Trang Chủ BIỆN GIÁO What is Comparative Theology?

What is Comparative Theology?

10
0
SHARE

Thần học so sánh là gì?
Thần học so sánh một phần là sự so sánh các thần học, và đòi hỏi sự phản ánh về các chủ đề thần học (“mặc khải”, “ân sủng”, “Chúa Ba Ngôi”) cũng như phương pháp và mục đích thần học như được minh họa trong các truyền thống tôn giáo khác nhau. Về cơ bản, nó không phải là sự so sánh đức tin trong chính nó, cũng không phải kinh nghiệm, thậm chí không phải là kinh thánh.

Là một hoạt động mang tính xây dựng, nó cũng là một thần học tiến hành bằng cách so sánh; nó hoàn thành mục tiêu cơ bản của “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” chính xác trong sự kết hợp thông minh và sử dụng cùng nhau các văn bản thần học từ các truyền thống khác nhau.

Thần học so sánh không được phân biệt bởi một chủ đề nhất định. Nó không giống như nghiên cứu về tôn giáo hoặc các tôn giáo, cũng không giống như đại kết hay đối thoại. Nó cũng không được thực hiện như một sự thay thế cho các “phương thức” thần học khác, chẳng hạn như Christology hoặc thần học Kinh thánh hoặc đạo đức y khoa, lịch sử Giáo hội hoặc thần học lịch sử. Thần học so sánh thực sự có thể là một bài tập về đạo đức, hoặc một nghiên cứu lịch sử, hoặc phân tích chính trị, hoặc một nghiên cứu về chú giải Kinh thánh, v.v. Nhìn chung, nó liên quan đến cùng một loạt các vấn đề mà các nhà thần học không thực hiện nghiên cứu so sánh quan tâm; nó tiến hành bằng những lựa chọn cần thiết tương tự và trong những giới hạn cần thiết tương tự. Nó được phân biệt bằng cách chú ý đến cách thần học được thực hành trong nhiều truyền thống và bằng cách khám phá các chủ đề thần học thông qua thực hành so sánh.

Nó không giống như thần học về các tôn giáo, ngay cả khi các vấn đề như tính độc nhất của Chúa Kitô, sự cứu rỗi bên trong và bên ngoài Giáo hội, và ý nghĩa của chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo là quan trọng đối với nhà thần học so sánh, cũng như đối với các nhà thần học khác.

Nhà thần học so sánh quen thuộc với, tương đối hòa bình với, bắt nguồn từ một trong những truyền thống được so sánh. Người quan sát trung lập không phải là lý tưởng ở đây. Tuy nhiên, thế giới đang thay đổi ngày nay có thể đang tạo ra một thế hệ nhà thần học mới lớn lên mà không có gốc rễ trong một truyền thống duy nhất.

Lúc đầu, thần học so sánh đầu tư rất nhiều năng lượng vào việc cố gắng hiểu truyền thống khác, chủ yếu thông qua việc đọc các văn bản thần học (không chỉ là các văn bản kinh thánh); mặc dù khó khăn, nỗ lực hiểu biết này mang lại những kết quả quan trọng; trong đó, vị trí “người ngoài cuộc” ban đầu của một người được chuyển đổi một phần thành vị trí của một “người trong cuộc” quen thuộc với vốn từ vựng và có kỹ năng trong diễn ngôn.

Đọc thường là phương tiện thực tế và vững chắc nhất để học thần học. Nhưng khi thích hợp, đọc cũng có thể nhường chỗ cho nghệ thuật, âm nhạc, nghi lễ và các phương thức diễn ngôn khác.

Tuy nhiên, khi đức tin tìm kiếm sự hiểu biết, thần học so sánh cuối cùng sẽ đưa nhà thần học vào các vấn đề về đức tin, đặc biệt là trong việc tìm ra câu trả lời cho các trải nghiệm đức tin của truyền thống khác và “sự diễn đạt” của nó về thế giới trong kinh thánh. Vì sự hiểu biết không thể dừng lại ngay tại ranh giới của trải nghiệm; cũng như việc đọc kỹ các văn bản thần học không thể ngăn cản khả năng bắt đầu nhìn thế giới một phần thông qua các thánh thư của truyền thống khác đó.

Thần học so sánh cần có thời gian; dự án hiểu biết của nó, với những thách thức liên quan đến kinh nghiệm và kinh thánh, chỉ diễn ra theo thời gian, theo thời gian, trong một quá trình chuyển động qua lại từ các văn bản thần học của chính mình sang các văn bản của truyền thống khác, và quay trở lại truyền thống của chính mình—lặp đi lặp lại.

Thần học so sánh là việc tiếp thu một nền văn hóa đọc viết mới, trong đó thần học của một người được làm phong phú và phức tạp hơn bằng cách tiếp nhận vốn từ vựng, phương pháp, lựa chọn của truyền thống khác và bằng cách đồng hóa những thứ này vào truyền thống quê hương của mình. Mặc dù các yếu tố của truyền thống của một người có thể vẫn ổn định riêng lẻ, nhưng chúng ‘có ý nghĩa khác nhau’, vì nằm trong các bối cảnh mới.

Trong chừng mực có thể, học bổng văn bản được hoàn thiện trong cuộc trò chuyện thần học liên tôn. Người ta nói chuyện và tương tác với các nhà thần học từ truyền thống khác, giải thích niềm tin và bài viết của mình, đặt câu hỏi về niềm tin và bài viết của họ và nói chung là thể hiện sự sẵn lòng học hỏi từ những nhà thần học của các tín ngưỡng khác.

Thần học so sánh là một quá trình phản ánh liên tục, trong đó nhà thần học đánh giá lại lý thuyết và thực hành thần học của mình, vì chúng được sửa đổi nhiều lần và tích lũy trong quá trình thực hiện các so sánh thông minh.

Thần học so sánh có thể vẫn là thần học tuyên tín, thậm chí là biện giáo. Nhà thần học so sánh cởi mở với chân lý ở bất cứ nơi nào có thể tìm thấy chân lý, nhưng không ngại tranh luận để bảo vệ chân lý mà họ đã tìm thấy.

Thần học so sánh chia sẻ với các phương thức thần học khác, trong cùng một giới hạn, mục tiêu là biết Chúa.

What is Comparative Theology?
Comparative theology is in part a comparison of theologies, and entails reflection on theological themes (“revelation,” “grace,” “the Trinity”) and also theological method and purpose as exemplified in various religious traditions. It is not primarily a comparison of faith in itself, nor experience, nor even of scriptures.

As a constructive practice, it is also a theology that proceeds by comparison; it fulfills the basic goal of “faith seeking understanding” precisely in the intelligent juxtaposition and use-together of theological texts from different traditions.

Comparative theology is not distinguished by a certain subject matter. It is not the same as the study of religion or of religions, nor is it the same as ecumenism or dialogue. Nor is it undertaken as an alternative to other “modes” of theology, such as Christology or Biblical theology or medical ethics, Church history or historical theology. Comparative theology may actually be an exercise in ethics, or a historical study, or political analysis, or a study of scriptural exegesis, etc. In general, it engages the same array of issues that occupy theologians who do not do comparative study; it proceeds by similar necessary choices and within similar necessary limits. It is distinguished by attention to how theology is practiced in multiple traditions, and by exploring theological topics through the practice of comparison.

It is not the same as the theology of religions, even if issues such as the uniqueness of Christ, salvation inside and outside the Church, and the meaning of religious pluralism are important to the comparative theologian, just as to other theologians.

The comparative theologian is familiar with, relatively at peace with, rooted in one of the traditions compared. The neutral observer is not an ideal here. Today’s changing world may however be creating a new generation of theologians who have grown up without roots in a single tradition.

In the beginning, comparative theology invests a great deal of energy in trying to understand the other tradition, primarily through the reading of theological (not simply scriptural texts) texts; though difficult, this effort at understanding yields important results; in it one’s initial ‘outsider’ position is partially transformed into that of an ‘insider’ who is familiar with the vocabulary and skilled in the discourse.

Reading is often the most practical and solid means of theological learning. But reading can also, when opportune, cede a place to art, music, ritual, and other modes of discourse.

As faith seeking understanding, however, comparative theology eventually involves the theologian in questions of faith, particularly in finding a response to the other tradition’s faith experiences and its ‘articulation’ of the world in scripture. For understanding cannot stop neatly at the edge of experience; nor can a close reading of theological texts ward off the possibility of beginning to see the world in part through the scriptures of that other tradition.

Comparative theology takes time; its project of understanding, with the involved challenges regarding experience and scripture, proceeds only in time, over time, in a back and forth process of movement from one’s own theological texts to those of the other tradition, and back to one’s own tradition—again and again.

Comparative theology is the acquisition of a new literacy, in which one’s theology is enriched and complicated by reception of the vocabulary, methods, choices of the other tradition, and by one’s assimilation of these into one’s home tradition. While the elements of one’s own tradition may individually remain stable, they ‘mean differently,’ because located in new contexts.

Insofar as possible, textual scholarship is filled out in interreligious theological conversation. One talks and interacts with theologians from the other tradition, explains one’s beliefs and writings, asks questions about their beliefs and writings, and in general showing a willingness to learn from those theologians of other faiths.

Comparative theology is an ongoing reflective process, in which the theologian reassesses her or his theory and practice of theology, as these are repeatedly and cumulatively revised in the course of making intelligent comparisons.

Comparative theology can remain a confessional, even apologetic, theology. The comparative theologian is open to truth wherever it may be found, but is not afraid to argue in defense of the truth he or she has already found.

Comparative theology shares with other modes of theology, within the same limits, the goal of knowing God.

Hệ thống thần học là gì?

“Hệ thống” được xem là đặt một điều gì đó vào trong khuôn khổ. Do đó hệ thống thần học là các bộ phận của thần học đặt vào hệ thống giải thích các lảnh vực khác nhau của nó. Ví dụ, có những sách của Kinh Thánh ghi chép thông tin về những thiên sứ. Nhưng không có một cuốn sách nào ghi chép tất cả các thông tin về những thiên sứ. Hệ thống thần học lấy tất cả thông tin về thiên sứ từ các sách của Kinh Thánh và tổ chức nó thành một hệ thống gọi là thiên sứ học. Đó là những gì thần học hệ thống làm tất cả-tổ chức những lời dạy của Kinh Thánh vào các hệ thống cùng thể loại.

Thần học đúng hoặc Thiên đạo là nghiên cứu về Đức Chúa Cha. Cứu Chúa học là nghiên cứu về Đức Chúa Con, Chúa cứu thế Giê Su. Thánh Linh học là nghiên cứu về Chúa Thánh Linh. Thánh kinh học là nghiên cứu về Kinh Thánh. Cứu thục học là nghiên cứu về sự cứu rỗi. Hội Thánh học là nghiên cứu về Hội Thánh. Lai thế học là nghiên cứu về ngày sau rốt. Thiên sứ học là nghiên cứu về các thiên sứ. Quỉ sứ học là nghiên cứu về ma quỷ từ quan điểm Cơ Đốc giáo. Nhân loại học là nghiên cứu về nhân loại từ quan điểm Cơ Đốc giáo. Tội lỗi học là nghiên cứu về tội lỗi. Hệ thống thần học là một công cụ quan trọng trong việc giúp chúng ta hiểu và dạy Kinh Thánh một cách có tổ chức.

Ngoài hệ thống thần học có những cách khác mà thần học có thể được chia ra. Thần học Kinh Thánh là nghiên cứu về một sách nhất định hoặc nhiều sách của Kinh Thánh, nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của thần học tập trung vào nó. Ví dụ, Phúc âm Giăng rất hợp lý về Chúa cứu thế vì nó tập trung rất nhiều vào thần tánh của Chúa cứu thế (Giăng 1:1, 14; 8:58, 10:30, 20:28). Lịch sử thần học là nghiên cứu về giáo lý và cách chúng phát triển qua nhiều thế kỷ trong các giáo hội Cơ Đốc giáo. Thần học giáo điều là nghiên cứu về các giáo lý của các nhóm Cơ Đốc nhân có một số học thuyết đã hệ thống hoá. Ví dụ, Thần học Calvin và thần học thời kỳ. Thần học đương đại là nghiên cứu về học thuyết đã phát triển hay đang được chú ý trong thời gian gần đây. Phương pháp thần học phải nghiên cứu không có vấn đề gì, điều quan trọng của thần học là phải nghiên cứu.

English

Ân tứ chữa lành là sự bày tỏ siêu nhiên của Đức Thánh Linh trong việc đem đến sự chữa lành và sự giải phóng khỏi bệnh tật một cách kì diệu. Đó chính là quyền năng của Đức Chúa Trời để phá hủy công việc của tội lỗi và/ hoặc của điều ác trong cơ thể con người, chẳng hạn như sự chữa lành mà Chúa Giê-xu và các môn đệ của Ngài đã thực hiện (Ma-thi-ơ 4:24; 15:30; Công vụ 5:15-16; 28:8-9). Ân tứ chữa lành được ban cho hội thánh chủ yếu được ghi lại trong 1 Cô-rinh-tô 12, đoạn Kinh Thánh liệt kê những ân tứ thuộc linh.

Các ân tứ thuộc linh là những quyền năng, kỹ năng, khả năng, hay kiến thức Đức Chúa Trời ban cho các Cơ Đốc Nhân qua Đức Thánh Linh. Phao-lô và Phi-e-rơ nói với hội thánh rằng mục đích của những ân tứ thuộc linh là để “phục vụ nhau…vì lợi ích chung” (1 Cô-rinh-tô 12:7; 1 Phi-e-rơ 4:10, TTHD ), và trên hết là để tôn vinh Đức Chúa Trời. Thiên Chúa ban những ân tứ thuộc linh này để sử dụng theo mục đích của Ngài (1 Cô-rinh-tô 12:11), nhưng trong Hội Thánh Cô-rinh-tô, những ân tứ ấy dường như chỉ là một kiểu biểu tượng để khẳng định cho vị thế hay được sử dụng để chứng tỏ sự nổi trội. Thật thú vị khi trong 1 Cô-rinh-tô 12:9 đề cập tới “các ân tứ” chữa lành trong số nhiều, có thể điều đó chỉ ra những dạng ân tứ chữa lành khác nhau. Các ân tứ chữa lành có thể mang ý nghĩa là có nhiều kỹ năng hay khả năng. Đó có thể là năng quyền để đem đến sự chữa lành kỳ diệu hoặc đầy kịch tính, giống như việc khiến người què đi được, hay chữa lành qua việc sử dụng hoặc biểu biết về y học. Đó thậm chí có thể là khả năng cảm thông và bày tỏ tình yêu với những người khác để chữa lành vết thương trong tình cảm.

Đã có nhiều cuộc tranh luận về việc sử dụng ân tứ thuộc linh trong vòng các Cơ Đốc Nhân. Một số người tin rằng ngày nay ân tứ chữa lành và những ân tứ dấu lạ khác không còn hiệu lực, trong khi những người khác tin rằng những ân tứ phép lạ vẫn đang được sử dụng. Tất nhiên, quyền năng chữa lành không bao giờ đến bởi năng khiếu của một người. Quyền năng chữa lành đến từ Chúa, và chỉ mình Chúa mà thôi. Mặc dù ngày nay Đức Chúa Trời vẫn chữa lành, chúng ta tin rằng sự chữa lành của Ngài thông qua ân tứ chữa lành chủ yếu thuộc về các sứ đồ trong thế kỷ đầu tiên của hội thánh để khẳng định sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời (Công vụ 2:22; 14:3; Hê-bơ-rơ 2:3-4)

Đức Chúa Trời vẫn thực hiện những phép lạ. Ngài vẫn chữa lành cho con người, nhưng điều đó không có nghĩa là Chúa chữa lành cho “tất cả mọi người”. Không có câu Kinh Thánh nào đảm bảo rằng Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cho chúng ta. Thiên Chúa chỉ chữa lành khi điều đó “theo ý muốn của Ngài” (2 Ti-mô-thê 4:20; 1 Giăng 5:14). Thân thể của chúng vẫn chưa được cứu chuộc (Rô-ma 8:23). Chẳng có gì ngăn cản Chúa chữa lành cho một người qua mục vụ của một người khác, và dĩ nhiên, Chúa vẫn chữa lành qua sự cầu nguyện của Hội Thánh và những Cơ Đốc Nhân. Tuy nhiên, ân tứ chữa lành bằng phép lạ là một ân tứ thuộc linh dường như không còn hoạt động ngày nay. Nói một cách khác, không có bằng chứng đáng tin cậy nào để tin rằng ngày nay có những Cơ Đốc Nhân được trao cho ân tứ đặc biệt, có cùng quyền năng để chữa lành và làm cho người chết sống lại giống như Phi-e-rơ và Phao-lô (Công vụ 3:1-8; 9:36-42; 19:11-12; 20:7-11). Tất nhiên, chúng ta phải luôn luôn nhận biết rằng Đức Chúa Trời chắc chắn có thể can thiệp theo cách Ngài thấy phù hợp dù trong hoàn cảnh “bình thường” hay qua một phép lạ. Chính sự cứu rỗi của chúng ta là phép lạ. Chúng ta đáng lẽ phải chết trong tội lỗi, nhưng Đức Chúa Trời đã bước vào đời sống của chúng ta và khiến chúng ta trở nên tạo vật mới (2 Cô-rinh-tô 5:17). Đây là sự chữa lành lớn nhất dành cho tất cả nhân loại.

EnglishWhat is the spiritual gift of healing?

The spiritual gift of healing is the supernatural manifestation of the Spirit of God that miraculously brings healing and deliverance from disease and/or infirmity. It is the power of God that destroys the work of sin and/or the devil in the human body, such as the healings that Jesus and the disciples performed (Matthew 4:2415:30Acts 5:15-1628:8-9). The gift of healing given to the church is primarily noted in 1 Corinthians 12, where the spiritual gifts are listed.

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên