẫn giữ được đức tin trong cơn hoạn nạn và qua đó đã tiết lộ rằng quyền cai trị của Đức Chúa Trời là Vua trong cuộc sống của họ và rằng họ sẽ là thành viên của vương quốc.
13. Bày tỏ lời ngợi khen Chúa, Phao-lô thốt lên: Nguyền xin sự tôn quí, vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi! A-men” (1 Ti-mô-thê 1:17). Ở đây lẽ thật của Cựu Ước về Đức Chúa Trời là Vua được tái khẳng định. Ngài là Chúa của lịch sử.
14. Khi mô tả cùng một Đức Chúa Trời, Phao-lô viết, “Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men” (1 Ti-mô-thê 6:15-16).
15. Khi viết thư cho Ti-mô-thê, Phao-lô long trọng truyền lệnh: “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng…” (2 Ti-mô-thê 4:1). Lời kêu gọi của Phao-lô dựa trên bối cảnh của hai lẽ thật – sự tái lâm của Đấng Christ trong quyền năng, và sự trọn vẹn của Vương quốc tương lai.
16. Sự chắc chắn về Vương quốc tương lai cũng được tìm thấy trong câu này của Phao-lô: “Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong Nước trên trời của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:18).
Các chủ đề được tìm thấy trong những câu này phải được kết hợp lại với nhau để có được bức tranh về quan điểm thần học của Phao-lô trong chủ đề vương quốc. Trước hết, chúng ta lưu ý rằng sau lời dạy của Chúa Giê-su, Phao-lô hiểu vương quốc có cả chiều kích hiện tại và tương lai. Thực tế về sự cai trị của Đức Chúa Trời ở đây và bây giờ được dạy trong Rô-ma 14:17 và Cô-lô-se 1:13, trong khi hy vọng về vương quốc vinh quang trong tương lai được tìm thấy trong 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; 2 Ti-mô-thê 4:1, 18.
Thứ hai, Phao-lô nhấn mạnh giống như Chúa Giê-su đã làm trong bài giảng trên núi, về sự trong sạch của cuộc sống tín nhân, về sự công bình và thánh khiết, như là bằng chứng của tư cách thành viên trong vương quốc. Và đó cũng là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời cai trị qua Đức Thánh Linh trong lòng tín nhân. Điều này được thấy rõ trong Rô-ma 14:17; 1 Cô-rinh-tô 6:9, 10; Ga-la-ti 5:21; Ê-phê-sô 5:5; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:12; và 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:5. Phao-lô nhấn mạnh về mặt đạo đức này làm chủ đề nổi bật khi nói về Vương quốc.
Cuối cùng, Phao-lô noi theo sự dẫn dắt của chính Chúa Giê-su (Giăng 18:36) để nói về Vương quốc là Vương quốc của Đấng Christ (1 Cô-rinh-tô 15:24; Ê-phê-sô 5:5; Ê-sai 1:13). Là Chúa được tôn cao, Chúa Giê-su Christ cai trị vương quốc của Đức Chúa Trời với tư cách là Đấng thay mặt cho Đức Chúa Cha. Vì giáo huấn này về quyền tể trị của Đấng Christ rất quan trọng đối với Phao-lô, nên chúng ta sẽ xem xét thêm về điều này.
UY QUYỀN TỐI CAO CỦA CHÚA GIÊ-SU.
Rao giảng Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong mục vụ của Phao-lô trong tin lành về Nước Đức Chúa Trời. Và việc xưng nhận Chúa Giê-su là Chúa là trọng tâm trong sự hiểu biết của ông về ơn cứu rỗi. Sau đây là một số tuyên bố mạnh mẽ của Phao-lô:
“Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu” (Rô-ma 10:9).
“Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Đức Chúa Giê-su là Chúa” (1 Cô-rinh-tô 12:3).
“Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-su Christ, tức là Chúa” (2 Cô-rinh-tô 4:5).
Sau đó, để hiểu đầy đủ quan điểm của Phao-lô về Chúa Giê-su là Chúa, chúng ta đọc Phi-líp 2:6-11 sau đây:
“Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-su Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.”
Ở đây, Phao-lô nói rằng Chúa Giê-su Christ (trong sự phục sinh và thăng thiên) được tôn cao, sau sự sỉ nhục lớn lao của Ngài khi rời bỏ vinh quang của thiên đàng để trở thành một con người và chịu đau khổ vì tội lỗi của thế gian.
Bức tranh về Chúa Giê-su được tôn cao đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha (Công vụ 7:56; Ê-phê-sô 1:20) dựa trên Thi thiên 110:1, “Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi.” Đây là cách đơn giản để nói rằng Chúa Giê-su, Chúa được tôn cao, cai trị như là người đại diện của Đức Chúa Cha. Đối với thời đại hiện tại, Đức Chúa Cha đã giao quyền cai trị vào tay Chúa Giê-su được tôn cao. Chúng ta có thể hiểu quyền cai trị của Đấng Christ bao gồm tất cả những gì Đức Chúa Cha cai trị. Đây là lý do tại sao Phao-lô có thể đưa ra tuyên bố, “Ngài (Chúa Giê-su) có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Cô-lô-se 1:17).
SỰ MẶC KHẢI CỦA GIĂNG TRONG SÁCH KHẢI HUYỀN
Một chủ đề nổi bật của sách Khải huyền là chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn cao trước mọi kẻ thù của Ngài. Sách được viết vào thời điểm các Cơ đốc nhân bị đàn áp vì họ không chịu khuất phục trước yêu cầu của chính quyền La Mã rằng Hoàng đế phải được tôn thờ là “Chúa và là Đức Chúa Trời.”
Đức Chúa Trời đã ban cho Giăng những khải tượng về chiến thắng chắc chắn của Chúa Giê-su Christ khi ông bị lưu đày trên đảo Bát-mô. Vì vậy, trong suốt cuốn sách, Chúa Giê-su Christ được miêu tả là Đấng Chiến Thắng vĩ đại. Những kẻ thù bị đánh bại của Ngài là sự chết, Hades (vực thẳm), con rồng (Sa-tan), con thú (quyền lực La Mã), tiên tri giả và những kẻ tôn thờ con thú. Vì Chúa Giê-su Christ là Đấng Chiến Thắng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy rằng cả Chúa Cha và Chúa Giê-su (Con) đều được gọi là Vua và được tôn thờ.
Sau đây là những câu Kinh thánh trong Khải huyền miêu tả Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su là Vua và nói về vương quốc.
1. Giăng giải thích sự đau khổ của ông, “Tôi là Giăng, là anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước (vương quốc), về sự nhịn nhục trong Đức Chúa Giê-su, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Đức Chúa Trời và chứng của Đức Chúa Giê-su” (1:9).
2. Giăng nhìn thấy, “Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (11:15).
3. “Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình, đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì” (11:16-17). Bài chúc tụng này báo trước sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời, và sự trị vì của Ngài vào thời kỳ cuối cùng.
4. Trước khi Vương quốc đến, kẻ thù của Đức Chúa Trời và con người phải bị loại bỏ. “Tôi lại nghe trên trời có tiếng lớn rằng: Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng, và nước Đức Chúa Trời chúng ta đã đến cùng quyền phép của Đấng Christ Ngài nữa; vì kẻ kiện cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, nay đã bị quăng xuống rồi” (12:10).
5. Giăng cũng đã nghe xác nhận những gì ông biết từ việc nghiên cứu Cựu Ước. Đoàn hợp xướng thiên đàng cất tiếng: “Chúng hát bài ca Môi-se, là tôi tớ Đức Chúa Trời, và bài ca Chiên Con, mà rằng: Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời Toàn năng, công việc Chúa lớn lao và lạ lùng thay! Hỡi Vua của muôn đời, đường lối Ngài là công bình và chân thật” (15:3). Sau đó, ông nghe điệp khúc: “Ha-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng của chúng ta đang trị vì” (19:6).
6. Chúa Giê-su Christ sẽ chiến thắng mọi thế lực của Sa-tan trong thời kỳ cuối cùng. “Chúng chiến tranh cùng Chiên Con, Chiên Con sẽ được thắng, vì là Chúa của các chúa, Vua của các vua; và những kẻ được kêu gọi, những kẻ được chọn cùng những kẻ trung tín đều ở với Chiên Con, cũng thắng được chúng nữa” (17:14). Là một vị Vua chiến binh vĩ đại trên một con ngựa trắng, Ngài sẽ chiến thắng: “Trên áo tơi và trên đùi Ngài, có đề một danh là Vua Của Các Vua Và Chúa Của Các Chúa” (19:16).
Vì vậy, chúng ta thấy rằng Giăng được truyền cảm hứng để trình bày quyền cai trị của Chúa Giê-su. Ngài chiến thắng trước mọi kẻ thù và thiết lập Vương quốc. Mặc dù hình ảnh thì khác, nhưng nội dung giáo lý thì rất giống với quan điểm thần học của Phao-lô.
Một khía cạnh trong bài trình bày của Giăng về chiến thắng của Chúa Giê-su được tôn vinh là các thánh đồ chia sẻ với Ngài trong sự cai trị và chiến thắng của Ngài. (12:10 và 17:14), những người được đại diện như một “Vương quốc” mà Ngài cai trị (1:6 và 5:10). Sự chia sẻ của các thánh đồ trong triều đại của Ngài được nêu rõ trong Khải huyền 20:4, 6. “Tôi lại thấy những ngai, và những người ngồi trên ngai được quyền xét đoán. Kế đó, tôi thấy linh hồn những kẻ đã phải chết chém vì sự làm chứng cho Đức Chúa Giê-su và vì lời Đức Chúa Trời, linh hồn những kẻ chẳng thờ lạy con thú cùng hình tượng nó, chẳng nhận dấu hiệu nó, hoặc trên trán hoặc trên tay. Các người ấy được sống và trị vì với Đấng Christ trong một ngàn năm…Phước thay và thánh thay những kẻ được phần về sự sống lại thứ nhất! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những người ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm.”
TÓM LƯỢC
Đối với Chúa Giê-su, Vương quốc của Đức Chúa Trời là trung tâm trong chức vụ của Ngài. Đối với các sứ đồ, Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và là Chúa được tôn vinh.
Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 15:24, “Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực.”
Bởi vì Chúa Giê-su không chỉ công bố Vương quốc, mà Ngài còn là hiện thân cho Vương quốc. Nhờ Đức Thánh Linh là Đấng Yên ủi, là Thần Lẽ Thật, Chúa Giê-su – hiện thân cho Vương quốc được công bố và Ngài là Đầu Hội Thánh. Trong Chúa Giê-su, Vương quốc là một thực tại đối với tín nhân.
Cách duy nhất mà các sứ đồ có thể rao giảng về Vương quốc là rao giảng về Đấng hiện thân cho Vương quốc và Ngài đã đánh bại nước của Sa-tan, sự chết và địa ngục.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 4
- Peter Toon (1980). God’s Kingdom for today. Cornerstone Books, Westchester, Illinois
- https://www.gotquestions.org/Viet/Nhan-vat-Phao-lo-trong-Kinh-Thanh.html. Ngày truy cập 27 tháng 4/2025
Chương 5
NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA VƯƠNG QUỐC
Vương quốc của Chúa không thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động trên trái đất vì Ngài đã đặt nó vào bên trong chúng ta. “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:21). Tuy nhiên, chúng ta phải thực hiện các nguyên tắc của vương quốc để nhận được lợi ích của nó. Chúng ta tìm thấy các nguyên tắc của vương quốc Đức Chúa Trời trong Kinh thánh. Do đó, chúng ta cần biết lẽ thật để hiểu cách thức vương quốc của Ngài hoạt động.
Chúa đã thiết kế vương quốc của Ngài để hoạt động theo một cách nhất định. Để tách mình khỏi hệ thống của thế gian và hoạt động trong hệ thống của Chúa, chúng ta cần tìm kiếm và sống theo lẽ thật của Lời Chúa. Lẽ thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự vướng mắc của hệ thống thế gian. Chúa Giê-su đã dạy:
“Nếu các ngươi cứ ở trong lời ta, thì các ngươi thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ giải thoát các ngươi” (Giăng 8:31-32).
Nếu không có lẽ thật, chúng ta không thể thoát khỏi hệ thống thế gian. Và như chúng ta đã biết Sa-tan giam cầm con người trong hệ thống thế gian. Nếu họ không nghe hoặc không thấy lẽ thật của Lời Chúa, họ sống mà không có hy vọng nào trong cõi đời đời. Hãy nhớ rằng, với tư cách là công dân của vương quốc, chúng ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Hội thánh không được rút lui trong sự cô lập vì sợ bị ô uế, vì chúng ta là ánh sáng của thế gian.
Bàn tay của kẻ ác
Trong Thi thiên 82:3-5, tác giả Thi thiên cầu thay cho những người bị Sa-tan trói buộc: “Hãy đoán xét kẻ khốn cùng và người mồ côi; Hãy xử công bình cho người buồn rầu và kẻ túng ngặt. Khá cứu vớt kẻ khốn cùng và người thiếu thốn, Giải họ khỏi tay kẻ ác. Chúng nó không biết chi, cũng chẳng hiểu chi; Chúng nó đi qua đi lại trong sự tối tăm: Các nền trái đất đều rúng động.”
Toàn bộ hệ thống của thế giới này được thiết lập trên một nền tảng sai trật mà Chúa không muốn. Sa-tan không thể tạo ra bất cứ điều gì, và nó không thể nghĩ ra bất cứ điều gì mới, vì vậy nó đã lấy mô hình của Chúa và làm cho sai lệch đi. Martin Luther đã nói, “Ma quỉ là con khỉ bắt chước Đức Chúa Trời.”1 Lý do Sa-tan có thể thao túng mọi người là vì họ không có mối quan hệ với Chúa, không có sự mặc khải về vương quốc của Ngài. Do đó, ma quỉ có thể tác động qua những người mù quáng để tiếp tục xây dựng vương quốc đen tối của nó.
Sa-tan, trong nỗ lực chiếm lấy vương quốc của Chúa, thậm chí đã cố gắng cám dỗ Chúa Giê-su.
Ma quỉ đem Ngài lên, cho xem mọi nước thế gian trong giây phút; và nói rằng: Ta sẽ cho ngươi hết thảy quyền phép và sự vinh hiển của các nước đó; vì đã giao cho ta hết, ta muốn cho ai tùy ý ta. Vậy, nếu ngươi sấp mình xuống trước mặt ta, mọi sự đó sẽ thuộc về ngươi cả” (Lu-ca 4:5-7)
Nếu Sa-tan thành công trong việc khiến Chúa Giê-su thờ phượng nó, thì vương quốc tối tăm và hệ thống tà ác của nó sẽ chiếm lấy tất cả mọi người trên trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã chống lại nó bằng lẽ thật của Lời Chúa (Ma-thi-ơ 4: 4,7,10) và cuối cùng trao chìa khóa của vương quốc cho tất cả những ai muốn tiếp nhận Ngài. Bây giờ Ngài đã ban cho chúng ta chìa khóa của Vương quốc (Ma-thi-ơ 16:19), chúng ta có thể kích hoạt điều đó và chống lại ma quỷ bằng lẽ thật của Lời Chúa.
Sa-tan đứng sau một hệ thống đang kiểm soát nền kinh tế của thế giới, các tôn giáo do con người tạo ra và các tiến trình chính trị. Nhưng khi chúng ta có Vương quốc Đức Chúa Trời bên trong tấm lòng của mình, chúng ta có thể cai trị mọi thứ mà Sa-tan đã cố gắng thiết lập.
Sa-tan cũng không muốn bất kỳ ai biết rằng nó đứng sau hệ thống thế giới. Nó giống như kẻ ném đá giấu tay. Hoặc nó nói với những người bị tổn thương rằng Chúa đã làm họ tổn thương. Ma quỷ là kẻ làm tổn thương mọi người, nhưng nó chỉ tay vào Chúa để ngăn họ tin cậy Ngài. Sa-tan không muốn người ta rời khỏi vương quốc tối tăm để đến với vương quốc sáng láng.
Hãy nhìn vào con cái Y-sơ-ra-ên. Khi họ cố gắng rời khỏi hệ thống của Sa-tan ở Ai Cập, Pha-ra-ôn đã chống cự bằng tất cả sức mạnh của mình. Tại sao bạn cho rằng Pha-ra-ôn không muốn họ rời đi? Đó là vì ông cần họ xây dựng vương quốc của mình. Pha-ra-ôn không quan tâm đến người Do Thái, và Sa-tan cũng không quan tâm đến mọi người. Sa-tan chỉ sử dụng họ để để xây dựng nước của nó.
Khi chúng ta bước vào vương quốc của Chúa thông qua sự cứu rỗi và được giải thoát khỏi xiềng xích của Sa-tan, đôi khi chúng ta nghĩ rằng những điều tuyệt vời sẽ tự động xảy ra với chúng ta. Chúng ta tin rằng phước lành sẽ đến với chúng ta. Tuy nhiên, để những phước lành đó đến với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa. “Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, nầy là mọi phước lành sẽ giáng xuống trên mình ngươi” (Phục truyền luật lệ ký 28:2). Chúng ta cần thoát khỏi hệ thống của thế gian và tập chú hoàn toàn vào Chúa và Lời của Ngài, trong đó có các nguyên tắc của vương quốc Ngài.
Chúa không bị tác động bởi nhu cầu
Nguyên lý đầu tiên của vương quốc Chúa mà chúng ta cần hiểu là Chúa không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ma-thi-ơ 6:8 chép rằng, “Vậy, các ngươi đừng giống như họ; vì Cha các ngươi biết các ngươi cần gì trước khi các ngươi cầu xin Ngài.”
Chúa biết chúng ta cần gì, nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin Ngài. Chúng ta phải làm gì đó để đáp ứng nhu cầu của mình. Nếu chúng ta không làm phần việc của mình, Chúa sẽ không hành động thay cho chúng ta. Có rất nhiều ví dụ về điều này. Ở một số vùng của Ấn Độ, Châu Phi, Ha-i-ti và trên khắp thế giới, mọi người đang chết đói. Tại sao Chúa không hành động? Đó là vì Ngài không bị lay động bởi nhu cầu.
Điều gì khiến Chúa hành động? Chúa Giê-su đã nhiều lần phán, “Hỡi những kẻ ít đức tin” (Ma-thi-ơ 6:30; 8:26; 16:8; Lu-ca 12:28). Điều khiến Chúa hành động là đức tin. Ngài thiết kế vương quốc của Ngài để hoạt động bằng đức tin nơi Ngài. Chúng ta cần đức tin để tiếp nhận Ngài khi chúng ta được tái sinh và sau đó tiếp nhận, áp dụng, thực hành Lời Ngài từ thời điểm đó.
Khi Ê-li tìm thấy người phụ nữ và đứa con trai của bà giữa nạn đói, sẵn sàng ăn bữa ăn cuối cùng của họ, ông đã không nói, “Các người đã sống sót suốt thời gian này. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài và lấy cho các người chút thức ăn.” Thay vào đó, ông nói, “trước tiên hãy dùng bột ấy làm cho ta một cái bánh nhỏ, rồi đem ra cho ta; kế sau ngươi sẽ làm cho ngươi và cho con trai ngươi” (1 Các vua 17:13). Ê-li khuyên người góa phụ làm bánh cho ông trước. Bà đã vâng lời người của Đức Chúa Trời. Bà đã bày tỏ đức tin của mình. Nếu bà không gieo một ít hạt giống (hào phóng với tiên tri của Đức Chúa Trời, mặc dù đang thiếu thốn) bày tỏ đức tin của mình nơi Chúa, bà và đứa con trai sẽ chết vào ngày hôm đó (1 Các vua 17). Đức Chúa Trời không bị lay động bởi nhu cầu của chúng ta. Ngài cần một số hạt giống mà chúng ta gieo ra thể hiện đức tin nơi Ngài.
Không phải là Đức Chúa Trời có ác ý. Mà là Ngài đã thiết lập Vương quốc của Ngài dựa trên sự khôn ngoan, và chúng ta phải làm việc trong các nguyên tắc của Vương quốc Ngài. Chúng ta không cần phải chịu đựng thêm một phút nào nữa nếu vẫn còn cho rằng nhu cầu của mình bị Chúa quên. Chúng ta có thể làm việc theo cách của Ngài ngay bây giờ bằng cách trước tiên lắng nghe tiếng Chúa và học các nguyên tắc của Vương quốc từ Lời Ngài.
Nguyên tắc đầu tiên là Đức Chúa Trời không bị tác động bởi nhu cầu. Ngài bị tác động bởi đức tin. Người khác có thể cầu nguyện cho chúng ta, và Đức Chúa Trời sẽ hành động thay mặt chúng ta. Đức Chúa Trời chỉ cần một số đức tin từ một người nào đó để Ngài có thể hành động. Ngài phán, “Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó, đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không hủy diệt nó; song ta chẳng tìm được một ai” (Ê-xê-chi-ên 22:30).
Chúa muốn trì hoãn sự phán xét đối với những người không biết gì hơn, nhưng Ngài cần một người đứng vào khoảng trống để cầu thay xây lại tường thành. Ngài cần đức tin đến từ một người nào đó trên trái đất để làm việc giữa chúng ta.
Đức Chúa Trời Muốn Cung Cấp Nhu Cầu Của Chúng Ta
“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33).
Nguyên tắc của Ma-thi-ơ 6:33 là gì?
Trước hết tìm kiếm nước Trời, và mọi nhu cầu được Chúa đáp ứng.
Đức Chúa Trời mà chúng ta cần tìm kiếm là Đức Chúa Trời muốn cung cấp nhu cầu của chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ điều gì, người nào hoặc tổ chức nào khác trở thành nguồn cung cấp của chúng ta. Ngài muốn trở thành nguồn cung cấp duy nhất của chúng ta.
Trong Xuất Ê-díp-tô ký 20:2-3, Đức Chúa Trời phán, “Ta là Đức Chúa Trời của ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô và nhà nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác trước mặt ta.”
Điều này sẽ xóa tan lập luận rằng chúng ta đã tự đưa mình vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Nếu bạn nghe một số người làm chứng, bạn sẽ nghe họ cảm ơn Chúa vì họ đã tự cứu mình. Tuy nhiên, việc chúng ta đến với Chúa Giê-su là công việc của Đức Chúa Trời. Ngài đã dàn dựng điều đó. Chúa Giê-su đã nói, “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta không kéo người ấy đến” (Giăng 6:44).
Sau khi xác định rằng Ngài cứu rỗi và giải cứu chúng ta, trong Xuất Ê-díp-tô ký Chúa tiếp tục:
“Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4-5).
Ngài tự gọi mình là “Đức Chúa Trời kỵ tà/ ghen tuông.” Bản Kinh thánh Living Bible viết: “for I, the Lord your God, am very possessive. I will not share your affection with any other god!” (Exodus 20:4)
(Vì Ta là Đức Chúa Trời của ngươi, đòi hỏi sự chú ý và tình yêu hoàn toàn của ngươi. Ta sẽ không chia sẻ tình cảm của ngươi với bất kỳ vị thần nào khác! Xuất Ê-díp-tô ký 20:4)
Điều này nghe có vẻ giống như một mối quan hệ nam nữ phải không?
Hãy nhớ rằng cộng đồng hội thánh là cô dâu hoàn hảo của Chúa Giê-su. Ngài đã đính hôn với tập thể hội thánh chúng ta. Ngài đang chăm sóc chúng ta và Ngài muốn trở thành Người chu cấp duy nhất cho chúng ta. Ngài không muốn bất kỳ ai khác chăm sóc cô dâu của Ngài.
Hãy nghe Phao-lô giải thích: “vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài. Vậy nên người đàn ông phải lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt. Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Đấng Christ và Hội thánh vậy” (Ê-phê-sô 5:30-32).
Khi nói về Chúa Giê-su và hội thánh, Kinh thánh nói rằng chúng ta là xương của xương Ngài và thịt của thịt Ngài. Đó là một mối quan hệ khá thân mật! Và Tân Lang của chúng ta yêu chúng ta nhiều đến nỗi Ngài đã hy sinh mạng sống của Ngài vì chúng ta. Tất nhiên, Ngài muốn chăm sóc chúng ta thật tốt! Tác giả Thi thiên đã viết, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi thiên 23:1). Chúa Giê-su là người chăn giữ chúng ta. Ngài muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta để chúng ta không thiếu thốn bất cứ điều gì và Ngài không muốn chúng ta quay sang bất kỳ người chăn nào khác.
Chúa là một Đức Chúa Trời kỵ tà/hay ghen tuông. Chúng ta đừng bao giờ để bị mắc kẹt trong mối quan hệ thân mật với hệ thống của thế gian. Và Chúa Giê-su không muốn thế gian chăm sóc cô dâu của Ngài. Ngài phán, “Đừng đụng đến nàng!” Nếu chúng ta có thể nhận ra điều đó, thì chúng ta sẽ từ bỏ hệ thống của thế gian, và chúng ta chạy đến với Chúa thành tín của mình. Ca thương 3:23 nói, “Sự thành tín của Chúa thật lớn.” Ngài vô cùng thành tín. Ngay cả khi chúng ta không có đức tin và sống xa cách Chúa thì Ngài vẫn thành tín.
Ô-sê và người vợ của ông: Hình ảnh về Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài.
Trong sách Ô-sê, chúng ta đọc về trường hợp của vị tiên tri. Đức Chúa Trời bảo ông kết hôn với một phụ nữ gian dâm. “Khi Đức Giê-hô-va bắt đầu phán cùng Ô-sê, Đức Giê-hô-va bảo người rằng: Hãy đi, lấy một người vợ gian dâm, và con cái ngoại tình; vì đất nầy chỉ phạm sự tà dâm, lìa bỏ Đức Giê-hô-va” (Ô-sê 1:2).
Ô-sê cưới Gô-me, một cô gái điếm. Và rồi cô rời bỏ Ô-sê và lại quan hệ với những người đàn ông khác. Cô ta đã ngoại tình một thời gian rồi bỏ đi. Đức Chúa Trời đã dùng câu chuyện này để cho Y-sơ-ra-ên thấy rằng Ngài là một người chồng ghen tuông, người đã kiên nhẫn với người vợ gian dâm hơn cả trong những mối quan hệ ngoại tình của cô ta với thế gian. Ngài đã bày tỏ lòng nhẫn nại của Ngài đối với họ, nhưng Ngài cũng cho thấy cuộc sống khốn khổ của Gô-me.
Sống đắc thắng trong Vương quốc Đức Chúa Trời đòi hỏi sự trung tín. Có vẻ như không có gì xảy ra, nhưng bất kể chúng ta đang nhìn thấy và nghe thấy điều gì, chúng ta phải đứng lên và nói rằng, “Đức Chúa Trời tôi sẽ cung cấp mọi nhu cầu của tôi!” (Phi-líp 4:19.) Tất cả những gì chúng ta cần là Lời Chúa, bởi vì Lời Chúa là hạt giống thể hiện đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời. Chúng ta tin cậy Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi.
Ngài phán, “Ngươi chớ thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5). Đây không phải là lời đe dọa, nó là lời cảnh báo.
Sa-tan đã cố gắng khiến Chúa Giê-su tôn thờ nó. Nó giăng bẫy, “Hãy thờ lạy ta, và ta sẽ cho ngươi mọi thứ ngươi cần.” Sa-tan luôn cố gắng khiến mọi người tôn thờ nó để đổi lấy việc đáp ứng nhu cầu của họ. Nó đã đánh cắp ý tưởng đó từ Chúa. Khi chúng ta tôn thờ và phục vụ Chúa. Ngài đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta. Đó là cách vương quốc của Chúa hoạt động.
Sa-tan đã mô phỏng vương quốc bóng tối theo vương quốc ánh sáng. Khi mọi người cúi đầu trước Sa-tan, nó sẽ đáp ứng nhu cầu của họ. Nhưng luôn có sự hủy diệt và cái chết đi kèm sau đó. Vì vậy Chúa ra lệnh cho chúng ta tránh xa hệ thống của thế gian. Ngài biết rằng điều đó sẽ chỉ gây hại cho chúng ta.
Chúa đã phán, “Đừng thờ lạy trước bất kỳ một thần nào khác.” Chúng ta không cần phải cúi đầu trước các hình tượng. Chúng ta có Đấng chăm sóc và yêu thương chúng ta. Chúng ta không chọn Ngài; Ngài đã chọn chúng ta. Ngài đã nhìn thấy chúng ta khi chúng ta suy sụp và tuyệt vọng. Một số người trong chúng ta trông rất tệ hại! Chúng ta đi vào các buổi tiệc tùng, và say men rượu đến nỗi thậm chí không biết tên của chính mình. Một số người trong chúng ta hút quá nhiều cần sa đến nỗi cơ thể suy sụp. Một số người trong chúng ta đã phạm phải một số sai lầm khủng khiếp, nhưng không có gì trong số đó làm thay đổi được tình yêu của Chúa dành cho. Kinh thánh nói về Ngài:
“Đức Giê-hô-va từ thuở xưa hiện ra cùng tôi và phán rằng:
Phải, ta đã lấy sự yêu thương đời đời mà yêu ngươi; nên đã lấy sự nhân từ mà
kéo ngươi đến. Ta sẽ dựng lại ngươi, thì ngươi sẽ được dựng, hỡi gái đồng
trinh Y-sơ-ra-ên! Ngươi sẽ lại cầm trống cơm làm trang sức, đi làm một với những
người nhảy múa vui vẻ” (Giê-rê-mi 31:3-4).
Sứ đồ Giăng xác nhận trong Tân Ước:
Trước ngày lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng trở
về cùng Đức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì
cứ yêu cho đến cuối cùng” (Giăng 13:1)
Đó chính là tất cả những gì câu chuyện của Ô-sê muốn nói. Câu chuyện này minh họa rõ ràng cho lẽ thật: “Ta đã cưới một kẻ bội bạc. Ngươi đã quay lưng lại với Ta, nhưng Ta không quay lưng lại với ngươi vì ngay cả khi ngươi không chung thủy, Ta vẫn chung thủy.” Đây là ý mà Chúa muốn dân sự của Ngài thấu hiểu.
Sau khi Ô-sê cưới Gô-me, bà đã rời bỏ Ô-sê. Ngay cả sau khi có con với ông, bà vẫn ra đường, bán dâm với những người đàn ông khác. Chúa bảo Ô-sê đi đón bà. Có lẽ bà đã bị đánh đập, cho dùng thuốc, ngược đãi và tổn thương, không còn tiền bạc hay lòng tự trọng. Nhưng Ô-sê đã tìm thấy bà và nói, “Thôi nào. Chúng ta hãy trở về nhà. Ta sẽ đem ngươi trở về” (Ô-sê 3).
Đó chính là vương quốc của Chúa. Bất kể hoàn cảnh hay điều kiện của chúng ta như thế nào, Chúa đều đón nhận chúng ta. Ngài muốn chúng ta trung tín với Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi. Tuy nhiên, khi chúng ta phạm lỗi và bỏ đi, Ngài luôn chờ đợi với vòng tay rộng mở. Và khi chúng ta nhận được sự mặc khải về tình yêu thương vô bờ bến của Ngài dành cho chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ muốn dính líu gì đến hệ thống thế gian này nữa. Chúng ta chỉ muốn trông cậy vào Ngài để có mọi nhu cầu chính đáng trong cuộc sống.
Đài phát thanh Tin Lành xuyên thế giới đã nói về bài học mà chúng ta có thể nhận được từ tiên tri Ô-sê:
Ô-sê giảng về tình yêu của Đức Chúa Trời khi mà dân Y-sơ-ra-ên đang quay lưng đối với Ngài và sống băng hoại trong tội lỗi. Họ thờ lạy thần tượng, tình trạng thuộc linh và đạo đức xuống dốc. Ô-sê đã thu hút được sự chú ý của thính giả vì ông nói về Đức Chúa Trời bằng chính kinh nghiệm đau xót của mình. Ô-sê kể lại câu chuyện tình giữa ông và Gô-me. Ông cho biết thế nào ông đã yêu Gô-me cách vô điều kiện dựa theo lời Chúa phán dạy. Thế nhưng Gô-me đã phũ phàng phản bội ông, quay về với tình nhân cũ của nàng. Ô-sê được Chúa bảo hãy tìm Gô-me và vẫn cứ yêu nàng. Sau khi thuật lại câu chuyện của mình thì Ô-sê muốn nói rằng, “Đó là hình ảnh của Đức Chúa Trời và các ngươi. Các ngươi đã đối với Đức Chúa Trời giống như Gô-me đối với ta. Khi thờ phượng thần tượng ngoại bang là các ngươi đã phạm tội tà dâm thuộc linh và không trung thành với Đức Chúa Trời. Khi các ngươi sống đời sống băng hoại, dìm mình vào trong những thú vui tội lỗi là các ngươi đang phạm tội tà dâm thuộc linh. Những gì các ngươi đang làm giống như Gô-me đã làm cho ta”.
Đó là trọng tâm sứ điệp của tiên tri Ô-sê, ông nhấn mạnh đến tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho tuyển dân của Ngài.3
Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô từ chối quì lạy hình tượng.
Sách Đa-ni-ên kể câu chuyện về Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô, những người được truyền lệnh là phải cúi đầu thờ lạy tượng vàng của vua Nê-bu-cát-nết-sa. “Vua Nê-bu-cát-nết-sa cất tiếng nói cùng họ rằng: Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô, có phải các ngươi cố ý không thờ thần ta và không lạy tượng vàng mà ta đã dựng lên chăng? Vậy bây giờ, khi các ngươi nghe tiếng còi, kèn, đàn cầm, đàn sắt, quyển, sáo và các thứ nhạc khí, mà các ngươi sẵn sàng sấp mình xuống đất để quì lạy pho tượng mà ta đã làm nên, thì được; nhưng nếu các ngươi không quì lạy, thì chính giờ đó các ngươi sẽ phải quăng vào giữa lò lửa hực. Rồi thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?” (Đa-ni-ên 3:14-15).
Nhà vua đang cố gắng khiến mọi người cúi đầu và thờ phượng mình. Chúng ta biết ông ta lấy ý tưởng đó từ đâu! Sa-tan sử dụng hệ thống của thế gian và những người trong đó để cố gắng khiến chúng ta cúi đầu trước nó và thực hiện mong muốn của nó. Nhưng vương quốc của Đức Chúa Trời ở trong chúng ta và nguyên tắc của vương quốc điều khiển mọi phản ứng của chúng ta. “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai trị trên muôn vật” (Thi thiên 103:19). Nguyện tắc của vương quốc đang cai trị ba thanh niên người Hê-bơ-rơ. Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-Nê-gô biết điều đó. Họ trả lời với vua, “Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng” (câu 17-18).
Khi chúng ta tin vào Chúa đủ để thách thức áp lực của thế gian, vương quốc của Chúa sẽ hoạt động trong chúng ta. Ngài đã giải cứu ba thanh niên trung tín khỏi lò lửa hực. Trên thực tế, Ngài đã hiện diện trong ngọn lửa với họ! Sau đó, họ bước ra khỏi ngọn lửa mà thậm chí không có mùi khói. (Đa-ni-ên 3:24-27). Giống như ba chàng trai trung tín này, Chúa muốn cung cấp tất cả các nhu cầu của chúng ta. Ngài sẽ làm như vậy khi chúng ta chỉ phụ thuộc vào Ngài như ba thanh niên người Hê-bơ-rơ đã làm.
Đức Chúa Trời Đáp Ứng Nhu Cầu Của Áp-ram
Trong Sáng thế ký 14, chúng ta thấy cháu trai của Áp-ram là Lót gặp rắc rối khi xảy ra cuộc chiến giữa các vua trong vùng. “Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ, rồi đi. Giặc cũng bắt Lót, là cháu của Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài người, rồi đem đi.” (Câu 11-12). Khi Áp-ram phát hiện ra điều đó, ông đã mang theo hơn ba trăm gia nhân được đào tạo để truy đuổi, và đánh bại họ.
Câu 16 nói rằng, Áp-ram đã đưa cháu trai mình là Lót cùng tài sản, phụ nữ và dân chúng trở về.
Sau đó Vua của Sô-đôm đã ra đón Áp-ram sau chiến thắng.
Vua Sô-đôm nói với Áp-ram rằng: “Hãy giao người cho ta, còn của cải thì ngươi hãy giữ lấy.” Áp-ram trả lời:
“Tôi giơ tay lên trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời Chí cao, Chúa Tể của trời và đất, mà thề rằng: Hễ của chi thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói được rằng: Nhờ ta làm cho Áp-ram giàu có” (câu 22-23).
Áp-ram đã tuân theo các quy tắc của Vương quốc Chúa. Ông không muốn có vẻ như bất kỳ ai đã làm cho ông giàu có ngoài Chúa, vì Chúa không muốn bất kỳ ai nói rằng họ đã làm cho dân sự của Ngài giàu có. Chúa toàn năng là Đấng sẽ cung cấp mọi thứ cho chúng ta. Ngay sau đó, chúng ta thấy Áp-ram nhận được lời hứa tuyệt vời của Chúa.
Sau những điều này, lời của Chúa đã đến với Áp-ram trong một sự hiện thấy: “Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách. Áp-ram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt-tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Áp-ram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” (Sáng thế ký 15:1-5).
Tuy nhiên, sau nhiều năm trôi qua và họ vẫn chưa có con trai, Sa-ra đã đến trước mặt Chúa và cố gắng tự mình tìm ra một kế hoạch riêng. Sáng thế ký 16:1-2 tường thuật:
“Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô, tên là A-ga. Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Đức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng. Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai.”
Sa-ra cho rằng Chúa đã ngăn cản bà sinh con, rằng Ngài không muốn đáp ứng nhu cầu của bà. Ngược lại, khi An-ne trong sách Sa-mu-ên không thể thụ thai, bà đã thề với Chúa, về cơ bản bà nói rằng nếu Chúa cho bà một đứa con trai thì bà “sẽ phú dâng nó trọn đời cho Đức Giê-hô-va” (1 Sa-mu-ên 1:11). Kinh thánh nói rằng An-ne đã sinh ra Sa-mu-ên sau đó. Khi chúng ta không thể tiến xa hơn nữa, chúng ta phải đến với Lời Chúa và cầu xin Đức Thánh Linh chỉ cho chúng ta biết những gì chúng ta cần làm để kích hoạt nguyên tắc Vương quốc của Chúa bên trong chúng ta. Chúng ta cần gieo hạt giống đức tin.
Sa-ra tiếp tục theo cách riêng của mình, thay vì tìm kiếm con đường của Chúa. Bà nói với Áp-ram đi theo kế hoạch của bà. Áp-ram đã nghe theo tiếng nói sai trái. Ông đã nghe theo Sa-ra thay vì Chúa. Ông đã nghe theo tiếng nói của xác thịt thay vì tiếng nói của Thánh Linh.
“Sau khi Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại xứ Ca-na-an, Sa-rai, vợ người, bắt A-ga, là con đòi Ê-díp-tô mình, đưa cho chồng làm hầu. Áp-ram lại cùng con đòi, thì nàng thọ thai” (Sáng thế ký 16:3-4).
Sa-ra đã cố gắng làm theo cách của riêng mình thay vì chờ đợi Chúa. Đôi khi cách của Chúa mất nhiều thời gian hơn một chút, và điều chúng ta phải làm là chờ đợi Ngài. Nếu Chúa đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
A-ga đã sinh con cho Áp-ram, và tên của đứa trẻ là Ích-ma-ên. Bởi vì Áp-ram và Sa-ra không tin cậy Chúa, họ đã lập ra một kế hoạch nằm ngoài kế hoạch của Chúa. Kết quả là, một sự chia rẽ lớn giữa con người bắt đầu, một sự chia rẽ giữa người Ả Rập (dòng dõi Ích-ma-ên) và người Do Thái (dòng dõi Y-sác) vẫn còn tranh chiến cho đến ngày nay. Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và các quốc gia Ả Rập là một minh chứng cho điều này.
Nếu chúng ta hoàn toàn tin cậy Chúa, chúng ta sẽ được bình an. Khi chúng ta biết mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào, chúng ta không lo lắng về bất cứ điều gì. Tuy nhiên, khi chúng ta lo lắng, chúng ta cố gắng hành động vì lợi ích của chính mình và gây ra những hỗn độn.
Câu chuyện tiếp diễn. Chúa đã phán với Áp-ram, “Tên ngươi sẽ không còn là Áp-ram nữa, nhưng bây giờ sẽ là Áp-ra-ham.” Theo nghĩa thuộc linh, Ngài đã kết ước với Áp-ram và ban cho ông một cái tên mới. Ngài đã hứa với Áp-ra-ham, “Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi.” (Sáng thế ký 17.) Cuối cùng, khi Áp-ra-ham và Sa-ra được chín mươi chín tuổi, họ có đứa con trai theo lời Chúa hứa là Y-sác.
Chúa được vinh hiển.
Chúa đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua đức tin của chúng ta nơi Ngài và Lời Ngài. Ngài không muốn chúng ta tìm cách đáp ứng nhu cầu của mình bằng suy nghĩ xác thịt. Ngài muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta và bày tỏ điều đó trong Đức Thánh Linh. Sau đó, mỗi khi nhu cầu của chúng ta được đáp ứng, Ngài được vinh hiển.
Sa-tan luôn cố gắng giành lấy vinh quang từ dân sự của Chúa. Hắn muốn đáp ứng nhu cầu của chúng ta thông qua các phương tiện xác thịt và hệ quả sau đó là sự đau khổ. Nhưng Chúa muốn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của Ngài trong vinh hiển thông qua Chúa Giê-su Christ. “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19.) Điều đó có nghĩa là Ngài nhận được vinh quang và chúng ta được ban phước nhiều hơn.
Chúa vẫn tiếp tục làm việc với Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Chúa cũng sẽ tiếp tục làm việc với chúng ta. Ngài có thể xoay chuyển những mớ hỗn độn mà chúng ta tạo ra khi chúng ta theo đuổi mọi kế hoạch riêng của mình, nhưng tốt hơn là chúng ta không nên đi theo ý riêng. Khi chúng ta làm việc theo các nguyên tắc của vương quốc và chỉ phụ thuộc vào Ngài, Ngài chắc chắn đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta.
Hầu hết mọi người không có vấn đề gì với sự thịnh vượng, nhưng một số người có vấn đề với việc Chúa cung cấp sự thịnh vượng. Nếu họ có thể nói rằng họ đã tự mình làm được, điều đó khiến họ cảm thấy tốt. Họ sẽ làm theo công thức để đạt được điều đó, chỉ để họ có thể nói rằng cuối cùng họ đã giành được chiến thắng. Họ không hiểu được ân điển của Chúa.
Trước hết, nếu Chúa dẫn dắt một tín đồ thực hiện một mục vụ, Ngài sẽ cung cấp sức mạnh và sự khôn ngoan mà họ cần để thực hiện chúng. Khi chiến thắng đến, mọi vinh quang sẽ thuộc về Ngài. Nhưng nhiều lần các tín đồ sẽ giống như Sa-ra, tiến hành một kế hoạch riêng. Sa-ra không có kiên nhẫn chờ đợi lời hứa của Chúa thực hiện. Bà suy nghĩ và sử dụng sự khôn ngoan của mình, trong khi Chúa có cách ban ân điển để Áp-ram và bà nhận được lời hứa theo thời điểm của Ngài.
Trong vấn đề cầu nguyện và nhận được sự chữa lành từ Chúa. Mọi vinh quang phải được qui về cho Chúa. Bất cứ ai trình diễn sự cầu nguyện chữa lành để tìm cách tôn vinh cá nhân người cầu nguyện, đều sai lạc với ý muốn của Chúa.
Lời chứng sau đây của mục sư Bill Winston:
Chúa muốn chúng ta biết rằng Ngài là Đấng chu cấp cho chúng ta. Khi tôi đặt tay lên người bệnh, Chúa chứng minh Ngài là Đấng chữa lành cho họ. Có lần tôi cầu nguyện cho một người đàn ông vừa cãi nhau trong gia đình và bị dao đâm vào cánh tay. Anh ta thậm chí không thể cử động tay. Quyền năng của Chúa chạm vào anh ta, và anh ta bắt đầu cử động tay. Với nước mắt chảy dài trên mặt, anh ta nói, “Nhìn này, tôi có thể cử động tay!”
Người đàn ông này đều biết rằng tôi không làm điều đó xảy ra. Chúng ta không thực hiện phép lạ. Chỉ có Chúa mới làm điều đó. Công việc của chúng ta là gieo hạt giống, và công việc của Chúa là đáp ứng nhu cầu. Và khi Ngài đáp ứng nhu cầu, tất cả vinh hiển thuộc về Ngài.2
Hạt giống cần gieo ra là Lời Chúa
Như chúng ta đã thấy trước đây, chúng ta bày tỏ đức tin của mình vào Chúa và chỉ vào Chúa bằng cách tin vào Lời Ngài. Hạt giống đầu tiên mà chúng ta gieo cho mọi nhu cầu của mình là Lời Chúa. Chúng ta phải có Lời Chúa trong mọi điều chúng ta muốn làm trước khi Chúa có thể đến và thực hiện điều đó vì Ngài đang tìm kiếm đức tin. Và chúng ta biết rằng đức tin đến “bởi sự người ta nghe, và người ta nghe khi Lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17).
Lời Chúa thay đổi cái nhìn của chúng ta về chính mình và Đức Chúa Trời. Nó thay đổi những gì chúng ta tin, khiến đức tin trỗi dậy và tin vào Ngài. Và Đức Chúa Trời chỉ có thể làm việc với chúng ta ở mức độ chúng ta tin vào Ngài. Mác 4:14 nói rằng, “Người gieo giống ấy là gieo đạo/lời.” Chúng ta phải gieo Lời Chúa vào lòng mình để có đức tin nơi Chúa. Gieo là trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta không gieo bất cứ thứ gì, chúng ta sẽ không gặt được điều gì.
“Chúa Giê-su phán rằng: Nước Đức Chúa Trời cũng như một người vải giống xuống đất; người ngủ hay dậy, đêm và ngày, giống cứ nẩy chồi mọc lên, mà người không biết thể nào” (Mác 4:26-27).
Công việc của ma quỉ là đưa chúng ta vào suy nghĩ của chính mình. Nếu nó đưa chúng ta vào suy nghĩ xác thịt, chúng ta không còn ở trong sự nối kết với Đức Thánh Linh nữa. Khi chúng ta nối kết với Chúa trong tâm linh, chúng ta sẽ di chuyển với sự hướng dẫn của Ngài, và những điều kỳ diệu xảy ra.
Khi sự mặc khải và ánh sáng của Chúa được bày tỏ trong chúng ta, nếu chúng ta không hành động theo Lời Chúa, Sa-tan sẽ đến và cố gắng đánh cắp sự mặc khải đó. Vì vậy, khi chúng ta phát hiện ra rằng Chúa muốn cung cấp cho tất cả các nhu cầu của chúng ta và rằng chúng ta cần gieo một số hạt giống, chúng ta phải bắt đầu gieo hạt ngay! Chúng ta không thể chờ đợi để kiểm tra mọi thứ. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, ánh sáng đó sẽ mờ dần vì chúng ta không thực sự tin cậy vào Chúa mà muốn sử dụng sự tính toán khôn ngoan của chính mình.
Thay vì để hệ thống của thế gian điều khiển chúng ta, tại sao chúng ta không bắt đầu để nguyên tắc của Vương quốc điều khiển chúng ta? Có một hệ thống ẩn bên trong chúng ta. Nó được thiết lập để dẫn dắt chúng ta tuân theo các nguyên tắc của Chúa. Đó là phúc âm của Vương quốc Đức Chúa Trời.
Vào lúc chúng ta có nhu cầu không thể đáp ứng được, chúng ta chỉ cần thực hiện các nguyên tắc của vương quốc Chúa. Mác 4:14 nói rằng, “Người gieo giống là gieo đạo/ lời Chúa.”
Hãy nhớ rằng: Đấng đã hứa cùng chúng ta là Đấng thành tín thực hiện điều đó. Sự giải cứu của chúng ta đến trong tâm linh của chúng ta, từ bên trong ra bên ngoài, không phải từ bên ngoài vào trong. Chúa là Đấng thành tín, và khi chúng ta chuyển từ vương quốc bóng tối sang Vương quốc ánh sáng, thì “Đức Chúa Trời sẽ cung cấp mọi nhu cầu của chúng ta theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19). Tất cả những gì chúng ta cần làm là gieo hạt giống đức tin của mình, để Ngài sinh ra trái mà chúng ta cần, và sau đó dâng cho Ngài tất cả những vinh quang.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 5
1. https://www.azquotes.com/author/9142-Martin_Luther. Ngày truy cập 23 tháng 1/2025
2. Dr. Bill Winston (2006). The Kingdom of God in you. Harrison House, Tula, Oklahoma.
3. https://httlvn.org/bai-147-sach-o-se-kinh-nghiem-dau-kho-cua-o-se.html. Ngày truy cập 12 tháng 2/2025
Chương 6
SỰ LÃNH ĐẠO TRONG VƯƠNG QUỐC
Một nhà truyền giáo đến một vùng đất xa lạ ở Phi Châu. Ông ta nhờ một người thổ dân hướng dẫn đi trong một khu rừng để đến nơi cần đến. Sau nhiều giờ đi trong rừng không có lối mòn, nhà truyền giáo hỏi:
- Tôi không thấy con đường nào cả trong khu rừng này. Anh có chắc là sẽ dẫn tôi đi đúng hướng để đến nơi cần đến.
- Ông đừng lo, tôi chính là con đường. Người thổ dân trả lời.
Người thổ dân biết nơi nhà truyền giáo cần đến, và anh ta là một người bản địa biết rõ các lối đi trong rừng. Và đến cuối ngày nhà truyền giáo đã đến đúng nơi ông mong đợi.
Khi nói đến thế giới của chúng ta, và quốc gia của chúng ta nói riêng, phần lớn đích đến của chúng ta gắn liền với những người phải biết chúng ta cần đi đâu. Nó gắn liền với phẩm chất của các chính trị gia đã đặt mục tiêu lãnh đạo đất nước chúng ta. Nó gắn liền với các nhà lãnh đạo dân sự được giao trách nhiệm trong các cấp chính quyền khác nhau để đưa ra định hướng tạo điều kiện thuận lợi cho một xã hội dân sự có trật tự tốt. Kinh thánh nói rõ rằng khi không có sự lãnh đạo chính trị hợp pháp và có trách nhiệm, một xã hội và công dân của nó sẽ rơi vào hỗn loạn. “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (Các quan xét 17:6; 21:25).
Lãnh đạo là một đặc điểm cơ bản của sự cai trị vương quốc. Lãnh đạo chính trị thường thể hiện trong các chính sách mà các chính trị gia ủng hộ và những gì họ dành phần lớn thời gian để tập trung vào. Nhưng ngoài cách một chính trị gia bỏ phiếu hoặc một nhà lãnh đạo dân sự trình bày hoặc ủng hộ các luật khác nhau, chúng ta cũng nên quan tâm đến con người nữa.
Trong vương quốc của Đức Chúa Trời, có đúng người với đúng chính sách được nối kết lại với nhau là cách một nền văn hóa và một quốc gia tiến triển tốt đẹp. Tuy nhiên, khi hai điều này trở nên rời rạc vì bạn có chính sách sai hoặc những người sai thì bạn đã khiến quốc gia này gia tăng xung đột, hỗn loạn và thậm chí là thoái trào trên quy mô toàn cầu.
Đó là lý do tại sao việc tìm kiếm những người phù hợp có phẩm chất cao và quan điểm về vương quốc để đại diện cho chúng ta với tư cách là chính trị gia và nhà lãnh đạo dân sự lại quan trọng đến vậy. Khi chúng ta xem xét nên đưa ai vào chức vụ hoặc hỗ trợ ai thông qua thời gian, tiền quyên góp hoặc phiếu bầu của mình, chúng ta cần xem xét các chính sách mà họ ủng hộ và liệu những chính sách đó có đạt được mục tiêu duy trì một môi trường an toàn, công bằng, chính trực và có trách nhiệm để tự do phát triển hay không. Và trong khi chúng ta có tiếng nói về cách các chính trị gia có thể phục vụ và trong khả năng nào, chúng ta cũng cần nhớ rằng Kinh thánh nói rõ rằng khi nói đến Chúa, Ngài quyết định các kết quả. Châm ngôn 8:15-16 nói rằng, “Nhờ ta, các vua cai trị, Và những quan trưởng định sự công bình. Nhờ ta, các quan trưởng, người tước vị, Và các quan xét thế gian đều quản hạt.”
Cuối cùng, Chúa sắp đặt những người cai trị là ai, bởi vì chính phủ là thể chế của Ngài. Đây là lý do tại sao Chúa đã chỉ thị các nhà lãnh đạo khiêm nhường tìm kiếm Ngài và Lời Ngài để biết cách cai trị dân chúng đúng đắn (Phục truyền luật lệ ký 17:18-20). Điều quan trọng nhất mà một nhà lãnh đạo chính trị có thể làm là thiết lập và khuyến khích công dân hoạt động theo tiêu chuẩn Kinh thánh.
Trên thực tế, trong Rô-ma 13, các nhà lãnh đạo chính trị dân sự được gọi là “đầy tớ của Chúa”. Họ được gọi là “chức việc của Đức Chúa Trời” ba lần chỉ trong bảy câu đầu tiên. Hãy nhớ rằng, đây là trường hợp khi nói về chính quyền La Mã. Phao-lô không nói về chính quyền hay sự lãnh đạo của Cơ đốc giáo. Đó là xã hội thế tục được nhắc đến trong Rô-ma 13. Đức Chúa Trời thường gọi các nhà lãnh đạo dân sự là tôi tớ của Ngài. Họ là những người hầu việc Ngài, những người sẽ phản ánh sự cai trị của Ngài trên mỗi quốc gia.
Do đó, một nhà lãnh đạo dân sự càng gần với tính cách và năng lực của Đức Chúa Trời, cũng như với các nguyên tắc cai trị của Đức Chúa Trời, thì xã hội sẽ càng có trật tự. Ngược lại, các nhà lãnh đạo càng có tính cách và năng lực xa cách với chính sách Kinh thánh, thì quốc gia đó càng xa cách Chúa và trật tự thiêng liêng của Ngài dành cho xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ có nhiều sự hỗn loạn hơn trong đất nước. Nhận ra Chúa không chỉ có nghĩa là sử dụng danh Ngài, cầu nguyện và trích dẫn ngẫu nhiên các câu Kinh thánh trong các bài phát biểu chính trị. Điều đó có nghĩa là cho phép thế giới quan của Chúa ảnh hưởng và tác động đến chính sách của nhà cầm quyền.
Kinh thánh nói gì về chủ đề này?
“Đức Giê-hô-va phán thể nầy cùng Si-ru, là người xức dầu của Ngài, ta đã cầm lấy tay hữu người, đặng hàng phục các nước trước mặt người, và ta sẽ tháo dây lưng các vua; đặng mở các cửa thành trước mặt người, cấm không được đóng lại: Ta sẽ đi trước mặt ngươi, ban bằng các đường gập ghềnh; phá vỡ các cửa bằng đồng, bẻ gãy then gài bằng sắt” (Ê-sai 45:1-2)
“Ấy chính ta đã dấy người lên trong sự công bình, và sẽ ban bằng mọi đường lối người. Người sẽ lập lại thành ta, và thả kẻ bị đày của ta, không cần giá chuộc, cũng không cần phần thưởng, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Ê-sai 45:13).
Trong suốt Kinh thánh, chúng ta đọc về việc Chúa chọn các nhà lãnh đạo dân sự để làm theo ý muốn Ngài, cũng như các nhà lãnh đạo dân sự bị hạ xuống (Ê-sai 45:1-5). Ngài liên tục thay đổi chu kỳ lãnh đạo theo dòng lịch sử để bày tỏ đường lối của Ngài trên đất.
Châm ngôn 29:2 nói như thế này: “Khi người công bình gia tăng, dân sự vui mừng; nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự rên xiết.” Khi lãnh đạo là xấu xa và đồi bại, thì luật pháp sẽ không đi theo các nguyên tắc của Kinh thánh, và công dân trong quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều bất công và đau khổ.
Khi nhìn vào nhiều nhà lãnh đạo được bầu tại Hoa Kỳ ngày nay, có thể dễ dàng thấy rằng hệ thống chính phủ thuộc về Chúa. Nhưng bất kể những gì chúng ta thấy phản ánh trong tính cách và chính sách của giới lãnh đạo dân sự, chúng ta phải tự điều chỉnh mình với quan điểm chính xác của Kinh thánh về chính trị.
Để làm như vậy, chúng ta giải thích về mặt thần học về cách nguyên tắc lãnh đạo hoạt động trong sự quản lý của Chúa. Bởi vì giống như một nhà thờ có thể có một nhóm các chấp sự, mục sư hiệu quả kém và một nhà thờ khác có các mục sư có hiệu quả và chất lượng. Những phẩm chất này dựa trên cách những cá nhân này xem xét vai trò của họ với tư cách là người hoạch định và thi hành chính sách.
KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO DỰA TRÊN GIAO ƯỚC
Để hiểu tại sao điều này lại quan trọng như vậy, chúng ta phải xem xét lại nguyên tắc của giao ước. “Chúa vận hành thế giới của Ngài thông qua các giao ước. Xin nhắc lại, giao ước là mối quan hệ ràng buộc về mặt pháp lý đã được Chúa thiết lập. Bạn càng hoạt động hoặc hoạt động đồng bộ với Chúa và các quy tắc của Ngài, dù là một nhà lãnh đạo hay thậm chí là một nền văn hóa, thì bạn càng tiến bộ trong xã hội.”1
Giao ước giống như một quả bóng đá trên sân bóng đá. Mọi thứ phải được căn chỉnh phù hợp với quả bóng. Nếu có thứ gì đó không được căn chỉnh phù hợp – ví dụ, cầu thủ bóng đá đứng trước (hoặc chạy trước) vị trí của quả bóng trên sân về phía cầu môn thì đó là lỗi. Tùy thuộc vào đội mà cầu thủ đó chơi, hành vi đó có thể được gọi là “việt vị” hoặc “xâm phạm”. Tương tự như vậy, nếu một cầu thủ không xử lý được một quả bóng đá và làm rơi nó, thì đó sẽ trở thành một điều tệ hại. Khi quả bóng đá chạm vào vạch vôi, thì đó là dấu hiệu của một cú chạm bóng. Khi một quả bóng đá đi gần cầu môn, thì nó dễ trở thành một cú làm bàn. Nói cách khác, mọi vị trí trên sân phụ thuộc vào vị trí của cầu thủ khác trong mối quan hệ với quả bóng. Tương tự như vậy, trong Vương quốc Đức Chúa Trời, mọi chức vụ phụ thuộc vào vị trí của một hay nhiều chức vụ khác trong mối quan hệ với giao ước.
Điều này đúng với gia đình. Điều này đúng với giáo hội. Điều này cũng đúng với các thể chế. Chính phủ rơi vào đấu trường của các thể chế này, và nhờ ân điển chung của Chúa, Ngài đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người và các quốc gia được hưởng lợi từ sự hướng dẫn, định hướng và mệnh lệnh của Ngài. Do đó, giống như quả bóng bầu dục quyết định xem một đội hoặc một cầu thủ có phù hợp với các quy tắc của lưới sắt hay không, cách các nhà lãnh đạo dân sự hoạt động, cả ở nơi riêng tư và nơi công cộng, quyết định liệu một quốc gia có phù hợp với các quy tắc của Chúa hay không.
Do mối liên hệ chặt chẽ này giữa sự ưu ái hoặc phán xét của Chúa và hành vi, tính cách và chính sách của các nhà lãnh đạo dân sự, điều quan trọng là chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo phù hợp với Chúa. Kinh thánh cho chúng ta biết trong Đa-ni-ên 2:21 rằng sự thành công của các nhà lãnh đạo dân sự phụ thuộc vào Chúa và những gì Ngài cung cấp cho họ thông qua sự khôn ngoan. Chúng ta đọc, “Chính Ngài là Đấng thay đổi thời đại và mùa; Ngài phế truất các vua và lập các vua; Ngài ban sự khôn ngoan cho người khôn ngoan và kiến thức cho người hiểu biết.” Đức Chúa Trời quyết định sự thành công hay thất bại của các nhà lãnh đạo. Và Ngài làm như vậy dựa trên các quy tắc của giao ước của Ngài,
Đó là lý do tại sao chúng ta không thể nói về chính phủ hoặc chính trị mà không nói về Đức Chúa Trời và vai trò của Ngài liên quan đến các nhà lãnh đạo dân sự. Nguyên tắc đại diện, là điều mà một nhà lãnh đạo dân sự đảm nhận khi được bầu, là một yếu tố quan trọng đối với giao ước trong Kinh thánh. Điều này có nghĩa là trong trật tự phân cấp giao ước của Đức Chúa Trời, người có thẩm quyền và chức năng cao hơn bạn cũng đại diện cho bạn. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời kêu gọi những người chồng phục tùng thẩm quyền thiêng liêng hợp pháp (Tít 2:1, 6), những người vợ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chồng mình (Ê-phê-sô 5:22-24), các thành viên nhà thờ phục tùng thẩm quyền hợp pháp của ban lãnh đạo nhà thờ (Hê-bơ-rơ 13:17) và công dân phục tùng thẩm quyền hợp pháp của chính quyền dân sự (1 Phi-e-rơ 2:13).
Khi một nhà lãnh đạo dân sự đại diện cho bạn vì người đó đại diện cho quận, thành phố, quận, trường học, tiểu bang hoặc quốc gia của bạn, họ sẽ đưa ra quyết định thay mặt bạn. Bạn không còn có tiếng nói trong những quyết định này về mặt lập pháp khi bạn chuyển giao đại diện chính phủ cho một nhà lãnh đạo được bầu.
Tại Hoa Kỳ, nếu tổng thống hoặc Quốc hội nói rằng chúng ta sẽ tham chiến, bạn không thể nói rằng chúng ta không tham chiến. Đúng, bạn có thể phản đối quyết định của họ, nhưng quyết định của họ vẫn là quyết định có hiệu lực. Bạn có thể không bỏ phiếu để tham chiến, nhưng vì nhà lãnh đạo được bầu của bạn đại diện cho bạn, nên quyết định tham chiến được đưa ra thay cho bạn. Nước Mỹ tồn tại như một đại diện hệ thống mà chúng ta bầu ra các nhà lãnh đạo dân sự để phản ánh các giá trị của chúng ta trên đất nước. Những nhà lãnh đạo dân sự này đại diện cho chúng ta thay mặt cho quốc gia. Đó là cách Chúa thiết lập chính phủ để hoạt động theo cách đại diện. Ngài cũng thiết lập các gia đình để làm việc theo cách đó, trong đó người cha hoặc người chồng đại diện cho gia đình về mặt tâm linh trước mặt Chúa (1 Cô-rinh-tô 11:3; Sáng thế ký 18:19; Xuất Ê-díp-tô Ký 34:23-24). Tương tự như vậy, sự lãnh đạo thuộc linh trong một hội thánh đại diện cho hội chúng trước mặt Chúa (Hê-bơ-rơ 13:17). Tuy nhiên, chỉ vì Chúa thiết lập những người đại diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống này không có nghĩa là họ thực hiện tốt vai trò của mình. Đó là lý do tại sao việc cầu nguyện cho những người đại diện cho bạn lại quan trọng đến vậy, bởi vì nếu và khi họ khiêu khích sự phán xét của Chúa, thì thường thì sự phán xét đó cũng sẽ lan sang những người mà họ đại diện. Ví dụ, một thế hệ dân Y-sơ-ra-ên đã không vào được đất hứa là do tầm nhìn hạn hẹp và ảnh hưởng của những người đại diện của họ – những thám tử được cử đi do thám xứ Ca-na-an. Chúng ta đọc Kinh thánh để thấy điều này rõ hơn:
“Trước mặt dân
Y-sơ-ra-ên, các người đó phao phản xứ mình đã do thám mà rằng: Xứ mà chúng tôi
đã đi khắp đặng do thám, là một xứ nuốt dân sự mình; hết thảy những người chúng
tôi đã thấy tại đó, đều là kẻ hình vóc cao lớn. Chúng tôi có thấy kẻ cao lớn,
tức là con cháu của A-nác, thuộc về giống giềnh giàng; chúng tôi thấy mình khác
nào con cào cào, và họ thấy chúng tôi cũng như vậy” (Dân số ký 13:32-33).
“Các người đó phao phản xứ mình” đã dẫn đến một kết quả
đáng thất vọng cho một thế hệ của tuyển dân lúc bấy giờ!
Sự lãnh đạo là rất quan trọng. Sự lãnh đạo kém sẽ để lại hậu quả lâu dài
Hãy xem xét A-đam chẳng hạn. Rô-ma 5 cho chúng ta biết rằng “trong A-đam, mọi người đều chết.” Lý do tại sao toàn thể nhân loại bị đặt trên con đường chết về thể xác và xa cách Chúa là do A-đam. Người đại diện ban đầu của chúng ta trước mặt Chúa đã chọn cách không vâng lời Chúa, và kết quả là dẫn đến hậu quả mà tất cả chúng ta vẫn đang phải trải qua cho đến tận bây giờ.
Bởi vì A-đam đã thất bại trong vai trò đại diện cho loài người, ông đã truyền đạt cho mỗi người chúng ta kết quả của sự thất bại của mình. A-đam nên là người mở mắt cho tất cả chúng ta về lý do tại sao việc lựa chọn người đại diện một cách khôn ngoan lại quan trọng đến vậy.
Mặt khác, chúng ta có một người đại diện khác: Chúa Giê-su Christ là người đã không thất bại. Chúa Giê-su đã hoàn toàn thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời và trong việc áp dụng lẽ thật của Ngài. Khi một người chấp nhận Chúa Giê-su Christ là người gánh tội lỗi và đại diện cá nhân của họ trước Đức Chúa Trời, họ sẽ nhận được những lợi ích mà Chúa Giê-su đã bảo đảm trên thập tự giá. Người đại diện rất quan trọng. Chúng ta không bao giờ nên coi nhẹ khái niệm bỏ phiếu hoặc ủng hộ các ứng cử viên chính phủ, bởi vì một khi họ đã chắc chắn nắm giữ vị trí đó, tất cả chúng ta đều phải chịu những lợi ích hoặc hậu quả của tính cách và các quyết định của họ.
Việc hiểu chính trị thông qua thế giới quan của vương quốc là rất quan trọng đối với mọi công dân. Quá nhiều người không hiểu được mối liên hệ giao ước giữa các đại diện dân sự và Chúa, và do đó không tham gia vào quá trình lựa chọn những nhà lãnh đạo này một cách khôn ngoan. Chúa mong muốn ban phước cho các quốc gia có những nhà lãnh đạo tuân theo sự cai trị của Ngài. Ngài đã làm rõ ràng về cách một quốc gia và cư dân của quốc gia đó có thể đạt được những phước lành mà họ mong muốn. Ngài không giấu chúng ta những đường lối của Ngài hay giữ bí mật con đường dẫn đến lợi ích của Ngài. Phục truyền luật lệ ký 29:9 nêu rõ như sau: “Vậy, hãy giữ những lời của giao ước này để làm theo, hầu cho các ngươi được thịnh vượng trong mọi việc mình làm.”
Nếu bạn thực sự muốn cầu nguyện “Chúa ban phước cho nước Mỹ” và thấy kết quả của lời cầu nguyện đó, thì bạn cần đảm bảo rằng giới lãnh đạo ở đất nước này được định vị để nhận được phước lành của Chúa trong mọi việc họ làm và nói. Là đại diện của chúng ta, họ đóng vai trò chuyển giao ân huệ của Chúa hoặc chuyển giao sự phán xét của Ngài cho toàn thể công dân.
Chúng ta là những người Việt đang định cư trên nước Mỹ vì nhiều lý do sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Chúng ta cũng đang cầu nguyện xin Chúa ban phước cho nước Việt Nam? Dĩ nhiên Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của con dân Chúa ở khắp mọi nơi và những phước hạnh hay ân ban của Ngài chúng ta có thể đếm được. Tuy nhiên để bầu chọn những người lãnh đạo vào vị trí của chính phủ, thì chúng ta không có quyền đó. Trong nội dung của luận văn này, người viết chỉ có thể nói những chủ đề giới hạn. Hệ thống chính trị của một quốc chắc chắn sẽ dẫn đến những kết quả mà quốc gia đó theo đuổi. Bi kịch nằm ở chỗ là khi những người lãnh đạo không kính sợ Đức Chúa Trời, nhưng vì nhiều lý do họ được nắm giữ quyền lãnh đạo và thực thi một chính sách đối kháng với Kinh thánh, thì toàn bộ công dân của quốc gia đó phải gánh lấy mọi hậu quả.
Singapore có một nhà lãnh đạo giỏi là Lý Quang Diệu đã vực dậy một hòn đảo nhỏ bé ở Châu Á trở nên thịnh vượng về mọi mặt. Mặc dù ôngkhông phải là một Cơ đốc nhân, nhưng tài năng lãnh đạo và tầm nhìn của ông về định hướng phát triển quốc gia đã khiến ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo gỏi nhất ở khu vực Đông Nam Á. “Là người cha lập quốc của Singapore độc lập, Lý Quang Diệu (1923-2015) đã đưa nền kinh tế nước này từ thế giới thứ ba lên vị trí của một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Ông giữ chức thủ tướng từ năm 1959 đến 1990.”2 Lý Quang Diệu tin vào lý thuyết rằng những lãnh đạo vĩ đại sẽ thay đổi lịch sử. Nhờ điều này, Singapore đã thành công trong khi Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Ông từng nói: “”Nếu ai đó nhìn vào Sài Gòn và Singapore năm 1954 thì người đó sẽ nghĩ Singapore hết thời rồi, chứ không phải Sài Gòn” (If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon).
Lý Quang Diệu cũng nói, “Sài Gòn có thể làm được những gì mà Singapore đã làm.” (Saigon can do what Singapore did) 3
Nhưng trên thực tế thì Singapore cuối cùng đã thành công, còn Việt Nam Cộng Hòa thì không, vì nhiều lý do.
Lời cầu nguyện của người Việt nên
là: “Xin Chúa dấy lên những nhà lãnh đạo khôn ngoan, kính sợ Chúa.” Khi đất nước thực sự có những người lãnh đạo
như vậy, đất nước sẽ thay đổi theo chiều hướng văn minh, tiến bộ, phát triển.
NHU CẦU VỀ NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO CÓ TRÁCH NHIỆM
Hội thánh Chúa trên đất tác động đến bản chất chính trị của một quốc gia bao gồm tác động đến những người được trao quyền, không chỉ vì chính sách của họ mà còn vì tính cách và phẩm chất cá nhân. Phước lành chảy qua nguyên tắc đại diện lấy tổng thống hoặc nội các chính phủ làm trung tâm khi những người đại diện quyết định làm việc theo giao ước với Chúa. Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm tham gia vào chính trị ở một mức độ nào đó và để tiếng nói và giá trị của chúng ta được biết đến. Chúng ta có trách nhiệm này vì mỗi người chúng ta sẽ trải nghiệm phước lành hoặc sự phán xét được chuyển đến cho chúng ta thông qua những người đại diện chính trị của mình. Phiếu bầu của chúng ta rất có ý nghĩa. Có một câu nói hay: Dân sự như thế nào, thì chính quyền như thế ấy. Những nhà nghiên cứu bên ngoài Cơ đốc giáo nhìn thấy một thực trạng: Tất cả mọi chế độ xã hội đều là sản phẩm do con người tạo nên, vì vậy chế độ tốt đẹp, lương thiện hay gian manh, ác độc đều là tấm gương phản chiếu sự suy nghĩ, tinh thần và học thức của người dân trong chế độ đó.
Kinh thánh nói gì về điều này?
Sau-lơ trở thành vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên là do tuyển dân của Chúa muốn như vậy. Và khi họ muốn thì Chúa để cho điều đó xảy ra. Khi tuyển dân muốn Sau-lơ làm vua, thì về thực tế là họ đã từ chối không muốn Đức Chúa Trời cai trị họ. Chúng ta thấy gì ở đây? Kết thúc triều đại của Sau-lơ là một bi kịch.
Thật không may, nhiều Cơ đốc nhân sẽ nói về sự đồng thuận với chính sách của một chính trị gia trong khi đồng thời bỏ qua việc đối xử với họ như một con người. Nhưng theo kế hoạch giao ước của Chúa, tính cách và việc ra quyết định song hành với nhau. Nếu những người đại diện của chúng ta muốn thiết lập thành công một kênh mà phước lành của Chúa sẽ chảy qua, họ phải tập trung vào cả chính sách và các giá trị cá nhân, nhân cách của riêng họ. Điều này phụ thuộc vào niềm tin và nhận thức của họ về Đức Chúa Trời.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký cho chúng ta biết những kiểu nhà lãnh đạo mà chúng ta phải tìm kiếm và ủng hộ khi lựa chọn hoặc hỗ trợ sự lãnh đạo dân sự của mình. Có một số phẩm chất nhất định sẽ hữu ích trong việc thúc đẩy phước lành của Chúa trên đất nước. Chúng ta đọc về một số người giữa vòng họ trong Xuất Ê-díp-tô ký 18:21,
“Ngoài ra, ngươi phải chọn trong số tất cả những người nam có năng lực, kính sợ Đức Chúa Trời, những người chân thật, ghét lợi bất chính; và ngươi sẽ đặt những người này lên làm người lãnh đạo của hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm mươi và hàng chục người.”
Dựa trên đoạn Kinh văn này, trước hết, chúng ta phải tìm kiếm những nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là những nhà lãnh đạo coi trọng Đức Chúa Trời. Một nhà lãnh đạo kính sợ Đức Chúa Trời ám chỉ một người không chỉ tin vào Đức Chúa Trời mà còn tìm cách tìm hiểu những gì Đức Chúa Trời phán về một chủ đề để thực hiện ý muốn của Ngài trong một vấn đề. Một người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ tích cực tìm kiếm quan điểm của Đức Chúa Trời. Kính sợ Đức Chúa Trời không có nghĩa là nhắc đến tên của Đức Chúa Trời trong bữa sáng hoặc tiệc chiêu đãi hoặc trong khi vận động tranh cử. Cũng không có nghĩa là nói rằng, “Xin Chúa ban phước cho nước Mỹ.” Kính sợ Đức Chúa Trời xuất hiện khi một chính trị gia mang quan điểm của Chúa để áp dụng vào các hành động hoặc chính sách, luật pháp hiện hành và các chương trình nghị sự khác. Một chính trị gia kính sợ Chúa sẽ tôn cao Ngài trong các kế hoạch mà ông ấy thực hiện.
Chúng ta có thể giải thích khái niệm kính sợ Chúa này nếu so sánh nó với điện. Bạn cần thận trọng với điện vì nó có thể mang lại lợi ích lớn cho bạn khi bạn làm vậy. Mặt khác, nếu bạn chọn cắm tua vít vào ổ cắm điện đang hoạt động, điện sẽ làm bạn bị thương. Bạn phải thận trọng với điện, thậm chí sợ sức mạnh của điện, nếu bạn muốn tiếp cận những lợi ích của điện đồng thời tránh được những nguy hiểm của nó.
Khi một quốc gia có những nhà lãnh đạo không tôn trọng Chúa, thì sự giúp đỡ mà quốc gia đó nhận được từ Vương quốc Đức Chúa Trời sẽ không thông qua họ và đến với người dân. Là những Cơ đốc nhân, chúng ta cần bảo đảm rằng những nhà lãnh đạo đại diện của chúng ta phải chịu trách nhiệm trước ý muốn và đường lối của Chúa. Như Thi thiên 2:10 đã nói, “Vậy bây giờ, hỡi các vua, hãy tỏ ra sáng suốt; hỡi các quan xét của thế gian, hãy chịu sự răn bảo.” Các nhà lãnh đạo chính phủ được kỳ vọng sẽ cai trị dựa trên các tiêu chuẩn của Chúa. “Nhờ ta, các vua cai trị, và những quan trưởng định sự công bình” (Châm ngôn 8:15).
Khi một nhà lãnh đạo không kính sợ Chúa, Chúa có thể truất phế nhà lãnh đạo đó. Và những ai ủng hộ ông ta sẽ có bài học cho mình. (Tuy nhiên trong một thế giới đang hỗn loạn, những người lãnh đạo không kính sợ Chúa vẫn luôn tồn tại cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm).
Một trong những minh họa tuyệt vời nhất trong Kinh thánh về điều đó là Nê-bu-cát-nết-sa. Chúng ta đọc về ông trong sách Đa-ni-ên. Nhà vua cai trị với quyền lực lớn. Ông cai trị quá dễ dàng và quá lâu đến nỗi điều đó khiến ông trở nên kiêu ngạo. Hiện nay lịch sử vẫn đang tái diễn điều này ở một số quốc gia.
Và điều gì đã xảy ra sau đó?
“Nê-bu-cát-nết-sa đi dạo trong hoàng cung
Ba-by-lôn, thì cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà
ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi
của ta sao? Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng:
Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi
ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc
phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết
rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai
tùy ý. Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa,
vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần
sương móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì
giống như móng loài chim chóc. Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa,
ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta
bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn
mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia. Hết thảy dân cư trên đất thảy đều
cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư
dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy? Trong
lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được sự vinh hiển của ngôi nước ta, sự
oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị viên và đại thần ta lại chầu ta.
Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy nghi quyền thế ta càng
thêm. Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng
Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chân thật, các đường lối Ngài đều công
bình; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống” (Đa-ni-ên 4:29-37).
Sự lãnh đạo vương quốc theo gương Chúa Giê-su.
Lãnh đạo là người phục vụ.
Một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất trong cuộc đời của Chúa Giê-su là khi Ngài rửa chân cho các môn đệ trong Giăng 13. Khi kết thúc việc này, Chúa phán với họ:” Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau “. Nhà lãnh đạo lớn tập trung vào việc phục vụ những người theo họ. Nhà lãnh đạo lớn là người phục vụ người khác.
Kinh thánh nói về Ngài:
“Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình,
song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người”
(Ma-thi-ơ 20:28).
Còn Phao-lô thì sao?
Phao-lô viết cho hội thánh Cô-rinh-tô: “Hãy bắt chước tôi,
như chính tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy” (1 Cô-rinh-tô 11:1).
Cuộc đời và chức vụ của Phao-lô được ghi trong sách Công Vụ.
Là một người Pha-ri-si nhiệt thành, ông dũng mãnh chống lại sự lan tràn của Cơ
đốc giáo. Phao-lô (trước đó được gọi là Sau-lơ) chính là kẻ khủng bố Đạo Chúa
trong thời kỳ đầu tiên. Khi Đức Chúa Giê-su hiện ra với ông trong Công Vụ
chương 9, tâm trí ông được biến đổi. Từ đây, Phao-lô sống chết cho Tin Lành của
Chúa Giê-su, ông trở thành nhà truyền giáo và thần học gia trứ danh sau đó. “Phao-lô
là mẫu người lãnh đạo được thúc đẩy bởi một ý thức rõ ràng về mục đích Chúa kêu
gọi ông. Ông là người lãnh đạo có một ngọn lửa cháy trong tim và được thúc giục
sẵn sàng thực hiện những mục tiêu cho Chúa.”3 Không có chỗ cho
sự thờ ơ, trễ nãi đối với ơn kêu gọi trong cuộc đời của một người lãnh đạo thuộc
loại này.
Và Phi-e-rơ. Vị sứ đồ đứng lên từ thất bại.
Phi-e-rơ, người môn đệ nổi tiếng nhất của Chúa Giê-su, chối Ngài ba lần trong khi Chúa Giê-su bị bách hại. Chúa Giê-su đã tiên đoán ông sẽ làm điều đó, mặc dù Phi-e-rơ khẳng định ông sẽ không bao giờ chối Chúa Giê-su cho dù phải chết. Khi gà gáy (những gì Chúa Giê-su phán sẽ xảy ra), Phi-e-rơ nhận ra hành động của ông là sai lầm và khóc lóc thảm thiết. Thế nhưng, trong Công vụ 2, chúng ta thấy Phi-e-rơ giảng bài giảng đầu tiên cho một đám đông hàng ngàn người. Trước đó ông đã từng chối Chúa trước mặt họ. Và kết quả là ba ngàn người thêm vào hội thánh. Nhà lãnh đạo lớn không nản lòng khi họ thất bại. Họ không đắm mình trong sự tự thương hại và bỏ cuộc nửa đường. Họ phục hồi từ sự ăn năn và đứng lên lần nữa với Chúa.
Mẫu người lãnh đạo của Giăng Báp-tít: không e ngại gọi đúng tên, bộc lộ bản chất của người đối diện.
Giăng Báp-tít trong Ma-thi-ơ chương 3, làm phép báp-tem cho người dân và rao giảng về sự đến của Chúa Giê-su. Khi một nhóm kiêu căng các quan chức tôn giáo đến nhận phép báp-tem, ông gọi chúng là: “dòng dõi rắn lục”. Người lãnh đạo không sợ gọi đúng tên bản chất người đối diện. cho dù họ là nhà cung cấp, nhân viên, hoặc thậm chí là khách hàng. Nhà lãnh đạo thẳng thắn, trung thực với những người họ tiếp xúc. Người lãnh đạo theo kiểu này không cần màu mè, gọi đích danh bản chất của người đối diện.
Chúng ta cũng được kêu gọi trở thành người lãnh đạo theo tinh thần của vương quốc Đức Chúa Trời. Khi chúng ta thực hành sự lãnh đạo vương quốc trong đời này, nó cũng như tiền vị cho sự lãnh dạo trong đời hầu đến. Kinh thánh nói gì?
“Vương quốc của thế gian đã trở thành vương quốc của Chúa chúng ta và của Ðấng Christ của Ngài; Ngài sẽ trị vì đời đời vô cùng” (Khải huyền 1:15).
“Lời nầy chắc chắn lắm: Ví bằng chúng ta chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài; lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị” (2 Ti-mô-thê 2:11-12).
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 6
1.Tony Evans (2022). Kingdom Politics. Moody Publishers. Trang 146
2. https://nghiencuuquocte.org/2015/07/18/ly-quang-dieu/ Ngày truy cập 7 tháng 4/2025
3. https://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-46880628. Ngày truy cập 25 tháng 1/2025
4. https://huongdionline.com/chan dung nguoi lanh dao. Ngày truy cập 19 tháng 3/2025
Chương 7
MỐI LIÊN QUAN GIỮA VƯƠNG QUỐC, Y-SƠ-RA-ÊN VÀ HỘI THÁNH
Sách Công vụ các sứ đồ tường thuật cho chúng ta biết, các sứ đồ đã rao giảng về Vương quốc Đức Chúa Trời. Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về vương quốc của Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8:12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ đồ của Chúa chúng ta đi khắp đế quốc La Mã để rao giảng về Vương quốc và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su đi khắp thế giới để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. Họ được giải thoát khỏi quyền lực của bóng tối và được chuyển vào Vương quốc của Con Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là, họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời và họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được đảm bảo sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su thực sự đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài đóng và mở trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được đóng và mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở; nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này.
Lẽ thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong không khí mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su. Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.”
Dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trong Thời đại này là Hội thánh bao gồm phần lớn là dân ngoại; nhưng dân sự của Đức Chúa Trời mà Vương quốc sẽ đạt đến sự viên mãn sẽ bao gồm cả Y-sơ-ra-ên (Rô-ma 11:12). Tuy nhiên chỉ có một Vương quốc duy nhất, và một tập thể công dân duy nhất của Vương quốc.
Khía cạnh khó khăn nhất của lời dạy trong Kinh thánh về Vương quốc của Chúa là mối quan hệ của nó với Y-sơ-ra-ên và Hội thánh. Khó khăn nằm ở thực tế là mối quan hệ này không được nêu rõ trong Kinh thánh nhưng phải suy luận ra. Do đó, những người nghiên cứu Kinh thánh đã đưa ra những cách giải thích khác nhau.
Chúng ta đã nhìn thấy rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời trong Tân Ước là công trình cứu chuộc của Chúa hoạt động trong lịch sử để đánh bại kẻ thù của Ngài, mang đến cho con người những phước lành của triều đại thần thánh. Cách tiếp cận này cho phép chúng ta giải thích nhất quán câu hỏi về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh trong Tân Ước.
Không thể phủ nhận rằng Chúa Giê-su đã ban Vương quốc cho Y-sơ-ra-ên. Khi Ngài sai các môn đồ đi truyền giáo, Ngài đã bảo họ không được đi giữa dân ngoại mà “hãy đến với những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 10: 6). Chúa Giê-su đã từ chối một người phụ nữ Ca-na-an bằng những lời này, “Ta chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 15:24). Hơn nữa, Chúa chúng ta đã nói về người Do Thái như là “con cái của Vương quốc” (Ma-thi-ơ 8:12), mặc dù họ đã từ chối Đấng Mê-si và Vương quốc của Đức Chúa Trời. Họ là con cái của Vương quốc vì chính Y-sơ-ra-ên là tuyển dân mà Đức Chúa Trời đã chọn và đã hứa ban cho họ những phước lành của Vương quốc. Vương quốc thuộc về họ theo quyền được Đức Chúa Trời chọn. Vì vậy, Chúa Giê-su đã hướng chức vụ của Ngài đến họ và ban cho họ những điều đã được hứa. Nhưng khi Y-sơ-ra-ên từ chối Vương quốc, những phước lành đáng lẽ phải thuộc về họ đã được ban cho những người ngoại tiếp nhận chúng.
Điều này được thấy trong chuỗi các câu trong Ma-thi-ơ 11. “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít, nhưng mà kẻ rất nhỏ hèn trong nước thiên đàng còn được tôn trọng hơn người. Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy” (câu 11-12).Thời đại của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc khi Giăng Báp-tít thi hành chức vụ. Kể từ đó, Vương quốc đã hoạt động giữa loài người.
Điều này là ý nghĩa có khả năng nhất của Ma-thi-ơ 11:12-13. Câu 13 nêu rõ rằng “Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy.Vì hết thảy các đấng tiên tri và sách luật đã nói trước cho đến đời Giăng.” và câu 12 nói rằng, “Từ thời Giăng Báp-tít cho đến bây giờ, vương quốc thiên đàng bị hãm ép, và những kẻ hung bạo đã chiếm lấy nó bằng vũ lực.” Đây là bản dịch được hiệu đính làm rõ hơn ý nghĩa của câu này.
Vương quốc của Đức Chúa Trời, như chúng ta đã thấy, là triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời đang hoạt động giữa loài người; và đây là ý nghĩa của Ma-thi-ơ 11:12. Tuy nhiên, thế hệ Y-sơ-ra-ên đó đã không tiếp nhận công việc của Vương quốc Đức Chúa Trời, khi Giăng Báp-tít rao giảng về sự ăn năn để bước vào vương quốc. Họ từ chối lời cảnh báo của Giăng Báp-tít. Và họ cũng từ chối lời mời gọi tương tự của Chúa Giê-su sau đó. Do đó, chỉ có sự phán xét dành cho thế hệ đó. “Vì dân các thành mà Đức Chúa Giê-su đã làm rất nhiều phép lạ rồi, không ăn năn, nên Ngài quở trách rằng…” (Ma-thi-ơ 11:20).
Chúng ta đọc tiếp, “Khốn nạn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn nạn cho mầy thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và Si-đôn, thì hai thành đó thật đã mặc áo gai, đội tro, ăn năn từ lâu rồi. Vậy nên ta bảo bay, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn bay. Còn mầy, Ca-bê-na-um là thành đã được cao tới trời, sẽ hạ xuống tới âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa mầy, đem làm trong thành Sô-đôm, thì thành ấy còn lại đến ngày nay. Vậy nên ta rao bảo rằng, đến ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn mầy” (Ma-thi-ơ 11:21-24)
Một tai họa khủng khiếp được tuyên bố trên các thành phố của Y-sơ-ra-ên như Cô-ra-xin và Bết-sai-đa. Chúa Giê-su đã xuất hiện trong các thành phố của họ, đuổi quỷ, giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan và rao giảng rằng Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến với họ. Tuy nhiên, Y-sơ-ra-ên đã không đáp lại. Do đó, “vào ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn cho họ.
Lời mời nhận lãnh các phước lành của Vương quốc được đưa ra cho những ai tiếp nhận nó cách cá nhân. Chúa Giê-su phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Hãy gánh lấy ách của ta và học theo ta; vì ta nhu mì và khiêm nhường, thì các ngươi sẽ tìm được sự yên nghỉ cho linh hồn mình” (Ma-thi-ơ 11:28-29).
ĐƠN VỊ NHẬN ĐƯỢC SỰ CỨU RỖI TRONG TÂN ƯỚC LÀ CÁ NHÂN
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã đối xử với Y-sơ-ra-ên chủ yếu như một gia đình và một quốc gia và ban cho dân sự Ngài cả phước lành vật chất và thuộc linh. Khi Đức Chúa Trời lập giao ước với Áp-ra-ham, Áp-ra-ham đã lấy tất cả các thành viên nam trong gia đình mình và cắt bì cho họ, do đó đưa họ vào trong các điều khoản và phước lành của giao ước (Sáng thế ký 17: 22-27).
Lời giảng dạy của Chúa Giê-su về Vương quốc của Đức Chúa Trời không nói đến một vương quốc chính trị hữu hình, cũng không liên quan đến các phước lành của quốc gia hay vật chất. Người Do Thái muốn một vị vua chính trị lật đổ kẻ thù của họ; nhưng Chúa Giê-su đã từ chối một vương miện trần gian (Giăng 6:15). Chúa Giê-su nói chuyện với các cá nhân; và các điều kiện của mối quan hệ mới với Đức Chúa Trời chỉ là những quyết định cá nhân và bởi đức tin. Lẽ thật này được nêu rõ trong chức vụ chuẩn bị của Giăng Báp-tít, ông đã nói với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo rằng dòng dõi của Áp-ra-ham phải kết quả xứng đáng với sự ăn năn, nếu không sẽ bị chặt bỏ. “Giăng thấy nhiều người dòng Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến chịu phép báp-têm mình, thì bảo họ rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn giận ngày sau? Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Áp-ra-ham là tổ chúng ta; vì ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Áp-ra-ham được. Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt, thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma-thi-ơ 3:7-10).
Các phước lành thiêng liêng của kỷ nguyên mới sẽ được ban cho từng cá nhân chứ không phải trên cơ sở gia đình. Ngay cả những người tự coi mình là con cái của giao ước cũ – là giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham cũng phải trải qua sự ăn năn cá nhân, chịu phép báp têm để được tha tội và bước vào Vương quốc. Chúa Giê-su cũng làm rõ điều này khi Ngài tuyên bố, “Chớ tưởng rằng Ta đến để đem hòa bình cho thế gian; Ta đến không phải để đem hòa bình, mà là để đem gươm giáo. Vì Ta đến để phân rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, con dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta sẽ là người nhà mình” (Ma-thi-ơ 10: 35-36). Đơn vị gia đình không còn là nền tảng của mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người nữa. Đức tin cá nhân thường chia cắt các thành viên trong gia đình và thậm chí phá vỡ mối quan hệ huyết thống là nền tảng cơ bản của mối quan hệ giữa con người với Vương quốc của Đức Chúa Trời.
Người Do Thái nói chung đã từ chối mối quan hệ mới này. Tuy nhiên, có một số người đã đáp lại và trở thành môn đồ của Chúa chúng ta và do đó trở thành con cái đích thực của Vương quốc Đức Chúa Trời. Những người này đã trở nên những hạt nhân của Hội thánh Tân ước.
HỘI THÁNH ĐƯỢC HÌNH THÀNH
Chương 16 sách Ma-thi-ơ kể lại mục đích của Chúa chúng ta trong việc hình thành nên dân mới của Chúa, tức là Hội thánh. Điều quan trọng là Chúa Giê-su không thể nói gì về mục đích cứu chuộc của Ngài là đưa dân mới của Chúa vào hiện thực cho đến khi các môn đồ nhận ra rằng Ngài thực sự là Đấng Mê-si.
Lời xác nhận về chức vụ Đấng Mê-si của Ngài đồng thời cũng là lời tuyên xưng về sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời, vì sứ mệnh của Đấng Mê-si là mang Vương quốc Đức Chúa Trời đến với con người. Tại thời điểm này, chúng ta phải hiểu rằng đối với các môn đồ, có một vấn đề trong việc công nhận chức vụ Đấng Mê-si của Chúa chúng ta cũng như có một vấn đề trong việc họ công nhận sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã khám phá ra rằng kỳ vọng phổ biến về sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời có nghĩa là sự kết thúc của thời đại và sự biểu hiện của sự cai trị của Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh quang, khi mọi điều ác sẽ bị thanh trừng khỏi trái đất. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã dạy rằng Vương quốc đã đến nhưng dưới một hình thức mới và bất ngờ. Mặc dù thời đại cũ vẫn tiếp diễn, Vương quốc Đức Chúa Trời đã chinh phục vương quốc của Sa-tan để giải cứu con người khỏi sự cai trị của nó. Đây là điều bí ẩn nhưng được tiết lộ về trong sứ mệnh của Chúa chúng ta.
Vấn đề tương tự này cũng liên quan đến việc tiết lộ chức vụ Đấng Mê-si của Chúa chúng ta. Đối với người Do Thái, bao gồm cả các môn đồ của Chúa Giê-su, Đấng Mê-si được mong đợi là một vị Vua từ dòng dõi Đa-vít đánh bại kẻ thù. Hoặc Ngài sẽ là một đấng siêu nhiên từ trời đến trái đất với quyền năng và vinh quang lớn lao để tiêu diệt kẻ ác và đưa Vương quốc của Đức Chúa Trời đến (xem Đa-ni-ên 7). Trong cả hai trường hợp, sự xuất hiện của Đấng Mê-si sẽ có nghĩa là sự kết thúc của thời đại này và sự xuất hiện của Vương quốc Đức Chúa Trời trong quyền năng và vinh hiển.
CHỨC VỤ CỦA CHÚA GIÊ-SU KHI NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ NHẤT
Tuy nhiên Chúa Giê-su không xuất hiện như một vị Vua vĩ đại chinh phục hay một Người từ trời xuống cách siêu phàm. Ngài là một con người ở giữa loài người trong sự khiêm nhường và yếu đuối (theo cách nhìn của con người). Mọi người không thể hiểu Ngài là Đấng Mê-si của họ mặc dù Ngài đã thực hiện giữa họ những công việc kỳ diệu. Có một lần, họ nghĩ rằng Ngài thực sự có thể là Đấng Mê-si, và họ đã cố gắng ép buộc Ngài làm Vua. Sau khi cho năm ngàn người ăn, với năm cái bánh và hai con cá để nuôi sống một đám đông, họ đã đến để bắt ép Ngài làm Vua. “Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Giê-su đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là Đấng tiên tri phải đến thế gian. Bấy giờ Đức Chúa Giê-su biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi” (Giăng 6:14-15).
Tuy nhiên, đó không phải là sứ mệnh của Chúa chúng ta. Sứ mệnh của Ngài, cũng như chức vụ Đấng Mê-si của Ngài, là một “bí ẩn”; không phải là để chấm dứt thời đại tà ác và mở ra thời đại sắp tới. Mà là để mang các quyền năng của thời đại tương lai đến với con người.
Thời đại gian ác hiện tại; và sứ mệnh này liên quan đến cái chết của Ngài. Do đó, khi đám đông cố gắng tôn Ngài làm vua, Ngài đã rút lui. Đây là bước ngoặt trong chức vụ của Ngài; và sau đó, “nhiều môn đồ của Ngài đã rút lui và không còn đi với Ngài nữa” (Giăng 6: 66). Vì họ cho rằng Ngài không phải là Đấng Mê-si mà họ đang tìm kiếm. Ngài đã nói rằng họ phải ăn thịt Ngài và uống huyết Ngài (Giăng 6: 53).
Điều này có nghĩa là gì?
Họ không thể hiểu lời minh họa này của Chúa Giê-su. “Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta. Bởi đó, các người Giu-đa cãi lẽ với nhau, mà rằng: Lẽ nào người nầy lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao? Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu” (Giăng 6:51-53). Sự thật là, người Do Thái vào thời Chúa chúng ta không hiểu chương 53 của sách Ê-sai. Họ không biết rằng nó có liên quan đến Đấng Mê-si. Họ chỉ đang tìm kiếm một Vua chiến thắng hoặc một Con Người từ trời xuống đầy uy lực, chứ không phải một Tôi Tớ Chịu Khổ. Do đó, họ đã quay lưng và từ chối theo Ngài. Và khi họ từ chối lời giảng dạy của Ngài về Vương quốc vì đó không phải là điều họ đang tìm kiếm, thì họ cũng từ chối địa vị Đấng Mê-si của Ngài vì Ngài không phải là vị vua chinh phục, một vị vua trần gian đánh bại đế quốc Rô-ma mà họ mong muốn.
Tuy nhiên, cuối cùng, nhóm mười hai
sứ đồ thân cận bắt đầu nhận ra rằng mặc dù Vương quốc không hiện diện với quyền
năng mạnh mẽ theo cách nghĩ của con người. Chúa Giê-su không phải là Vua theo mong
đợi của người Do thái lúc bấy giờ, nhưng Ngài vẫn là Đấng Mê-si và Vương quốc
thực sự hiện diện trong con người và sứ mệnh của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của
lời tuyên xưng của Phi-e-rơ tại Sê-sa-rê Phi-líp. Chúa Giê-su nhận ra rằng các môn đồ đã đi đến một điểm quan
trọng về sự hiểu biết cơ bản, và Ngài hỏi các môn đồ rằng Ngài là ai. Cuối
cùng, Phi-e-rơ đã nói thay cho những người khác: “Ngài là Đấng Christ, Con
Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Chúng ta thường không nhận ra
rằng Phi-e-rơ và những người khác khó khăn như thế nào để nhận ra địa vị Đấng
Mê-si của Chúa Giê-su vì nó hoàn toàn khác biệt so với bất kỳ điều gì họ mong
đợi. Đó thực sự là một sự nhận thức mà con người chỉ có thể nhận ra thông qua
chính sự mặc khải của Đức Chúa Trời “Hỡi Si-môn, con
Giô-na, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy
đâu, bèn là Cha ta ở trên trời vậy. Còn ta, ta bảo ngươi rằng: Ngươi là
Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội thánh ta trên vầng đá nầy…” (Ma-thi-ơ 16:17-18).
Tên Si-môn được đổi thành Phi-e-rơ – có nghĩa là một viên đá nhỏ. Và ông sẽ được
Chúa sử dụng như một viên đá nhỏ được xây dựng trên một vầng đá lớn (là chính
Chúa Giê-su) để hình thành hội thánh.
Một khi họ đã nhận ra rằng Ngài là Đấng Mê-si, mặc dù trong một vai trò mới và bất ngờ, Chúa Giê-su đã chỉ dẫn họ về mục đích tiếp theo của Ngài. Mục đích của Ngài không phải là khôi phục quốc gia Y-sơ-ra-ên. Ngược lại, Ngài sẽ tạo ra một dân tộc mới. “Còn Ta bảo ngươi, ngươi là Phi-e-rơ, trên vầng đá nầy Ta sẽ xây dựng Hội thánh Ta, và các cửa âm phủ (quyền lực của sự chết) sẽ không thắng được Hội thánh. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa của vương quốc thiên đàng cho ngươi, và bất cứ điều gì ngươi buộc dưới đất sẽ bị buộc trên trời, và những gì ngươi mở dưới đất sẽ được mở trên trời” (Ma-thi-ơ 16:18-19).
Ý nghĩa của “vầng đá” mà Chúa Giê-su xây dựng Hội thánh của Ngài đã được tranh luận sôi nổi. Cho dù vầng đá đó là đức tin của Phi-e-rơ vào Đấng Mê-si và thần tính của Đấng Christ cho dù đó là chính con người của Đấng Christ, hay có một ý nghĩa nào khác, thì Phi-e-rơ, với tư cách là người phát ngôn cho nhóm 12 sứ đồ và của Hội thánh trong những năm đầu tiên. Không có bằng chứng nào trong Tân Ước cho thấy Phi-e-rơ được trao một thẩm quyền chính thức mà ông có thể truyền lại cho người khác (theo quan điểm của người Công giáo). Tuy nhiên, trên thực tế, Hội thánh được “xây dựng trên nền tảng của các sứ đồ và các tiên tri, chính Chúa Giê-su Christ là đá góc nhà” (Ê-phê-sô 2: 20); và chúng ta có thể gọi Phi-e-rơ là khuôn mặt đại diện của nhóm mười hai sứ đồ mà Hội thánh được dựng nên trên đó.
Trong mọi trường hợp, Chúa chúng ta chỉ ra mục đích của Ngài là xây dựng Hội thánh của Ngài. Dạng cụ thể của cụm từ này rất quan trọng. Từ Hy Lạp ekklesia1 là từ được sử dụng phổ biến nhất trong Cựu Ước để chỉ dân Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Chính việc sử dụng từ này cho thấy rằng Chúa Giê-su có mục đích tạo ra một dân tộc mới để thay thế dân Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả lời tuyên bố về Đấng Mê-si của Ngài và lời Ngài giảng về Vương quốc Đức Chúa Trời. Sự ứng nghiệm của lời hứa này bắt đầu vào Lễ Ngũ Tuần khi Đức Thánh Linh được đổ ra để làm phép báp têm cho những người theo Chúa Giê-su vào thân thể của Đấng Christ và do đó về mặt lịch sử đã khai sinh ra Hội thánh đầu tiên. “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa” (1 Cô-rinh-tô 12:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ HỘI THÁNH
Mối quan tâm hiện tại của chúng ta là tìm hiểu về mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và Hội thánh. Chúa Giê-su đã hứa sẽ trao cho Phi-e-rơ, với tư cách là đại diện của các sứ đồ và Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng. Chúng ta đã nhận thấy rằng Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết có nghĩa là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời giữa loài người; và thứ hai là nơi mà loài người trải nghiệm các phước lành thông qua sự cai trị của Đức Chúa Trời.2
Chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng hay vương quốc Đức Chúa Trời trong tương lai, tức là quyền năng mở hoặc đóng cánh cửa dẫn đến các phước lành của Thời đại sắp đến sẽ được trao cho các sứ đồ của Hội thánh. Vương quốc Đức Chúa Trời không còn hoạt động trên thế giới thông qua Y-sơ-ra-ên nữa; mà thay vào đó, nó hoạt động thông qua Hội thánh.
Sự hiểu biết này được chứng minh bằng câu nói của Chúa Giê-su trong Lu-ca 11:52. Chúa Giê-su đã lên án các thầy thông giáo vì họ đã “cướp mất chìa khóa của sự hiểu biết; chính các ngươi đã không vào, mà lại ngăn cản những người muốn vào”. Chìa khóa của sự hiểu biết, chìa khóa mở cánh cửa của Vương quốc Chúa, đã được giao cho các nhà lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái. Chìa khóa này là sự hiểu biết và diễn giải đúng đắn về Cựu Ước, lẽ ra phải dẫn dắt người Do Thái nhận ra chức vụ của Chúa Giê-su, sự hiện diện của Vương quốc Đức Chúa Trời và sự ứng nghiệm của những lời hứa. Phao-lô đã bày tỏ sự thật tương tự khi ông nói rằng Đức Chúa Trời đã giao phó cho Y-sơ-ra-ên những lời phán của Đức Chúa Trời. “Lời phán của Đức Chúa Trời đã phó cho dân Giu-đa” (Rô-ma 3:2). Tuy nhiên, các thầy thông giáo đã lấy đi chìa khóa tri thức; họ đã diễn giải Kinh thánh theo cách rời xa Đấng Christ thay vì nhận ra Ngài là Đấng đã đến làm ứng nghiệm các lời tiên tri. Vì vậy, họ từ chối bước vào vương quốc phước lành của mà Chúa Giê-su mang đến, và họ cản trở những người muốn bước vào.
Vào một dịp khác, Chúa Giê-su đã nói với những nhà lãnh đạo tôn giáo này, “Những người thâu thuế và phường đĩ điếm vào vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi” (Ma-thi-ơ 21:31).Trên thực tế, họ đứng sang một bên và theo dõi những người thu thuế và phường đĩ điếm bước vào Vương quốc và thậm chí còn cố gắng ngăn cản họ bước vào.
Chìa khóa tri thức này vốn được giao phó cho Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu Ước, giờ đây được Chúa chúng ta giao phó cho các sứ đồ và Hội thánh. Sự kiện này được dạy rõ ràng trong dụ ngôn về những người được thuê làm vườn nho trong Ma-thi-ơ 21:33-42. Đức Chúa Trời đã giao phó vườn nho của Ngài cho Y-sơ-ra-ên. Thỉnh thoảng Ngài sai các tôi tớ của Ngài, các tiên tri, đến để tính sổ, nhưng “những người làm vườn nho bắt các tôi tớ của Ngài, đánh người này, giết người kia, và ném đá người nọ”. Cuối cùng, Ngài sai Con Ngài đến, nghĩ rằng họ sẽ tôn kính và thừa nhận. “Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia tài nó. Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi (Ma-thi-ơ 21:38-39).
Chính Chúa Giê-su đã giải thích dụ ngôn này một cách rõ ràng: “Ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21: 43).
VỊ TRÍ CỦA Y-SƠ-RA-ÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Đây là một tuyên bố rõ ràng. Y-sơ-ra-ên đã là những người sở hữu Vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là cho đến thời điểm Đấng Christ giáng sinh, hoạt động cứu chuộc của Đức Chúa Trời trong lịch sử đã được truyền qua quốc gia Y-sơ-ra-ên và các phước lành của vương quốc đã được ban cho dân tộc này. Con cái Y-sơ-ra-ên thực sự là con cái của Vương quốc. Người ngoại bang chỉ có thể chia sẻ những phước lành này bằng cách bước vào mối quan hệ với Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, khi đến lúc Đức Chúa Trời thể hiện hoạt động cứu chuộc của Ngài theo một cách mới mẻ và tuyệt vời và Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến thăm con người qua Con Đức Chúa Trời, mang đến cho họ một thước đo đầy đủ hơn về các phước lành của sự cai trị thiêng liêng, Y-sơ-ra-ên đã từ chối cả Vương quốc và Đấng đem Vương quốc đến. Do đó, Vương quốc trong biểu hiện mới của nó đã bị tước khỏi Y-sơ-ra-ên và trao cho một dân tộc mới là hội thánh.
Tới đây có một câu hỏi quan trọng khác: Có phải hội thánh đã thay thế vị trí của Y-sơ-ra-ên? Các lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên có bị mất hiệu lực không?
GIAO ƯỚC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VỚI Y-SƠ-RA-ÊN LÀ MỘT GIAO ƯỚC VÔ ĐIỀU KIỆN
Mục sư, nhà chú giải Kinh thánh David Hocking đã viết trong sách Thần học thay thế:
“Một giao ước vô điều kiện có thể được định nghĩa như là một hành động tối cao của sự cai trị tuyệt đối từ Đức Chúa Trời, nhờ đó Ngài bắt buộc phải thực hiện những lời hứa, sự ban phước cho tuyển dân ở dưới giao ước.
Những giao ước vô điều kiện được thực hiện một cách đơn phương và đặc điểm của nó là lời hứa từ Đức Chúa Trời: Ta sẽ… chắc chắn Ngài sẽ làm chính xác những gì Ngài đã hứa. Đó chính là sự thành tín của Đức Chúa Trời bảo đảm cho những lời hứa của Ngài.”3
Giao ước quan trọng nhất của Đức Chúa Trời là Ngài làm cho Áp-ra-ham trở nên tổ phụ của tất cả những người đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời. Sáng thế ký 12:1-3 cho chúng ta biết những chi tiết của giao ước không điều kiện nầy:
Vả, Đức Giê-hô-va có phán cùng
Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi
đến xứ ta sẽ chỉ cho.
Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi
danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và
các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.
Sáng thế ký 15:18 đề cập một lần nữa giao ước vô điều kiện của Đức Chúa Trời về một vùng đất:
Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ song Nil ở tại xứ Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát,
Trong Sáng thế ký 17: 9-14 dấu hiệu của dòng dõi Áp-ra-ham là phải chịu phép cắt bì. (Điều này bày tỏ đức tin của những người làm cha mẹ vâng phục lời Đức Chúa Trời làm phép cắt bì cho những bé trai khi chúng được tám ngày tuổi). Trong Sáng 17:7, chúng ta được biết rằng đây là một giao ước đời đời. Và trong câu 8 nhấn mạnh rằng: Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời.
Có nhiều điều Y-sơ-ra-ên đã làm trong quá khứ là không đúng. Tội lỗi và sự không vâng lời của họ khiến họ thường xuyên bị Đức Chúa Trời phán xét (Lê-vi-ký 26:40-43; Thi thiên 89:30-32). Nhưng không một tội nào trong quá khứ của họ sẽ hủy bỏ giao ước vô điều kiện và đời đời của Đức Chúa Trời dành cho họ.
Tiến sĩ Arnold Fruchtenba trong tác phẩm Thần học Y-sơ-ra-ên đã đưa ra 5 điểm về giao ước của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên (một giao ước vô điều kiện và đời đời):
1. Đó là một giao ước hoàn toàn sáng tỏ theo từng chữ.
2. Một giao ước đời đời.
3. Giao ước nầy không bị hủy bỏ bởi tội lỗi và sự bất tuân của Y-sơ-ra-ên.
4. Nó được thiết lập với một dân tộc đặc biệt là Y-sơ-ra-ên.
5. Hầu hết những điều khoản của nó không có hiệu lực ngay tức thì. (Phải trải
qua nhiều thế hệ)
Vào thời điểm giao ước được ký hay đóng ấn, có ba điều đã xảy ra: Một số điều
khoản có hiệu lực ngay tức khắc; Một số có hiệu lực trong một tương lai gần;
Một số có hiệu lực trong một tương lai xa.
Giao ước giữa Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham là một giao ước đời đời, không thể hủy bỏ được. Nó được củng cố qua Y-sác (Sáng 26:2-4, 24) và con trai của Y-sác là Gia-cốp (Sáng 28:13-15; 35:10-12) và rồi được thực hiện cho 12 con của Gia-cốp, mà sau nầy trở thành 12 chi phái Y-sơ-ra-ên (Sáng 49:28) khi Đức Chúa Trời nhớ lại giao ước của Ngài (Xuất-ê-díp-tô ký 2:24-25; 6:2-8).
Chúa Giê-su phán dạy Phi-e-rơ, “Trên đá này, Ta sẽ xây dựng Hội thánh của Ta.” Trong câu nói này, từ “Hội thánh” vẫn chưa có ý nghĩa rõ ràng như nó có được sau Lễ Ngũ tuần. Như chúng ta đã chỉ ra, từ này có nghĩa là dân sự của Chúa. Dân tộc mới này là “dòng giống được lựa chọn, chức tư tế hoàng gia, dân thánh” mà Phi-e-rơ đã nói đến (1 Phi-e-rơ 2: 9). Vương quốc của Chúa hiện nay không thuộc về dòng giống Áp-ra-ham mà thuộc về “dòng giống được lựa chọn”, vì “những người có đức tin là con cháu của Áp-ra-ham” (Ga-la-ti 3:7). Đó không phải là quyền sở hữu chức tư tế của dân Y-sơ-ra-ên, vì Đấng Christ đã khiến những người tạo nên Hội thánh của Ngài trở thành “các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời và Cha của Ngài” (Khải huyền 1:6). Bây giờ, Chúa không còn đối phó với một dân tộc theo phả hệ, mà với một dân tộc thánh là Hội thánh, trên cơ sở đức tin cứu rỗi cá nhân nơi Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời.
Mối quan hệ giữa Hội thánh và Vương quốc của Đức Chúa Trời phải được thiết lập rõ ràng. Vương quốc của Đức Chúa Trời trước hết là luật cứu chuộc thiêng liêng được biểu hiện trong Đấng Christ, và thứ hai là phạm vi mà các phước lành của luật lệ thiêng liêng có thể được trải nghiệm. Những sự phân biệt này cần được làm cho sáng tỏ. Là luật cứu chuộc thiêng liêng của Đức Chúa Trời, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến giữa loài người để đánh bại Sa-tan và để giải thoát con người khỏi sự thống trị của quyền lực ma quỷ (Ma-thi-ơ 12:28). Vì đây là một thế giới hiện tại mà những phước lành này được hưởng, nên con người giờ đây có thể bước vào Vương quốc của Chúa. Kỷ nguyên của luật pháp và các tiên tri đã kết thúc với Giăng Báp-tít. Từ thời điểm đó, Vương quốc của Chúa đã được rao giảng và tất cả những ai nhận được thông báo đều mạnh mẽ, thậm chí dùng “sức mạnh”, bước vào trong Vương quốc. “Luật pháp và các lời tiên tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó tin lành của nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó” (Lu-ca 16:16). Tất cả những ai đã nhận được tin mừng cứu chuộc này đều đã được “giải thoát khỏi quyền thống trị của sự tối tăm (2 Cô-rinh-tô 4:4) và được chuyển đến vương quốc của Con yêu dấu của Ngài” (Cô-lô-se 1:13).
VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VƯƠNG QUỐC ĐẤNG CHRIST
Vương quốc của Đức Chúa Trời đồng thời là Vương quốc của Đấng Christ (Ê-phê-sô 5:5); vì Vương quốc của Đức Chúa Trời, triều đại cứu chuộc của Đức Chúa Trời, được biểu lộ giữa loài người qua thân vị của Đấng Christ, và chính Đấng Christ phải trị vì cho đến khi Ngài đặt mọi kẻ thù dưới chân Ngài (1 Cô-rinh-tô 15:25). Thật vậy, nếu có bất kỳ sự phân biệt nào giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, chúng ta phải nói rằng Vương quốc của Đấng Christ bao gồm giai đoạn từ khi Ngài đến trong xác thịt cho đến khi kết thúc triều đại một ngàn năm của Ngài. Và “cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực” (1 Cô-rinh-tô 15:24).
Vương quốc của Đức Chúa Trời, với tư cách là hoạt động cứu chuộc và sự cai trị của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, đã tạo ra Hội thánh và hoạt động thông qua Hội thánh trên thế giới. Khi các môn đồ của Chúa đi khắp các làng mạc của Palestine, họ tuyên bố rằng trong sứ mệnh của họ, Vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần những ngôi làng này (Lu-ca 10:9). Họ đã thực hiện các dấu hiệu của Vương quốc, chữa lành người bệnh, đuổi quỷ, do đó giải cứu con người khỏi quyền lực của Sa-tan (câu 9, 17). Bất kỳ thành phố nào từ chối họ thì cũng từ chối Vương quốc của Chúa và tự dành cho mình một sự phán xét đáng sợ, vì trong sứ mệnh của các môn đồ, họ cảnh báo cho những nơi từ chối Phúc âm: “vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi” (câu 11). Do đó, Vương quốc của Chúa đã hoạt động giữa loài người không chỉ trong chức vụ của Chúa Giê-su mà còn thông qua các môn đồ của Ngài khi họ mang Lời Chúa và các dấu hiệu của Vương quốc đến các thành phố của Ga-li-lê.
SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH LÀ RAO GIẢNG VƯƠNG QUỐC
Tương tự như vậy, Vương quốc của Chúa, hoạt động cứu chuộc và quyền năng của Chúa, đang hoạt động trên thế giới ngày nay thông qua Hội thánh của Đức Chúa Trời. Hội thánh là sự hiệp thông của các môn đồ của Chúa Giê-su, những người đã tiếp nhận sự sống của Vương quốc và có nhiệm vụ rao giảng Phúc âm về Vương quốc trên khắp thế giới. Phi-líp đã đến Sa-ma-ri rao giảng “tin mừng về vương quốc của Đức Chúa Trời và danh của Chúa Giê-su Christ” (Công vụ 8: 12). Phao-lô đã đến Rô-ma và rao giảng trước tiên cho người Do Thái, sau đó cho dân ngoại, về Vương quốc của Đức Chúa Trời (Công vụ 28: 23, 31).
Khi các sứ giả của Chúa chúng ta đi khắp thế giới La Mã để rao giảng về Vương quốc và ngày nay các môn đồ của Chúa Giê-su đi khắp thế giới để rao giảng về Vương quốc của Đức Chúa Trời, thì luôn có hai điều xảy ra: một số người được giải thoát trong khi những người khác bị trói buộc. Một số người tin và tiếp nhận sứ điệp. “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1:13); nghĩa là, họ bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời vì họ nhận được phước lành của Vương quốc đó. Hơn nữa, họ được bảo đảm sẽ được vào Vương quốc của Đức Chúa Trời trong tương lai khi Đấng Christ đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, những người khác lại từ chối tin mừng về Vương quốc. Đối với họ, cánh cửa Vương quốc của Đức Chúa Trời, cả trong hiện tại và tương lai, đều đóng lại. Chúa Giê-su đã trao cho các môn đồ của Ngài, cho Hội thánh, chìa khóa của Vương quốc Thiên đàng; và những gì các môn đồ của Ngài ràng buộc trên đất khi họ rao giảng Phúc âm về Vương quốc sẽ được ràng buộc trên thiên đàng; và những gì họ cởi mở trên đất, tức là những người mà họ cởi mở khỏi tội lỗi của họ, sẽ được cởi mở trên thiên đàng. Theo nghĩa thực sự của từ này, chính Hội thánh – các môn đồ của Chúa – là những người sử dụng chìa khóa và thực hiện chức năng trói buộc và cởi mở; nhưng theo nghĩa sâu xa hơn, chính sự vận hành của Vương quốc Đức Chúa Trời thông qua Hội thánh đã hoàn thành những mục đích vĩnh cửu này. Sự thật quan trọng là: Vương quốc Đức Chúa Trời không hoạt động trong chân không mà được giao phó cho con người và hoạt động thông qua những người được cứu chuộc đã hiến mình cho sự cai trị của Đức Chúa Trời thông qua Chúa Giê-su.
Có rất ít câu trong Tân Ước so sánh Vương quốc với Hội thánh, nhưng chính những câu này ủng hộ kết luận của chúng ta. Khải huyền 5:9-10 viết, “Ngài đã bị giết và dùng huyết mình chuộc những người cho Đức Chúa Trời từ mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc và mọi nước, và đã khiến họ trở thành một vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta, và họ sẽ trị vì trên đất.” Bài ngợi ca mới này được bốn con sanh vật hai mươi bốn trưởng lão xác định tất cả những người được cứu chuộc là một Vương quốc. Chỉ theo nghĩa này: những người được cứu chuộc là một Vương quốc vì họ sẽ trị vì trên đất. Vương quốc của Đức Chúa Trời trong câu này là chính sự cai trị của Đức Chúa Trời, một sự cai trị được chia sẻ với những người đầu phục chính mình cho Tin lành về nước Đức Chúa Trời.
Khải huyền 1: 6 được giải thích theo ánh sáng của câu này. Hội thánh vừa là chức tư tế vừa là vương quốc. Những người được cứu chuộc chia sẻ đặc quyền của Thầy tế lễ thượng phẩm vĩ đại của họ là bước vào nơi chí thánh và thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ là các thầy tế lễ. Hội thánh cũng chia sẻ đặc quyền của Chúa và Vua của họ. Họ được trao quyền cai trị với Chúa Giê-su. Họ là một Vương quốc, một quốc gia của các vị vua.
“Do đó, Hội thánh không phải là Vương quốc của Chúa; Vương quốc của Chúa tạo ra Hội thánh và hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh. Do đó, con người không thể xây dựng vương quốc nhưng họ có thể rao giảng và công bố về nó; họ có thể tiếp nhận hoặc từ chối nó. Vương quốc của Chúa trong Cựu Ước được thể hiện ở Y-sơ-ra-ên hiện đang hoạt động trên thế giới thông qua Hội thánh.”4
Do đó, chỉ có một dân của Chúa. Điều này không có nghĩa là các thánh đồ Cựu Ước thuộc về Hội thánh và chúng ta phải nói về Hội thánh trong Cựu Ước. Công vụ 7:38 thực sự có nói đến ” “trong dân hội tại nơi đồng vắng, đã ở với thiên sứ, là đấng phán cùng người trên núi Si-na-i, và với tổ phụ chúng ta, người lại nhận lấy những lời sự sống đặng trao lại cho các ngươi.” Nhưng cụm từ “dân hội tại nơi đồng vắng” ở đây không mang hàm ý là hội thánh như trong Tân Ước mà ám chỉ “hội chúng” trong đồng vắng. Hội thánh nói đúng ra đã có ngày sinh nhật của mình vào ngày Lễ Ngũ Tuần, vì Hội thánh bao gồm tất cả những người đã được báp têm bởi một Thánh Linh để trở thành một thân thể (1 Cô-rinh-tô 12:13), và công việc báp têm của Thánh Linh này bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
PHAO-LÔ LÝ GIẢI VỀ CÂY Ô-LI-VE TRONG RÔ-MA 11
Khi chúng ta nói về Y-sơ-ra-ên và Hội thánh, chúng ta phải xem luận giải của sứ đồ Phao-lô về chủ đề này về cây ô-li-ve trong Rô-ma 11. Chỉ có một cây ô-li-ve đó là dân sự của Đức Chúa Trời. Trong Cựu Ước, các nhánh của cây là dân Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, vì sự vô tín, một số nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy và không còn thuộc về cây nữa (câu 16). Chúng ta biết từ các câu rằng không phải tất cả các nhánh đều bị bẻ gãy, vì “có một số còn sót lại, được chọn bởi ân điển”. Một số người Do Thái đã chấp nhận Đấng Mê-si và sứ điệp của Ngài về Phúc âm của Vương quốc. Chúng ta phải nhớ rằng Hội thánh đầu tiên bao gồm những người Do Thái tin Chúa; nhưng họ đến với Hội thánh không phải vì họ là người Do Thái mà vì họ là những người tin Chúa.
Khi những nhánh tự nhiên này bị bẻ gãy, những nhánh khác được lấy từ một cây ô-li-ve hoang và trái với bản chất được ghép vào cây ô-li-ve (câu 17, 24). Điều này ám chỉ đến những người ngoại đã tiếp nhận Phúc âm của Vương quốc. “Nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó” (Ma-thi-ơ 21: 43). Các nhánh tự nhiên bị bẻ gãy đã bị chặt khỏi cây vì sự vô tín; và các nhánh hoang dã được ghép vào vì đức tin của họ (câu 20). Toàn bộ quy trình này là “trái với tự nhiên”; tức là nó không phải là điều mà người ta mong đợi khi đọc Cựu Ước. Theo quan điểm của Cựu Ước, người ta sẽ không bao giờ biết rằng dân sự của Đức Chúa Trời bao gồm phần lớn là Dân Ngoại và rằng phần lớn dân tộc Do Thái sẽ bị bẻ gãy. Bản chất hỗn hợp này của Hội thánh thực sự là một điều bí ẩn, một sự tiết lộ sâu hơn về mục đích cứu chuộc của Đức Chúa Trời mà chưa được tiết lộ cho các tiên tri Cựu Ước (Ê-phê-sô 3:3).
Trong thời Cựu Ước, dân sự của Đức Chúa Trời – bao gồm con cái của Y-sơ-ra-ên. Dân ngoại chỉ bước vào các phước lành của dân sự Đức Chúa Trời khi họ chia sẻ các điều khoản của giao ước với Y-sơ-ra-ên. Trong sự bày tỏ của Tân Ước, các nhánh tự nhiên, Y-sơ-ra-ên, đã bị bẻ gãy phần lớn khỏi cây vì sự vô tín và các nhánh hoang dã từ dân ngoại đã được ghép vào, thông qua đức tin. Nhưng chỉ có một cây, một dân của Đức Chúa Trời, trước hết gồm người Y-sơ-ra-ên tiếp nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và sau đó là những người ngoại bang tin đạo. Chúng ta không thể nghĩ đến hai dân tộc khác nhau mà qua đó Đức Chúa Trời thực hiện hai mục đích cứu chuộc khác nhau.
Tuy nhiên, tình trạng hiện tại của cây ô-li-ve không phải là công việc cuối cùng của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Phao-lô viết, “Về phần họ, nếu không ghì mài trong sự chẳng tin, thì cũng sẽ được tháp; vì Đức Chúa Trời có quyền lại tháp họ vào. Nếu chính ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-li-ve hoang thuận tánh mình, mà được tháp vào cây ô-li-ve tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy là nhánh nguyên sẽ được tháp vào chính cây ô-li-ve mình! Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết sự mầu nhiệm nầy, e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ; vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (Rô-ma 11:23-26).
Hình dạng cuối cùng của cây ô-li-ve sẽ không phải là cây có nhiều nhánh hoang dã, tức là dân ngoại. Y-sơ-ra-ên – những nhánh tự nhiên đã bị bẻ gãy vì vô tín vẫn chưa tin và được ghép lại vào cây ô-li-ve. Đây là một “huyền nhiệm” khác, một mục đích cứu chuộc khác của Đức Chúa Trời mà không được tiết lộ cho các tiên tri nhưng giờ đây đã được tiết lộ cho các sứ đồ. Sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên và việc họ bị dân sự của Đức Chúa Trời từ chối chỉ là một phần và tạm thời; nó sẽ kéo dài cho đến khi dân ngoại gia nhập vào đầy đủ. Đức Chúa Trời có mục đích mang sự cứu rỗi cho dân ngoại và Ngài biết trước sự vô tín của Y-sơ-ra-ên để hoàn thành mục đích cứu chuộc này. Nhưng khi mục đích của Ngài với các nhánh hoang dã đã hoàn thành, Ngài sẽ quay lại với các nhánh tự nhiên; tấm màn che mắt họ sẽ được cất khỏi (2 Cô-rinh-tô 3:16) và họ sẽ tin và được ghép lại vào dân sự của Đức Chúa Trời. Như vậy “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” (Rô-ma 11: 26).
TOÀN THỂ DÂN Y-SƠ-RA-ÊN SẼ ĐƯỢC CỨU
Hoàn toàn không thể hiểu “toàn thể Y-sơ-ra-ên” ám chỉ đến Hội thánh dựa trên bối cảnh và diễn biến suy nghĩ của Phao-lô trong đoạn Kinh văn này. Chắc chắn, có một ý nghĩa rất thực tế trong đó Hội thánh là Y-sơ-ra-ên, con cháu của Áp-ra-ham, chịu phép phép cắt bì thật (Ga-la-ti 3:7; Rô-ma 2:28; 4:1, 12, 16). Vậy thì, điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã mãi mãi từ bỏ Y-sơ-ra-ên. Phao-lô phủ nhận điều này một cách dứt khoát. Trước hết, có một phần còn sót lại về mặt thuộc linh – những nhánh tự nhiên không bị bẻ gãy vì chúng đã tiếp nhận Đấng Christ (Rô-ma 11:1-6). Nhưng thứ hai, sẽ có một số người tiếp nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu rỗi từ phía Y-sơ-ra-ên. Phao-lô có thể nói rằng “toàn thể Y-sơ-ra-ên”, tức là Y-sơ-ra-ên nói chung sẽ được cứu.
Sự cứu rỗi tương lai của Y-sơ-ra-ên này được phản ánh trong một vài câu nói của Chúa Giê-su Khi Ngài khóc thương Giê-ru-sa-lem không lâu trước khi Ngài chết, Ngài đã kêu lên:
“Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang! Vì, ta bảo, các ngươi sẽ không thấy ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma-thi-ơ 23:37-39).
Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của Y-sơ-ra-ên, đã từ chối các tiên tri mà Đức Chúa Trời đã sai đến, cho đến khi cuối cùng, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến. Chúa Giê-su mong muốn quy tụ Y-sơ-ra-ên vào trong các phước lành của Vương quốc Đức Chúa Trời nhưng Y-sơ-ra-ên không nghe; Con Ngài đã bị từ chối. Do đó, sự phán xét giáng xuống Y-sơ-ra-ên và Thành phố thánh Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy. Sự phán xét của Vương quốc Đức Chúa Trời thường được thể hiện trong lịch sử. Tuy nhiên, sự hoang tàn của Giê-ru-sa-lem này đã thành hiện thực vào năm 70 sau Công nguyên khi đền thờ bị phá hủy và thành phố bị người La Mã tàn phá. Trong tương lai, Y-sơ-ra-ên sẽ nhận ra Đấng Christ là Đấng Mê-si của mình và nói rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Một lần nữa, trong lời tường thuật của Lu-ca về Bài giảng trên Núi, dự đoán cả sự hủy diệt lịch sử của Giê-ru-sa-lem và ngày tận thế, chúng ta đọc rằng Chúa Giê-su đã nói về Thành thánh, “Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp, cho đến khi thời kỳ của dân ngoại được trọn” (Lu-ca 21: 24). Sự phán xét của Chúa sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và dân tộc Do Thái cho đến khi “thời kỳ của dân ngoại”, tức là sự viếng thăm của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành. Khi mục đích của Chúa đối với dân ngoại được hoàn thành, vì vậy câu này ngụ ý, Giê-ru-sa-lem sẽ không còn bị giày đạp nữa. Sẽ có sự phục hồi của Y-sơ-ra-ên; “toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu.”
CHỈ CÓ MỘT VƯƠNG QUỐC DUY NHẤT
Rất thường xuyên trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Vương quốc của Đức Chúa Trời, Hội thánh và Y-sơ-ra-ên, chúng ta quên mất sự thật mà đối với chúng ta là quan trọng nhất: Vương quốc của Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ mang lại sự cứu rỗi cho Y-sơ-ra-ên và sẽ đưa Y-sơ-ra-ên vào Vương quốc đã mang đến sự cứu rỗi cho chúng ta. Vương quốc của Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới thông qua các môn đồ của Chúa Giê-su Christ, những người đã tiếp nhận Vương quốc và tạo nên một dân tộc mới cho Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh. Vương quốc của Chúa đã chinh phục vương quốc của Sa-tan trong nhân loại, và sứ mệnh của Chúa Giê-su là giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của vương quốc tối tăm; và cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và các thế lực bóng tối vẫn tiếp diễn khi hội thánh mang tin lành về Vương quốc của Chúa đến các quốc gia trên trái đất.Về một phương diện khác, trong khi Vương quốc của Chúa sẽ không được hiện thực hóa như một trạng thái phước lành hoàn hảo cho đến khi Chúa Giê-su tái lâm. Vương quốc Đức Chúa Trời đang hoạt động trên thế giới và đang tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ ác. Hội thánh là công cụ của cuộc đấu tranh này. Do đó, xung đột với thế gian phải luôn là một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của hội thánh miễn là thời đại này còn tồn tại. Lịch sử loài người sẽ nhận ra một phần nào đó về cuộc sống và phước lành của Vương quốc vì một cộng đồng mới đã được hình thành trong xã hội loài người.
Kết luận
Hội thánh là cộng đồng của Vương quốc và sẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại cái ác của Sa-tan trên thế giới. Những công dân của Vương quốc không thể không gây ảnh hưởng trong lịch sử loài người vì họ là ánh sáng của thế gian và muối của đất (Ma-thi-ơ 5:13-16). Là ánh sáng, nó phải chiếu sáng; và chừng nào muối còn là muối, nó phải là chất bảo tồn cho một thế giới băng đang băng hoại. Do đó, sứ mệnh của Hội thánh không chỉ là sử dụng chìa khóa của Vương quốc để mở cửa cho cả người Do Thái và người ngoại cánh cửa vào cuộc sống vĩnh cửu là món quà của Vương quốc Chúa; mà còn là công cụ của sự cai trị năng động của Chúa trên thế giới để chống lại cái ác và những kẻ phản bội như Sa-tan dưới mọi hình thức biểu hiện của chúng.
Khi dân sự của Chúa không còn nhìn thấy lẽ thật này, chúng ta đang phản bội bản chất của mình là Hội thánh. Chúng ta là tâm điểm của cuộc xung đột giữa Vương quốc của Chúa và điều ác của Sa-tan. Về cơ bản, đây là cuộc xung đột trong thế giới tâm linh. Tuy nhiên những thế lực tâm linh của Sa-tan và Vương quốc của Chúa thể hiện trong các lĩnh vực ứng xử và mối quan hệ của con người. Do đó, chúng ta phải thúc đẩy cuộc chiến chống lại các thế lực bóng tối ở bất cứ nơi nào chúng ta tìm thấy chúng cho đến khi bình minh và ánh sáng của sự hiểu biết về Chúa lan tỏa khắp thế giới trước khi Chúa Giê-su tái lâm.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 7
1. https://vietchurch.net/tu-dien-than-hoc. Ngày truy cập tháng 3/2025
2. George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
3. David Hocking. Thần học thay thế. Huongdionline.com. Ngày truy cập 4 tháng 4/2025.
4. George Eldon Land (1959). The Gospel of the Kingdom.WM. B. EERDMANS Publishing Co.
Chương 8
VƯƠNG QUỐC VÀ XÃ HỘI
Liên hệ ý tưởng trong Kinh thánh về Vương quốc với xã hội loài người ngày nay trong thế giới là điều không dễ dàng. Nhận thức rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực chưa được khám phá đầy đủ hoặc có ít sự đồng thuận, chúng ta sẽ xem xét các chủ đề sau. Đầu tiên, chúng ta sẽ trình bày học thuyết về sự cai trị của Chúa như là Vua trên thế giới và lịch sử của nó. Thứ hai, chúng ta sẽ trình bày vương quốc của Chúa như là mục tiêu của sứ mệnh dành cho hội thánh. Và thứ ba, chúng ta sẽ đưa ra các đề xuất liên quan đến mối quan hệ của Vương quốc của Chúa đối với xã hội ngày nay.
VUA CỦA CÁC QUỐC GIA
Dưới sự đe dọa của cuộc xâm lược từ một trong những đế chế lớn của Cận Đông cổ đại hoặc chiến tranh với một trong những quốc gia nhỏ lân cận, người Y-sơ-ra-ên trung thành tin cậy vào Chúa là Vua của các quốc gia. Họ khẳng định, “Tôi ngước mắt lên núi. Sự giúp đỡ tôi đến từ đâu? Sự giúp đỡ tôi đến từ Chúa, là Đấng đã dựng nên trời và đất.” Và, “Chúa sẽ gìn giữ ngươi khi ra vào từ nay cho đến đời đời” (Thi thiên 121:1, 8). Ngoài ra, người Y-sơ-ra-ên trông cậy vào Chúa là Đấng cai trị vô hình đối với lịch sử của chính họ với tư cách là một dân tộc và biết rằng Chúa đã hành động thay mặt họ, cả trong phước lành và trong sự phán xét (Thi thiên 91:1-7; Phục truyền luật lệ ký 8:3).
Tương tự như vậy, Cơ đốc nhân hiện đại, khi đối mặt với hàng loạt tin tức từ khắp nơi trên thế giới, tin cậy vào Chúa là Đấng cai trị trên mọi sự. Họ biết rằng vào đúng thời điểm Chúa đã định, Con vĩnh cửu đã trở thành con người: “Khi kỳ hạn đã trọn, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến…” (Ga-la-ti 4:4). Và với những người được cứu chuộc trên thiên đàng, họ vui mừng rằng “Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng của chúng ta đang trị vì” (Khải huyền 19:6).
Chúa đang kiểm soát lịch sử của các quốc gia, và Ngài sẽ khép lại lịch sử vào đúng thời điểm Ngài đã định. Đây là đức tin từ Kinh thánh, nhưng đó là đức tin không thể giải thích đầy đủ vì bằng chứng rất phức tạp và chỉ có chính Chúa mới biết. Do đó, trong Kinh thánh, sự cai trị của Chúa được trình bày là vượt quá sự hiểu biết của con người. Qua Ê-sai, Đức Chúa Trời đã phán, “Ý tưởng của ta không phải là ý tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của ta” (55:8). Sau khi suy ngẫm về sự cai trị của Chúa trong lịch sử, Phao-lô thốt lên, “Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thật sâu nhiệm thay! Sự phán xét của Ngài không ai dò thấu được, đường lối Ngài không ai hiểu thấu!” (Rô-ma 11:33). Người viết Thi thiên được soi dẫn, nghĩ về sự giải cứu vĩ đại khi tuyển dân ra khỏi Ai Cập, một ví dụ tuyệt vời về sự cai trị của Đức Chúa Trời, đã hát, “Đường lối Chúa ở giữa biển, lối đi của Chúa ở giữa các vùng nước lớn; nhưng dấu chân Chúa không ai thấy” (Thi thiên 77:19). Ở đây, bằng một bức tranh đơn giản về những bước chân, sự huyền nhiệm liên quan đến hoạt động của Đức Chúa Trời được trình bày.
Thứ hai, sự cai trị của Đức Chúa Trời được trình bày là không thể bị cản trở, chế ngự hoặc khuất phục. “Ngôi của Ngài được lập nên từ xưa” và “các mạng lệnh của Ngài rất chắc chắn” (Thi thiên 93:2, 5). Tuy nhiên, như Ê-sai 53 và Tân Ước đã nêu rõ, sự bất khả chiến bại của Chúa đạt được theo cách liên quan đến sự sỉ nhục của Con Đức Chúa Trời (xem Lu-ca 24:26; Công vụ 2:23; 4:27, 28). Chiến thắng thiêng liêng không đạt được bằng cách chiến thắng theo quan điểm của con người, mà bằng sự hy sinh của Đấng Christ trên thập tự giá.
Thứ ba, sự cai trị của Chúa thường được bày tỏ mà không quan tâm đến những phỏng đoán của con người. Gióp thấy hoạt động của Chúa ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của ông, mặc dù ông nhận thức được những yếu tố chắc chắn của Sa-tan và con người. Ông nói:
“Tay Chúa đã dựng nên tôi, nắn giọt trót mình tôi; Nhưng nay Chúa lại hủy diệt tôi! Xin Chúa nhớ rằng Chúa đã nắn hình tôi như đồ gốm; Mà Chúa lại muốn khiến tôi trở vào tro bụi sao? Chúa há chẳng có rót tôi chảy như sữa, Làm tôi ra đặc như bánh sữa ư?” (Gióp 10:8-10).
Tương tự như vậy, người viết Thi thiên thấy những thay đổi trong tự nhiên là do Chúa gây ra trực tiếp:
“Tiếng Đức Giê-hô-va bẻ gãy cây hương nam: Phải Đức Giê-hô-va bẻ gãy cây hương nam Li-ban, Ngài khiến nó nhảy như bò con, Li-ban và Si-ri-ôn nhảy như bò tót tơ” (Thi thiên 29:5-6).
Hơn nữa, chúng ta lưu ý rằng các sự kiện trong lịch sử được coi là có thể truy nguyên trực tiếp đến Chúa. Sau đây là một số câu trích từ sách Châm ngôn:
Lòng người toan tính đường lối mình, nhưng Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người. (16:9)
Lòng vua như dòng nước trong tay Đức Giê-hô-va; Ngài xoay hướng nó theo ý muốn của Ngài. (21:1)
“Chẳng có sự khôn ngoan nào, sự thông minh nào, hay là mưu kế nào, Mà chống địch Đức Giê-hô-va được. Ngựa sắm sửa về ngày tranh chiến; Nhưng sự thắng trận thuộc về Đức Giê-hô-va” (21:30-31)
Bài ca của Môi-se trong Xuất Ê-díp-tô ký 15 là minh họa đầy đủ cho niềm tin này rằng Chúa cai trị trực tiếp trong sự phán xét và ban phước. Và trong Tân Ước, Phao-lô khẳng định rằng các chính quyền của con người được Chúa chỉ định (Rô-ma 13:1).
Nói tất cả những điều này không phải là phủ nhận rằng Kinh thánh trình bày những con người thực sự đang hành động và sống trong những tình huống thực tế. Chỉ đơn giản là khẳng định rằng những người đặt đức tin vào Chúa có cảm giác về quyền tối cao của Chúa đến mức họ nhìn thấy hoạt động của Ngài ở mọi thời điểm và mọi cấp độ. Họ khẳng định điều này mà không phủ nhận rằng Chúa thường hành động thông qua những gì chúng ta gọi là các sự kiện tự nhiên hoặc qua những con người cụ thể. Một ví dụ điển hình là câu chuyện của Giô-sép. Các anh trai của ông đã bán ông làm nô lệ và do đó ông đã bị đưa vào Ai Cập. Tuy nhiên, điều được cho là hành động xấu xa, Chúa đã biến thành phương tiện ban phước cho các con trai của Gia-cốp. Giô-sép nói với các anh em, “các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo” (Sáng thế ký 50:20).
Mặc dù quyền cai trị phổ quát của Chúa là điều không thể hiểu được, nhưng các khía cạnh của nó lại rõ ràng hơn trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên cho đến thời Chúa Giê-su hơn là trong lịch sử thế giới kể từ thời Chúa Giê-su. Lý do cho điều này là chúng ta có bản văn Kinh thánh về mối quan hệ giao ước của Chúa với Y-sơ-ra-ên, và từ đó chúng ta có thể học được nhiều điều về quyền cai trị của Ngài trong thời Cựu Ước. Ngược lại, chúng ta không có chìa khóa tương đương để mở khóa ý nghĩa của các sự kiện trong lịch sử hiện đại khi tuyển dân Y-sơ-ra-ên không được tìm thấy ở một quốc gia, mà ở nhiều quốc gia. Đây là lý do tại sao rất khó để đưa ra câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi “Chúa đang làm gì trên thế giới ngày nay?” Nhiều Cơ đốc nhân hiện đại đặt ra câu hỏi này khi họ muốn biết ý muốn của Chúa đối với xã hội nói chung là gì và họ nên làm gì để làm việc cho Chúa. Câu trả lời sẽ được đưa ra trong luận văn này.
Ở đây chúng ta nhấn mạnh rằng sự xuất hiện của Tin lành về Nước Đức Chúa Trời trong cuộc đời và chức vụ của Chúa Giê-su Christ đã có những tác động quan trọng trong lịch sử thế giới.
Sự xuất hiện của lời tuyên bố và sự hiện diện của Cơ đốc giáo đã mang đến cho lịch sử loài người một ý tưởng mới về ý nghĩa của việc làm người. Giá trị của cuộc sống cá nhân mà
Các lời dạy về Vương quốc đã được các xã hội loài người tiếp nhận một vài phần. Do đó, về nguồn gốc, toàn bộ phong trào đòi quyền con người, quyền công dân và quyền tự do của các dân tộc thuộc địa hoặc bị nô dịch có thể bắt nguồn từ việc công bố tin lành về Nước Đức Chúa Trời.
Có thể đưa ra những ví dụ khác về những tác động đầy ý nghĩa của Vương quốc.
Hôn nhân, tình dục và đời sống gia đình, mặc dù hiện nay có thể đang suy giảm ở phương Tây, Nhưng trong buổi ban đầu được tôn vinh nhờ tác động của phúc âm.
Vua của các quốc gia và các quyền năng của tự nhiên không còn được xem là thần thánh. Nguyên tắc của các sứ đồ là “chúng ta phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời con người” cuối cùng đã có tác dụng khiến nhà nước và vua trở nên phàm trần, không phải là thần thánh. Và việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của nhân loại chỉ có thể thực hiện được vì lời tuyên bố của phúc âm đã xóa bỏ những ý tưởng cổ xưa liên quan đến các thế lực thần thánh trong tự nhiên.
Tuy nhiên, nơi mà Vương quốc của Chúa có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến xã hội loài người, thì vương quốc của Sa-tan không ở đâu xa, tìm cách thay đổi hướng đi và nội dung của Vương quốc Đức Chúa Trời. Điều này, nói lên bản chất tội lỗi của nhân loại được ma quỉ cổ xúy. Nó giải thích tại sao nhiều điều và phong trào tốt đẹp và cao quý có thể dễ dàng trở thành phương tiện để tuyên bố quyền tự do thái quá và ích kỷ của con người thay vì sự cai trị nhân từ, tối cao của Đức Chúa Trời.
Quay trở lại với những gì được khẳng định rõ ràng trong Kinh thánh, chúng ta phải lưu ý rằng một phần trong sự trình bày về Chúa Giê-su là Đấng Mê-si và Chúa được tôn vinh về sự cai trị của Ngài đối với vũ trụ. Sau khi phục sinh, chính Chúa Giê-su đã nói: “Mọi quyền bính trên trời và dưới đất đã được trao cho ta” (Ma-thi-ơ 28:18). Giăng giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên Con của Đức Chúa Trời được tôn cao, Đấng chắc chắn sẽ chiến thắng kẻ thù của Ngài vì Ngài là “Chúa của các Chúa và Vua của các vua” (Khải huyền 17:14). Và Phao-lô nói về Đấng Christ đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời, “cao hơn mọi quyền cai trị, mọi thẩm quyền, mọi thế lực và mọi quyền thống trị, và cao hơn mọi danh được xưng ra, không những trong thời đại này mà cả trong thời đại sắp đến; và Đức Chúa Trời đã đặt mọi vật dưới chân Ngài và lập Ngài làm đầu Hội thánh” (Ê-phê-sô 1:21- 22).
Sự cai trị của Đấng Christ không được coi là tồn tại song song hoặc tách biệt với sự cai trị chung của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Thay vào đó, kể từ khi Đấng Christ thăng thiên, quyền cai trị của Đức Chúa Trời duy nhất đã được tập trung và cụ thể hóa trong Đấng Christ là Ngôi hai của ba Ngôi đã mang lấy bản chất con người. Vì vậy, vào cuối thời đại này, mọi lưỡi sẽ “xưng nhận Đức Chúa Giê-su Christ là Chúa, để tôn vinh Đức Chúa Trời, là Cha” (Phi-líp 2:11).
Khi kết thúc phần này, chúng ta cần khẳng định một lần nữa rằng sự cai trị tối cao của Đức Chúa Trời trên vũ trụ và lịch sử là một quan điểm cơ bản của Cơ đốc giáo không thể bị loại bỏ. Đức Chúa Trời đã tạo ra vũ trụ, và Ngài sẽ đưa nó đến Vương quốc của Ngài. Nhiệm vụ của chúng ta là tìm cách hiểu các qui luật và đặc tính của Vương quốc và sau đó áp dụng vào xã hội mà chúng ta đang sống.
Sứ mệnh truyền giáo là công việc của Chúa Ba Ngôi, trong đó Ngài truyền lệnh cho dân sự được cứu chuộc của Ngài, tức là Hội thánh, phải tham gia (Ma-thi-ơ 28:19). Nó bắt đầu khi Chúa Cha sai Chúa Con và rồi Chúa Con sai Chúa Thánh Linh đi vào thế giới (Giăng 3:16; 16:7-11). Sứ mệnh rao giảng phúc âm Vương quốc là công việc mà Chúa Giê-su, Con Nhập thể, đã tham gia vào (Lu-ca 4:18, 19). Hội thánh cậy ơn Chúa công bố và chứng kiến sự xuất hiện của vương quốc Đức Chúa Trời trong kinh nghiệm của con người. Truyền giáo là mang Vương quốc của Đức Chúa Trời vào cuộc sống con người. Sống dưới Vương quốc Đức Chúa Trời được trọn vẹn khi quyền lực của Sa-tan và tội lỗi bị phá vỡ. Sứ mệnh rao giảng Vương quốc ngày nay không chỉ đơn thuần là việc phái “các nhà truyền giáo” ra nước ngoài hoặc tổ chức các chiến dịch truyền giáo tại quê nhà. Đây là toàn bộ hoạt động của dân sự Chúa dù họ ở bất kỳ vũng lãnh thổ nào trên thế giới. Đây là hội thánh làm việc cùng với Chúa trong mối quan hệ của Ngài với thế giới.
Bản thân Phi-e-rơ, người rất gắn bó với sứ mệnh, đã nói về việc chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Phi-e-rơ 3:13). Niềm hy vọng này là bản tóm tắt về niềm hy vọng của các tiên tri trong giao ước cũ. Chúng ta có thể đem niềm hy vọng này sang các thuật ngữ hiện đại như sau: hội thánh hy vọng và cầu nguyện cho trật tự mới của thực tại đã được mặc khải trong Chúa Giê-su Christ và sẽ hiện diện trọn vẹn sau khi Ngài tái lâm. Nó sẽ bao gồm mối quan hệ hoàn hảo giữa con người và Đức Chúa Trời; giữa các giới tính, thế hệ và chủng tộc.
Chúng ta nhận ra rằng chỉ có Chúa mới có thể mang vương quốc của Ngài đến và chiến thắng vương quốc của sự tối tăm.
Hội thánh trong sứ mệnh rao giảng Vương quốc và sống trong quyền năng của Thánh Linh để công bố sự xuất hiện của vương quốc ở đây và ngay bây giờ, và để trải nghiệm nếp sống vương quốc hiện đang được thể hiện một phần trong sự mong đợi về sự viên mãn của vương quốc trong thời đại sắp đến.
Chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của hội thánh bước đi trong quyền năng của Đức Thánh Linh, để hoàn thành đại mạng lệnh rao giảng phúc âm Vương quốc. Khi thiếu vắng quyền năng của Đức Thánh Linh, thì hội thánh đã đánh mất sứ mạng của mình.
Rao giảng tin lành về Vương quốc sẽ có bốn yếu tố cần thiết sau đây. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng tất cả những điều này phải được tiến hành cùng một lúc, theo gương của Chúa Giê-su, Ngài đã rao giảng, dạy dỗ về tin lành Nước Đức Chúa Trời, tha thứ tội lỗi, đuổi quỷ và chữa lành người bệnh (xem Lu-ca 4:17).
-Trước hết, chắc chắn sẽ liên quan đến việc đưa mọi người đến để tuyên xưng rằng Chúa Giê-su là Vua và là con đường duy nhất để vào vương quốc (Giăng 14:6). Không thể có vương quốc của Đức Chúa Trời ở đây và bây giờ trừ khi Chúa Giê-su Christ hiện diện bởi Thánh Linh trong tấm lòng của tín nhân. Vì vậy, câu chuyện về Chúa Giê-su đã chết và sống lại để làm Vua của vương quốc đời đời phải được công bố. Chúa Giê-su được ban cho thế giới, nhưng được ban cho theo cách của Đức Chúa Trời không phải theo cách của chúng ta. Đức Chúa Trời không chấp thuận cho những nỗ lực của chúng ta nhằm thao túng phúc âm vương quốc theo ý tưởng riêng của mình. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Cha giới thiệu về Chúa Con trong quyền năng của Chúa Thánh Linh, thông qua các sứ giả được Ngài chọn. Chỉ có thông điệp này thực sự là thông điệp về sự cứu rỗi. Nhiệm vụ này có nghĩa là những người rao giảng không chỉ cần biết chính xác phúc âm về vương quốc là gì mà còn cần biết cách tốt nhất để truyền đạt nó trong một bối cảnh văn hóa cụ thể.
-Thứ hai, việc kêu gọi những người xưng nhận Chúa Giê-su là Cứu Chúa. Họ phải thực sự ăn năn và cải đạo. Ăn năn bao gồm một sự thay đổi triệt để về tâm trí đối với Chúa và thế giới của Ngài, trong khi cải đạo bao gồm một sự thay đổi triệt để về phong cách sống. Ví dụ như những người theo Ấn Độ giáo trước đây, có thay đổi rõ ràng trong nếp sống sẽ là tham dự nhà thờ Cơ đốc chứ không phải đến đền thờ địa phương như truyền thống trước đây.
Nhưng còn về sự cải đạo trong xã hội phương Tây, nơi mà mọi người đều cho rằng mình là Cơ đốc nhân thì sao? Chắc chắn ở đây sự ăn năn và cải đạo thực sự phải được nhìn thấy trong một phong cách sống khác biệt. Do đó, trong một gia đình Cơ đốc giáo chân chính, thái độ đối với vấn đề sử dụng thực phẩm, phương tiện công nghệ, tivi, điện thoại, ô tô, kỳ nghỉ, giáo dục, công việc và cuộc sống gia đình sẽ phản ánh rằng vương quốc đã đến trong gia đình. Mọi thứ sẽ được coi là thuộc về Vua và do đó được sử dụng để phục vụ Ngài. Rất nhiều người tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si mà không ăn năn và thay đổi nếp sống. Cuộc sống hàng ngày của họ dường như chỉ khác với người hàng xóm ở một khía cạnh, đó là họ đi nhà thờ vào Chủ Nhật. Chúng ta phải biết rằng một người đi nhà thờ Cơ đốc vào Chủ nhật là tốt, nhưng nó không bảo đảm rằng người đó đã ăn năn và có một sự nối kết cá nhân với Đức Chúa Trời.
-Thứ ba, sứ mệnh của hội thánh Chúa sẽ bao gồm việc tham gia chiến trận thuộc linh chống lại mọi thứ làm ô uế con người và khiến họ trở thành nô lệ cho các thế lực của kẻ ác trên thế giới. Mặc dù vô hình, những thế lực này nằm trong tay Sa-tan và chúng hoạt động thông qua các khía cạnh của xã hội và văn hóa loài người.
Phao-lô mô tả chúng một cách sống động trong Ê-phê-sô 6:10-20. Ở một nơi trên thế giới, các thế lực của kẻ ác có thể nuôi dưỡng sự ngu dốt, bệnh tật, nghèo đói và phân biệt đối xử, trong khi ở một nơi khác, chúng có thể khuyến khích chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, những khuynh hướng đối kháng với Kinh thánh về hôn nhân, tình dục, đống tính luyên ái, sự tôn thờ ảo tưởng về sự giàu có và sức mạnh của khoa học, công nghệ. Do đó, trong một khu vực và nền văn hóa nhất định, các hội thánh phải nhận ra những gì Sa-tan đang làm để trói buộc con người vào gông cùm của nó, và khi các Cơ đốc nhân công bố phúc âm Vương quốc, họ phải kêu cầu Chúa và làm việc để giải thoát mọi người khỏi xiềng xích của Sa-tan. Vì vậy, các hội thánh phải tham gia vào các nhiệm vụ giáo dục, y tế, lập kế hoạch xã hội và các mục vụ thiết yếu khác. Cách hội thánh tham gia sẽ liên quan đến bản chất của xã hội cụ thể mà họ là nhân chứng của Vương quốc Đức Chúa Trời. Không có bản thiết kế đơn giản nào có thể áp dụng cho mọi thời đại và mọi nơi. Tuy nhiên Chúa Giê-su và chức vụ của Ngài cung cấp một mô hình mẫu cho mọi thời kỳ và nơi chốn.
Lu-ca ghi lại điều này:
“Có người trao sách tiên tri Ê-sai cho Ngài, Ngài dở ra, gặp chỗ có chép rằng: Thần của Chúa ngự trên ta: Vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ nghèo; Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, Kẻ mù được sáng, Kẻ bị hà hiếp được tự do; Và để đồn ra năm lành của Chúa.
Đoạn, Ngài xếp sách, trả lại cho kẻ giúp việc, rồi ngồi xuống; mọi người trong nhà hội đều chăm chỉ ngó Ngài. Ngài bèn phán rằng: Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà các ngươi mới vừa nghe đó” (Lu-ca 4:17-21).
“Kẻ bị cầm được tha, Kẻ mù được sáng, Kẻ bị hà hiếp được tự do; Và để đồn ra năm lành của Chúa” là mục vụ mà hội thánh trong các thời đại đều phải thực hiện. Đây chính là giới thiệu tích cực các bằng chứng về sự hiện diện của vương quốc Đức Chúa Trời. “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi” (Lu-ca 17:21).
-Thứ tư, sứ mệnh của hội thánh Chúa là cầu nguyện cho mọi người trên thế giới và những nhu cầu hiển nhiên của họ. Những người chưa tin Chúa không cầu nguyện với Đức Chúa Trời cho chính mình, và do đó, dân sự của Chúa phải cầu thay cho họ. Phao-lô khích lệ Ti-mô-thê, “Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn” (1 Ti-mô-thê 2:1-2).
VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA TRONG XÃ HỘI
Cơ đốc nhân quan tâm đến công lý trên thế giới tin rằng Chúa đang hành động trong xã hội loài người để mang lại công lý của Ngài. Do đó, họ cho rằng, nhiệm vụ của hội thánh là phải nhận ra hoạt động này của Chúa và đồng công với Ngài.
Cựu Ước làm rõ và Tân Ước xác nhận rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của công lý. Danh từ tiếng Hê-bơ-rơ mishpat xuất hiện 389 lần trong Cựu Ước và có ba ý nghĩa. Nó được sử dụng để chỉ tính cách và bản chất của chính Chúa: “Sự công bình và sự chánh trực là nền của ngôi Chúa” (Thi thiên 89:14). Nó được sử dụng để chỉ điều mà tính cách và luật pháp của Chúa đòi hỏi ở con người: “Điều mà Đức Giê-hô-va đòi ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao?” (Mi-chê 6:8). Và nó được sử dụng để chỉ điều mà người nghèo, người bị tước đoạt và người bị áp bức phải được hưởng và con cái của Chúa phải giúp đỡ họ. “Ngươi không được làm sai lệch công lý đối với người nghèo trong vụ kiện của họ” (Xuất Ê-díp-tô ký 23:6). Vì vậy, công lý là một chủ đề phong phú trong Kinh thánh. Nó truyền tải ý tưởng rằng hành động của Chúa luôn đúng vì chúng xuất phát từ tình yêu của Chúa đòi hỏi tất cả những gì đúng đắn theo công lý phải thắng thế trong mọi mối quan hệ của con người.
Chính vì những cân nhắc như ý tưởng về công lý mà giáo sư Thần học Hendrikus Berkhof đã viết: “Trong cuộc đấu tranh cho một sự tồn tại đích thực của con người, cho sự giải thoát khỏi đau khổ, cho sự nâng cao của những người kém phát triển, cho sự cứu chuộc những người bị giam cầm, cho sự ổn định của các khác biệt về chủng tộc và giai cấp, cho sự phản đối hỗn loạn, tội phạm, đau khổ, bệnh tật và sự ngu dốt nói tóm lại, cuộc đấu tranh cho cái mà chúng ta gọi là sự tiến bộ – một hoạt động đang diễn ra trên khắp thế giới để tôn vinh Chúa Giê-su. Đôi khi nó được thực hiện bởi những người biết và mong muốn nó; nó cũng có thể được thực hiện bởi những người không quan tâm đến nó, nhưng công sức của họ chứng minh rằng Chúa Giê-su thực sự đã nhận được một cách khách quan đầy đủ – tất cả quyền năng trên trái đất.”1
Loại tuyên bố này thách thức chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ý tưởng về vương quốc của Chúa và sự công bình của nó. Điều này cũng gợi ý cho chúng ta biết về những gì Chúa đang làm trên thế giới.
Từ giáo lý cho rằng Chúa là Đấng cai trị mọi quốc gia và là Đấng phán xét công chính, chúng ta có thể khẳng định rằng Ngài đòi hỏi và mong đợi những tiêu chuẩn đạo đức nhất định giữa mọi dân tộc và quốc gia. Những yêu cầu của Chúa được nêu trong các sách Ngũ Kinh của Môi-se cho một xã hội công bằng ở Y-sơ-ra-ên đã được tóm tắt đầy đủ như sau cho Hội thánh trong sứ mạng về xã hội:
1. Con người và tài sản của mọi người đều phải được bảo đảm.
2. Mọi người đều phải nhận được thành quả lao động của mình.
3. Mọi người đều được bảo vệ khỏi sự vu khống và cáo buộc sai trái.
4. Mọi người đều được tự do ra tòa và được xét xử công bằng.
5. Mọi người đều được chia sẻ hoa lợi của đất đai.
6. Mọi người, từ người thấp hèn nhất đến người ngoại kiều, đều được chia sẻ phần còn lại hàng tuần của ngày sa-bát của Chúa.
7. Phẩm giá và quyền trở thành người được giải phóng và tôi tớ của Đức Giê-hô-va của mọi người Y-sơ-ra-ên đều được tôn trọng và bảo vệ.
8. Gia tài thừa kế của mọi người Y-sơ-ra-ên ở vùng đất hứa đều được bảo đảm.
9. Không phụ nữ nào bị lợi dụng trong địa vị thấp kém của họ trong xã hội.
10. Không ai, dù tàn tật, nghèo đói hay bất lực bị áp bức hay bóc lột.
11. Không ai được đứng trên luật pháp, ngay cả vua.
12. Vị trí mà Chúa ban cho mỗi người trong cấu trúc xã hội phải được tôn trọng.
13. Hình phạt cho hành vi sai trái không được quá lớn đến mức thủ phạm bị mất nhân tính.
14. Quan tâm đến phúc lợi của các sinh vật khác phải được mở rộng sang thế giới động vật.2
Những yêu cầu này có thể được coi là minh họa cho ý nghĩa của tình yêu thương đối với người lân cận (Lê-vi ký 19:18, 34). Các tiên tri của Y-sơ-ra-ên đã lên án sự gian ác, nghèo đói, đói khát, vô đạo đức, vô tín, lừa dối và đồi trụy không chỉ ở Y-sơ-ra-ên mà còn ở các quốc gia xung quanh (Ê-sai 13-19 và A-mốt 1:3-15). Phao-lô cũng làm như vậy (Rô-ma 1:18).
Vì vậy, sứ mệnh của Cơ đốc nhân là kêu gọi các quốc gia bằng các phương tiện và phương pháp thích hợp phát triển một nền đạo đức cơ bản duy trì sự trung thực, liêm chính, công lý và thương xót. Đạo đức cơ bản này cũng sẽ bao gồm mối quan tâm giúp đỡ người nghèo, người bị tước đoạt và người bị ruồng bỏ trong xã hội. Sự nhấn mạnh này được tìm thấy trong Luật pháp của Môi-se. “Ngươi chớ hà hiếp kẻ làm mướn nghèo khổ và túng cùng, bất luận anh em mình hay là khách lạ kiều ngụ trong xứ và trong thành ngươi” (Phục truyền luật lệ ký 24:14). Và chúng ta thấy ý muốn của Đức Chúa Trời là Ngài thực hiện, “đoán xét công bình cho kẻ bị hà hiếp, Và ban bánh cho người đói. Đức Giê-hô-va giải phóng người bị tù. Đức Giê-hô-va mở mắt cho người đui; Đức Giê-hô-va sửa ngay lại những kẻ cong khom; Đức Giê-hô-va yêu mến người công bình; Đức Giê-hô-va bảo hộ khách lạ, Nâng đỡ kẻ mồ côi và người góa bụa; Nhưng Ngài làm cong quẹo con đường kẻ ác” (Thi thiên 146:7-9).
Vương quốc hoàn hảo trong tương lai của Chúa (Vương quốc thiên hy niên) sẽ đến vào cuối thời đại này. Và các mô tả về vương quốc công lý của Đấng Mê-si trong Ê-sai 11:6-9, “Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đang bú sẽ chơi kề ổ rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của ta; vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước che lấp biển.” Chúng ta có thể suy ra rằng những gì Chúa mong muốn và chắc chắn hội thánh phải đồng công với Ngài trong thời điểm hiện tại. Vì vậy, nếu có công lý, hòa bình, tình yêu, sự hòa hợp và sự công chính hoàn hảo trong các mối quan hệ của vương quốc tương lai, thì Chúa chấp thuận và hỗ trợ mọi động thái trong xã hội loài người theo hướng này. Có thể sự lý luận này không được dạy rõ ràng trong Kinh thánh và việc suy luận từ những gì sẽ xảy ra thành những gì nên xảy ra có thể không hợp lệ. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng điều này đáng để cân nhắc và suy nghĩ thấu đáo.
Ngoài những gì liên quan đến ý tưởng về vương quốc của Chúa, còn có hai nguyên tắc khác xác nhận và củng cố niềm tin rằng các Cơ đốc nhân có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy công lý trong xã hội loài người. Nguyên tắc đầu tiên trong số này là học thuyết cơ bản rằng con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa (Sáng thế ký 1:27). Bất kể ý nghĩa đầy đủ của học thuyết này là gì, thì nó chắc chắn bao gồm ý tưởng rằng con người được Chúa tạo ra và yêu thương. Bất kỳ người nào nên được đối xử trong xã hội theo cách công nhận mối quan hệ của mình với Chúa.
Nói tóm lại, con người phải được đối xử công bằng và không bị đối xử như nạn nhân, bị phân biệt đối xử, bị ngược đãi, bị biến chất, phi nhân tính hóa hoặc bị lạm dụng. Thứ hai là lẽ thật xác nhận rằng Đức Chúa Giê-su đã trở thành người để chia sẻ và cảm thông với nỗi đau của chúng ta. Việc Ngài tình nguyện làm như vậy mang lại phẩm giá vô biên cho bản chất con người mà chúng ta không thể bỏ qua.
Do đó, rõ ràng rằng Chúa muốn công lý của Ngài được thực hiện trong xã hội loài người và Ngài mong đợi các công dân vương quốc tìm cách thúc đẩy công lý đó khi họ tham gia vào sứ mệnh truyền giáo cho thế giới. Ở các quốc gia phương Tây, điều này chắc chắn sẽ liên quan đến việc các Cơ đốc nhân thâm nhập vào xã hội ở mọi cấp độ và tìm cách giới thiệu phúc âm vương quốc qua nếp sống đạo gương mẫu của mình.
Ngoài ra, điều này sẽ liên quan đến việc sử dụng mọi phương tiện hợp pháp có sẵn để đưa luật pháp của đất nước phù hợp với các nguyên tắc đạo đức cơ bản trong Kinh thánh. Hoa Kỳ trong buổi bình minh lập quốc được xây dựng nền tảng trên quyển Kinh thánh. Trong một số trường hợp, điều này sẽ liên quan đến việc thay đổi cấu trúc của xã hội.
Hội thánh của Đức Chúa Trời hay hội thánh của Đấng Christ không gì khác hơn là muối của đất – thêm hương vị cho xã hội bằng đức hạnh thực sự, và ánh sáng của thế gian – dẫn dắt xã hội đến với sự hiểu biết về ý muốn của Chúa. Trong nhiệm vụ này chắc chắn có chỗ cho những tuyên bố công khai của các giáo hội và các nhà lãnh đạo về một vấn đề đạo đức, ví dụ như phân biệt chủng tộc, phá thai và án tử hình. Tuy nhiên, không có gì có thể có ảnh hưởng lớn như tấm gương và lời chứng của toàn thể cộng đồng Cơ đốc sống theo phúc âm, và của các cá nhân hoặc nhóm Cơ đốc thâm nhập vào xã hội trong công việc hàng ngày và thực hành sự tham gia vào các lĩnh vực xã hội và ngay cả trong chính trị. Chủ đề chính trị và vương quốc sẽ được phát triển bổ sung thêm trong chương 9 của luận văn này.
Trên thế giới có nhiều tổ chức giáo dục, y tế và cứu trợ khác nhau tham gia vào công việc mà Chúa chấp thuận, mặc dù chúng không phải là tổ chức Cơ đốc. Các Cơ đốc nhân trong sứ mệnh của mình sẽ cảm thấy cần phải làm việc và hỗ trợ các tổ chức như vậy. Con người được tạo ra theo ảnh tượng của Chúa và, mặc dù là tội nhân, lương tâm con người vẫn mong muốn những điều tốt đẹp, đúng đắn và đẹp đẽ. Vì vậy, mong muốn giúp đỡ những con người đau khổ là có thật và đúng đắn, và Chúa trong sự quan phòng của Ngài, sử dụng mong muốn này và các tổ chức này để phục vụ những người kém may mắn. Công lý của Chúa thường được thực hiện bằng những phương tiện khiến chúng ta ngạc nhiên, đặc biệt là trong những tình huống khẩn cấp do bão, núi lửa, bệnh dịch… tạo ra. Vào những lúc như vậy, những Cơ đốc nhân sẽ vui vẻ làm việc với tất cả những người khác muốn giảm bớt đau khổ cho các nạn nhân. Tuy nhiên về lâu dài khi một triết lý sống đối kháng với Phúc âm vương quốc trong một tổ chức cứu trợ, thì các tín nhân có thể chọn không làm việc với các tổ chức cứu trợ đó.
Tổ chức Samaritan’s Purse của Franklin Grahham3 đã hoạt động trên căn bản Lời Chúa. Cho dù mọi dự án hay kế hoạch của tổ chức này có thể không làm hài lòng tất cả mọi người. Nhưng rõ ràng là nó đã mang lại công lý và lòng thương xót của Đức Chúa Trời cho xã hội loài người, bất kể mọi đối tượng. Chúng ta biết rằng trong ngày phán xét, vị quan án công bình là Chúa Giê-su sẽ thưởng phạt cách công minh với tất cả hành động, việc làm từ thiện hay những việc biết mà không làm của chúng ta. “Vua sẽ trả lời rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy” (Ma-thi-ơ 25:40).
Làm thế nào những công dân nước trời có thể hoàn thành sứ mạng Chúa giao trong công tác phục vụ xã hội?
Những công dân của Vương quốc cần cậy vào ơn ban của Chúa để hoàn thành sứ mạng Chúa giao trong xã hội loài người.
Trong sách Thực hành luật pháp nước trời, Mục sư
Phan Phụng Hưng đã viết:
Tiến trình nghe, tiếp nhận, hiểu thấu và thực hành của công dân vương quốc được
bày tỏ qua công việc của Chúa trong lòng người như sau:
Nhắc lại để nhớ: “Nhưng Đấng Yên ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha
sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các
ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi” (Giăng 14:26).
Soi dẫn để hiểu: “Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Giăng 16:13).
Ban năng lực để vâng theo: “Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo” (Ê-xê-chi-ên 36:27)
Chính Chúa ban năng lực để chúng ta có thể vâng theo và thực hành lời dạy của Ngài trong sứ mạng trở thành muối của đất và ánh sáng của thế gian. Trong cuộc sống, trong những bước đường thực hành sự dạy dỗ của Chúa, sứ đồ Phao-lô khuyến khích chúng ta nhờ cậy mọi năng lực của Chúa. Ông viết, “Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài” (Ê-phê-sô 6:10). Và vị sứ dồ cũng viết, “Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô-ma 8:37). Cuối cùng Phao-lô tổng kết những gì ông có thể làm được trong chức vụ của mình, “Ấy cũng là vì đó mà tôi làm việc, nhờ Ngài giúp đỡ mà chiến đấu, là sức hành động cách có quyền trong tôi” (Cô-lô-se 1:29), và “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).4
KẾT LUẬN
Chương này đã nêu ra một số vấn đề thực tế về xã hội và vương quốc. Trước hết, Chúa là Đấng cai trị lịch sử thế giới và Ngài sẽ đưa lịch sử đến hồi chung kết theo thời điểm của Ngài. Đây là niềm tin của Cơ đốc nhân. Thứ hai, phúc âm về vương quốc không chỉ là lời kêu gọi tin tưởng cá nhân vào Đức Chúa Trời và vào Chúa Giê-su, mà còn là lời kêu gọi ăn năn về thái độ và lối sống. Đây là nguồn thách thức đối với cả Hội thánh và các gia đình Cơ đốc. Thứ ba, việc rao giảng về vương quốc cho mọi người phải tính đến những tình huống thực tế mà họ đang sống, để sự giải phóng của vương quốc sẽ được trải nghiệm theo những cách cụ thể. Đây là lời kêu gọi rao giảng phúc âm vương quốc được công bố trong quyền năng của Thánh Linh bởi một cộng đồng sống theo phúc âm. Và thứ tư, trở thành công dân của vương quốc mang đến những trách nhiệm xã hội phải được thực hiện trong quá trình theo đuổi công lý trong xã hội loài người. Đây là một nhiệm vụ cần phải được thực hiện, và phải được thực hiện với sự chuẩn bị đầy đủ.
Đây là một tuyên bố về trách nhiệm xã hội của Cơ đốc giáo được trích từ Giao ước Lausanne vào năm 1974:
Chúng tôi khẳng định rằng Đức Chúa Trời vừa là Đấng Tạo hóa vừa là Đấng Phán xét mọi người. Do đó, chúng ta nên chia sẻ mối quan tâm của Ngài đối với công lý và sự hòa giải trong toàn xã hội loài người và giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức. Bởi vì nhân loại được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, nên mọi người, bất kể chủng tộc, tôn giáo, màu da, văn hóa, giai cấp, giới tính hay tuổi tác, đều có phẩm giá nội tại mà vì thế họ phải được tôn trọng và phục vụ, chứ không phải bị bóc lột. Ở đây, chúng tôi cũng bày tỏ sự ăn năn vì sự sao nhãng của mình và đôi khi coi công tác truyền giáo và mối quan tâm xã hội là hai điều loại trừ lẫn nhau. Mặc dù sự hòa giải giữa con người với nhau chưa phải là sự hòa giải với Chúa, cũng không phải là chủ nghĩa truyền giáo tập chú vào xã hội, tuy nhiên chúng tôi khẳng định rằng truyền giáo và sự tham gia vào các công tác xã hội đều là một phần trong sứ mạng của chúng tôi. Vì cả hai đều là những biểu hiện cần thiết của giáo lý về Chúa và con người, tình yêu của chúng ta đối với người lân cận và sự vâng phục của chúng ta đối với Chúa Giê-su Christ. Sứ điệp cứu rỗi cũng ngụ ý một sứ điệp phán xét mọi hình thức xa lánh, áp bức và phân biệt đối xử với người đồng loại, và chúng ta không nên sợ hãi khi lên án cái ác và bất công ở bất cứ nơi nào chúng tồn tại. Khi mọi người tiếp nhận Chúa Giê-su, họ được tái sinh vào vương quốc Đức Chúa Trời và sau đó phải tìm cách không chỉ thể hiện mà còn truyền bá sự công chính của Ngài giữa một thế giới bất chính và hỗn loạn. Sự cứu rỗi mà chúng ta tuyên bố phải biến đổi chúng ta trong toàn bộ trách nhiệm cá nhân đối với xã hội. Đức tin không có việc làm thì chết.5
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 8
1. Hendrikus Berkhof . Christ the Meaning of History, trang 173.
2. The Church and Its Social Calling. 1979. p. 73. A Report. Grand Rapids. Reformed Ecumenical Synod, Một tuyên bố hữu ích về mối quan hệ giữa vương quốc, hội thánh và xã hội.
3. https://www.samaritanspurse.org. Ngày truy cập 3 tháng 4/2025
4. Phan Phụng Hưng. Thực hành luật pháp nước trời.Trang 384. Nhà xuất bản tôn giáo 2015.
5. Giao Ước Lausanne. https://lausanne.org/statement/lausanne-covenant. Truy cập ngày 2 tháng 3/2025
Là một tài liệu khẳng định niềm tin của các Giáo Hội Tin Lành trong một Đại Hội Quốc Tế về Truyền Giáo Thế Giới (World Evangelization) vào tháng 7, 1974, do Mục sư Billy Graham tổ chức. Số tham dự có 2 700 người, gồm 150 quốc gia. Nội dung của giao ước này là một sự quyết tâm truyền bá Tin lành cho thế giới, và làm nền tảng cho sự hỗ tương công tác truyền giáo trong các Giáo Hội Tin Lành trên thế giới.
Chương 9
Phúc âm Vương quốc ảnh hưởng đến chính trị như thế nào?
Hội thánh đầu tiên là một cộng đồng lý tưởng. Khi Chúa cai trị qua tấm lòng của dân Ngài, Ngài đã tạo ra một xã hội lý tưởng. Mọi người chia sẻ tài nguyên của họ. “Không ai cho rằng bất kỳ tài sản nào của mình là của riêng, nhưng họ chia sẻ mọi thứ mình có” (Công vụ 4:32), “Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của chung. Bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng của từng người” (Công vụ 2:44-45).
Cộng đồng này không có sự phân biệt giai cấp, không có xung đột giới tính, không có căng thẳng sắc tộc và không có chủ nghĩa bộ lạc. “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Giê-su Christ, anh em thảy đều làm một” (Ga-la-ti 3:28). Các thành viên của cộng đồng này không có bất kỳ xung đột nào. Giai cấp công nhân không thấy mình bị đối đầu với giai cấp thượng lưu. Khi họ được Đức Thánh Linh dẫn dắt, không ai nhìn những người nói ngôn ngữ khác, có màu da khác, hoặc theo chế độ ăn uống khác một cách nghi ngờ,
Tất cả mọi người trong cộng đồng này đều bình đẳng, và họ thuộc về nhau như một gia đình. Không ai có địa vị cao hơn bất kỳ ai khác, vì tất cả đều là con cái của Chúa và liên quan đến nhau như anh chị em, Chúa Giê-su đã dạy họ, “Nhưng các ngươi đừng chịu người ta gọi mình bằng thầy; vì các ngươi chỉ có một Thầy, và các ngươi hết thảy đều là anh em. Cũng đừng gọi người nào ở thế gian là cha mình; vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời. Cũng đừng chịu ai gọi mình là chủ; vì các ngươi chỉ có một Chủ, là Đấng Christ. Song ai lớn hơn hết trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi. Kẻ nào tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên” (Ma-thi-ơ 23:8-12).
Lời cảnh báo về thế giới này
Thánh Linh giúp hình thành nên một cộng đồng như vậy trên thế giới này, nhưng Tân Ước không cho chúng ta biết rằng toàn bộ xã hội sẽ được biến đổi theo cách này. Trong nhiều dịp, Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta rằng điều ngược lại sẽ xảy ra. Trong bài giảng về những điều sau cùng, ngài chuẩn bị cho các môn đồ của mình về một thực tế khắc nghiệt: “Dân này sẽ nổi lên chống lại dân kia, nước nọ chống lại nước kia. Sẽ có nạn đói và động đất ở nhiều nơi” (Ma-thi-ơ 24:7). Trong Bài giảng từ biệt, Ngài cảnh báo các môn đồ, “Trong thế gian này, các ngươi sẽ gặp hoạn nạn.” Và sau đó ngài nói thêm, “Nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian rồi” (Giăng 16:33).
Vậy thì dân sự của Đức Chúa Trời có nên rút lui khỏi thế gian này và chấp nhận sự thật rằng nó đã bị diệt vong và không thể cứu chuộc được không? Họ có nên tránh xa các thể chế thế tục, tránh xa chính trị và thay vào đó tập trung vào việc cứu rỗi linh hồn không? Nếu thế gian đang trên con đường phán xét không thể đảo ngược, thì các Cơ đốc nhân có nên tập trung nỗ lực của mình vào việc đưa càng nhiều người càng tốt ra khỏi thế gian và vào hội thánh không? Thái độ như vậy đối với xã hội dân sự có thể đòi hỏi sự ủng hộ đáng kể từ Kinh thánh, đặc biệt là từ sách Khải huyền. Trong sách tiên tri này, các vua của trái đất liên kết với Sa-tan và các thế lực chống Cơ Đốc giáo. Thậm chí còn có một lời kêu gọi trực tiếp để thoát khỏi thế gian tội lỗi này. Khi thiên sứ tuyên bố phán quyết trên Ba-by-lôn lớn, sứ đồ Giăng đã nghe thấy một giọng nói từ thiên đàng phán rằng: “”Hãy ra khỏi nó, hỡi dân ta,’ để các ngươi không dự phần vào tội lỗi của nó, để các ngươi không phải chịu bất kỳ tai họa nào của nó” (Khải huyền 18:4).
Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm nếu hiểu những từ này như một lời kêu gọi chung là hãy càng ít liên quan đến thế gian càng tốt. Trong sách Khải huyền, Ba-by-lôn tượng trưng cho sức mạnh kinh tế của Đế chế La Mã (so sánh Khải huyền 17). Kinh Thánh thường cảnh báo về sự giàu có và khả năng dụ dỗ mọi người tránh xa sự cam kết với Chúa Giê-su Christ của chúng ta. Bức chân dung Ba-by-lôn của Giăng cho thấy sự đồi trụy của những cuộc khai thác vật chất, đặc biệt là khi chúng dựa vào sự bóc lột những người kém may mắn hơn. Lời kêu gọi rời khỏi Ba-by-lôn không phải là lời cảnh báo chống lại sự tham gia vào xã hội nói chung mà là chống lại vẻ hào nhoáng của sự giàu có.
Quyền cai trị của Chúa, Vương quốc của Ngài tác động đến xã hội
Trong các bối cảnh khác, Tân Ước cho thấy rằng việc công bố quyền cai trị của Chúa có tác động sâu sắc đến xã hội. Theo lời rao giảng của Sứ đồ Phao-lô, thành phố Ê-phê-sô đã trải qua một cuộc phục hung. Thành phố lớn này đã thay đổi. Một số lượng lớn người dân tin vào phúc âm và quay lưng lại với các vị thần của tôn giáo truyền thống của họ. Một sự biến đổi như vậy sẽ không bị bỏ qua. Nó sẽ gây ra hậu quả ở mọi tầng lớp xã hội. Mọi người sẽ không còn tham gia vào các hoạt động thờ ngẫu tượng vốn là xương sống của mọi cuộc sống cộng đồng. Nền kinh tế của thành phố cũng sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc. Giáo phái quan trọng nhất ở Ê-phê-sô thờ nữ thần Đi-anh. Đền thờ của bà là nguồn thu nhập quan trọng cho thành phố. Nghề thợ bạc dựa vào nhu cầu về đền thờ bằng bạc dành riêng cho nữ thần Đi-anh. Khi Phao-lô dạy mọi người rằng các vị thần do bàn tay con người tạo ra không phải là thần, thì sự quan tâm đến các đền thờ như vậy sẽ tan biến và một nguồn thu nhập lớn sẽ cạn kiệt. Lo sợ cho tương lai của cuộc sống, người thợ bạc Đê-mê-triu đã kích động đám đông náo loạn. Chỉ có sự can thiệp khéo léo của viên thư ký thành phố mới ngăn được đám đông trở nên hung bạo (Công vụ 19:23-41). Sự việc này cho thấy sự tiến triển của phúc âm không chỉ được cảm nhận ở cấp độ cá nhân. Hiệu ứng lan tỏa của nó cũng được cảm nhận trong toàn xã hội. Nó ảnh hưởng đến các hoạt động tôn giáo, hoạt động xã hội và thậm chí là nền kinh tế.
“Lịch sử của hội thánh đã cho thấy phúc âm đã tác động như thế nào đến xã hội. Trong thế giới Hy Lạp-La Mã, những đứa trẻ không mong muốn thường bị giết ngay sau khi chúng được sinh ra. Giáo hội phản đối hoạt động này và nó đã bị một trong những hoàng đế Cơ đốc giáo đầu tiên, Valentinian I (364-375) cấm. Những người theo đạo Cơ đốc đã thành lập các bệnh viện từ thiện đầu tiên phục vụ công chúng. Họ cũng là những người tiên phong trong việc thành lập các trại trẻ mồ côi và các tổ chức chăm sóc người già.”1
Xu hướng chủ đạo trong suốt lịch sử là hội thánh tham gia vào xã hội và chính quyền dân sự. Những người tiếp nhận phúc âm biết rằng Chúa Giê-su là Chúa tể của tất cả mọi người và họ mong muốn thấy quyền lực của Ngài được tôn trọng trong toàn xã hội. Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất là những gì đã xảy ra ở thành phố Geneva của Thụy Sĩ vào thế kỷ XVI. Năm 1541, thành phố chính thức chấp nhận Cải cách Tin lành và thông qua một giáo đoàn Tin lành. Chính quyền thành phố được truyền cảm hứng từ nhà cải chánh John Calvin, ông đã dạy rằng chính quyền dân sự phải chịu trách nhiệm trước Chúa về cách họ cai trị xã hội.
Thành phố Geneva đã sử dụng luật pháp để đảm bảo lối sống Cơ đốc của công dân. Đó là yêu cầu pháp lý rằng mọi người phải đến nhà thờ vào Chủ Nhật. Luật cũng bao gồm quy định về trang phục cũng như các quy định về đời sống xã hội và cách mọi người có thể trang bị đồ đạc cho ngôi nhà của mình để tránh sự xa hoa vô đạo đức. Hình phạt cho hành vi vi phạm các luật này có thể rất nghiêm khắc. Năm 1553, nhà thần học người Tây Ban Nha Michael Servetus đã bị kết tội dị giáo. Vì ông đã phủ nhận Chúa Ba Ngôi và chỉ trích việc thực hành lễ báp-tem cho trẻ sơ sinh, ông đã bị kết án tử hình và bị thiêu sống. Những người cải cách ở Geneva có ý định tốt, nhưng lòng nhiệt thành với đức tin Cơ đốc đã bị sai lầm và dẫn đến hậu quả thảm khốc. Thật là sai lầm khi cố gắng cai trị xã hội như thể đó là cộng đồng hội thánh.
Một cách cai trị mới dưới giao ước mới trong Tân ước.
Cựu ước khác với Tân ước ở những điểm nào?
Trong Cựu Ước, Chúa đã thực hiện quyền cai trị của mình theo cách thưởng phạt. Ngài đã chọn Y-sơ-ra-ên làm dân của mình và ban cho họ những luật lệ tốt lành của Ngài. Ý muốn tốt lành của Chúa đã được ghi vào hiến pháp của quốc gia. Luật pháp nghiêm cấm việc không vâng lời Chúa và những ai làm như vậy sẽ bị trừng phạt. Nếu trẻ em liên tục không tôn trọng cha mẹ, chúng đang chống lại lệnh truyền của Chúa là phải tôn kính cha mẹ. Luật pháp của Y-sơ-ra-ên ra lệnh rằng những đứa trẻ như vậy phải bị xử tử. “Khi ai có một đứa con khó dạy và bội nghịch, không nghe theo lời cha mẹ, và mặc dầu bị trừng trị, nó vẫn không khứng vâng lời, thì cha mẹ phải bắt nó dẫn đến trước mặt các trưởng lão của thành mình, tại nơi cửa thành. Đoạn, cha mẹ sẽ nói cùng các trưởng lão của thành mình rằng: Nầy con chúng tôi khó dạy và bội nghịch, không vâng lời chúng tôi, làm kẻ hoang đàng say sưa. Bấy giờ, chúng dân thành ấy sẽ ném đá cho nó chết; như vậy ngươi sẽ cất sự ác khỏi giữa mình, và cả Y-sơ-ra-ên sẽ hay điều đó mà bắt sợ” (Phục truyền luật lệ ký 21:18-21).
Trong Cựu Ước, quyền cai trị của Chúa được áp đặt lên con người từ bên ngoài, thông qua luật pháp thành văn. Thể chế này là một phần trong kế hoạch hoàn hảo của Chúa, nhưng nó không tạo ra một xã hội tuân theo luật pháp Chúa. Quyền cai trị của Chúa không được hiện thực hóa thông qua luật pháp của Môi-se. Lịch sử của Y-sơ-ra-ên cho thấy rõ ràng rằng giao ước Môi-se không mang lại sự cai trị của Chúa. Cuối cùng, người dân Y-sơ-ra-ên đã mất tất cả. Thủ đô của họ là Giê-ru-sa-lem, đã bị người Ba-by-lôn chinh phục vào năm 586 TCN. Đền thờ của Chúa, tòa nhà mà Ngài đã chọn làm nơi hiện diện của Ngài, đã bị san bằng. Người dân bị lưu đày và mất vùng đất mà Chúa đã ban cho họ. Luật pháp Môi-se đã cho họ thấy một xã hội do Chúa cai trị sẽ như thế nào, nhưng tội lỗi của người dân đã ngăn cản xã hội đó thành hiện thực.
Khi những tín nhân không học được bài học từ lịch sử của Y-sơ-ra-ên, họ không hiểu được cách thức cai trị của Chúa được thể hiện ngày nay. Có nhiều Cơ đốc nhân tin rằng chúng ta có thể thúc đẩy sự nghiệp của Chúa bằng cách ban hành luật pháp theo ý muốn của Ngài. Họ lo ngại về sự vô đạo đức xung quanh và họ nghĩ rằng chúng ta cần luật pháp để thay đổi điều đó. Đọc những câu chuyện về sự trừng phạt của Chúa đối với Y-sơ-ra-ên, họ lo lắng rằng sự vô đạo đức của quốc gia họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Chúa. Họ không nghĩ rằng Chúa không còn đối xử với các quốc gia trên thế giới theo cách Ngài đối xử với Y-sơ-ra-ên theo giao ước cũ nữa. Lịch sử của Y-sơ-ra-ên cho thấy lý do tại sao Chúa cần phải làm mọi việc theo một cách khác.
Nhà tiên tri Giê-rê-mi hiểu được vấn đề của Y-sơ-ra-ên là gì, và ông nhận ra rằng quốc gia này cần một loại hiến pháp hoàn toàn khác. Họ cần một giao ước mới sẽ nội tại hóa luật pháp của Chúa.
“Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao ước nầy sẽ không theo giao ước mà ta đã kết với tổ phụ chúng nó trong ngày ta nắm tay dắt ra khỏi đất Ê-díp-tô, tức giao ước mà chúng nó đã phá đi, dầu rằng ta làm chồng chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ làm dân ta. Chúng nó ai nấy sẽ chẳng dạy kẻ lân cận mình hay là anh em mình, mà rằng: Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va, vì chúng nó thảy đều sẽ biết ta, kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn. Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ tha sự gian ác chúng nó, và chẳng nhớ tội chúng nó nữa” (Giê-rê-mi 31:31-34)
Theo giao ước mới, ý muốn của Đức Chúa Trời không còn được áp đặt lên con người từ bên ngoài, thông qua luật pháp viết ra. Nó đến từ bên trong, từ tấm lòng. Con người không cần người khác dạy họ về Chúa vì họ biết Ngài. Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời không còn là mối quan hệ được trung gian qua các thầy tế lễ và qua luật pháp thành văn nữa. Con người biết Đức Chúa Trời một cách cá nhân và thân mật. Họ làm theo ý muốn của Ngài không phải vì họ bị ép buộc mà vì họ muốn. Ý muốn của Đức Chúa Trời không còn ở bên ngoài nữa, mà là ở bên trong.
Luật pháp của xã hội sẽ luôn ở bên ngoài. Luật pháp có thể kiểm soát những gì con người làm bằng tay, nhưng chúng không bao giờ có thể kiểm soát được những gì trong lòng họ. Luật pháp của xã hội có thể cấm giết người, và chúng có thể quy định hình phạt thích đáng cho những kẻ phạm tội như vậy. Theo cách này, luật pháp có thể tạo ra đủ nỗi sợ hãi để không ai phạm tội giết người. Nhưng không có luật nào có thể kiểm soát được những gì sâu xa trong tấm lòng con người. Không có luật nào có thể quy định rằng mọi người phải yêu thương nhau.
Chúng ta có thể minh họa điều này bằng một thí nghiệm tư duy. Hãy tưởng tượng một xã hội cố gắng ban hành luật để hướng đến tình yêu và lòng tốt. Cơ quan quản lý của một xã hội như vậy có thể thông qua Đạo luật Tình yêu vị tha. Sẽ có một luật quy định rằng mọi người phải mỉm cười với nhau. Mỗi ngày, cảnh sát sẽ thẩm vấn tất cả công dân và hỏi họ rằng họ có chắc chắn mỉm cười mỗi khi tương tác với người khác không. Những người trả lời không sẽ phải vào tù. Bất kỳ ai nói chuyện giận dữ với người khác sẽ bị trừng phạt theo cách tương tự. Một luật khác sẽ nêu rõ rằng những hành động tử tế ngẫu nhiên là nghĩa vụ pháp lý đối với mọi người. Vào cuối mỗi tháng, Sở Thuế vụ nội địa sẽ yêu cầu tất cả công dân phải khai báo. Khai báo sẽ nêu chi tiết tất cả các hành động tử tế do mỗi cá nhân thực hiện. Nếu có vài người trong số họ vi phạm luật, cá nhân đó sẽ phải làm dịch vụ cộng đồng, thể hiện lòng tốt với những người nghèo. Chúng ta có thể tưởng tượng ra một xã hội hoạt động như thế này, nhưng tưởng tượng ra điều đó có nghĩa là nhận ra rằng nó không bao giờ có thể tồn tại.
Chính quyền dân sự không phải lúc nào cũng sử dụng hình phạt để đạt được mục tiêu của mình. Củ cà rốt thường có hiệu quả hơn cây gậy, và trong trường hợp của chính phủ, điều đó có nghĩa là tiền. Các lợi ích về thuế và trợ cấp trực tiếp thường đủ để khuyến khích người dân áp dụng hành vi mà chính phủ cho là mong muốn. Trong mọi trường hợp, bất cứ điều gì có thể đạt được thông qua các động cơ kinh tế đều chỉ giới hạn ở hành vi bên ngoài. Tiền không thể biến đổi con người và làm họ trở nên mới mẻ. Điều duy nhất xảy ra khi bạn đưa tiền cho mọi người là họ muốn có nhiều tiền hơn.
Kinh nghiệm gần đây ở Trung Quốc cung cấp một ví dụ thuyết phục về sự khó khăn trong việc thay đổi văn hóa theo cách này. Có một sự quan tâm lớn đến bóng đá ở Trung Quốc, cùng với mong muốn mãnh liệt phát triển một giải bóng đá Trung Quốc có thể cạnh tranh với những giải đấu tốt nhất trên thế giới. Với mức lương cao nhất thế giới, người Trung Quốc đã cố gắng thu hút những tài năng giỏi nhất trong số các cầu thủ quốc tế. Kết quả không mấy ấn tượng. Trung Quốc còn lâu mới có thể cạnh tranh với các quốc gia lớn có nền văn hóa nhiệt tình với bóng đá kéo dài hàng thập kỷ như ở Âu Châu hay Nam Mỹ. Tạp chí The Economist của Anh quốc nhận xét, “Văn hóa bóng đá/đẳng cấp bóng đá không thể mua được bằng tiền hoặc điều chỉnh để tồn tại.”2
Cách mới của Chúa để thay đổi xã hội hoàn toàn khác. Chúa Giê-su không thiết lập sự cai trị của Chúa bằng phần thưởng và hình phạt bên ngoài (Ngài không dùng đến cây gậy và củ cà rốt). Sự cai trị của Ngài đến từ bên trong. Đức Thánh Linh được đổ vào lòng chúng ta và khiến chúng ta muốn làm theo ý muốn của Chúa. Chúa Giê-su thực hiện sự cai trị thông qua một loại ép buộc khác, động lực đến từ việc biết tình yêu của Chúa Giê-su. “Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi, và chúng tôi tưởng rằng nếu có một người chết vì mọi người, thì mọi người đều chết, lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình” (2 Cô-rinh-tô 5:14-15).
Khi bạn đã trải nghiệm sự nối kết cá nhân thân mật với Chúa Giê-su. Bạn biết phải sống như thế nào theo lời dạy của Ngài.
Vai trò của chính quyền
Vậy thì, không có chỗ cho chính quyền dân sự nơi mà sự cai trị của Đức Chúa Trời được thiết lập sao? Trong vương quốc tương lai, chắc chắn sẽ không có mục đích nào cho chính quyền như vậy, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy sự biểu hiện đầy đủ của sự cai trị của Đức Chúa Trời. Khi một số người Pha-ri-si hỏi Chúa Giê-su về việc nộp thuế, Ngài trả lời họ, “Hãy trả cho Sê-sa những gì thuộc về Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời” (Mác 12:17). Với câu trả lời này, Ngài đã nói rõ rằng Ngài không đến để phế truất Sê-sa. Vẫn có một vị trí hợp pháp cho chính quyền dân sự, ngay cả khi Chúa Giê-su đang thiết lập sự cai trị của Đức Chúa Trời trong Vương quốc.
Sứ đồ Phao-lô giải thích thêm: “Vì người cầm quyền là tôi tớ của Đức Chúa Trời để làm ích cho anh em. Nhưng nếu anh em làm điều sai trái, hãy sợ hãi, vì những người cầm quyền không mang gươm vô cớ. Họ là tôi tớ của Đức Chúa Trời, là những kẻ làm ra cơn thịnh nộ để trừng phạt kẻ làm điều sai trái” (Rô-ma 13:4). Chính quyền dân sự có thẩm quyền do Chúa ban cho để sử dụng vũ lực nhằm đảm bảo luật pháp và trật tự. Theo cách này, một số hạn chế đối với tội lỗi của con người được đặt ra. Do đó, các tín đồ phải phục tùng chính quyền và họ phải nộp thuế (Rô-ma 13:1, 5-7). Những người phục vụ trong chính quyền nên là đối tượng của những lời cầu nguyện đặc biệt. Phao-lô viết cho Ti-mô-thê: “Vậy, trước hết, tôi khuyên hãy cầu nguyện, cầu xin, chuyển cầu và tạ ơn cho mọi người cho các vua và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được sống bình an và yên tĩnh trong mọi sự tin kính và thánh khiết” (1 Ti-mô-thê 2:1-2). Trong khi Phao-lô khẳng định vai trò do Chúa ban cho chính quyền, ông xác nhận: chính quyền là tôi tớ của Chúa.
Việc những người có thẩm quyền là tôi tớ của Chúa không có nghĩa là họ tốt. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, Phao-lô đề cập đến một ví dụ về một người có thẩm quyền là Pha-ra-ôn. Vị vua này không tốt, nhưng dù sao thì Đức Chúa Trời cũng đã hoàn thành mục đích của Ngài qua ông: “Vì Kinh thánh có chép cùng Pha-ra-ôn rằng: Ta đã dấy ngươi lên chính vì mục đích nầy, là để tỏ quyền phép ta trong ngươi, và để danh ta được rao truyền khắp đất” (Rô-ma 9:17). Việc các nhà cầm quyền là tôi tớ của Đức Chúa Trời có nghĩa là Đức Chúa Trời sử dụng họ để thực hiện các kế hoạch của Ngài, bất kể họ có biết hay không.
Trong lời khuyên nhủ của mình gửi đến hội thánh ở Rô-ma, Phao-lô cho rằng chính quyền sử dụng thẩm quyền của mình vì mục đích tốt. Ông hỏi: “Các ngươi có muốn thoát khỏi sự sợ hãi người cầm quyền không?” “Vậy hãy làm điều công bình, thì sẽ được khen ngợi” (Rô-ma 13:3). Phao-lô không thảo luận về việc một Cơ đốc nhân nên làm gì khi không phải như vậy. Tất cả các tác giả Kinh thánh đều đồng ý rằng Đức Chúa Trời “là Chúa của muôn vật” (Rô-ma 10:12), và sách Công vụ đưa ra một nguyên tắc quan trọng: “Chúng ta phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời loài người!” (Công vụ 5:29). Sách Khải huyền phát triển thêm điểm này. Những tín nhân có trách nhiệm không vâng lời các nhà chức trách khi họ được yêu cầu phạm tội với Đức Chúa Trời. Chỉ những người từ chối dấu hiệu của con thú sẽ được cứu khỏi sự phán xét của Chúa (Khải. 14:9-11; 20:4). Là tôi tớ của Chúa, các nhà chức trách cũng phải chịu trách nhiệm trước Chúa. Sách Khải huyền vẽ nên một bức tranh sinh động về sự phán xét mà Chúa sẽ giáng xuống những kẻ thống trị thế gian này khi họ chống lại Ngài.
Trong một nền dân chủ hiện đại, về nguyên tắc, mọi công dân bỏ phiếu đều là người cai trị đất nước của họ. Do đó, lẽ thật trong Kinh thánh rằng những kẻ thống trị phải chịu trách nhiệm trước Chúa có thể áp dụng cho tất cả mọi người. Chúng ta phải chịu trách nhiệm trước Chúa về cách chúng ta sử dụng lá phiếu của mình, cũng như chúng ta phải chịu trách nhiệm về mọi việc chúng ta làm. Tân Ước không đưa ra bản thiết kế cho một chương trình nghị sự chính trị. Những Cơ đốc nhân trung thành sẽ “bắt mọi ý tưởng phải vâng phục Đấng Christ” (2 Cô-rinh-tô 10:5) và tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh khi họ bỏ phiếu. Tuy nhiên, những Cơ đốc nhân sẽ đưa ra những kết luận khác nhau và những bất đồng về những câu hỏi này không nên gây ra sự chia rẽ trong hội thánh. Những Cơ đốc nhân đoàn kết vì một mục đích cao cả hơn là bầu ra chính quyền tiếp theo trên đất này; họ là tôi tớ của Đức Chúa Trời.
Tại Hoa Kỳ, người dân trực tiếp bầu chọn các viên chức chính phủ. “Dân tộc nào thì chính quyền nấy.” (The people get the government they deserve). Đây là câu nói của người Phương Tây áp dụng cho các quốc gia dân chủ mà người dân có quyền quyết định bầu chọn ra các nhà lãnh đạo cai trị của mình. Chính điều này là một yếu tố đã tạo nên một quốc gia mà người dân có thể thực hiện quyền làm chủ đất nước. Nó cũng là một nhân tố khiến quốc gia phát triển khi những người được bầu chọn tiếp tục hoạch định các chính sách trên nền tảng Kinh thánh giống như những nhà lập quốc trước đây của họ.
Các sứ đồ của Đấng Christ quan tâm đến một điều gì đó quan trọng hơn nhiều so với chính trị; họ đang ở trong công việc mang lại sự thay đổi thực sự, sự thay đổi đến từ bên trong và biến đổi xã hội. Loại thay đổi này không phụ thuộc vào những người nắm giữ quyền lực chính trị và nó không do chính quyền mang lại. Loại thay đổi này xảy ra khi hội thánh công bố vương quốc của Đức Chúa Trời.
Chính quyền dân sự không có vai trò trực tiếp nào trong việc công bố vương quốc của Đức Chúa Trời. Do đó, không có chính quyền nào như vậy được nhầm lẫn với sự cai trị của Đức Chúa Trời và chúng ta không nên nghĩ rằng chính quyền có thể được sử dụng để thúc đẩy vương quốc của Đức Chúa Trời. Chính quyền dân sự có thể là một công cụ vì điều tốt nhưng chỉ theo nghĩa tương đối. Nếu chính phủ hứa sẽ mang lại xã hội tốt đẹp theo nghĩa tuyệt đối, thì họ đang tuyên bố một vai trò mà chỉ dành riêng cho Chúa. Một chính phủ như vậy đại diện cho kẻ chống Chúa bằng cách cố gắng thay thế Chúa Giê-su.
Mục đích phổ quát của Chúa dành cho mọi tạo vật
Mặc dù chính phủ không và không thể thực hiện quyền cai trị của Chúa, nhưng sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu nghĩ rằng mục đích của Chúa không bao gồm chính phủ và xã hội nói chung. Quyền cai trị của Ngài không chỉ giới hạn ở nhà thờ; Ngài cai trị toàn bộ xã hội và cả chính phủ. Chúa là vua của toàn vũ trụ, và việc tuyên bố vương quyền của Ngài không chỉ liên quan đến niềm tin và quan điểm của những cá nhân được chọn. Nó liên quan đến toàn thế giới, cả dưới đất và trên trời.
Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô, sứ đồ Phao-lô đã vẽ nên một bức tranh hấp dẫn về mục đích phổ quát của Chúa. Những tác động của phúc âm sẽ không chỉ được cảm nhận bởi nhà thờ mà còn bởi các thế lực tâm linh đang hoạt động trên thế giới. “Mục đích của Chúa là để bây giờ, thông qua nhà thờ, sự khôn ngoan đa dạng của Chúa được bày tỏ cho những người cai trị và những người có thẩm quyền ở các cõi trên trời” (Ê-phê-sô 3:10).
Ngôn ngữ của Phao-lô nghe có vẻ lạ đối với những người theo đạo Thiên Chúa hiện đại khi ông nói rất tự nhiên về những người cai trị và những người có thẩm quyền trên trời. Chúng ta thường không gán những sự kiện hàng ngày cho ảnh hưởng của các thế lực trên trời. Chúng ta nghĩ rằng bối cảnh chính trị và các giá trị văn hóa của chúng ta là kết quả của những lựa chọn của riêng chúng ta và rằng những thế lực duy nhất kiểm soát các sự kiện hàng ngày là các thế lực của con người (trừ khi chúng ta tin rằng Chúa đã can thiệp và làm điều gì đó phi thường, như một phép lạ, nhưng đó sẽ là một ngoại lệ đối với trật tự tự nhiên của mọi thứ).
Phao-lô có quan điểm khác. Ông nhận thức rằng con người tự tạo ra số phận của mình và các sự kiện diễn ra thông qua nguyên nhân và kết quả, nhưng ông biết rằng các thế lực tâm linh cũng đang hoạt động. Thông qua ảnh hưởng của chúng lên tư duy, xu hướng văn hóa và quy ước xã hội của con người, các thế lực tâm linh thực thi thẩm quyền của chúng trên thế giới này.
Trong thời đại của chúng ta, chúng ta có xu hướng sử dụng các thuật ngữ khác nhau cho các thế lực này. Khi các cấu trúc xã hội và hành vi của con người thay đổi, chúng ta có thể quy cho ảnh hưởng của các lực lượng thị trường phi nhân cách hoặc sự phát triển công nghệ. Các lựa chọn đạo đức của cá nhân có thể được giải thích là kết quả tất yếu của bối cảnh gia đình và xã hội. Hành vi của mọi người tại các sự kiện thể thao lớn hoặc các cuộc mít tinh chính trị cho chúng ta thấy rằng họ cư xử khác trong đám đông so với khi họ ở một mình. Lời giải thích liên quan đến áp lực từ bạn bè và tâm lý đám đông. Ở nhiều cấp độ khác nhau, chúng ta cảm nhận rằng có những thế lực trong thế giới của chúng ta, những thế lực không thể được xác định là những tác nhân con người cụ thể, mặc dù chúng có thể không hoạt động độc lập với con người. Không thể phủ nhận ảnh hưởng của chúng. Trong Tân Ước, những thế lực như vậy được gọi là các quyền năng và thẩm quyền thuộc linh ở các nơi trên trời. Chúng ta không nên bác bỏ những gì chúng ta được nghe về những thế lực này, ngay cả khi thuật ngữ của sứ đồ Phao-lô không quen thuộc với chúng ta. Quan điểm của ông rất rõ ràng: mục đích của Chúa không chỉ là sự cứu rỗi dành cho hội thánh mà còn là hội thánh sẽ công bố kế hoạch của Chúa cho các thế lực của vũ trụ. Mục đích của Chúa không chỉ liên quan đến những người tin Chúa mà còn liên quan đến toàn thể tạo vật, cả hữu hình và vô hình.
Trước đó trong Ê-phê-sô, Phao-lô đưa ra một tuyên bố thậm chí còn cao cả hơn về bản chất phổ quát của thông điệp mà ông công bố: Chúa đã cho “chúng ta biết sự mầu nhiệm của ý muốn Ngài, theo ý định mà Ngài đã tự lập thành trước trong lòng nhân từ Ngài để làm sự định trước đó trong khi kỳ mãn, hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ, cả vật ở trên trời và vật ở dưới đất” (Ê-phê-sô 1:9-10). Cụm từ cuối cùng này khó dịch. Từ Hy Lạp được dịch là “hội hiệp muôn vật lại” (anakephalaioō) thường có nghĩa là rút ra kết luận hoặc tóm tắt lại. Ý của Phao-lô là mọi vật trong toàn thể vũ trụ đều ở trong tình trạng hỗn loạn vì tội lỗi, nhưng giờ đây công việc của Đấng Christ và quyền tể trị của Ngài đã đưa mọi vật lại với nhau theo một trật tự mới. Phao-lô nhấn mạnh rằng không có giới hạn nào đối với những tác động của phúc âm. Phúc âm vươn tới toàn thể tạo vật, cả hữu hình và vô hình. “Vì trong Đấng Christ, muôn vật đã được dựng nên: những vật trên trời và dưới đất, hữu hình và vô hình, hoặc ngôi vua, hoặc quyền thế, hoặc bậc cầm quyền, hoặc bậc cầm quyền; mọi vật đều được tạo dựng bởi Ngài và vì Ngài” (Cô-lô-se 1:16). Mọi vật sáng tạo đều thuộc về Đấng Christ, có sự hiện hữu nhờ Ngài và có mục đích trong Ngài. Bây giờ Đấng Christ đang đòi lại sự sáng tạo của Ngài. Mục đích của Đức Chúa Trời là mọi vật sẽ tìm được vị trí và chức năng thích hợp của chúng trong mối quan hệ với Đấng Christ.
Khi Đức Chúa Trời tái lập quyền cai trị của Ngài qua Đấng Christ, điều đó không chỉ ảnh hưởng đến Hội thánh. Ý định của Ngài không chỉ là tạo ra một lãnh thổ hạn chế cho chính Ngài, Hội thánh, nơi mà quyền cai trị của Ngài sẽ được duy trì. Ngài mở rộng phạm vi của mình ra toàn vũ trụ. Đức Chúa Trời là vua của vũ trụ, và trong Đấng Christ, Ngài đến để khôi phục lại vương quyền của mình. Một vai trò hạn chế là Đầu của Hội thánh sẽ không làm Ngài thỏa mãn. Bây giờ Ngài đang công bố quyền cai trị của mình. Ngài sẽ sắp xếp lại các thế lực ảnh hưởng đến văn hóa ở cấp độ sâu hơn những gì chính phủ làm. Những thế lực này giờ đây sẽ hoàn thành các mục đích của Đức Chúa Trời trong xã hội.
Hội thánh đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành kế hoạch tổng thể của Đức Chúa Trời, như Phao-lô giải thích với người Ê-phê-sô. “Ấy vậy, hiện nay sự khôn sáng mọi đường của Đức Chúa Trời cậy Hội thánh mà bày tỏ ra cho những kẻ làm đầu và những kẻ cầm quyền trong các nơi trên trời” (Ê-phê-sô 3:10). Phao-lô có một tầm nhìn tuyệt vời về vai trò của hội thánh đối với toàn cõi vũ trụ. Hội thánh đóng vai trò quan trọng trong việc công bố mục đích của Đức Chúa Trời không chỉ cho những người tin mà còn cho các quyền lực của “những kẻ cầm quyền ở các nơi trên trời.” Hội thánh là tác nhân của Đức Chúa Trời, làm cho sự khôn ngoan của Ngài được biết đến, sự khôn ngoan liên quan đến việc phục hồi sự sáng tạo dưới quyền tể trị của Đấng Christ. Nói cách khác, Đấng Christ sử dụng hội thánh để công bố quyền tể trị của Ngài trên vũ trụ. Theo ngôn ngữ quân sự, hội thánh là đội quân mở rộng chiến thắng của Đấng Christ trong suốt sự sáng tạo. Nhưng ngôn ngữ quân sự lại gây hiểu lầm. Hội thánh không mở rộng chiến thắng của Đấng Christ bằng sự cưỡng bức, giống như một lực lượng quân sự. Hội thánh làm cho sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được biết đến. Hội thánh không áp đặt nó. Chiến thắng của hội thánh nằm ở khả năng hiện thân cho chiến thắng của Đấng Christ và là minh chứng sống động cho hiệu quả của chiến thắng đó. Theo cách này, hội thánh giống như bộ phận truyền thông của nhà Vua hơn. Hội thánh công bố chiến thắng của Đấng Christ và công bố sự cai trị của Ngài ở khắp mọi nơi.
Trong Ê-phê-sô, Phao-lô giải thích rằng Đấng Christ đã đến để mang lại hòa bình và sự hòa giải. Ngài đã mang lại hòa bình với Đức Chúa Trời cho những người tin. Ngài đã đổi sự thù địch của chúng ta thành tình bạn. Tội lỗi của chúng ta không còn khiến chúng ta trở thành kẻ thù của Đức Chúa Trời nữa. Qua sự chết của Ngài, Đấng Christ đã cất tội lỗi của chúng ta và mang lại sự hòa giải và hòa bình. Sự hòa giải này được chứng minh trong hội thánh, vì Đấng Christ đồng thời đã phá hủy một loại thù địch khác: thù địch giữa những người có nguồn gốc dân tộc khác nhau, thù địch giữa người Do Thái và dân ngoại. Mục đích của Ngài là tạo ra trong chính Ngài một nhân loại mới từ hai dân tộc chính: Do Thái và các dân ngoại, do đó tạo ra hòa bình, và trong một thân thể để hòa giải cả hai với Đức Chúa Trời qua thập tự giá, qua đó Ngài đã giết chết sự thù địch giữa họ.
“Bởi vì Ngài đã đem thân mình mà trừ bỏ luật pháp của các điều răn chép thành điều lệ. Như vậy, khi làm cho hòa nhau, Ngài muốn lấy cả hai (người Do thái và dân ngoại) lập nên một người mới trong Ngài, và vì bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời. (Ê-phê-sô 2:15-16).
Chính sự tồn tại của hội thánh – bao gồm người Do Thái và các dân ngoại, những người từ các quốc gia khác nhau, những người từng là kẻ thù – tuyên bố chiến thắng của Đấng Christ. Nó tuyên bố rằng Đấng Christ đã phá hủy sự thù địch. Nó tuyên bố rằng Chúa Giê-su đã mang lại sự hòa giải. Nó cho biết rằng hòa bình bây giờ đã đến.
Vương quốc Đức Chúa Trời không thuộc về thế giới này
Lời tuyên bố của hội thánh liên quan đến toàn thế giới, trong mọi quốc gia và trong mọi khía cạnh của xã hội. Quyền cai trị của Chúa là phổ quát. Nhưng chúng ta không được nghĩ về vương quốc của Chúa theo cách chúng ta nghĩ về các vương quốc của thế giới này. Trong cuộc trò chuyện với Bôn-xơ Phi-lát, Chúa Giê-su đã nói rõ điều này: “Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới” (Giăng 18:36).
Vương quốc và thẩm quyền của Chúa Giê-su có bản chất hoàn toàn khác với vương quốc và thẩm quyền của Bôn-xơ Phi-lát. Phi-lát cai trị bằng sức mạnh của quân đội La Mã. Thẩm quyền của ông phụ thuộc vào khả năng tập hợp một lực lượng quân sự vượt trội của ông. Vương quốc của Chúa lấn át mọi vương quốc trên thế giới này, nhưng điều đó không có nghĩa là quân đoàn của Chúa sẽ đến và đánh bại quân đoàn của La Mã. “Vương quốc của ta không thuộc về thế gian này”, Chúa Giê-su nói. Đó không phải là một vương quốc cai trị bằng sức mạnh quân sự.
Phúc âm của Giăng chứng minh tính chất khác biệt của quyền năng của Chúa, đặc biệt là khi nó mô tả con đường của Chúa Giê-su đi đến cái chết của Ngài. Giăng cho thấy rằng sự đóng đinh của Chúa Giê-su là sự lên ngôi của Ngài. Khi Ngài bước đến thập tự giá, Chúa Giê-su hoàn toàn kiểm soát mọi bước đi trên hành trình cứu chuộc nhân loại. Không ai lấy đi mạng sống của Ngài; Ngài tự nguyện từ bỏ nó. Ngài nói với Phi-lát, “Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì ngươi không có quyền gì trên ta; vậy nên, kẻ nộp ta cho ngươi là có tội trọng hơn nữa” ( Giăng 19:11). Khi những người lính đến bắt Chúa Giê-su, tất cả những gì Chúa Giê-su phải làm là xác định danh tính của mình, và những người lính đã té ngã xuống đất. Theo phúc âm Giăng, “Đức Chúa Giê-su biết mọi điều sẽ xảy đến cho mình, bèn bước tới mà hỏi rằng: Các ngươi tìm ai? Chúng trả lời rằng: Tìm Giê-su người Na-xa-rét. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Chính ta đây! Giu-đa là kẻ phản Ngài cũng đứng đó với họ. Vừa khi Đức Chúa Giê-su phán: Chính ta đây, chúng bèn thối lui và té xuống đất” (Giăng 18:4-6).
Chỉ cần Chúa Giê-su nói, “Chính ta đây” là có thể đánh bại được quân lính. Đó là cách mà quyền năng của Chúa vượt trội hơn quyền năng của quân đội loài người.
Khi Chúa Giê-su bị xét xử trước quan Phi-lát, Giăng tiết lộ rằng phiên tòa thực sự diễn ra ở cấp độ sâu hơn. Phi-lát là người bị xét xử trước Chúa Giê-su. Câu hỏi đặt ra là liệu ông có chấp nhận sự thật mà Chúa Giê-su tuyên bố hay không. Với câu hỏi này, “Lẽ thật là gì?” (Giăng 18:38), Phi-lát cho thấy ông không đủ khả năng để ứng phó.
Khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá, Người bị đóng đinh là “Giê-su, Người Na-xa-rét, Là Vua Dân Giu-đa” (Giăng 19:19). Trong Phúc âm Giăng, Chúa Giê-su đã nhiều lần dự đoán trước về sự đóng đinh của mình và Ngài đã gọi đó là sự tôn vinh của Ngài.
Trong Ma-thi-ơ và Mác, những lời cuối cùng của Chúa Giê-su là “Lạy Đức Chúa Trời tôi, lạy Đức Chúa Trời tôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46; Mác 15:34). Sự tương phản với Phúc âm Giăng thật rõ ràng. Trong tường thuật của Giăng, những lời cuối cùng của Chúa Giê-su là “Mọi sự đã hoàn tất” (Giăng 19:30). Khi Chúa Giê-su trút hơi thở cuối cùng, chiến thắng của Ngài đã hoàn tất.2 Do đó, sự đóng đinh của Chúa Giê-su là sự đăng quang của Ngài, và sự đăng quang này dạy chúng ta rất nhiều điều về Vương quyền của Chúa Giê-su. Ngài không cai trị bằng vũ lực; Ngài cai trị bằng sự hy sinh. Ngài không sử dụng sự ép buộc để bắt mọi người làm theo ý muốn của Ngài; Ngài dựa vào sức mạnh thúc đẩy của tình yêu. Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này!
Trong Phúc âm Mác, các môn đồ được dạy một bài học tương tự khi Chúa Giê-su đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem. Sau một cuộc tranh cãi giữa các môn đồ về việc ai sẽ là lớn nhất, Chúa Giê-su phải nói thẳng với họ: “Các ngươi biết rằng giữa các dân ngoại, những kẻ được họ công nhận là thủ lãnh thì thống trị họ, và những người lớn thì chuyên quyền cai trị họ. Nhưng giữa các ngươi thì không như vậy; trái lại, ai muốn làm lớn giữa các ngươi thì phải làm người phục vụ các ngươi, và ai muốn làm đầu các ngươi thì phải làm tôi mọi mọi người. Vì Con Người đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mác 10:42-45).
Về cơ bản luật lệ được thực hiện trong vương quốc của Chúa thật đáng ngạc nhiên. Đó là luật lệ lấy mọi thứ chúng ta biết về thẩm quyền và đảo ngược nó.
Trong thế giới của chúng ta, những người cai trị thường áp đặt ý chí của họ lên công dân. Trong Vương quốc Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su không áp đặt sự cai trị của mình bằng vũ lực. Ngài không tuyển dụng những người khác vào sự phục vụ để thúc đẩy chương trình nghị sự của Ngài. Ngài tự tuyển dụng chính mình như một người đầy tớ của tất cả mọi người. Ngài không sử dụng nguồn lực của người khác để sử dụng chúng cho mục đích riêng của mình. Ngài hy sinh tất cả nguồn lực của mình để có thể trao mọi thứ cho những người theo mình, thậm chí cả mạng sống của chính mình. Khi gặp mọi người, Ngài không nói với họ, “Đừng đòi hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.” Chúa Giê-su đến với một yêu cầu hoàn toàn khác: “Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi?” (Lu-ca 18:41).
Quyền năng của Chúa Giê-su thì khác. Ngài thực hiện quyền năng của mình không phải bằng cách ép buộc mà bằng cách thể hiện tình yêu của mình một cách thuyết phục đến mức mọi người bị thuyết phục để trở thành những người đi theo Ngài. Điều này đúng khi Chúa Giê-su gặp gỡ các cá nhân, và điều này đúng đối với thẩm quyền của Chúa Giê-su trong hội thánh. Điều này cũng đúng khi nói đến ảnh hưởng của Chúa Giê-su đối với toàn xã hội.
Các tác nhân thay đổi xã hội
Trong suốt chiều dài lịch sử, đã có nhiều ví dụ về cách xã hội thay đổi thông qua ảnh hưởng của dân sự Chúa. Sự thay đổi không đến từ bên ngoài thông qua luật pháp, cưỡng chế và các động cơ khác mà đến từ bên trong. Lời chứng của hội thánh đã mang lại sự thay đổi cho cuộc sống của mọi người, xã hội đã được chuyển đổi và các nền văn hóa mới đã được tạo ra. Dưới đây là ví dụ cho thấy Chúa đang làm điều không thể và Ngài biến đổi các quốc gia và thay đổi xã hội.
Martin Luther King Jr. yêu cầu quyền bỏ phiếu cho người Mỹ gốc Phi.
“Điều đó là không thể về mặt chính trị”3, Tổng thống Lyndon B. Johnson trả lời khi Martin Luther King Jr. yêu cầu quyền bỏ phiếu cho người Mỹ gốc Phi. Tổng thống thông cảm với mục đích của King, nhưng ông nhấn mạnh rằng việc cấp quyền bỏ phiếu là không thực tế.
King đáp trả rằng công lý không thể chờ đợi. Đầu năm 1965, ông đã tổ chức một cuộc tuần hành từ Selma đến Montgomery để đòi quyền bỏ phiếu. Khi những người biểu tình băng qua Cầu Edmund Pettis, lực lượng thực thi pháp luật địa phương đã ra lệnh cho họ quay lại. Những người biểu tình từ chối, và cảnh sát đáp trả bằng cách tấn công họ bằng dùi cui, roi da và hơi cay. Hơn năm mươi người đã phải nhập viện.
Hình ảnh trên phương tiện truyền thông về các cuộc tấn công tàn bạo nhằm vào những người biểu tình ôn hòa đã gây chấn động khắp đất nước, và ngay lập tức đã có làn sóng đồng cảm với phong trào dân quyền. Hai tuần sau, những người biểu tình đã tham gia cùng hàng nghìn người từ khắp cả nước. Lần này, cuộc diễu hành đến thủ phủ của tiểu bang được phép diễn ra, với sự bảo vệ của cơ quan thực thi pháp luật liên bang. Chỉ vài tháng sau, luật về Quyền bầu cử đã được đưa vào luật.
Ít có phong trào nào thay đổi xã hội Hoa Kỳ sâu sắc hơn phong trào dân quyền. Phần lớn sức mạnh của nó nằm ở thực tế rằng đó là một phong trào cộng đồng, được tổ chức bởi các hội thánh địa phương. Nó không phụ thuộc vào các chính trị gia thông minh, khả năng đàm phán và bảo đảm rằng các luật mới được thông qua của họ. Martin Luther King Jr. không liên kết với bất kỳ đảng phái chính trị nào và chủ yếu hoạt động bên ngoài các kênh chính trị. Nhưng ảnh hưởng của ông thậm chí còn vượt xa cả tổng thống, và ông nắm giữ một quyền lực đã chứng minh là hiệu quả hơn cả chính trị. Đó là một quyền lực bao gồm thẩm quyền đạo đức. Quyền uy đạo đức của cuộc biểu tình ôn hòa của King hấp dẫn đến mức các nhà lập pháp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp thuận đòi hỏi của ông.
Phong trào dân quyền của King xuất phát từ lời dạy của Chúa Giê-su. Ông được truyền cảm hứng từ bậc thầy đã dạy chúng ta yêu kẻ thù của mình. Bất kỳ ai đọc bài phát biểu của King sẽ bị ấn tượng bởi sự khác biệt của chúng so với các bài phát biểu chính trị mà chúng ta nghe thấy hàng ngày. Là một người Mỹ gốc Phi, King thuộc về một nhóm lớn những người đã bị áp bức trong nhiều thế kỷ. Ông đã đưa ra lời kêu gọi rõ ràng để chống lại sự bất công và sự lạm dụng mà người Mỹ gốc Phi phải trải qua hàng ngày. Nhưng ông không có khuynh hướng “chúng ta chống lại họ là những người da trắng.” Ông không triệu tập một nhóm người tốt để chống lại những kẻ xấu. King không định nghĩa cuộc đấu tranh của mình với những người khác, thậm chí cả những người muốn làm hại ông. Các bài phát biểu của ông liên tục quay trở lại với những lời mạnh mẽ của Chúa Giê-su: “Hãy yêu kẻ thù của bạn.”
Một ví dụ đặc biệt hấp dẫn được tìm thấy trong bài phát biểu của King vào dịp Ghana ra đời như một quốc gia. Ghana đã bị nhiều quốc gia châu Âu xâm chiếm trong nhiều thế kỷ nhưng cuối cùng đã trở thành quốc gia độc lập vào năm 1957. Trong bài phát biểu của mình, Đức Vua đã ca ngợi sự hòa giải giữa những người thực dân cũ và chính phủ mới. Ông vui mừng vì Thủ tướng Kwame Nkrumah đã được nhìn thấy khiêu vũ với nữ công tước xứ Kent tại một vũ hội nhà nước. Và sau đó, ông đã nói những lời đẹp đẽ này về mục đích của các hoạt động của chính mình:
Hậu quả của bất bạo động là sự sáng tạo của cộng đồng được yêu thương. Hậu quả của bất bạo động là sự cứu chuộc. Hậu quả của bất bạo động là sự hòa giải. Hậu quả của bạo lực là sự trống rỗng và cay đắng. Chúng ta hãy đấu tranh một cách nồng nhiệt và không ngừng nghỉ vì mục tiêu công lý và hòa bình. Nhưng hãy chắc chắn rằng tay chúng ta sạch sẽ trong cuộc đấu tranh này. Chúng ta đừng bao giờ đấu tranh bằng sự dối trá, bạo lực, hận thù và ác ý, mà hãy luôn đấu tranh bằng tình yêu thương, để đến ngày những bức tường phân biệt chủng tộc hoàn toàn sụp đổ, chúng ta sẽ có thể chung sống với mọi người như anh chị em của họ. Các Cơ đốc nhân cần nhìn thấy mục tiêu của chúng ta không phải là đánh bại bất kỳ ông bà nghị sĩ nào đang cổ xúy cho vấn đề phân biệt chủng tộc. Mục tiêu của chúng ta phải là đánh bại cái ác trong họ. Nhưng mục tiêu của chúng ta cũng là giành được tình bạn của các nghị sĩ đối kháng với chúng ta.
Chúng ta phải đi đến điểm nhìn thấy rằng mục tiêu cuối cùng của chúng ta là chung sống với tất cả mọi người như anh chị em trong Chúa, và không trở thành kẻ thù của họ hay bất cứ điều gì đi kèm với loại mối quan hệ đó. Và đây là một điều mà Ghana dạy chúng ta: rằng bạn có thể thoát khỏi cái ác thông qua bất bạo động, thông qua việc không cay đắng với những người đang chống đối chúng ta.”4
Rất thường xuyên, cuộc đấu tranh của chúng ta cho một xã hội tốt đẹp hơn lại thoái hóa thành một cuộc xung đột giữa những người đồng ý với chúng ta và những người không đồng ý với chúng ta. Sự tham gia của chúng ta vào chính trị diễn ra dưới hình thức một cuộc chiến mà chúng ta quyết tâm giành chiến thắng cho phe mình và thất bại cho phe đối lập. Chúng ta không còn nhìn thấy mục tiêu về một thế giới tốt đẹp hơn và tập trung vào việc giành được vị thế mạnh mẽ hơn cho nhóm của mình. Sự tham gia của Cơ đốc nhân vào chính trị thường chỉ là một hình thức khác của chủ nghĩa bộ lạc, hay chính trị bản sắc, như người ta thường gọi. Nhiều lần Cơ đốc nhân đã tham gia vào một lý tưởng: xem mục tiêu của mình là một cuộc chiến chống lại những đối thủ mà chúng ta cho là đối thủ. Chúng ta đã coi tiến trình chính trị là một cuộc xung đột. Chúng ta đã tìm kiếm một vị thế mạnh mẽ hơn cho những người có niềm tin vào Cơ đốc giáo như chúng ta hoặc cho những người có xuất thân dân tộc như chúng ta. Kết quả là, chúng ta đã xác định tâm thái chính trị của mình là tham gia vào một cuộc chiến chống lại những người có chủng tộc khác hoặc tín ngưỡng tôn giáo khác.
Bài phát biểu của Martin Luther King đáng kinh ngạc là không có loại chính trị bản sắc này. Ông không xác định mục tiêu của mình là chiến thắng cho người Mỹ gốc Phi và thất bại cho những kẻ phân biệt chủng tộc. Ông tìm cách vượt qua chính nạn phân biệt chủng tộc. Ông tìm cách đánh bại sự tồn tại của bất công. “Mục tiêu của chúng ta không bao giờ là đánh bại hoặc làm nhục người da trắng, mà là giành được tình bạn và sự hiểu biết của họ. Chúng ta phải nhận ra rằng mục đích cuối cùng mà chúng ta tìm kiếm là một xã hội hòa bình với chính mình, một xã hội có thể sống với lương tâm của mình. Và đó sẽ là ngày không phải của người da trắng, không phải của người da đen. Đó sẽ là ngày của những con người thực sự.”5
Cam kết của Martin Luther King không chỉ giới hạn ở cộng đồng người Mỹ gốc Phi; ông cam kết với toàn thể nhân loại. Ước mơ của ông là tình anh em và tình chị em của tất cả mọi người, một sự thống nhất thực sự, và sự thống nhất như vậy không thể được xây dựng trên chiến thắng của một số người và thất bại của những người khác. Nó chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sự hòa giải. Và ông biết rằng để có sự hòa giải thực sự, những người coi nhau là kẻ thù phải cùng nhau hiểu biết và thậm chí là thông cảm, “Đây chính là ý nghĩa và giá trị thực sự của lòng trắc ẩn và bất bạo động, khi nó giúp chúng ta nhìn nhận quan điểm của kẻ thù, lắng nghe câu hỏi của kẻ thù, biết được đánh giá của kẻ thù về bản thân mình. Vì từ quan điểm của kẻ thù, chúng ta thực sự có thể nhìn thấy những điểm yếu cơ bản trong tình trạng của chính mình, và nếu chúng ta trưởng thành, chúng ta có thể học hỏi, phát triển và hưởng lợi từ sự khôn ngoan của những người anh em được gọi là phe đối lập.”6
Martin Luther King biết rằng sự thay đổi đến từ bên trong. Ông biết rằng khi con người thay đổi, xã hội cũng thay đổi. Và ông biết rằng sức mạnh thay đổi con người không phải là sức mạnh cưỡng chế của bạo lực mà là sức mạnh thuyết phục của bất bạo động. Ông biết rằng ánh sáng không thể đến từ bóng tối, vì vậy ông hiểu rằng các phương pháp ông sử dụng phải là vũ khí của ánh sáng. Nếu ông muốn nhìn thấy một thế giới đoàn kết và tình anh em lớn hơn, ông phải sử dụng vũ khí của tình yêu.
“Tôi quan tâm đến một thế giới tốt đẹp hơn. Tôi quan tâm đến công lý; Tôi quan tâm đến tình anh em; Tôi quan tâm đến sự thật. Và khi một người lo lắng về điều đó, anh ta không bao giờ có thể ủng hộ bạo lực. Bởi vì thông qua bạo lực, bạn có thể giết một kẻ giết người, nhưng bạn không thể giết chết những kẻ giết người. Thông qua bạo lực, bạn có thể giết một kẻ nói dối, nhưng bạn không thể thiết lập sự thật. Thông qua bạo lực, bạn có thể giết một kẻ thù ghét, nhưng bạn không thể giết chết lòng thù ghét thông qua bạo lực. Bóng tối không thể dập tắt bóng tối; chỉ có ánh sáng mới làm được điều đó.”7
Như phong trào của Martin Luther King đã chỉ ra, phương pháp này thực sự có tính biến đổi. Nó có sức mạnh thay đổi xã hội vì nó thay đổi con người. Nó chiến thắng cái ác bằng cái thiện, như sứ đồ Phao-lô đã dạy. “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác” (Rô-ma 12:21). King biết điều này có nghĩa là gì trong thực tế. Ông nói rằng phương pháp bất bạo động “có cách để tước vũ khí của đối thủ. Nó phơi bày sự phòng thủ về mặt đạo đức của họ. Nó làm suy yếu tinh thần của họ, đồng thời nó tác động đến lương tâm của họ, và họ không biết phải làm gì.”8
Phong trào của Martin Luther King đã mang lại những thay đổi lớn cho xã hội Hoa Kỳ. Những thay đổi này cuối cùng đã được đưa vào các luật quan trọng, các luật thể hiện lý tưởng về sự bình đẳng của tất cả mọi người. Nhưng luật mới không thay đổi giá trị của con người. Chính giá trị đã thay đổi luật. Đây là cách mà sự cai trị của Chúa thay đổi xã hội chúng ta: khi dân sự của Đức Chúa Trời sống dưới sự cai trị của Vua Giê-su Christ, và khi họ tuân theo vị Vua này bất kể cái giá phải trả cho việc thực hành những lời mà Vua Giê-su nói. Vua đã cho chúng ta thấy ý nghĩa của việc bảo vệ kẻ thù của bạn, và những nhành ô-liu đã đến với tất cả mọi người trên khắp đất nước, cho đến tận Nhà Trắng, và tất cả mọi người trên thế giới.
Một tiến trình nghịch lý
Những sự kiện như phong trào dân quyền của Martin Luther King Jr. ở Hoa Kỳ. Một câu chuyện khác tương tự ở Romania và những nơi khác đã khiến nhiều Cơ đốc nhân tin rằng lịch sử sẽ liên tục tiến về phía trước để hoàn thành đầy đủ các mục đích tuyệt vời của Chúa. Họ đã nghĩ rằng sự cai trị không thể ngăn cản của Chúa sẽ đi vào thế giới ngày càng nhiều hơn, biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn để sống, cho đến khi sự cai trị của Chúa thể hiện ở khắp mọi nơi trên trái đất. Có những lý do chính đáng để tin vào điều này. Vương quốc Đức Chúa Trời đã ở trong chúng ta. “Nước Đức Chúa Trời ở trong/ở giữa các ngươi” (Lu-ca 17:21). Và sự cai trị của Chúa không thể bị đánh bại. Sự cai trị chiến thắng của Đức Chúa Trời đã diễn ra trong Chúa Giê-su Christ. Chúng ta không chờ đợi thêm bất kỳ chiến thắng nào nữa. Chúng ta chỉ đang chờ đợi để chứng kiến sự biểu hiện của chiến thắng đã giành được. Điều này có nghĩa hội thánh của Đức Chúa Trời tại mỗi địa phương đang đứng trên chiến thắng của Chúa Giê-su tại thập tự giá, để đưa vương quốc đến cho mọi người.
Chúa Giê-su nói rõ rằng sự cai trị của Chúa sẽ tiếp tục tiến triển, nhưng cái ác vẫn tồn tại cho đến ngày cuối cùng.
Trong Ma-thi-ơ 13:24-30, Chúa đưa ra câu chuyện ngụ ngôn về cỏ dại và lúa mì cùng nhau phát triển trên thế giới. Câu chuyện này đã được lý giải ở chương 3.
Trong môn học Giải Kinh, đã có nhiều cuộc tranh luận đáng kể về câu chuyện ngụ ngôn này. Nhiều Cơ đốc nhân đã đọc câu chuyện ngụ ngôn về cỏ lùng và kết luận rằng, cho đến khi Chúa Giê-su trở lại, hội thánh sẽ bao gồm cả những người tốt và xấu. Sẽ có những kẻ đạo đức giả lẫn vào trong dân sự của Chúa, và chúng ta không được phép cố gắng nhổ tận gốc chúng.
Những người khác đã phản đối cách giải thích này bằng cách chỉ ra rằng khi Chúa Giê-su giải thích dụ ngôn, ngài không xác định ruộng là hội thánh, ngài cũng không nói rằng cỏ dại là những người trong hội thánh. Thay vào đó, Ngài tuyên bố rằng “ruộng là thế gian; giống tốt, là con cái nước thiên đàng; cỏ lùng, là con cái quỉ dữ” (Ma-thi-ơ 13:38). Do đó, không có khả năng Chúa Giê-su có ý nói hội thánh là “ruộng”.
Thay vào đó, ngài đang giải thích bản chất của sự phát triển của sự cai trị của Đức Chúa Trời. Trong khi sự cai trị của Đức Chúa Trời phát triển, thì cái ác cũng phát triển theo. Trong thế giới này, các thế lực bóng tối hiện diện giữa sự cai trị của Đức Chúa Trời. Sự hiện diện của sự cai trị của Đức Chúa Trời không có nghĩa là sự vắng mặt của các thế lực tà ác. Trong thế giới này, cái ác vẫn tiếp tục tồn tại. Các thế lực bóng tối bị đánh bại và phải chịu sự hủy diệt, nhưng chúng chưa bị loại bỏ hiện nay.
Quyền cai trị của Đức Chúa Trời hiện hữu một cách mạnh mẽ, nhưng sự hiện diện liên tục của cái ác làm cho nhiều người không nhìn thấy được quyền cai trị của Ngài. Sứ đồ Phao-lô giải thích rằng quyền năng của Đức Chúa Trời hiện hữu một cách nghịch lý trên thế gian này. Trong thư gửi cho người Cô-rinh-tô, ông đã thảo luận về điều này rất dài dòng vì một số người Cô-rinh-tô “đòi bằng chứng rằng Đấng Christ đã phán qua” Phao-lô. “Vì anh em phải có một bằng cớ rằng Đấng Christ phán bởi tôi” (2 Cô-rinh-tô 13:3). Phao-lô không tỏ ra là người có quyền lực lắm, và nhiều thành viên trong hội thánh đã chế giễu ông: “Có người nói rằng các thơ của Phao-lô nặng lời và bạo mạnh; nhưng đến khi có mặt thì người yếu đuối và lời nói chẳng có giá trị gì” (2 Cô-rinh-tô 10:10),
Nhiều người không nhận ra quyền cai trị của Đức Chúa Trời vì thế gian cho rằng đó là sự yếu đuối. Như Phao-lô đã giải thích với người Cô-rinh-tô, “Sứ điệp về thập tự giá là sự điên rồ đối với những kẻ đang hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 1:18). Phúc âm có vẻ không có gì hấp dẫn. Người ta có thể nhầm lẫn rằng đó là sự điên rồ và yếu đuối. Chúa Giê-su trông giống như một kẻ thua cuộc thảm hại khi bị đóng đinh, và những người qua đường chế giễu Ngài. Nhưng trong sự yếu đuối của mình, Ngài đã thực hiện sức mạnh vĩ đại nhất từng được biết đến, và viên đại đội trưởng La Mã đứng gác tại cây thánh giá đã phải thú nhận: “Chắc chắn người này là Con Đức Chúa Trời” (Mác 15:39).
Chúng ta nên mong đợi sự cai trị của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục thể hiện theo cách tương tự thông qua hội thánh. Nó có vẻ không mấy ấn tượng. Trong một dụ ngôn khác, Chúa Giê-su giải thích rằng nước Đức Chúa Trời giống như hạt cải. Điều này cũng đã được đề cập đến trong chương 3 nói về ý nghĩa các dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta.
Quyền năng của sự cai trị của Đức Chúa Trời ẩn giấu dưới vẻ ngoài nhỏ bé và tầm thường, nhưng đừng nhầm lẫn: sự cai trị của Đức Chúa Trời hay các qui luật của vương quốc Ngài đang hoạt động trên thế giới một cách mạnh mẽ.
Điều mà dụ ngôn về cỏ lùng làm rõ là sự tiến triển của vương quyền của Chúa không loại bỏ các thế lực của cái ác ở phía bên này của sự phán xét cuối cùng. Vương quyền của Chúa hiện diện một cách nghịch lý giữa cái ác và cái thiện. Nhưng lịch sử của hội thánh cho chúng ta thấy rằng khi vương quyền của Chúa được công bố, thì các thế lực của kẻ ác thức dậy sau giấc ngủ. Vương quyền của Chúa giống như một loại thuốc mạnh được giải phóng trong cơ thể. Khi các kháng thể đang chống lại căn bệnh, chúng ta cảm thấy như mình đang ốm hơn, nhưng sự khó chịu gia tăng thực sự là dấu hiệu của sự chữa lành. Khi vương quyền của Chúa thể hiện, thì kẻ ác sẽ ra trận lần cuối. Cho đến khi sự phán xét cuối cùng đến, chúng ta không nên mong đợi cái ác sẽ lắng xuống trước khi Chúa Giê-su tái lâm trong vinh quang.
Khi chúng ta thấy vương quyền của Chúa trên thế giới này, chúng ta không nên nghĩ rằng cái ác sẽ biến mất hoàn toàn. Chúng ta nên mong đợi các cộng đồng và quốc gia sẽ thay đổi theo hướng tốt hơn khi phúc âm được truyền bá giữa mọi người, nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng các quốc gia trên thế giới này sẽ phát triển thành những xã hội mà không có gì ngoài sự bình an của Chúa. Chúng ta không nên tìm kiếm ảnh hưởng của Cơ đốc giáo để biến thế giới này thành một thế giới lý tưởng. Cỏ dại sẽ luôn tiếp tục phát triển giữa những hạt giống tốt. Khi phúc âm tiếp tục được rao giảng trên khắp thế giới, chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều người làm chúng ta kinh ngạc với những minh chứng về tình yêu của Chúa. Nhưng những hành động xấu xa không thể hiểu thấu cũng sẽ trở nên phổ biến trên phạm vi toàn cầu.
Martin Luther đã viết:
“Vì ở đâu Đức Chúa Trời xây nhà thờ, thì
ở đó ma quỷ cũng sẽ xây nhà nguyện. Ma quỷ là con khỉ bắt chước Đức Chúa Trời.”9
Thực tế ở Hoa kỳ cho chúng ta thấy, Giáo hội Sa-tan (Church of Satan) là một tổ chức tôn giáo thuộc về đạo Sa-tan được hệ thống hóa trong Kinh Sa-tan (The Satanic Bible). Nhà thờ Sa-tan được thành lập ở San Francisco, California vào ngày 30 tháng 4 năm 1966, bởi Anton LaVey Szandor giữ chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm (High Priest) cho đến khi ông qua đời vào năm 1997. Năm 2001, Peter H. Gilmore được bổ nhiệm vị trí Thượng tế, và trụ sở của nhà thờ đã được chuyển đến Manhattan, New York.10
Khi những Cơ đốc nhân phải đối mặt với những gì dường như là khả năng ngày càng gia tăng của cái ác trên thế giới, chúng ta không nên nghĩ rằng sự cai trị của Chúa đang suy yếu. Mọi thứ của thế gian đang sụp đổ đúng như Chúa Giê-su đã tiên đoán. Hạt giống tốt của sự cai trị của Chúa đang phát triển, và cỏ dại cũng vậy. Quyền năng tối cao của Chúa vẫn tiếp tục ẩn giấu dưới vẻ ngoài yếu đuối. Sự cai trị của Chúa vẫn bất khả chiến bại trong mọi thời kỳ, và nó luôn hiện diện dưới hình thức thập tự giá. Cùng một cây thập tự giá cuối cùng sẽ đảm bảo chiến thắng chung cuộc dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 9
1. Sigurd Grindheim (2018) Living in the Kingdom of God. Baker Academic
2. Tackling the Problem? Chinese Football. Espresso, The Economist, Tháng 3/2017
https://espresso.economist.com. Truy cập ngày 3 tháng 5/2025.
3. Trích từ bài phát biểu nhậm chức của Tổng thống John F. Kennedy, Washington, DC, ngày 20 tháng 1 năm 1961.
4. Martin Luther King Jr. Kêu gọi lương tâm: The Landmark Speeches of Dr. Martin Luther King, Jr. biên tập bởi Clayborne Carson và Kris Shepard (New York: Warner, 2001), trang 32-33.
5. Martin Luther King Jr, Kêu gọi lương tâm, trang 130.
6. Martin Luther King Jr. Kêu gọi lương tâm, trang 151.
7. Martin Luther King Jr, Kêu gọi lương tâm, trang 191.
8. King, Call to Conscience, 66,
9. https://www.brainyquote.com/authors/martin-luther-quotes. Ngày truy cập 8 tháng 7, 2025
10. https://vi.wikipedia.org/_Satan. Ngày truy cập 5 tháng 6, 2025
Chương 10
VƯƠNG QUỐC VÀ TƯƠNG LAI
Nhiều người phương Tây thường suy đoán hoặc tìm hiểu các dấu hiệu của thời đại tương lai. Những dấu hiệu này thường mang tính chính trị hoặc xã hội nhất định, bao gồm sự tiến triển của quốc gia Israel, căng thẳng giữa Đông và Tây cũng như sự suy thoái đạo đức trên toàn thế giới.
Trang Bách Khoa Toàn Thư định nghĩa: “Tương lai mô tả khoảng thời gian nối tiếp và là kết quả của hiện tại, trái ngược quá khứ. Đối với thời gian như là một góc độ nhận thức tuyến tính, tương lai là phần thời gian của những sự kiện chưa phát sinh, chưa xảy ra. Có thể nói tương lai là ngày mai, mai mốt…”1
Tại sao nhiều Cơ đốc nhân phương Tây đọc Kinh thánh lại say mê và thậm chí hoàn toàn bị cuốn hút vào việc tìm kiếm các dấu hiệu như vậy. Lý do là các dấu hiệu thường là sự thật hiển nhiên đã và đang xảy ra trong thế giới ngày nay. Chúng chứng minh cho tín nhân thấy rằng Chúa thực sự hiện hữu. Ngài vẫn đang làm việc trên thế giới. Chúng ta đều biết rằng con người tự nhiên thật khó để tin vào Đức Chúa Trời trong hiện tại giữa các đô thị hào nhoáng. Do đó, các dấu hiệu xảy ra làm Cơ đốc nhân tin và hy vọng rằng Chúa đang kiểm soát mọi điều đang xảy ra.
Thật đáng tiếc, trong xã hội phương Tây, phần lớn mọi người không biết hoặc đã từ chối lời dạy của Chúa Giê-su về chủ đề vương quốc Đức Chúa Trời. Do đó, niềm tin của họ vào tương lai không được đặt vào Vương quốc mà vào sự tiến bộ của con người, sức mạnh của khoa học ứng dụng, công nghệ, máy tính, trí tuệ nhận tạo AI cũng như các phương tiện khác để đảm bảo một tương lai an toàn, hạnh phúc. Tuy nhiên, những người chưa bước vào trong Vương quốc Đức Chúa Trời (chưa tiếp nhận ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su Christ) rất mơ hồ về tương lai của họ, và những giả định của họ là không chắc chắn. Họ không thể biết trước tương lai.
Khi nói đến bản chất không biết chắc của tương lai, chúng ta nhớ đến câu chuyện về tàu Titanic bị chìm. Tàu Titanic hạ thủy tại Anh vào ngày 10/04/1912 là chiếc tàu tối tân, hiện đại và lớn nhất thời bấy giờ với sức chứa hơn 2.000 hành khách. Trước khi khởi hành đi từ Anh sang Mỹ, vị thuyền trưởng của chiếc tàu đã tuyên bố đầy ngạo mạn rằng chiếc này rất an toàn, không có gì có thể làm cho nó chìm được. Vì thế, con tàu nầy được mọi người ca ngợi và gắn với danh hiệu là con tàu “không thể bị nhấn chìm”. Nhưng nào có ai ngờ trên đường vượt Đại Tây Dương, nó đã bất ngờ va vào một tảng băng trôi và bị chìm, hầu hết hành khách trên tàu là những người giàu có, quyền quý, đã bị vùi sâu dưới lòng biển. Vụ tai nạn khiến hơn 1.500 người trên tàu đã thiệt mạng.2
Một số nhà triết học trình bày cái mà người ta có thể gọi là tương lai học tiến hóa. Một ví dụ điển hình là các bài viết của Câu lạc bộ Rome, một hiệp hội gồm các nhà triết học, nhà xã hội học, nhà kinh tế, chính trị gia và nhà khoa học lỗi lạc. Họ nhìn thấy khả năng xã hội phương Tây phát triển và giải quyết các vấn đề của mình khi họ cẩn thận lập kế hoạch và kiểm soát tương lai, dựa nhiều vào các tính toán của máy tính và trí khôn nhân tạo. Nhiều người bình thường về cơ bản có cùng sự tự tin như những người trí thức, nhưng họ không bày tỏ hy vọng của mình một cách rõ ràng và mạch lạc như vậy. Do đó, theo quan điểm của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, con người hiện được hiểu là ở trung tâm của vũ trụ và do đó là trung tâm của hy vọng cho tương lai. Và vì cái chết luôn gây ra vấn đề, xã hội phương Tây đã nỗ lực hết sức để bảo vệ mọi người khỏi thực tế của việc sợ hãi khi đối diện với cái chết.
Niềm tin của Cơ đốc nhân vào tương lai nằm ở Chúa, và chỉ ở Chúa mà thôi. Mặc dù họ sẽ làm những gì có thể để cải thiện xã hội, nhưng niềm tin của họ sẽ nằm ở lời hứa của Đức Chúa Trời về tương lai thông qua Chúa Giê-su Christ, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn vậy (Hê-bơ-rơ 13:8). Họ tin rằng hành động của Chúa trong tương lai bao gồm cả sự phán xét và lòng thương xót. Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều này.
NGÀY CỦA CHÚA
Các tiên tri trong Cựu Ước đã tin rằng các nền văn minh mà họ biết sẽ không phát triển hoặc tiến hóa thành vương quốc của Chúa. Lời của Đức Chúa Trời đến với họ khiến họ dạy rằng xã hội loài người đã có quá nhiều điều xấu xa đến mức sự phán xét của Chúa là điều không thể tránh khỏi. Do đó, họ nói về một “Ngày của Chúa” trong tương lai khi Chúa sẽ bày tỏ danh Ngài và chính nghĩa của Ngài. Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ đổ xuống trên thế giới tội lỗi và gian ác. Bức tranh mà các tiên tri trình bày là về Đức Chúa Trời đang chiến thắng các kẻ thù của Ngài.
Ê-sai đã tuyên bố:
Vì sẽ có một ngày của Đức Giê-hô-va vạn quân đến trên mọi vật kiêu căng, ngạo mạn, tự cao; nó sẽ bị hạ xuống. (Ê-sai 2:12)
Giê-rê-mi đã nói về “Ngày đó thuộc về Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân; ấy là ngày báo thù, Ngài sẽ báo kẻ thù nghịch mình.” (Giê-rê-mi 46:10), trong khi Ê-xê-chi-ên nói về ngày của Chúa đã gần, “Thật vậy, ngày ấy gần rồi, phải, là ngày của Đức Giê-hô-va; ngày có mây, kỳ của các dân tộc.” (Ê-xê-chi-ên 30:3).
Giô-ên 1:15 đã nói nhiều về ngày trọng đại này, “Ôi ngày ấy! vì ngày Đức Giê-hô-va đã gần! Nó đến như một tai vạ thả ra bởi Đấng Toàn năng.”
A-mốt đã cảnh báo mọi người rằng ngay cả đối với người Y-sơ-ra-ên, Ngày trọng đại cũng có nghĩa là sự phán xét. “Khốn thay cho các ngươi là kẻ trông mong ngày của Đức Giê-hô-va! Các ngươi trông mong ngày của Đức Giê-hô-va làm gì? Ấy là ngày tối tăm, không phải là ngày ánh sáng. Ví như một người tránh khỏi sư tử, lại gặp con gấu; hay là như kẻ vào trong nhà, dựa tay trên vách, bị rắn cắn nhằm. Ngày của Đức Giê-hô-va há chẳng phải tối tăm, không sáng láng, và mù mịt, không chói lói hay sao?” (A-mốt 5:18-20).
Và Áp-đia cũng cảnh báo những người đương thời của mình rằng những việc làm của họ sẽ trở lại trên đầu họ trong sự phán xét. “Vì ngày của Đức Giê-hô-va đã gần trên hết thảy các nước: bấy giờ người ta sẽ làm cho ngươi như chính mình ngươi đã làm; những việc làm của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi” (Áp-đia 1: 15).
Sô-phô-ni đã ra lệnh cho thế giới “Hãy nín lặng ở trước mặt Chúa Giê-hô-va! Vì ngày của Đức Giê-hô-va đã gần, Đức Giê-hô-va đã sửa soạn của lễ, đã biệt riêng ra tân khách Ngài” (Sô-phô-ni 1:7).
Và Xa-cha-ri đã cảnh báo về bản chất dò xét của sự phán xét vào ngày trọng đại này của Chúa. “Nầy, ngày của Đức Giê-hô-va đến, những của cướp ngươi sẽ bị chia giữa ngươi” (Xa-cha-ri 14:1).
Vào ngày này, sự cai trị phổ quát của Đức Chúa Trời sẽ được chứng minh và chấp nhận một cách thực tế và hữu hình để toàn thế giới tuyên xưng sự hiện hữu và quyền tối cao của Ngài. Tất nhiên, các tiên tri cũng đã nói về Vương quốc hoàn hảo của Đức Chúa Trời sẽ theo sau ngày phán xét và thịnh nộ vĩ đại này. Vương quốc là mục tiêu cho hoạt động cứu chuộc của Chúa Giê-su.
Các tác giả Tân Ước đã chấp nhận sự trình bày của Cựu Ước về một ngày phán xét vĩ đại tiếp theo là Vương quốc vinh quang của Chúa, nhưng họ đã phát triển những chủ đề này liên quan đến Chúa Giê-su Christ. Họ cho rằng Chúa Giê-su là người đại diện của Chúa Cha, cai trị vũ trụ và hội thánh. Khi Ngài trở lại trái đất trong quyền năng và vinh quang lớn lao, lúc đó Ngài thay mặt Chúa Cha phán xét các quốc gia.
Ma-thi-ơ viết, “Khi Con Người đến trong vinh quang của mình, và tất cả các thiên sứ cùng với Ngài, thì Ngài sẽ ngồi trên ngai vinh quang của Ngài. Trước mặt Ngài, mọi dân tộc sẽ được nhóm lại, và Ngài sẽ phân chia họ ra khỏi nhau như người chăn chiên phân chia chiên với dê” (Ma-thi-ơ 25:31, 32).
Phao-lô nói với người A-thên rằng Đức Chúa Trời truyền lệnh “mọi người ở khắp mọi nơi phải ăn năn vì Ngài đã định một ngày để phán xét thế gian theo sự công bình bởi một người mà Ngài đã chỉ định, và về điều này, Ngài đã ban sự bảo đảm cho mọi người bằng cách khiến người đó sống lại từ cõi chết” (Công vụ 17:30, 31).
Cũng như các tiên tri thời xưa đã nói về việc Đức Chúa Trời hủy diệt kẻ thù của Ngài vào ngày phán xét, Phao-lô cũng nói về chiến thắng của Đức Chúa Trời đối với kẻ vô luật pháp, một số hiện thân của cái ác sẽ xuất hiện vào cuối thời đại này. “Bấy giờ kẻ nghịch cùng luật pháp kia sẽ hiện ra, Đức Chúa Giê-su sẽ dùng hơi miệng Ngài mà hủy diệt nó, và trừ bỏ nó bởi sự chói sáng của sự Ngài đến” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:8).
Ngày phán xét không thể tránh khỏi, ngày mà sẽ có sự phục sinh chung của người chết, sẽ bao gồm sự phân chia nhân loại; vì như Chúa Giê-su đã nói, một số người sẽ sống lại để được sự sống và những người khác sẽ sống lại để bị phán xét (Giăng 5:29). Sự phán xét cuối cùng quyết định ai sẽ vào vương quốc của Chúa. Phao-lô đã giải thích chi tiết về niềm tin vào sự phục sinh của thân thể và sự sống trong thời đại sắp đến có nghĩa là gì trong 1 Cô-rinh-tô 15. Đối với Phao-lô, có hai thời đại: thời đại kéo dài từ khi sáng thế đến khi bị phán xét, và thời đại bắt đầu từ lúc phán xét và tiến tới cõi vĩnh hằng.
Theo định nghĩa, thời đại đầu tiên là thời đại gian ác, vì tội lỗi đã xâm nhập vào thời đại đó từ giai đoạn đầu; nhưng thời đại sắp đến là thời đại hoàn hảo, vì đó là vương quốc của Đức Chúa Trời. Niềm hy vọng của tín nhân là sự sống của thời đại sắp đến, vì vậy Phao-lô đã nói về việc sống trong thời đại này như những Cơ đốc nhân trung tín và “chờ đợi hy vọng phước hạnh của chúng ta, sự xuất hiện vinh quang của Đức Chúa Trời vĩ đại và Cứu Chúa của chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (Tít 2:13). Cơ đốc nhân là người “kế tự của Ngài trong sự trông cậy của sự sống đời đời” (Tít 3:7).
Phi-e-rơ cũng nói một cách hào hứng về hy vọng của tín nhân về sự sống đời đời trong thời đại sắp đến: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta! Bởi lòng thương xót lớn lao của Ngài, chúng ta đã được tái sinh để có một hy vọng sống qua sự sống lại của Đức Chúa Giê-su Christ từ cõi chết, và để hưởng một cơ nghiệp không hư nát, không ô uế, không phai tàn, được giữ trên trời cho anh em, là những người được Đức Chúa Trời bảo vệ bởi đức tin để được sự cứu rỗi sẵn sàng được bày tỏ trong thời kỳ sau rốt” (1 Phi-e-rơ 1:3-5).
Ở đây chúng ta lưu ý đến sự nhấn mạnh về sự phục sinh của Chúa Giê-su như là nền tảng của hy vọng cho tín nhân, và hãy nhớ rằng đây là một trong những chủ đề chính trong phần trình bày của Phao-lô trong thư tín thứ nhất sách Cô-rinh-tô. “Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. Vả, vì chưng bởi một người mà có sự chết, thì cũng bởi một người mà có sự sống lại của những kẻ chết. Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại… Kế đó, cuối cùng sẽ đến là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa Trời là Cha, sau khi Ngài đã phá diệt mọi đế quốc, mọi quyền cai trị, và mọi thế lực; vì Ngài phải cầm quyền cho đến chừng đặt những kẻ thù nghịch dưới chơn mình. Kẻ thù bị hủy diệt sau cùng, tức là sự chết” (1 Cô-rinh-tô 15:20-26)
Để có những bức tranh cảm động nhất về cuộc sống của vương quốc Đức Chúa Trời trong tương lai, chúng ta phải chuyển sang sách Khải huyền của sứ đồ Giăng, đặc biệt là các chương 21 và 22.
“Bấy giờ tôi thấy một trời mới và một đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Tôi thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, từ nơi Đức Chúa Trời mà xuống, đã sửa soạn như cô dâu trang điểm cho chồng mình; và tôi nghe một tiếng lớn từ ngai phán rằng: Này, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người. Ngài sẽ ở với họ, và họ sẽ là dân Ngài, và chính Đức Chúa Trời sẽ ở cùng họ. Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng không còn than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa, vì những sự trước kia đã qua rồi” (Khải huyền 21:1-4).
Và sau đó:
“Ở đó, tôi không thấy đền thờ nào; vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng và Chiên Con đều là đền thờ của thành. Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành. Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển mình vào đó. Những cửa thành ban ngày không đóng, vì ở đó không có ban đêm. Người ta sẽ đem vinh hiển và phú quí của các dân đến đó; kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành; nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con.” (Khải huyền 21:22-27).
Sau khi đã nắm bắt được viễn cảnh về hy vọng này, giờ đây chúng ta phải xem xét những hàm ý thực tế của nó.
GIÁ TRỊ THỰC TẾ CỦA HY VỌNG VỀ VƯƠNG QUỐC
Có hy vọng nơi Đức Chúa Trời trên cơ sở những lời hứa lấy Đấng Christ làm trung tâm hơn là lấy con người. Những lời hứa của Đức Chúa Trời, ám chỉ đến một thực tại siêu nhiên trong tương lai, nhất thiết phải có trước được diễn đạt bằng ngôn ngữ biểu tượng và ẩn dụ, nhưng điều này không làm giảm giá trị của chúng. Tin tưởng vào Chúa, cộng đồng Cơ đốc và tín nhân đối mặt với tương lai sự trông cậy. Trong sự bảo đảm của đức tin, Chúa được biết là người nắm quyền kiểm soát tối thượng. Vì vậy, tín đồ đối mặt với các cuộc khủng hoảng, căng thẳng, yêu sách và sự kiêu ngạo của nền văn minh công nghệ hiện đại, nhận ra rằng bất kể vẻ bề ngoài như thế nào, con người và trí tuệ nhân tạo AI của họ cuối cùng không thống trị thế giới. Là một thành viên của loài người, Cơ đốc nhân chia sẻ với những người khác trong những đau khổ và niềm vui của cuộc sống hiện đại. Giống như Sa-lô-môn, tín nhân học được rằng có thời gian để cười, than khóc, chữa lành, lắng nghe và nói (Truyền đạo 3:2). Tuy nhiên, Cơ đốc nhân khác với những người ngoại bang ở chỗ hy vọng của mình được neo chặt vào Lời Chúa. Cơ đốc nhân tin vào Chúa và, đối với tương lai chỉ tin vào lời hứa của Chúa mà thôi.
Với hy vọng như vậy, các hội chúng nên áp dụng một lối sống phản ánh điều đó. Lời dạy của Chúa Giê-su về đạo đức của vương quốc và lời dạy của Phao-lô về ý nghĩa của việc trở thành một Cơ đốc nhân trong xã hội ngoại giáo của thế giới Hy Lạp – La Mã đã được gửi đến những hội thánh để chỉ cho họ thấy rằng việc sống theo các nguyên tắc của Vương quốc có những hàm ý sâu sắc. Trong lĩnh vực áp dụng một lối sống phù hợp hiện nay, những tín nhân hiện đại dường như đạt được một ít tiến bộ. Thực tế là thường không thể biết ai là Cơ đốc nhân trên một con phố, trường đại học, nhà máy hoặc cửa hàng nhất định. Nơi nào có sự đàn áp đối với những người theo Chúa, thì họ phải tuyên xưng đức tin của mình và phải đối mặt với hậu quả. Nơi nào có sự chấp nhận chung về Cơ đốc giáo, nhưng nơi đó xã hội vẫn về cơ bản là vô đạo đức, việc áp dụng lối sống Cơ đốc giáo đề cao hy vọng Cơ đốc giáo đang rất cần được phát triển.
Tiến sĩ Peter Toon đã viết:
Về mặt phát triển công lý trong xã hội, những Cơ đốc nhân có hy vọng chắc chắn nên là những người dẫn đầu tư duy sáng tạo liên quan đến việc sử dụng công nghệ trong xã hội loài người. Sức mạnh mà các sản phẩm công nghệ (ví dụ như máy tính, ô tô, hệ thống sưởi ấm hoặc làm mát trung tâm, tivi, điện thoại, trí tuệ nhân tạo AI…) sở hữu trong xã hội phương Tây là vô cùng lớn và nếu chúng không được đưa vào phục vụ công lý, chúng sẽ trở thành “những con quỷ mới” thay thế cho những con quỷ cũ của xã hội tiền công nghiệp. Chúng thể hiện “các quyền lực và thế lực” mà Phao-lô cho rằng chúng ta phải chiến đấu nhân danh Chúa Giê-su. Bởi vì những người theo Chúa có hy vọng chắc chắn, tập trung vào Chúa chứ không phải con người, họ có nguồn lực đạo đức và tinh thần để sử dụng hiệu quả các phát triển của công nghệ hiện đại, nhưng không để bị lạm dụng vì chúng.3
MỘT CÂU HỎI QUAN TRỌNG
Hai sự kiện nêu lên một câu hỏi quan trọng. Sự thật là Chúa Giê-su vẫn chưa trở lại và cái chết là “kẻ thù cuối cùng” (1 Cô-rinh-tô 15:26), vẫn đang đối mặt với chúng ta. Do đó, câu hỏi đặt ra: Điều gì xảy ra với tín nhân sau khi chết?
Có vẻ như những người theo đạo Chúa vào thế kỷ đầu tiên đã sống trong sự mong đợi về sự tái lâm của Chúa Giê-su trong cuộc đời của họ. Vì vậy, các sách của Tân Ước chỉ tiết lộ một sự quan tâm tối thiểu đến câu hỏi này. Đối với chúng ta, nó có tầm quan trọng lớn hơn vì chúng ta nhìn lại hàng thế kỷ lịch sử của hội thánh và cái chết của hàng ngàn thánh đồ.
Chúng ta phải bắt đầu câu trả lời của mình bằng cách thừa nhận rằng sự nhấn mạnh nổi bật trong hy vọng của Cơ đốc nhân trong Tân Ước là sự trở lại vinh quang trên trái đất của Chúa Giê-su.
Tuy nhiên, từ nhiều gợi ý khác nhau, xuất hiện ở đây và ở đó, chúng ta có thể khẳng định rằng khi chết, những người tin Chúa không bị tách khỏi Chúa, Đấng mà họ đã được kết hợp trong Chúa Thánh Linh. Phao-lô tuyên bố rằng “dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa” (Rô-ma 14:8).
Chúa Giê-su đã kể dụ ngôn về người giàu và La-xa-rơ, ngụ ý rõ ràng rằng sau khi chết, con người ở trong “lòng Áp-ra-ham” hoặc “trong Âm phủ với sự đau khổ” (Lu-ca 16:19). Và từ trên thập tự giá, Chúa Giê-su đã nói với tên trộm ăn năn rằng: “Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ ở với ta trong Ba-ra-đi” (Lu-ca 23:43).
Chắc chắn không có lời giải thích lý thuyết nào về trạng thái trung gian được cung cấp trong Tân Ước. Những giáo viên dựng lên học thuyết về giấc ngủ được cho là của linh hồn từ khi chết cho đến khi phục sinh đã không sử dụng Kinh thánh một cách khôn ngoan. Đúng là cả Chúa Giê-su và Phao-lô đều ám chỉ cái chết là “giấc ngủ” (xem Ma-thi-ơ 9:24; Mác 5:39; Giăng 11:11, 13; 1 Cô-rinh-tô 15:20, 51), nhưng Chúa Giê-su và vị sứ đồ sử dụng từ này theo nghĩa ẩn dụ hơn là theo nghĩa khoa học hoặc kỹ thuật. Họ không gợi ý rằng khi chết, linh hồn sẽ tách khỏi cơ thể để đi vào một phòng đông lạnh cho đến ngày phục sinh.
Tất cả những gì chúng ta có thể nói là khi chết, Cơ đốc nhân sẽ không bị tách khỏi Chúa của mình. Phao-lô đã hỏi, “Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đấng Christ?” và tiếp tục kết luận rằng “bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ hay các quyền lực nào cũng không thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ Giê-su, Chúa chúng ta” (Rô-ma 8:35-39). Vị sứ đồ cũng nói với người hội thánh tại Phi-líp, “Đối với tôi, sống là Đấng Christ, và chết là điều lợi” (Phi-líp 1:21).
Vì vậy, chúng ta không nên giáo điều về cách chúng ta sẽ ở với Chúa giữa lúc chết và thời điểm chúng ta nhận được thân thể phục sinh vinh quang để chuẩn bị cho cuộc sống trong Vương quốc của Chúa. Hy vọng chắc chắn của chúng ta là chúng ta sẽ mãi mãi ở với Chúa trong sự chết, qua sự chết và bước vào cuộc sống của thời đại sắp đến.
Trong Giáo hội Công giáo thời trung cổ, người ta đã phát triển một học thuyết về trạng thái trung gian thường được gọi là ngục luyện tội và Giáo hội Công giáo La Mã đã duy trì học thuyết này. Các Giáo hội Chính thống giáo cũng duy trì một học thuyết tương tự. Bản chất của học thuyết này nằm trong ý nghĩa cơ bản của động từ “thanh tẩy”, tức là “làm trong sạch”. Ý tưởng chính là quá trình thánh hóa diễn ra trên trái đất trong cuộc sống của một tín đồ thông qua công việc của Chúa Thánh Linh được tiếp tục sau khi chết để chuẩn bị cho ngày phục sinh vĩ đại. Trên cơ sở của quá trình thanh tẩy liên tục này, người ta cho rằng những lời cầu nguyện cho người chết cũng có giá trị như những lời cầu nguyện cho người sống.4
Những người theo Tin lành chưa bao giờ đồng ý với học thuyết về ngục luyện tội. Lý do vì thiếu bằng chứng trong Kinh thánh để hỗ trợ cho nó.
Do đó, chúng ta thấy rằng hy vọng của Cơ đốc giáo có một bản chất mà người tin Chúa phải đối mặt với cái chết tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để giữ họ trong và qua sự chết. Và hội thánh phải cung cấp cho các tín nhân mọi sự giúp đỡ cần thiết để bám chặt vào những lời hứa của Chúa.
Kết luận
Điều chắc chắn là Cơ đốc nhân có hy
vọng về một tương lai vĩnh hằng được ở với Chúa và đồng cai trị với Ngài. Nếu
như Áp-ra-ham bước tới trên hành trình theo Chúa, và không nhìn thấy một tương
lai chưa biết trước, nhưng ông tin cậy vào lời hứa của Chúa. Chúng ta cũng vậy.
Nhìn về tương lai, Chúa Giê-su đang chờ đón chúng ta trở về nhà Cha thiên
thượng. Lời hứa của Chúa dành cho tuyển dân cũng được áp dụng cho chúng ta hôm
nay:
“Đức Giê-hô-va phán: Vì chính Ta biết rõ chương
trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an thịnh vượng cho
các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy
vọng” (Giê-rê-mi 29:11).
“Một tương lai đầy hy vọng” chính là hệ quả tất yếu dành cho các công dân của Vương quốc Đức Chúa Trời. Những người được Chúa chọn không bi quan hay không biết gì về tương lai. Họ có niềm hy vọng ở tương lai – một tương lai tươi sáng, phước hạnh mà hiện nay khó diễn tả hết được. Mặc dù Cơ đốc nhân chắc phải đi qua những hoạn nạn, khó khăn trong cuộc sống, nhưng họ tin vào lời hứa của Chúa Giê-su: “Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi” (Giăng 16:33). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng nói, “Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình” (1 Phi-e-rơ 5:9).
Những hoạn nạn của chúng ta chỉ như một cơn gió đi qua nhanh trên hành tinh này, trong khi một tương lai hạnh phước vĩnh cửu là điều chắc chắn theo lời hứa của Chúa.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 10
- https://vi.wikipedia.org/wiki/Tương_lai. Truy cập ngày 6 tháng 7/2024
- https://nghiencuuquocte.org/2018/04/15/tau-titanic-bi-chim/ Truy cập ngày 29 tháng 12/2024
- Peter Toon (1980). God’s kingdom for today. Trang 123. Cornerstone Books.
- https://www.catholic.com.vn/2021/08/luyen-nguc-luyen-toi-la-gi. Truy cập ngày 17 tháng 3/2025.
Chương 11
Vương quốc 1000 năm bình an
Từ thiên hy niên xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa một ngàn năm. Từ này được đề cập sáu lần trong Khải huyền 20:1-6. Cũng có một vài cụm từ khác đề cập đến từ này:
– Thế gian hầu đến (Hêb. 2:5)
– Nước thiên đàng (Ma-thi-ơ 5:10)
– Nước Đức Chúa Trời (Mác 1:15)
– Ngày sau rốt. (Giăng 6:40)
– Kỳ muôn vật đổi mới (Ma-thi-ơ 19:28)
Vương quốc một ngàn năm sẽ đến trên trái đất dưới quyền cai trị của Đấng Christ. Ngài sẽ cai trị toàn thể thế giới, có các sứ đồ và môn đồ tham gia vào việc cai trị này cùng với Ngài.1
Ê-sai diễn tả vương quốc một ngàn năm là “núi của nhà Đức Giê-hô-va” (2:2). Đây là phần Kinh Thánh đề cập trực tiếp đến Vương quốc một ngàn năm dưới quyền cai trị của Đấng Christ theo Ê-xê-chi-ên 40-43.
Đền thờ của vương quốc một ngàn năm sẽ được xây dựng ở Giê-su-sa-lem, nơi đây được xem là trung tâm quyền lực cao nhất của Đấng Christ để cai trị toàn thế giới. Núi của nhà Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem là chủ đề chính trong sách tiên tri Ê-sai đề cập đến các lời tiên tri trong tương lai (Ê-sai 11:9; 25:6-7; 27:13; 30:29; 56:7; 57:13; 65:11, 25; 66:20). Một ngàn năm sẽ là khoảng thời gian hòa bình giữa các quốc gia và sự hòa thuận hoàn hảo giữa vòng các loài động vật trên đất. “Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò.” (Ê-sai 11:6-7. Ê-sai 11:1-9; 65:25). Đây là thời kỳ mà “thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước che lấp biển.” (Ê-sai 11:9; Giê-rê-mi 31:33-34).
Trong suốt một ngàn năm bình an, khí hậu thời tiết sẽ trở nên hòa hợp để làm giàu cho đất nông nghiệp. “Đồng vắng và đất khô hạn sẽ vui vẻ; nơi sa mạc sẽ mừng rỡ, và trổ hoa như bông hường.” (Ê-sai 35:1-10; A-mốt 9:13-14). Người bệnh thường xuyên được chữa lành (Ê-sai 29:18; 33:24; 61:1-2), tuổi thọ cuộc sống kéo dài trở nên phổ biến (Ê-sai 65:20), và một niềm vui mới sẽ lấp đầy lòng của tuyển dân Y-sơ-ra-ên (Giê-rê-mi 31:12-14) trong khi sự thánh khiết của Chúa được thể hiện giữa vòng dân sự của Ngài (Ê-xê-chi-ên 40-44; Đa-ni-ên 7:13-14; Xa-cha-ri 14:16-19).
Dĩ nhiên những ai không được cứu sẽ không có chỗ trong Vương quốc một ngàn năm bình an (Ê-sai 35:4; Giê-rê-mi 31:33-34, Ê-xê-chi-ên 20:37; Ma-thi-ơ 25:30, 46). Chỉ những người được cứu chuộc mới được bước vào Vương quốc này và họ sẽ khôi phục thế giới thông qua những con cái được nuôi dưỡng lớn lên trong sự cai trị công bình của Đấng Christ. Tuy nhiên chúng ta cũng được thông báo trong Ê-sai 11:4 và 65:20 rằng tội lỗi sẽ vẫn còn thấy trên trái đất và một số người đã từng theo Đức Chúa Trời sẽ từ chối đi lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Ngài (Xa-cha-ri 14:16-19).
Trích dẫn Kinh thánh:
“Nhưng Ngài sẽ dùng sự công bình xét đoán kẻ nghèo, và xử lẽ ngay thẳng cho kẻ nhu mì trên đất. Ngài sẽ đánh thế gian bằng cái gậy của miệng mình, và lấy hơi thở nơi môi mà giết kẻ ác.” (Ê-sai 11:4). “Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả.” (Ê-sai 65:20)
“ Xảy ra hết thảy những kẻ nào còn sót lại trong mọi nước
lên đánh Giê-ru-sa-lem, sẽ lên đó hàng năm đặng thờ lạy trước mặt Vua, là Đức
Giê-hô-va vạn quân, và giữ lễ lều tạm.
Trong những họ hàng trên đất, kẻ nào đã chẳng
lên Giê-ru-sa-lem đặng thờ lạy trước mặt Vua, là Đức Giê-hô-va vạn quân, thì sẽ
không có mưa trên chúng nó. Nếu họ hàng
Ê-díp-tô không lên và không đến đó, thì mưa cũng không xuống trên chúng nó; và
chúng nó sẽ bị ôn dịch nầy, là ôn dịch mà Đức Giê-hô-va đã dùng phạt các nước
không lên giữ lễ lều tạm. Ấy hình phạt
của Ê-díp-tô và hình phạt của các nước chẳng lên giữ lễ lều tạm sẽ là như vậy”
(Xa-cha-ri 14:16-19).
Các thể chế độc đoán của con người cố gắng cai trị quốc gia bằng một bàn tay sắt, nhưng Chúa Giê-su Christ sẽ cai trị thế giới trong sự công chính, vinh hiển rực rỡ của Ngài. Chúng ta nên tập chú vào Vương quốc thiên hy niên của Đấng Christ thay vì các vương quốc của con người. Phao-lô công bố về thái độ của con người trong Vương quốc hầu đến, “nghe đến danh Đức Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-su Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Phi-líp 2:10-11)
Vương quốc ngàn năm là cách gọi để nói về ngàn
năm trị vì của Chúa cứu thế Giê-Su trên đất. Một số người tìm cách giải thích
ngàn năm theo cách ẩn dụ. Một số hiểu ngàn năm đơn thuần như là một cách tượng
trưng về “một thời gian dài” không phải theo nghĩa đen về sự trị vì của
Chúa cứu thế Giê-su trên trái đất. Tuy nhiên, sáu lần trong Khải huyền 20:2-7, Vương quốc ngàn năm được nói cụ thể là
1.000 năm trên đồng hồ thời gian. Nếu Đức Chúa Trời muốn nói “một thời
gian dài khác” Ngài có thể dễ dàng làm như vậy mà không cần liên tục nhắc
đến rõ ràng khung thời gian chính xác là 1 000 năm.
Kinh thánh nói với chúng ta khi Chúa Giê-su trở
lại trái đất Ngài sẽ làm Vua ở Giê-ru-sa-lem, ngồi trên ngai của Đa Vít (Lu-ca
1:32-33). Những giao ước vô điều kiện mà Đức Chúa Trời đã thiết lập với hậu tự
Áp-ra-ham phải được hiểu theo nghĩa đen. Giao ước của Chúa với Áp-ra-ham đã hứa
cho Y-sơ-ra-ên một vùng đất, người nối dõi, một nhà cai trị, và phước lành thuộc
linh (Sáng thế ký 12:1-3). Giao ước
Chúa đã hứa với Y-sơ-ra-ên, tuyển dân sẽ được phục hồi và sinh sống trong vùng
đất hứa (Phục truyền 30:1-10). Trong Giê-rê-mi 31:31-34, lời hứa của Chúa bày tỏ, “Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ lập
một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao ước nầy
sẽ không theo giao ước mà ta đã kết với tổ phụ chúng nó trong ngày ta nắm tay dắt
ra khỏi đất Ê-díp-tô, tức giao ước mà chúng nó đã phá đi, dầu rằng ta làm chồng
chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước
mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp ta trong
bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ
làm dân ta. Chúng nó ai nấy sẽ chẳng dạy kẻ lân cận mình hay
là anh em mình, mà rằng: Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va! vì chúng nó thảy đều sẽ
biết ta, kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn. Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ tha sự gian ác chúng
nó, và chẳng nhớ tội chúng nó nữa.”
Trong lần trở lại thứ hai, các giao ước này sẽ
được ứng nghiệm khi Y-sơ-ra-ên tái tập hợp từ các quốc gia (Ma-thi-ơ 24:31), và phục hồi lãnh thổ dưới sự cai trị của
Đấng Mê-si. Kinh Thánh nói về điều kiện sống trong Vương quốc ngàn năm là một
môi trường hoàn hảo về thể chất và tâm linh. Nó sẽ là một thời kỳ bình an (Mi-chê 4:2-4; Ê sai 32:17-18), vui mừng (Ê sai 61:7,10), an ủi (Ê sai 40:1-2), và không có đói nghèo hay bệnh
tật (A mốt 9:13-15; Giô ên 2:28-29).
Kinh Thánh cũng nói với chúng ta rằng chỉ các tín nhân mới được vào Vương quốc thiên hi niên. Bởi vì đây là thời gian của sự công bình hoàn hảo (Ma-thi-ơ 25:37; Thi thiên 24:3-4).
Khải huyền 20:2-7 cho biết khoảng thời
gian chính xác của Vương quốc ngàn năm. Ngay cả nếu khi không có những câu Kinh
thánh này, thì cũng có vô số những phân đoạn Kinh Thánh khác chỉ ra một triều đại
của Đấng Mê-si trên trái đất theo nghĩa đen. Việc ứng nghiệm những giao ước
cùng lời hứa của Đức Chúa Trời là vương quốc trên đất trong tương lai theo
nghĩa đen. Không có một cơ sở vững chắc để diễn giải Vương quốc ngàn năm và thời
gian trị vì 1000 năm của Đấng Christ theo nghĩa bóng.
Vì sao cần đến một vương quốc trên trần gian? Không phải Chúa Giê-su đã nhận lãnh cơ nghiệp khi Ngài thăng thiên và được tôn cao trên thiên đàng sao? Vì sao lại phải cần đến một vương quốc trên trần gian? Bởi vì Ngài phải đắc thắng khải hoàn ngay tại chính đấu trường mà Ngài có vẻ như đã bị thất bại. Sự chối bỏ Ngài của những kẻ cai trị thế gian đã diễn ra trên đất nầy (1 Cô-rinh-tô 2:8). Sự tôn cao Ngài cũng phải diễn ra trên đất nầy. Và sự tôn cao đó cũng sẽ diễn ra trên đất khi Ngài trở lại cai trị thế gian trong uy nghiêm và vinh hiển. “Lạy Chúa Giê-su xin hãy đến” (Khải huyền 22:20).
144 000 người trong sách Khải huyền là ai?
Sách Khải huyền luôn bày ra nhiều thách thức cho các nhà giải kinh. Cuốn sách này ngấm đầy những hình ảnh sống động và có tính tượng trưng mà người ta đã và đang giải thích khác nhau phụ thuộc vào những định kiến của họ về toàn bộ cuốn sách. Có bốn cách tiếp cận giải thích sách Khải huyền:
1) Phái quá khứ (xem tất cả hay hầu hết các sự kiện trong Khải huyền như đã xảy ra lúc cuối thế kỷ thứ nhất;
2) Phái lịch sử (xem Khải huyền như một cái nhìn tổng quát về lịch sử hội thánh từ thời các sứ đồ cho đến nay;
3) Phái lý tưởng (xem Khải huyền như một mô tả về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác;
4) Phái tương lai (xem Khải huyền như sự tiên
tri về những sự kiện sẽ xảy đến. Trong bốn cách tiếp cận đó, chỉ có cách tiếp cận
theo phái tương lai giải thích Khải huyền theo cùng phương pháp văn phạm – lịch
sử như phần còn lại của Kinh Thánh. Nó cũng phù hợp hơn với chính lời tiên tri của sách Khải huyền
(Khải huyền 1:3; 22:7, 10, 18, 19).
Nên câu trả lời cho câu hỏi
“Những ai là 144 000 người?” sẽ phụ thuộc vào cách tiếp cận giải thích nào
cho sách Khải huyền mà bạn sẽ theo. Ngoại trừ cách tiếp cận theo phái tương
lai, tất cả các cách tiếp cận khác đều giải thích con số 144 000 một cách tượng
trưng, như đại diện của hội thánh và con số 144 000 có tính biểu tượng cho toàn
bộ hội thánh. Nhưng khi được xem xét theo nghĩa rõ ràng nhất: “Tôi lại
nghe số người được đóng ấn là: mười bốn vạn bốn ngàn người được đóng ấn từ
trong các chi phái dân Y-sơ-ra-ên” (Khải huyền 7:4). Không
chỗ nào trong phân đoạn Kinh Thánh này dẫn đến việc giải thích 144 000 người như
bất kỳ điều gì trừ một con số theo nghĩa đen. Họ là những người Do Thái 2.
Tân Ước không đưa ra một luận cứ rõ ràng nào là Y-sơ-ra-ên được
thay thế bằng hội thánh. Hay nói một cách khác thì hội thánh không phải là
Y-sơ-ra-ên. Điều này đã được Tiến sĩ David Hocking giải thích trong chương …
trước đây.
Những người Do Thái này “được đóng ấn”,
nghĩa là họ có sự bảo vệ đặc biệt của Đức Chúa Trời để thực hiện sứ mạng của họ
trong suốt thời kỳ đại nạn. “Vì
ngày thạnh nộ lớn của Ngài đã đến, còn ai đứng nổi?” (Khải huyền 6:17). Trong
câu Kinh Thánh này người ta sẽ tự hỏi ai có thể đứng vững trong cơn thạnh nộ hầu
đến. Thời kỳ đại nạn là một khoảng thời gian bảy năm trong đó Đức Chúa Trời sẽ
thi hành sự phán xét đối với những người chối bỏ Ngài và hoàn tất kế hoạch cứu
rỗi của Ngài cho dân tộc Do Thái. Tất cả điều này là theo sự mặc khải của Đức Chúa
Trời cho tiên tri Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 9:24-27).
144 000 người Do Thái là “những trái đầu
mùa” (Khải huyền 14:4) của một dân Do Thái được cứu
chuộc mà rõ ràng được nói tiên tri trước đó (Xa-cha-ri
12:10; Rô-ma 11:25-27), và sứ mạng của
họ là chứng đạo cho thế giới sau sự kiện Chúa cất con cái Ngài lên không trung,
và họ công bố phúc âm trong thời kỳ đại nạn. Kết quả của mục vụ này là hàng triệu
người, “vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc,
mọi tiếng mà ra” (Khải huyền 7:9) sẽ đến tiếp nhận
tin lành của Vương quốc.
Theo Khải huyền 20:4, “Các người ấy được sống và trị vì với Đấng Christ trong một ngàn năm.” Những người này sẽ bao gồm hội thánh (những người tin Chúa Giê-su), các thánh đồ thời Cựu Ước (những người tin đã chết trước sự giáng sinh của Đấng Christ), và những thánh đồ thời đại nạn (những người tiếp nhận Đấng Christ trong thời đại nạn). Nhưng Kinh Thánh không đặt con số giới hạn trên nhóm người này. Hơn nữa, thời kỳ một ngàn năm bình an (cũng gọi là thiên hy niên) là khác với tình trạng đời đời, sẽ xảy ra khi chấm dứt một ngàn năm bình an. Lúc đó, chúng ta là các Cơ đốc nhân được ở cùng Chúa trong Giê-ru-sa-lem mới. Ngài sẽ là Đức Chúa Trời của chúng ta và chúng ta sẽ là dân Ngài (Khải huyền 21:3). Phần cơ nghiệp được hứa ban cho chúng ta trong Đấng Christ và được đóng ấn bởi Đức Thánh Linh (Ê-phê-sô 1:13-14) sẽ trở thành của chúng ta, và chúng ta sẽ là những người đồng hưởng cơ nghiệp với Đấng Christ (Rô-ma 8:17).
Nhà Thần học John Drange Olsen đã tổng kết về Vương quốc thiên hi niên:
Thời kỳ thiên hy niên là thời toàn thể thế giới cùng vui hưởng thái bình, thạnh trị, sẽ đem lại cảnh trạng của nguyên tổ ta vốn có lúc chưa sa ngã. Thời ấy Đức Chúa Trời sẽ giao thông với loài người. Loài người và loài vật thương yêu nhau, cùng sống trong một không khí ôn hòa, cảnh trí thiên nhiên cực kỳ tươi vui, thật rất xứng đáng mà gọi bằng vườn phước hựu. Chúa Jesus Christ chịu chết làm giá chuộc tội; cuộc cứu chuộc ấy không những là toàn cứu loài người, lại giải phóng muôn vật khỏi ảnh hưởng của tội nữa, đến đỗi sẽ phục hồi nguyên trạng lúc ban sơ. Nếu gọi sự cứu chuộc của Christ không đủ hiệu lực để khôi phục sự tổn thương muôn vật phải chịu vì cớ tội lỗi, thì thập tự giá có công năng gì? Sự cứu chuộc của Christ đền bồi công quả của tội lỗi ở đâu? Cảm tạ Đức Chúa Trời! Một ngày kia Chúa sẽ trừ bỏ tội lỗi, làm sạch sự gian ác, đem sự công nghĩa đời đời thay vào, và khiến cho thế giới nầy trở nên lạc viên của Đức Chúa Trời một lần nữa. Khi ấy chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời mới được thành công trọn vẹn vậy.
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 11
- Norman L. Geisler and Jason Jimenez. The Bible’s Answers To 100 of Life’s Biggest Questions. https://huongdionline.com. Ngày truy cập 22 tháng 2/2024
- .https://www.gotquestions.org/Viet/144000.html. Truy cập ngày 21 tháng 3/2025.
- Tiến sĩ John Drange Olsen. Nhu liệu Thánh Kinh 2015.
Chương 12
Áp dụng lẽ thật về Vương quốc trong công tác truyền giáo cho người Việt
Chúa Giê-su đã đến để rao giảng về tin mừng của Nước Đức Chúa Trời. Phao-lô cũng giảng dạy, chia sẻ những điều liên quan đến Nước Đức Chúa Trời. Xin khẳng định một lần nữa rằng, Nước Đức Chúa Trời là một khái niệm rất quan trọng. Lời cầu nguyện của chúng ta là, “Nước Cha được đến.” Khi phân loại các thứ tự ưu tiên, Nước Đức Chúa Trời phải trở thành hàng đầu của chúng ta. Nếu tưởng tượng những ưu tiên trong cuộc đời chúng ta giống như một cái đích gồm có nhiều vòng tròn đồng tâm, ở ngay chính giữa là tâm điểm rồi vòng số một, số hai, ba, bốn … thì tâm điểm chính là Nước Đức Chúa Trời. Khi đọc sách 1 Sa-mu-ên, chúng ta sẽ khám phá Nước Đức Chúa Trời có nghĩa là Đức Chúa Trời muốn làm Vua của chúng ta. Khi chúng ta không muốn Ngài làm Vua của mình thì chúng ta có quyền chọn đi theo ý riêng, nhưng nên nhớ rằng sớm muộn gì rồi chúng ta cũng gặt lấy hậu quả của sự lựa chọn đó (tuyển dân Y-sơ-ra-ên muốn Sau-lơ làm vua của họ thay vì Đức Chúa Trời).
Sau khi dân Y-sơ-ra-ên gặt bao nhiêu hậu quả thảm khốc, Đức Chúa Trời đã yên lặng một thời gian dài. Cuối cùng Ngài đã đánh tan không khí yên lặng bằng cách rao truyền một tin mừng, “Đức Chúa Trời muốn làm Vua của chúng ta.” Nước của Ngài ở ngay trong lòng mỗi tín nhân.
Mục đích và kết quả đầu tiên của sự tái sanh là bước vào Nước Đức Chúa Trời. Khi được sanh lại, chúng ta sẽ thấy Nước Đức Chúa Trời và bước vào trong Nước của Ngài.
Ý nghĩa của Ma-thi-ơ 6:33
Chúa Giê-su phán trước hết
hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trong Bài Giảng Trên Núi. “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa
Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa”
(Ma-thi-ơ 6:33). Ý nghĩa
của câu Kinh Thánh là trực tiếp như sự báo hiệu của nó. Chúng ta phải tìm kiếm
mọi điều về Đức Chúa Trời như một sự ưu tiên trên mọi điều khác của thế gian.
Trước hết, điều đó có nghĩa là chúng ta phải tìm kiếm sự cứu rỗi vốn có trong
Vương quốc của Đức Chúa Trời bởi vì nó có giá trị lớn hơn hết tất cả những sự
giàu có trong thế gian. Có phải điều này có nghĩa là chúng ta nên bỏ qua những
bổn phận hợp lý và trách nhiệm mỗi ngày mà điều đó giúp duy trì cuộc sống của
chúng ta? Chắc chắn không phải như vậy. Nhưng đối với Cơ Đốc nhân, cần có sự
khác biệt trong thái độ đối với chúng. Nếu chúng ta quan tâm đến công việc của Chúa
như một sự ưu tiên — tìm kiếm sự cứu chuộc của Ngài, sống vâng lời Ngài và chia
sẻ tin lành về Nước Đức Chúa Trời với những người khác thì Ngài sẽ quan tâm đến
công việc của chúng ta như Ngài đã hứa và nếu điều đó đã được sắp đặt, thì còn
lo lắng ở chỗ nào?
Nhưng làm thế nào để chúng ta biết nếu chúng ta
thật sự tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước hết? Có những câu hỏi chúng ta có thể
tự hỏi chính mình. “Tôi dành năng lượng chủ yếu của mình ở đâu? Có phải
tất cả thời gian và tiền bạc của tôi dành cho tài sản và những việc làm mà điều
đó chắc chắn sẽ bị diệt vong, hay trong những phục vụ cho Đức Chúa Trời, mà kết
quả của nó là sự sống đời đời?” Các tín hữu những ai đã học để thật sự đặt
Đức Chúa Trời lên trước nhất sẽ được yên nghỉ trong sự nên thánh không ngừng
thay đổi này” … và tất cả những nhu cầu khác cũng sẽ được ban cho.
Đức Chúa Trời đã hứa sự chu cấp đến từ chính
Ngài, chu cấp mọi nhu cầu. “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo
sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp
4:19). Tuy nhiên ý tưởng
của Ngài về những gì chúng ta cần thường khác với chúng ta. Ví dụ, chúng ta có
thể thấy nhu cầu của mình như là sự giàu có hoặc thăng tiến, nhưng có lẽ Chúa
biết rằng những gì chúng ta thực sự cần là thời gian của sự khó khăn, mất mát
hoặc cô độc. Khi những điều này xảy ra, chúng ta cũng đồng chịu hoạn nạn như
những Cơ Đốc nhân trước đây. Đức Chúa Trời yêu cả Gióp và Ê-li, nhưng Ngài cho
phép Sa-tan tàn phá Gióp (tất cả ở dưới con mắt cảnh giác của Ngài), và Ngài đã
để cho người đàn bà xấu xa đó, Giê-sa-bên, đe dọa tiên tri Ê-li (Đọc sách Gióp
và 1 Các vua 18-19). Trong cả hai trường hợp, Đức Chúa Trời đã theo dõi các thử
thách này, và sau đó Ngài phục hồi cho người của Ngài.
Vương quốc Đức Chúa Trời đang chống lại một dị giáo (quan điểm dị biệt) mà nó đang nổi lên khắp thế giới gọi là “phúc âm thịnh vượng.” Ngày càng có nhiều giáo sư giả đang tập hợp những người đi theo với thông điệp “Chúa muốn bạn trở nên giàu có!” Tuy nhiên, triết lý đó không phải là lời khuyên dạy của Kinh Thánh và chắc chắn đó không phải là lời khuyên dạy trong Ma-thi-ơ 6:33. “Phúc âm thịnh vương” đưa ra một công thức để đạt được sự giàu có, nhưng lý lẽ của nó thì đi ngược lại với lời dạy của Chúa Giê-su và các sứ đồ. Chúa Giê-su dạy rằng sự tập chú của chúng ta nên tránh xa thế gian này, tình trạng hào nhoáng và sự quyến rũ dối trá của nó.
Chúa Giê-su đặt công việc “rao giảng và loan báo tin mừng về Nước Đức Chúa Trời” lên hàng đầu trong đời sống. Ngài nỗ lực đi hàng trăm cây số khắp xứ Y-sơ-ra-ên để dạy người ta về Nước Đức Chúa Trời. Công việc truyền giáo của Chúa Giê-su được ghi lại trong bốn sách Phúc âm, trong đó có đề cập đến Nước Đức Chúa Trời hơn 100 lần. Hầu hết những lời ấy do Chúa Giê-su nói. Hơn nữa, các sách này vốn chỉ đề cập một phần nhỏ so với tất cả những gì Ngài đã nói về Nước Đức Chúa Trời! (Giăng 21:25).
Tại sao Nước Trời rất quan trọng đối với Chúa Giê-su khi ngài còn trên đất? Một lý do là Chúa Giê-su biết Đức Chúa Trời đã chọn ngài làm Đấng Cai Trị Nước Trời (Ê-sai 9:6; Lu-ca 22:28-30). Tuy nhiên, Chúa Giê-su không chú tâm đến việc giành quyền lực hoặc tìm vinh hiển cho mình. Ngài không rao giảng Nước Trời vì vinh hiển cá nhân. Lý do chính yếu mà Chúa Giê-su đã và đang quan tâm đến Nước Đức Chúa Trời là vì những phước hạnh Nước ấy sẽ thực hiện đối với Cha thiên thượng và các môn đồ trung tín mà Ngài yêu mến.
Chúng ta xem các khía cạnh khác của nước Đức Chúa Trời.
Lu-ca 17:20-21, “Người Pha-ri-si hỏi Đức Chúa Giê-su nước Đức Chúa Trời chừng nào đến, thì Ngài đáp rằng: Nước Đức Chúa Trời không đến cách rõ ràng, và người ta sẽ không nói: Ở đây, hay là: Ở đó; vì nầy, nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.”
Còn đây là điều Chúa dạy các môn đồ trong bài cầu nguyện chung:
Ma-thi-ơ 6:9-10, “Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh; Nước Cha được đến.”
Một trong những nguyên tắc giải Kinh là dùng Kinh Thánh để giải thích Kinh Thánh. Lời Chúa trở nên dễ hiểu khi câu này bổ túc hay giải thích cho câu kia. Khi Chúa dạy, “nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.” Điều này có nghĩa nước Trời là một vương quốc thực hữu trong hiện tại. Còn trong bài cầu nguyện chung, Chúa dạy các môn đồ hãy cầu xin để “nước Cha được đến” – hàm ý rằng nước Trời vẫn chưa đến. Làm sao một vương quốc vừa thực hữu trong hiện tại lại vừa sẽ xuất hiện trong tương lai? Khi đối chiếu lời cầu xin “nước Cha được đến” với lời cầu xin “Ý Cha được nên ở đất như trời” chúng ta chỉ có thể suy ra một kết luận ở đây: Nước Đức Chúa Trời là một cộng đồng dân cư trên đất mà ý chỉ Đức Chúa Trời được thực hiện trọn vẹn như ở trên trời. Tuy nhiên điều này cũng chỉ là một trong những lời mô tả về nước Trời.
CÁC PHƯƠNG DIỆN KHÁC CỦA NƯỚC TRỜI
Chúa Giê-su cũng dạy, “Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy” (Giăng 18:36), và Ngài rao giảng rằng sự ăn năn và đức tin vào Ngài là điều kiện cần thiết để vào nước Đức Chúa Trời (Mác 1:15). Nước Đức Chúa Trời có thể tương đồng với lĩnh vực của sự cứu chuộc được đề cập rõ ràng trong Giăng 3:5-7, khi Chúa Giê-su phán dạy Ni-cô-đem rằng một người chỉ có thể vào nước Trời khi được sinh lại: “Nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời.” Như vậy nước Trời mà Chúa phán dạy ở đây là tập hợp của tất cả những ai được tái sanh trong suốt mọi thời đại. Hiển nhiên là nước Trời được Vua công bình cai trị, Ngài làm Chủ trên tấm lòng của tất cả con cái của Ngài. Công việc của Ngài bắt đầu trên đất sẽ hoàn tất trong ngày của Chúa Giê-su. Phao-lô viết, “tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Giê-su Christ.” (Phi-líp 1:6).
Chúa Giê-su dạy rằng Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và nhiều tiên tri khác (là những người thuộc về quá khứ) đã làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì ở trong nước Trời. Người nào hiện tại đi theo ý muốn của Chúa, nhờ nước (chỉ về Lời Chúa) và Thánh Linh để được sanh lại cũng ở trong nước Trời. Còn thế giới mà chúng ta đang sống chưa phải là nơi mà ý muốn Chúa được thực hiện một cách phổ quát, nên chúng ta phải cầu nguyện “nước Cha được đến.” Lời cầu nguyện này cũng mang ý nghĩa là nước Trời được đến/ được rao giảng cho tất cả mọi người/ được trải nghiệm cho những ai ăn năn và tin.
Một mục sư lão thành của Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam đưa ra một đề nghị: Chúng ta hãy cầu nguyện cho nước Cha/nước Trời được đến với ít nhất là 50 % số người trên tổng dân số của Việt Nam. Bạn có sẵn sàng tham gia vào đội hình cầu nguyện này?
Chỉ khi nào mỗi người chúng ta sẵn lòng vâng phục ý muốn Chúa thì Nước Đức Chúa Trời đến. Cầu nguyện cho nước Cha được đến, cũng là cầu nguyện cho ý muốn của chúng ta hoàn toàn thuận phục ý chỉ của Chúa.
Sách cuối cùng của
Kinh Thánh là Khải huyền xác nhận những người thuộc về Chúa tập hợp lại thành Nước
Đức Chúa Trời.
“Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm
cho chúng ta nên nước Ngài.” (Khải 1:8)
SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA
Chúa Cứu Thế Giê-su đã
bắt đầu chức vụ với một sứ điệp quan trọng: “Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã
đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin nhận Tin lành.” (Mác 1:15). “Ăn năn” và
“Tin” là hai việc mà con người chúng ta cần làm, cần được giải thích sáng tỏ
cho mọi người.
ĂN NĂN
Nhiều người
hiểu rằng sự ăn năn nói tới việc ‘từ bỏ tội lỗi’. Đây không phải là định nghĩa
của Kinh Thánh về sự ăn năn. Trong Kinh Thánh, từ ‘ăn năn’ nghĩa là ‘thay đổi
nhận định của một người’. Kinh Thánh cũng dạy chúng ta rằng sự ăn năn đích thực
sẽ dẫn đến thay đổi trong hành động (Lu-ca 3:8-14; Công Vụ Các Sứ Đồ
3:19). Công vụ 26:20 Phao-lô tuyên bố rằng, “nhưng đầu hết tôi khuyên dỗ người thành
Đa-mách, kế đến người thành Giê-ru-sa-lem và cả xứ Giu-đê, rồi đến các dân ngoại
rằng phải ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, làm công việc xứng đáng với sự
ăn năn.” Định nghĩa đầy đủ của Kinh Thánh về sự ăn năn là sự thay đổi
trong nhận định dẫn tới thay đổi trong hành động.
Vậy điều gì, do đó, là mối liên hệ giữa sự ăn năn và việc được cứu rỗi? Sách
Công Vụ có vẻ tập trung đặc biệt nói về việc ăn năn trong phương diện liên quan
được cứu rỗi (Công vụ 2:38; 3:19; 11:18; 17:30; 20:21; 26:20). Hành động ăn
năn, trong liên quan đến việc được cứu rỗi, là thay đổi nhận thức về Chúa
Giê-su Christ. Trong bài thuyết giáo của Phi-e-rơ vào Ngày Lễ Ngũ Tuần ông kết
thúc bằng cách kêu gọi mọi người ăn năn. Ăn năn về điều gì? Phi-e-rơ đang kêu gọi
những ai đã từ chối Chúa Giê-su (Công vụ 2:36) thay đổi suy nghĩ của họ về
Ngài, để nhận biết rằng Ngài thực sự là Chúa và Đấng Christ. Phi-e-rơ kêu gọi những người này thay đổi suy
nghĩ của mình từ việc chối bỏ Đấng Christ là Đấng Mê-si đến việc đặt niềm tin
vào Ngài, vừa là Đấng Mê-si và vừa là Đấng Cứu Thế.
Sự ăn năn và đức tin có thể được hiểu là ‘hai mặt của một vấn đề’. Không thể
nào đặt đức tin vào Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Thế mà trước nhất không thay
đổi nhận định của bạn về Ngài là ai và Ngài đã làm gì. Dù cho đó là sự ăn năn từ
sự khước từ hay ăn năn do thiếu hiểu biết hay không quan tâm, đó là sự thay đổi
trong nhận định. Sự ăn năn theo Kinh Thánh, trong mối liên quan với sự cứu rỗi,
là sự thay đổi suy nghĩ từ việc từ chối Đấng Christ cho tới có đức tin trong
Ngài.
Việc chúng ta thấu hiểu được ăn năn không phải là một công việc chúng ta làm để
kiếm được sự cứu rỗi là vô cùng quan trọng. Không ai có thể ăn năn và đến được
với Chúa nếu chính Ngài không kéo ta đến với Ngài (Giăng 6:44; Công vụ 5:31;
Công vụ 11:18) thể hiện rằng sự ăn năn là điều Chúa ban cho – điều đó chỉ
có thể do ân điển của Chúa. Không ai có thể ăn năn trừ khi Chúa ban cho sự ăn
năn. Tất cả của ơn cứu rỗi, bao gồm cả sự ăn năn và đức tin, là kết quả của việc
Chúa kéo chúng ta lại gần Ngài, mở mắt chúng ta, và thay đổi tấm lòng chúng ta.
Sự chịu đựng dài lâu của Đức Chúa Trời dẫn chúng ta đến ăn năn (2 Phi-e-rơ 3:9),
cũng như lòng nhân từ của Ngài (Rô- ma 2:4).
Trong khi ăn năn không phải là việc làm để kiếm được sự cứu rỗi, ăn năn hướng tới
cứu rỗi có tạo nên những việc tốt. Không thể nào thực sự và hoàn toàn thay đổi
suy nghĩ của bạn mà không thay đổi một hành động nào. Trong Kinh Thánh, sự ăn
năn dẫn đến thay đổi trong cử chỉ. Đó là lý do vì sao Giăng Báp-tít kêu gọi mọi
người “có kết quả xứng đáng với sự ăn năn’ (Ma-thi-ơ 3:8). Một người mà thực sự
ăn năn từ việc từ chối Đấng Christ đến khi có đức tin ở Ngài sẽ đưa ra bằng chứng
của một cuộc đời được biến đổi (2 Cô-rinh-tô 5:17). Sự ăn năn, theo định nghĩa
đúng, là cần thiết cho sự cứu rỗi. Ăn năn theo Kinh Thánh là thay đổi nhận định
về Chúa Giê-su Christ và trở về với Ngài trong đức tin để có được sự cứu rỗi (Công
vụ 3:19). Từ bỏ tội lỗi không phải là định nghĩa của sự ăn năn, mà nó là một
trong những kết quả của sự ăn năn thành thực, dựa trên niềm tin vào Chúa Giê-su
Christ.
TÓM LƯỢC SỰ ĂN NĂN1
Sự ăn năn là đề tài nổi bật trong Kinh thánh, được nhắc đến hơn 100 lần trong Kinh thánh. Sự ăn năn là chủ đề giảng dạy của Giăng Báp-tít. Ma-thi-ơ 3:1,2 “Hãy ăn năn…” Khi Chúa Giê-su sai các môn đồ ra đi giảng đạo, Ngài truyền cho họ phải giảng về sự ăn năn. Mác 6:12. Sau Lễ Ngũ tuần,các môn đồ đã rao giảng về sự ăn năn. Công vụ 2:38 “Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn danh đức Chúa Giê-su chịu báp-têm để được tha tội mình rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. Đây cũng là sứ điệp của Phao-lô. Công vụ 20:21. Gánh nặng trong lòng Đức Chúa Trời là mọi người đều phải ăn năn. 2 Phi-e-rơ 3:9 “Ngài không muốn cho mọi người chết mất song muốn cho mọi người đều ăn năn.” Không chịu vâng lời Đức Chúa Trời trong sự ăn năn sẽ dẫn đến sự hư mất. Lu-ca 13:3 “Nếu các ngươi không ăn năn, thì hết thảy sẽ bị hư mất như vậy.”
TIN (TIẾP NHẬN)
Cụm từ tin Chúa Giê-su mang nhiều ý nghĩa. Theo
một nghĩa nào đó, tin cậy nơi Chúa Giê-su có nghĩa là tin Ngài để được cứu rỗi
(Giăng 3:16). Chúng ta tin Ngài là ai—Ngài là Đức Chúa Trời trong hình hài con
người—và đặt đức tin nơi Ngài là Cứu Chúa. Và chúng ta tin những gì Ngài đã
làm—rằng Ngài đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại từ cõi chết. Vì chúng
ta không thể tự cứu mình khỏi tội lỗi và sự chết (Rô-ma 3:10–20), nên chúng ta
tin cậy Chúa Giê-su sẽ cứu chúng ta (Giăng 11:25). Chúng ta không thể nhận được
sự sống vĩnh cữu và sống mãi mãi trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời cho đến
khi chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa Giê-su là Cứu Chúa và chấp nhận sự tha thứ của
Ngài (Ê-phê-sô 1:7).
Sau khi được cứu, tin cậy nơi Chúa Giê-su có
nghĩa là cam kết hoặc tận hiến hoàn toàn cho Ngài. Khi được tái sinh, chúng ta
trở thành môn đồ của Chúa Giê-su Christ. Là những người theo Ngài, chúng ta đặt
trọn niềm tin vào Ngài và Lời Ngài. Tin cậy nơi Chúa Giê-su có nghĩa là tin mọi
điều Ngài đã phán và chấp nhận Lời Ngài là chân lý: “Bấy giờ Ngài phán cùng những
người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là
môn-đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông-tha các ngươi” (Giăng
8:31–32). Chúng ta càng biết và hằng ở trong Lời Chúa Giê-su, chúng ta càng
vâng phục Ngài, và sự tin cậy của chúng ta nơi Ngài sẽ càng lớn lên khi chúng
ta trải nghiệm sự tự do trong Đấng Christ.
Một lời hứa đáng tin cậy mà Chúa Giê-su đã ban
cho chúng ta trong Lời của Ngài là hãy đến với Ngài để tìm được sự nghỉ ngơi:
“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được
yên-nghỉ. Ta có lòng nhu-mì, khiêm-nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học
theo ta; thì linh-hồn các ngươi sẽ được yên-nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta
nhẹ-nhàng” (Ma-thi-ơ 11:28–30). Ách là một dây cương bằng gỗ dùng để nối cổ của
hai con vật kéo. Cùng nhau, những con vật có thể kéo một vật nặng hiệu quả hơn.
Vào thời Chúa Giê-su phán những lời này, những người nông dân thường ghép một
con vật non, thiếu kinh nghiệm nhưng khỏe mạnh với một con vật già hơn, yếu hơn
nhưng dày dạn kinh nghiệm hơn. Con vật trẻ hơn sẽ học hỏi từ con vật có kinh
nghiệm hơn, và con vật già hơn sẽ được hưởng lợi từ sức mạnh của con vật trẻ
hơn để giúp mang vác vật nặng.
Nghỉ ngơi, một cách khác để bày tỏ lòng tin cậy,
là trạng thái nương tựa vào Chúa Giê-su để có sức mạnh và học hỏi từ Ngài. Ngài
chia sẻ gánh nặng khi chúng ta cùng đồng hành với nhau. Khi chúng ta mệt mỏi và
quá tải, chúng ta có thể đến bên Chúa Giê-su và tìm thấy sự nghỉ ngơi trong tâm
hồn mình. Theo cách này, chúng ta tin cậy vào Chúa Giê-su bằng cách nương tựa
hoàn toàn vào Ngài trong cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là khi chúng ta mệt mỏi
và chịu gánh nặng. Chúa Giê-su là sự yên nghỉ ngày Sa-bát của người tin Chúa
(Hê-bơ-rơ 4:1–11).
Chúa Giê-su hiểu những điểm yếu của chúng ta và
biết chúng ta sẽ phải tranh chiến để tin cậy nơi Ngài. Đó là lý do tại sao Kinh
Thánh dạy: “Chớ lo-phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu-nguyện,
nài-xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu-xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự
bình-an của Đức Chúa Trời vượt-quá mọi sự hiểu-biết, sẽ giữ-gìn lòng và ý-tưởng
anh em trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:6–7). Khi chúng ta trình dâng tấm
lòng lo lắng của chúng ta cho Chúa trong lời cầu nguyện, Ngài ban cho chúng ta
sự bình an. Sự hiện diện của Ngài là sự bình an. Đoạn văn này không nói rằng
Ngài sẽ luôn ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, nhưng nó hứa hẹn sự
bình an để giữ gìn lòng và ý tưởng của chúng ta. Tin cậy nơi Chúa Giê-su có
nghĩa là đến với Ngài và tin rằng Ngài có những kế hoạch tốt lành và đáng tin cậy
cho cuộc đời và tương lai của chúng ta. Chúng ta không cần phải lo lắng về ngày
mai. Khi chúng ta tin cậy nơi Chúa Giê-su, Ngài sẽ tuôn đổ sự bình an của Ngài
trên chúng ta.
Niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giê-su được lớn
lên qua kinh nghiệm (2 Cô-rinh-tô 1:10) khi chúng ta nhìn biết Chúa hành động mọi
việc trong đời sống chúng ta, cả điều tốt lẫn điều xấu vì mục đích của Ngài
(Rô-ma 8:28). Chúa Giê-su muốn chúng ta sống bằng đức tin nơi Ngài (2
Cô-rinh-tô 5:7; Ga-la-ti 2:20), và vì vậy đời sống của Cơ đốc nhân trở thành một
nơi thử thách và rèn luyện trong sự tin cậy: “Hỡi anh em, hãy coi sự thử-thách
trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui-mừng trọn-vẹn, vì biết rằng sự thử-thách
đức-tin anh em sanh ra sự nhịn-nhục. Nhưng sự nhịn-nhục phải làm trọn việc nó,
hầu cho chính mình anh em cũng trọn-lành toàn-vẹn, không thiếu-thốn chút nào”
(Gia-cơ 1:2-4).
Chúa Giê-su phán, “Lòng các ngươi chớ bối rối;
hãy tin Đức Chúa Trời; cũng hãy tin ta nữa” (Giăng 14:1). Chúng ta có thể biết
rằng Chúa Giê-su yêu thương chúng ta và hứa sẽ luôn ở cùng chúng ta (Ma-thi-ơ
28:20), nhưng chúng ta không thể thấy Ngài, và trong những lúc khó khăn, sự
nghi ngờ và sợ hãi có thể len lỏi vào và khiến chúng ta khó áp dụng kiến thức
đó. Phi-e-rơ khích lệ chúng ta rằng chúng ta có thể tin cậy Chúa Giê-su ngay cả
khi chúng ta không thể thấy Ngài: “Anh em vui-mừng về điều đó, dầu hiện nay anh
em vì sự thử-thách trăm bề buộc phải buồn-bã ít lâu; hầu cho sự thử-thách đức-tin
anh em quí hơn vàng hay hư-nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi-khen, tôn-trọng,
vinh-hiển cho anh em khi Đức Chúa Giê-su Christ hiện ra. Ngài là Đấng anh em
không thấy, mà yêu-mến; dầu bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng tin Ngài, và
vui-mừng lắm một cách không xiết kể và vinh-hiển: nhận được phần thưởng về đức-tin
anh em, là sự cứu-rỗi linh-hồn mình” (1 Phi-e-rơ 1:6–9).
Mặc dù chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giê-su
bằng mắt thường, nhưng Đức Thánh Linh cho phép chúng ta nhìn thấy Ngài bằng con
mắt của tấm lòng (Ê-phê-sô 1:18–20). Cuối cùng, việc chúng ta không thể nhìn thấy
Chúa Giê-su bằng mắt thường khiến chúng ta tin cậy Ngài càng hơn. Đó là lý do tại
sao Chúa Giê-su phán, “Phước cho những ai không thấy mà tin” (Giăng 20:29).
Sứ đồ Phao-lô nắm bắt được ý nghĩa việc một tín
đồ tin cậy nơi Chúa Giê-su: “Vì sự hoạn-nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho
chúng ta sự vinh-hiển cao-trọng đời đời, vô-lượng vô-biên, bởi chúng ta chẳng
chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là
tạm-thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (2 Cô-rinh-tô
4:17–18).
Chúa Giê-su đang dạy chúng ta tin cậy Ngài trong
mọi sự mọi lúc bằng cả tấm lòng (Châm ngôn 3:5–6) để đức tin của chúng ta trở
nên không thể lay chuyển: “Hãy nhờ-cậy Đức Giê-hô-va đời đời, vì Đức Giê-hô-va,
chính Đức Giê-hô-va, là vầng đá của các thời-đại” (Ê-sai 26:4). Khi chúng ta học
cách tin cậy nơi Chúa Giê-su nhiều hơn, chúng ta đồng cảm hơn với mô tả của tác
giả Thi Thiên về một tín hữu đang yên nghỉ trong vòng tay của Đức Chúa Trời:
“Tôi đã làm cho linh-hồn tôi êm-dịu an-tịnh, như con trẻ dứt sữa bên mẹ mình;
linh-hồn ở trong mình tôi cũng như con trẻ dứt sữa vậy” (Thi thiên 131:2).
Tấm gương của sứ đồ Phao-lô.
“Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp rước mọi người đến thăm mình, giảng về Nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ.” (Công Vụ 28:30-31).
Trong sứ điệp của Phao-lô có hai điều quan trọng ông rao giảng, đó là sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Chúa Giê-su Christ:
“Phao-lô giảng cho người Giu-đa như cho người Gờ-réc về sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Đức Chúa Giê-su là Chúa chúng ta.” (Công vụ 20:21). Lưu ý ở đây có hai bài học quan trọng: Ăn Năn và Tin.
Giảng Tin lành nước Trời là sứ mạng của hội thánh ngày nay trong khi chờ đợi Chúa Giê-su tái lâm.
“Tin lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” (Ma-thi-ơ 24:14). Bạn có sẵn sàng tham gia vào chiến dịch truyền giảng này?
ÁP DỤNG
- Là những nhân sự truyền giáo, chúng ta phải rao giảng Tin Lành về nước Đức Chúa Trời giống như Chúa Giê-su đã giảng dạy. “Vừa rạng ngày, Ngài ra đi đến nơi vắng vẻ, một đoàn dân đông kéo đi tìm Ngài. Họ theo kịp, giữ Ngài ở lại, không muốn để Ngài đi. Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến” (Lu-ca 4:42-43).Tiếp theo là gì?
- Đi theo các nguyên tắc của sách Công vụ các sứ đồ. Tại sao Hội thánh đầu tiên phát triển từ một nhóm người bình thường, nhưng trong vòng 300 năm đã làm đảo lộn đế quốc Rô-ma và Tin lành về nước trời đã lan rộng khắp các lục địa. Câu trả lời là Đức Thánh Linh. Thực ra sách Công vụ các sứ đồ nên được đổi tên là công vụ của Đức Thánh Linh. Chính Ngài sử dụng và hướng dẫn các sứ đồ, các tín nhân và nhóm người này đã làm đảo lộn thế giới theo một ý nghĩa tích cực khó suy tưởng.
- Là con người hữu hạn chúng ta không thể ảo tưởng các hệ phái hay các giáo phái Cơ đốc sẽ hiệp làm một. Chúng ta không thể phá bỏ hàng rào của các giáo phái trong khi chờ đợi ngày Chúa Giê-su trở lại. Tuy nhiên khi lẽ thật về Vương quốc Đức Chúa Trời được xác lập giữa vòng những người truyền giáo hay các Cơ đốc nhân, thì công tác rao giảng Tin Lành về nước Trời phải được đặt lên hàng đầu. Nếu không phải như vậy thì những gì các giáo đoàn Cơ đốc đang làm chỉ là theo đuổi những điều thứ yếu mà đánh mất phần quan trọng nhất của Phúc âm. Các nhà thờ Cơ đốc không nên là những câu lạc bộ sinh hoạt về tôn giáo, nhưng nên là những trung tâm cầu nguyện và thực hiện công tác truyền giáo. Từ hội thánh đầu tiên ở Giê-ru-sa-lem, các tín nhân đã tản lạc ra các khu vực chung quanh sau khi Ê-tiên tử vì đạo để rao “truyền tin lành của Đức Chúa Giê-su” (Công vụ 11:20). Và kết quả là hội thánh tại An-ti-ốt cách Giê-ru-sa-lem 300 dặm đã được hình thành và trở thành một trung tâm truyền giáo thứ 2 sau Giê-ru-sa-lem. Từ nơi này, hội thánh đã cử Sau-lơ (Phao-lô) và Ba-na-ba đi ra truyền giáo. Những câu cuối cùng của sách Công vụ được bác sĩ Lu-ca tường thuật về chức vụ của Phao-lô: “Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp rước mọi người đến thăm mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Giê-su Christ cách tự do trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết” (Công vụ 28:30-31).
- “Giảng về Nước Đức Chúa Trời” nổi bật trong chức vụ của Chúa Giê-su và các sứ đồ, đặc biệt là Phao-lô. Muốn áp dụng điều này, những nhân sự truyền giáo cho người Việt cần được trang bị, cần được huấn luyện về lẽ thật của Vương quốc. Chúng ta cần những sách giáo khoa cho chủ đề này để công tác truyền giáo không đi lệch khỏi mục tiêu mà Đức Chúa Trời đã chỉ định. Các trường thần học và những trung tâm huấn luyện Kinh thánh phải có giáo trình về nước Đức Chúa Trời để chuẩn bị cho mùa gặt cuối cùng trước khi Chúa Giê-su trở lại.
- Khi công tác truyền giáo được hướng dẫn bởi Đức Thánh Linh, thì các hội thánh mới được mở ra là kết quả tự nhiên của Tin lành nước Trời. Người Việt cần trở lại thờ Trời. Người Việt cần được nghe và biết rằng Đức Chúa Trời là Vua cao cả anh minh của toàn thể vũ trụ, nhưng đồng thời Ngài cũng là Vua của mỗi người chúng ta. Và những ai ăn năn tội lỗi, trở về thờ phượng một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật thì trở thành công dân của Vương quốc. Trong Vương quốc này chỉ có một Vua duy nhất. Ngài Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn Chúa và nắm quyền tuyệt đối.
Khi nhận thức rõ ràng về chức phận của chúng ta là những khâm sai của Đấng Christ (2 Côr. 5:20), là công dân trên trời (Phi-líp 3:20), điều này sẽ dẫn chúng ta đến một tuyên ngôn:
“Nước Trời (Vương quốc Đức Chúa Trời) là nước tôi, hay nước Trời là nước của chúng tôi.” Điều này hàm ý rằng tôi thuộc về nước Trời. Tôi là công dân của vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta sẽ tiếp tục rao giảng Tin lành về nước Trời, mà trọng tâm của điều này là: sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Chúa Giê-su Christ (Công vụ 20:21). Nếu không có 2 yếu tố ăn năn và tin, thì con người không thể bước vào trong Vương quốc Đức Chúa Trời.
Sự cứu rỗi của Chúa
Giê-su đã hoàn tất tại thập tự giá. Phần còn lại là quyết định và lựa chọn của
con người. Khi Cơ đốc nhân thực hiện Đại mạng lệnh của Chúa Giê-su trong
Ma-thi-ơ 28:18-20, thì Đức Thánh Linh cũng chuẩn bị sẵn một số người sẵn sàng
tiếp nhận Phúc âm, họ bằng lòng ăn năn và tin.
“Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta
nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17). Là những đại sứ
của nước Trời, chúng ta xem việc rao giảng Lời của Đấng Christ là ưu tiên hàng
đầu trong cuộc đời của chúng ta.
Mục sư Billy Graham2 trong bài giảng tại hội nghị Amsterdam vào năm 2000 đã chia sẻ về công tác truyền giáo:
- Trước hết, chúng ta phải tái khẳng sự cam kết của chúng ta đối với chân lý Phúc âm
- Thứ hai, hãy tái khẳng sự ưu tiên cho công ta tác truyền bá Phúc âm
- Thứ ba, phải tái khẳng định sự nương nhờ nơi quyền năng Đức Thánh Linh và sự cầu nguyện.
- Cuối cùng, hãy tái khẳng định tận dụng mọi phương tiện để công bố Phúc âm.
Điều thứ 3 trong bản tóm lược của Billy Graham được xem là chìa khóa để mở cánh cửa cho Vương quốc Đức Chúa Trời tại Việt Nam. Nếu chưa chuẩn bị bằng sự cầu nguyện và trải nghiệm sự đầy dẫy Đức Thánh Linh, thì mọi mục vụ truyền giáo chỉ là cố gắng của con người. Thách thức này đòi hỏi tất cả nhân sự truyền giáo, các giáo sĩ, các nhà lãnh đạo truyền giáo phải quì gối cầu nguyện xin sự đầy dẫy Đức Thánh Linh để đi ra trong mùa gặt cuối cùng trước khi Chúa Giê-su trở lại.
–
THƯ MỤC THAM KHẢO CHƯƠNG 12
- https://vietchristian.com/bhkt/reader. Truy cập ngày 20 tháng 1/2025.
- https://httlvn.org/bai-giang-cua-ms-billy-graham-bi-quyet-thanh-cong-trong-cong-tac-truyen-ba-phuc.html. Truy cập ngày 11 tháng 4/2025