Trang Chủ TRANG CHỦ Sống Nhờ Lời Chúa – Phần 2

Sống Nhờ Lời Chúa – Phần 2

913
0
SHARE

TRƯỞNG THÀNH NHỜ LỜI CHÚA

Lời Chúa được áp dụng sẽ mang lại sự cứu rỗi, nhưng nó cũng là chất dinh dưỡng và thức ăn cần thiết cho sự phát triển thuộc linh. Một Cơ đốc nhân lớn tuổi người Scotland làm chứng: “Tôi có một bản chất sa đọa và tội lỗi, và tôi làm theo ý mình, tôi thấy mình không thể làm cho mình trở nên thánh thiện. Bạn bè tôi không thể làm điều đó cho tôi, và tôi cũng vậy. Chỉ khi tôi đọc, tin và áp dụng những gì trong Kinh Thánh, thì điều bất khả thi trở nên có thể.” Những lời của Chúa Giê-su phán dạy trước đây, chỉ ra lẽ thật này: “Con người không được sống chỉ nhờ bánh, nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma-thi-ơ 4: 4). Nhiều người trong thế giới giàu có của chúng ta đang bắt đầu nhận ra rằng chỉ duy vật chất không thôi, không thể đem đến sự thỏa mãn thực sự. Chúng ta cần bánh ăn, nhưng chúng ta cần những thực phẩm thuộc linh khác. Linh mục của nhà thờ Jerome (khoảng năm 340-420 sau CN) đã đúng khi nói, “Nếu ai không được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, thì người đó không được sống.” Sự sống thực sự đi kèm với Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng không ngừng phán dạy chúng ta mỗi ngày qua Lời Ngài. Tuy nhiên Lời Ngài chỉ dành cho những người sẵn sàng lắng nghe và tiếp nhận.

Chúa Giê-su đề cập đến những người tin Ngài trong lời cầu nguyện với Cha thiên thượng, “Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh. Lời Cha tức là lẽ thật” (Giăng 17:16-17). Ý nghĩa của những lời này được miêu tả một cách sinh động trong cách diễn giải của Eugene Peterson: “Họ không được thế giới nhìn nhận, cũng như Con không được thế giới tiếp nhận. Hãy khiến họ trở nên thánh nhờ Lời của Cha.”

Lời cầu nguyện của Đấng Christ dành cho những người theo Ngài là họ sẽ không đi theo những giá trị sai lầm của thế giới này, nhưng họ có những khác biệt lớn. Điều tạo ra sự biến đổi siêu nhiên trong đời sống của người tin Chúa, là lẽ thật của Đức Chúa Trời được truyền đạt qua Lời Ngài. Như một bản dịch mới của Kinh Thánh diễn tả điều đó, “Xin Cha làm cho họ trở nên trong sạch và thánh khiết bằng cách dạy họ những lời lẽ thật của Ngài” (Giăng 17:17).

Phi-e-rơ nói rằng giá trị nuôi dưỡng của Kinh Thánh giống như sữa cho trẻ sơ sinh. Sau khi tuyên bố rằng chúng ta được sinh lại nhờ Lời (1 Phi-e-rơ 1: 231), ông nói them, “hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (2: 2) Phao-lô nói với mục sư trẻ Ti-mô-thê rằng các tín hữu được nuôi dưỡng thường xuyên dựa trên những lời của đức tin ” (1 Ti-mô-thê 4: 6).

Vị sứ đồ cũng thách thức các tín hữu, “hãy mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Ê-phê-sô 4:24). “Người mới” mà chúng ta được khoác lên mình là sự thánh khiết và công bình “đến từ lẽ thật”. Tiến trình đổi mới diễn ra bởi vì – con người mới cuối cùng liên quan đến chân lý của phúc âm và lời dạy của các sứ đồ.

Tất cả mọi thứ cần thiết cho sự phát triển môn đồ Đấng Christ đều được tìm thấy trong Lời Chúa. Đó là “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2 Ti 3:16-17).

Lời Chúa giống như thức ăn để giúp chúng ta lớn lên. Những tác động của lẽ thật này là to lớn, cho cả cá nhân và hội thánh. Vì sức mạnh nuôi dưỡng sự sống của nó, Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu, “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan” (Cô-lô-se 3:16). Tiếp theo sau đó, chúng ta thấy Lời sống này mang lại một số kết quả nhất định (3:17- 4:1).  Khi đọc Ê-phê-sô 5:18-6: 9, chúng ta có thể thấy tác động tích cực của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh trên các mối quan hệ. Điều này cho thấy một mối liên hệ thiết yếu giữa Thánh Linh và Lời là lẽ thật của Đấng Christ đang ở trong chúng ta.

Nói cách khác, một tín nhân được “đầy dẫy Thánh Linh” nhờ để cho Đức Chúa Trời cấy ghép Lời Ngài vào sâu thẳm trong tâm hồn người đó.

Vũ khí duy nhất mà người tin Chúa có để chống lại thế lực của kẻ ác là “gươm của Thánh Linh, tức là lời của Đức Chúa Trời” (6:17). Bằng cách gọi Lời Đức Chúa Trời – thanh gươm của Thánh Linh –  vị sứ đồ tuyên bố rằng Kinh Thánh là công cụ để qua đó Thánh Linh sử dụng quyền năng của Ngài. Khi cầm gươm của Lời, chúng ta được quyền năng của Đức Thánh Linh cho phép chiến thắng kẻ thù bên ngoài cũng như những ham muốn bên trong của chúng ta đang tranh chiến. Khi từ giã các anh em đồng công tại Ê-phê-sô, Phao-lô nói, “giờ đây tôi giao phó anh em cho Đức Chúa Trời và cho đạo của ơn Ngài, là giao phó cho Đấng có thể gây dựng, và ban gia tài cho anh em chung với hết thảy những người được nên thánh” (Công. 20:32).

Sau khi tuyên bố sự mặc khải của Đức Chúa Trời về những điều kỳ diệu của thiên nhiên trong Thi thiên 19:1-6, Đa-vít tôn cao những điều kỳ diệu mà Lời Đức Chúa Trời đã mặc khải (19: 7-11). Mối liên hệ giữa hai hình thức mặc khải này của Đức Chúa Trời là sự tham chiếu về tầm quan trọng của mặt trời trong thái dương hệ của chúng ta, đặc biệt là sức nóng của nó. “Mặt trời ra từ phương trời nầy. Chạy vòng giáp đến phương trời kia;

Chẳng chi tránh khỏi hơi nóng mặt trời được” (Thi. 19:5-6). Peter Craigie lưu ý, “Cũng như mặt trời tỏa hơi nóng trong thế giới chúng ta, Ngũ kinh của Môi-se cũng giống như thế cho đời sống tâm linh. Vì mặt trời vừa có thể được chào đón, vừa mang lại sự ấm áp, và đáng kinh hãi trước sức nóng không ngừng của nó (tác giả Thi thiên sống ở Cận Đông sẽ biết điều này hơn hầu hết mọi người), nên Ngũ kinh cũng có thể truyền sự sống nhưng cũng có thể thiêu đốt, thử nghiệm và thanh lọc …. Không thể có sự sống trên hành tinh này nếu không có mặt trời; Và con người không thể sống nếu không có lời Chúa được bày tỏ trong Ngũ kinh.”

Trong các câu 7-9, tác giả Thi thiên 19 nói về các giá trị của Lời được mặc khải, “Luật pháp của Đức Giê-hô-va là trọn vẹn, bổ linh hồn lại; Sự chứng cớ Đức Giê-hô-va là chắc chắn, làm cho kẻ ngu dại trở nên khôn ngoan.  Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng;

Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch, làm cho mắt sáng sủa.  Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là trong sạch, hằng còn đến đời đời; Các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va là chân thật, thảy đều công bình cả.”

Các điều răn của Chúa là trong sạch. Sự kính sợ Chúa trường tồn mãi mãi; các mạng lệnh của Ngài là đúng đắn, chúng hoàn toàn công bình

Người công bình “vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va” (Thi 1:2) đạt đến đỉnh điểm trong Thi thiên 119. Thi thiên này được gọi là viên ngọc quý của Lời. Derek Kidner tóm tắt các phước lành phong phú của Lời dành cho các tín nhân như Chúa ban sự giải cứu, ánh sáng, sự sống. Chúng ta  nhớ rằng cuộc sống của người tin Chúa trên đất này thường xuyên được mô tả trong Kinh Thánh là “bước đi.”  Minh họa cho điều này là Hê-nóc “đồng đi cùng Đức Chúa Trời … Đức Chúa Trời cất người lên” (Sáng thế Ký 5: 24). Đức Chúa Trời đã ban chỉ thị cho Áp-ra-ham, cũng như Ngài ban huấn lệnh cho tất cả dân Ngài, “ngươi hãy đi ở trước mặt ta làm một người trọn vẹn” (Sáng. 17: 1).

Nếu mọi người trung thực, họ phải thừa nhận rằng họ không thể sống như những gì họ biết. Họ bị ràng buộc bởi điều mà Kinh Thánh gọi là sự trói buộc của tội lỗi. Sự tự do có được nhờ việc tuân phục Lời Chúa. Trước giả Thi-thiên đã tuyên bố, “Tôi cũng sẽ bước đi thong dong, vì đã tìm kiếm các giềng mối Chúa” (Thi. 119: 45). “Tự do” có nghĩa là được giải phóng khỏi một không gian hạn chế và bước vào một nơi rộng rãi. Các giới hạn của tội lỗi bị phá vỡ, và người tin Chúa được tự do để sống cuộc sống sung mãn mà Đấng Tạo Hóa đã dự định. của Nhà thơ Moffatt viết, “Tôi sẽ sốt sắng vâng lời Ngài, Ngài mở ra một cánh cửa cho đời tôi.” Trước giả Thi thiên đã thể hiện rõ sự phấn khởi khi được sống trong sự tự do của Lời Đức Chúa Trời khi ông viết, “Khi Chúa mở rộng lòng tôi, thì tôi sẽ chạy theo con đường điều răn Chúa” (119: 32). Cụm từ “mở rộng lòng tôi” trong tiếng Do Thái được hiểu là Chúa “đặt tôi vào ở một nơi rộng rãi.” Sự áp bức của tội lỗi mang lại sự trói buộc, nhưng Lời Đức Chúa Trời đã cho trước giả Thi thiên hy vọng.

Để bước đi không chùn bước, con người phải có ánh sáng. Nếu bạn đã có kinh nghiệm ở trong bóng tối, chẳng hạn như ở sâu trong các hang động của New Mexico, bạn sẽ nhận ra sự thật này. Vì vậy, Kinh Thánh kêu gọi chúng ta “bước đi trong sự sáng” vì chính Đức Chúa Trời là “sự sáng” (1 Giăng 1:5, 7; xem thêm Giăng 12:46). Ánh sáng của Đức Chúa Trời chiếu trên chúng ta qua Con Ngài, và qua Kinh Thánh, là quyển sách bày tỏ Ngài. Vì vậy, trước giả Thi thiên đã viết, “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, và là ánh sáng cho con đường tôi” (Thi. 119: 105). “Sự bày giãi lời Chúa, soi sáng cho, ban sự thông hiểu cho người thật thà” (119:130; xem thêm 19: 8). Trước giả Châm-ngôn cũng khẳng định như vậy, “Vì điều răn là một cái đèn, luật pháp là ánh sáng” (Châm ngôn 6:23).

Ánh sáng của Lời có sức mạnh đến nỗi nó biến đổi những ai đón nhận, ban cho họ sự sống. Chúa Giê-su phán: “Các ngươi đương có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự sáng” (Giăng 12:36). Phao-lô viết, “Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng” (Ê-phê-sô 5: 8). Là ánh sáng, các tín đồ tỏa sáng “như những ngọn đèn trong thế giới.” Giống như một ngôi sao sáng trên trời, các tín đồ mang ánh sáng của Lời cho người khác (Phi-líp 2:15). Phao-lô gọi Kinh Thánh là “đạo sự sống” (Phi-líp 2:15). Đa-vít đã tuyên bố: “Vì Chúa đã giải cứu tôi khỏi sự chết và chân tôi khỏi vấp ngã, hầu cho tôi bước đi trước mặt Ngài trong ánh sáng của sự sống” (Thi 56:13). Đọc lại Thi-thiên 119. “Tôi sẽ không bao giờ quên các giới luật của Ngài, vì Ngài đã gìn giữ mạng sống của tôi” (119: 93). “Linh hồn tôi dính vào bụi đất. Xin hãy khiến tôi sống lại tùy theo lời Chúa” (119: 25). “Lời Chúa làm cho tôi được sống lại, ấy là sự an ủi tôi trong cơn hoạn nạn” (119: 50). “Xin Chúa nâng đỡ tôi tùy lời của Chúa, hầu cho tôi được sống: Chớ để tôi bị hổ thẹn về sự trông cậy tôi” (119: 116).

Bước đi trên đất cũng cần sự ổn định hoặc chắc chắn của bàn chân. Không có đời sống nào tránh khỏi sự vùi dập của những kẻ thù bên ngoài và sự hỗn loạn bên trong của sự nghi ngờ và bất an. Nhưng qua Lời, các tín hữu tìm thấy nền tảng vững chắc. “Nếu luật pháp Chúa không làm sự tôi ưa thích, Ắt tôi đã bị diệt vong trong cơn hoạn nạn…
Những kẻ ác rình giết tôi; Nhưng tôi chăm chỉ về các chứng cớ Chúa” (119; 92, 95).  “Phàm kẻ nào yêu mến luật pháp Chúa được bình yên lớn; Chẳng có sự gì gây cho họ sa ngã” (119:165).

Có hai chủ đề lớn trong Kinh Thánh tóm tắt lẽ thật mang lại sự sống cho tín nhân: sự mặc khải về tội lỗi của chúng ta và sự mặc khải về Đấng Cứu Rỗi.

Lời Chúa phơi bày tội lỗi chúng ta

Khi phơi bày tội lỗi, Lời bày tỏ các tiêu chuẩn công bình của Đức Chúa Trời và chỉ ra cách chúng ta không sống theo các tiêu chuẩn đó. “Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa” (Thi 119: 9). Gia-cơ đã ví Lời như một tấm gương để chúng ta có thể nhìn thấy chính mình. Khắc trên tấm gương này là tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, để cho chúng ta thấy những khiếm khuyết của mình (Gia-cơ 1: 23-25).

Trong khi ẩn dụ về chiếc gương gợi ý một vật phản xạ không hoạt động, tác giả Hê-bơ-rơ tuyên bố rằng Lời phơi bày con người bên trong chúng ta. “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hêb. 4:12). Hồn và linh nói lên bản thể phi vật chất của chúng ta, còn các khớp và tủy liên quan đến thể chất của chúng ta. Các khớp hợp nhất xương và tủy nằm trong xương. Vì vậy, có thể thấy Lời Đức Chúa Trời thâm nhập vào toàn bộ con người của chúng ta.

Không có gì mà Lời không thể thâm nhập. Mọi sự về chúng ta đều được Lời chỉ ra: “Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta phải thưa lại” (4:13). Từ Hy Lạp có nghĩa là “trần trụi” bắt nguồn từ một từ chỉ cổ họng và hình ảnh một con vật sắp bị hiến tế với cổ cong ra sau và cổ họng để lộ ra bên ngoài. Vì vậy, Lời của Đức Chúa Trời phơi bày tất cả những gì chúng ta đang có và khiến chúng ta dễ bị tổn thương trước mặt Đức Chúa Trời. Một người đàn ông Trung Quốc, sau khi nghe Kinh Thánh lần đầu tiên, đã nói với nhà truyền giáo rằng: “Tôi biết đây là Lời Đức Chúa Trời vì nó cho tôi biết tất cả con người của tôi.”

Chúng ta thấy tác động phơi bày của Lời đối với tín nhân qua kinh nghiệm của Phi-e-rơ. Vào đêm Chúa Giê-su bị bắt, ngay sau khi Phi-e-rơ chối Chúa ba lần, “Chúa quay lại nhìn Phi-e-rơ. Và Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa … và … đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết” (Lu-ca 22: 61-62). Trong trường hợp này, “lời” dùng để chỉ lời cụ thể của Chúa Giê-su, trong đó Ngài đã tiên đoán sự chối Chúa của Phi-e-rơ, nhưng nguyên tắc này áp dụng cho Lời thành văn là Kinh Thánh. Kinh Thánh cho tín nhân thấy tội lỗi và khuyến khích từ bỏ chúng.

Lời bày tỏ về Đấng Cứu Rỗi

Nhìn vào tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, chúng ta bị kết tội vì không phù hợp với tiêu chuẩn. Nhưng có thể làm được điều gì đó điều chỉnh lại vấn đề này là một việc khác. Vào một buổi tối trên bàn ăn, một trong những đứa con gái của tôi đã chỉ ra rằng mũi tôi không được thẳng. Đây không hẳn là một tiết lộ mới. Tấm gương đã cho tôi thấy điều đó. Vấn đề là tôi không thể làm gì để sửa lại chuyện này. Vấn đề của chúng ta với tội lỗi cũng giống như vậy. Kinh Thánh tiết lộ rằng tất cả mọi người đều là tội nhân và không tuân theo khuôn mẫu của Đức Chúa Trời. Nhưng việc tiết lộ đó cũng chẳng ích lợi gì trừ khi chúng ta tìm ra một số biện pháp thay đổi.

Tuy nhiên, Kinh Thánh không chỉ là sự mặc khải về tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời và là tấm gương phản chiếu sự thất bại của chúng ta. Nó trình bày thông điệp về công trình cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời qua Đấng Christ. Nhờ phúc âm, chúng ta bắt đầu cuộc sống Cơ đốc và cũng nhờ phúc âm mà chúng ta phát triển. Khi Phao-lô khuyến khích các tín hữu theo đuổi sự nên thánh và tăng trưởng tâm linh, ông yêu cầu họ nhớ lại những gì đã xảy ra vào lúc họ quyết định tiếp nhận Chúa.

Họ đã chết với Đấng Christ và được sống lại với sự sống mới trong Ngài (Rô-ma 6:1-11). Tội lỗi của họ đã được tha thứ và họ trở thành những tạo vật mới. Theo vị sứ đồ, chìa khóa để tăng trưởng thuộc linh là xem xét bước ngoặt lớn này của phúc âm và theo đuổi nó.

Sắc lệnh của Cựu ước về “con bò cái tơ sắc hoe” (Dân số 19) cung cấp một minh họa nổi bật về sức mạnh thanh tẩy và đổi mới của Lời. Theo Luật pháp Môi-se, bất cứ ai bị ô uế hoặc trở nên ô uế đều phải được thanh tẩy trước khi có thể trở lại vị trí của mình trong xã hội. Với mục đích thanh tẩy, một con bò cái tơ màu đỏ được đưa ra bên ngoài trại của Y-sơ-ra-ên và bị giết. Sau đó, “thầy tế lễ, sẽ dùng ngón tay nhúng huyết nó rảy bảy lần trên phía trước của hội mạc” (19:4). Chúng ta đọc tiếp: “Người ta sẽ thiêu con bò cái tơ đó trước mắt người, là thiêu da, thịt, và huyết với phẩn nó. Kế đó, thầy tế lễ sẽ lấy cây hương nam, chùm kinh giới và màu đỏ sặm, liệng vào giữa đám lửa thiêu con bò cái tơ.  Đoạn, thầy tế lễ phải giặt áo xống và tắm mình trong nước, sau rồi vào trại quân, bị ô uế đến chiều tối.  Kẻ nào thiêu con bò cái tơ phải giặt áo xống và tắm mình trong nước, bị ô uế đến chiều tối.  Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò cái tơ đổ ngoài trại quân, trong một nơi tinh sạch; người ta phải giữ tro đó cho hội dân Y-sơ-ra-ên để dùng làm nước tẩy uế: ấy là một của lễ chuộc tội” (19:5-9).

Bất cứ lúc nào một trong những người của tuyển dân bị ô uế (trong trường hợp này là do tiếp xúc với cái chết), nước này được áp dụng cho họ và họ được tẩy rửa theo nghi lễ.

Hiệu quả của nước nằm ở chỗ nó chứa tro cốt của một cái chết hy sinh. Mỗi khi nó được áp dụng, lợi ích của cái chết đó là rõ ràng. Chính nguyên tắc này — cái chết của Đấng Christ — làm cho Lời Đức Chúa Trời có hiệu quả để “khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch” (Ê-phê-sô 5:26). Huyết của Chúa Giê-su đã rảy một lần mãi mãi tại đồi Gô-gô-tha mang lại cho tín hữu sự sống mới. Nhưng khi chúng ta bước đi trong cuộc đời này, chúng ta trở nên ô uế. Chúng ta cần sự áp dụng lặp đi lặp lại lẽ thật về sự đắc thắng của Đấng Christ trên tội lỗi và sự sống mới của Ngài trong chúng ta. Thông điệp này được bày tỏ cho chúng ta trong Lời. Khi chúng ta đọc và suy ngẫm về nó, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sử dụng nó để thanh tẩy cuộc sống của chúng ta. Bên cạnh việc tiết lộ Đấng Cứu Rỗi là Đấng thanh tẩy cuộc sống của chúng ta, Kinh Thánh cũng bày tỏ sự hoàn hảo không gì sánh được của Ngài. Ngài là Đầu và Khuôn mẫu của chúng ta, và chúng ta tham dự vào tiến trình trở nên giống như hình ảnh Ngài (Rô-ma 8:28). Quá trình biến đổi của chúng ta được nêu ra trong 2 Cô-rinh-tô 3:18: “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh.” Trong quá trình này, Kinh Thánh bày tỏ sự vinh hiển của Đấng Christ. Bằng lời chứng của chính Ngài, Ngài là chủ đề của cả Kinh Thánh (Giăng 5:39). Khi Đức Thánh Linh soi sáng Lời, Ngài cũng tôn vinh Christ. “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16:14).

Khi chúng ta dành thời gian dài với một người mà chúng ta tôn trọng và ngưỡng mộ, chúng ta bắt đầu có những đặc điểm nhất định của người đó. Quá trình này sẽ hiệu quả  khi chúng ta dành thời gian ở với Đấng Christ qua việc suy ngẫm Kinh Thánh. Quyền năng của Lời Hằng Sống bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời hoạt động trong chúng ta để biến đổi chúng ta nên giống như hình ảnh của Cứu Chúa Giê-su Christ.

KẾT LUẬN

Đức Chúa Trời hiện diện giữa chúng ta qua Lời của Ngài. Ngài đã gửi Ngôi Lời nhập thể vào trần gian. Chúa Giê-su Christ, đến sống trong lịch sử nhân loại để làm cho thế giới biết về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tiếp tục bày tỏ chính Ngài qua Lời thành văn. Vì vậy, quyền năng để thay đổi và khiến chúng ta trở thành tác nhân của sự thay đổi trong thế giới này là Lời của Đức Chúa Trời. Quyền năng của Hội thánh trên thế giới không nằm ở sự khôn ngoan, sự khéo léo hay chiến lược của con người khi thi hành các mục vụ, mà nằm ở Lời Đức Chúa Trời được công bố  và phẩm hạnh của tín nhân.

Trong sứ vụ của mình, sứ đồ Phao-lô phụ thuộc vào quyền năng của Lời. Ông nói, “Hỡi anh em, về phần tôi, khi tôi đến cùng anh em, chẳng dùng lời cao xa hay là khôn sáng mà rao giảng cho anh em biết chứng cớ của Đức Chúa Trời…Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời” (1 Cô 2:1, 4-5). Sự diễn thuyết khéo léo ở đây không phải là một màn trình diễn phép màu như một số người đã lầm tưởng. Thay vào đó, nó biểu thị sức mạnh của Đức Thánh Linh đi kèm với lời dạy của các sứ đồ.

Khi Phao-lô rao giảng, có quyền năng của Đức Thánh Linh bắt lấy những người nghe hoặc một số người trong đám đông, và khiến họ ăn năn, tin nhận phúc âm. Dĩ nhiên, Phao-lô không coi thường các kỹ năng giao tiếp có thể hỗ trợ trong công tác rao giảng. Nhưng thay vào đó, ông biết rằng khả năng của mình không đến từ kỹ năng nói, sự thông minh của đầu óc, vốn từ vựng uyên thâm, sự nhanh trí của cá nhân mà chính là thông điệp của Lời Chúa.

Phao-lô đã công bố “lời giảng về thập tự giá”, mà ông biết là bị thế gian xem là ngu muội (1 Cô 1:21, 23, 25) nhưng lời giảng ấy có quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi người tin (1:24). Bất kể khả năng con người của chúng ta là gì, chúng ta cũng chỉ là những cái chậu bằng đất. Tuy nhiên trong cái chậu bằng đất ấy có quyền năng của Đức Chúa Trời. Phao-lô xác định: “Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2 Cô 4: 7). Cơ đốc nhân có đặc quyền rao truyền phúc âm đang chuyển giao quyền năng của Đức Chúa Trời để mang đến sự sống của Đấng Christ cho người tin.
admin

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên