Trang Chủ MỤC VỤ HIỂU BIẾT THẦN HỌC CƠ ĐỐC – Phần 2

HIỂU BIẾT THẦN HỌC CƠ ĐỐC – Phần 2

930
0
SHARE

Hoa Kỳ  và nhiều quốc gia khác đang dần trôi dạt ra khỏi Đức Chúa Trời và các lẽ thật của Ngài. Những người tiên phong theo Cơ-đốc giáo đã thành lập nước Mỹ, thiết lập hệ thống tín ngưỡng tiêu chuẩn, bây giờ phải đối mặt với sự suy giảm niềm tin. Một trong những lý do chính cho điều này có yếu tố từ bản chất phá đổ niềm tin Cơ-đốc của hệ thống giáo dục công cộng. Hệ thống này hạ thấp phẩm chất đạo đức qua việc thúc đẩy “chủ nghĩa nhân văn”, phân biệt tôn giáo, chương trình giáo dục giới tính phi Cơ-đốc, ủng hộ lối sống đồng tính…  và đi theo các hướng lệch lạc khác.

Bây giờ không phải lúc để nói rằng tất cả các giáo viên và những người quản lý trường học phải duy trì hoặc hỗ trợ chương trình giáo dục thế tục trong các trường công lập. Chúng ta biết nhiều người kính sợ Chúa, làm việc chăm chỉ là những người đã cống hiến cuộc đời mình để chăm sóc và dạy dỗ thế hệ tiếp theo. Và mặc dù những vấn đề về suy thoái đạo đức  ngày càng gia tăng và tiền lương thấp mà họ nhận được cho mục vụ, nhiều giáo viên vẫn tiếp tục công việc vì họ được gọi là muối và ánh sáng trong nơi tối tăm đầy thử thách. Vì điều đó, chúng ta khen ngợi họ và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ban cho họ thêm can đảm.

Ý định của chúng ta là phơi bày các chương trình giáo dục thế tục chống lại niềm tin Cơ-đốc. Vì vậy, chúng ta hãy xem lại một vài cuộc tấn công vào Kinh Thánh nhận được hậu thuẫn từ nền giáo dục cộng đồng.

Các trường công lập đã loại Đức Chúa Trời ra khỏi chương trình giảng dạy và thay thế Ngài bằng chủ nghĩa tự nhiên. Các sinh viên không còn được dạy rằng chúng ta được tạo ra theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, chúng được dạy rằng con người là kết quả của các tiến trình ngẫu nhiên.

Các trường công lập cũng đã cấm đoán lẽ thật tuyệt đối và thay thế bằng thuyết văn hoá tương đối, thuyết này phủ nhận lẽ thật tuyệt đối (Lời Chúa) và bác bỏ các tiêu chuẩn đạo đức đúng đắn theo Kinh Thánh. Các sinh viên được dạy rằng tiêu chuẩn đạo đức Cơ-đốc không còn tồn tại; thay vào đó, chúng được khuyến khích để xác định đâu là chân lý và các tiêu chuẩn cho nếp sống tự do của chúng.

Hệ thống giáo dục công cộng càng thành công trong việc xóa bỏ Đức Chúa Trời và xác định lại lẽ thật, thì nó càng dễ dàng ảnh hưởng đến cả một thế hệ sinh viên theo tư duy của nó. Nhà trường nói rằng họ là những người khoan dung và chấp nhận sự khác biệt, tuy nhiên, với sự cho phép của Tòa Án Tối Cao, họ cấm các sinh viên cầu nguyện, cấm đọc Kinh Thánh trong các lớp học. Ban lãnh đạo nhà trường cũng sẽ gây áp lực lên các thành viên muốn xây dựng và tham gia các nhóm học Kinh Thánh. Các giáo viên và học sinh bị đe dọa nếu trung tín làm chứng về niềm tin Cơ-đốc của mình.

Thật là mỉa mai, một mặt các trường công lập im lặng về niềm tin Cơ-đốc, nhưng mặt khác lại cho phép quảng bá nhân văn (được xác định là một tôn giáo) và công khai ủng hộ những giáo viên và sinh viên đồng tính. Những gì cha mẹ cần phải nhận ra là trường công lập không còn là cơ sở học thuật đúng đắn; chúng đã được biến thành “các nhà thờ” để thúc đẩy một loại niềm tin mới của “chủ nghĩa nhân văn”.

Trường học là nơi ảnh hưởng đến hàng triệu sinh viên học sinh với các tư tưởng “nhân văn” của nó sau đây:

– Ủng hộ chuyển đổi giới tính.

– Ủng hộ hôn nhân đồng tính.

– Ủng hộ các chương trình phá thai.

– Thực hiện chương trình giáo dục giới tính theo quan điểm xa lạ với Kinh Thánh.

– Cung cấp thuốc tránh thai miễn phí.

Trong khi ngày càng có nhiều sinh viên học sinh đang được truyền thụ các tri thức phi Cơ-đốc, thang điểm về đạo đức của các em ở mức thấp kỷ lục, và tội phạm học đường gia tăng ở mức cao nhất so với các thời đại trước. Như thế, các trường học đang suy thoái trong công tác giáo dục đạo đức.

Điểm căn bản là chương trình giáo dục của các trường công không được tốt hơn mà ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Những người làm cha mẹ hầu như không thể can thiệp vào chương trình giảng dạy của nhà trường. Những chương trình này thường đối kháng với niềm tin Cơ-đốc. Vì những lý do đó chúng ta phải sẵn sàng trang bị và giúp đỡ cho con em của mình đứng vững trong lẽ thật của Kinh Thánh.

ÁP DỤNG

Cơ-đốc nhân cần phải cân nhắc chi phí (những khoản tiền chúng ta đóng góp) cho việc tài trợ  một hệ thống giáo dục thế tục chống lại Cơ-đốc giáo. Hơn nữa, cha mẹ cần phải nhận thức sự nguy hiểm của việc đưa con em của họ vào tổ chức giáo dục thế tục được gọi là giáo dục cộng đồng.

Nhiều người làm cha mẹ đã nhận thức là phải dành thời gian để dạy các lẽ thật Kinh Thánh cho con cái của mình để thế hệ tiếp theo có thể đứng vững trong Lời của Chúa. Chúa Giê-su đã gọi chúng ta phải trở nên muối của đất và ánh sáng của thế gian (Ma-thi-ơ 5:13-14). Khi có thêm nhiều muối và ánh sáng thì thế giới này được chữa lành, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục con người.

Câu hỏi trên đây được mở ra và trách nhiệm trả lời nó thuộc về chúng ta.

KINH THÁNH THAM KHẢO

Phục truyền 11:19; Châm ngôn 1:7; 4:13; 9:10; Truyền đạo 7:12; 12:12; Ê-phê-sô 6:4; 2 Ti-mô-thê 2:5.

 

admin
sách tham khảo: THE BIBLE’S ANSWERS TO 100 OF LIFE’S BIGGEST QUESTIONS. Norman L. Geisler
nguồn:

https://huongdionline.com/2021/11/28/su-can-thiet-co-mot-chuong-trinh-nghi-su-thao-luan-ve-giao-duc-cong-dong/ 

HIỂU BIẾT THẦN HỌC CƠ ĐỐC

PHẦN II: ĐỨC CHÚA TRỜI

 

 

Tác giả: J. Carl Laney Professor of Biblical Literature Western Conservative Baptist Seminary, Portland, Oregon.

  1. Đức Chúa Trời Thực Hữu?
  2. Các Quan Điểm Sai về Đức Chúa Trời
  3. Danh của Đức Chúa Trời
  4. Các Danh Xưng Thần Thượng của Chúa
  5. Sự Tự Khải Thị của Đức Chúa Trời

 

  1. Ngũ Kinh Dạy về Đức Chúa Trời
  2. Sự Vĩ Đại của Đức Chúa Trời
  3. Sự Tốt Lành của Đức Chúa Trời
  4. Các Hình Ảnh về Đức Chúa Trời
  5. Đức Chúa Trời Ba Ngôi là Một
  6. Nguyên Chỉ của Đức Chúa Trời
  7. Đức Chúa Trời và Sự Hiện Diện của Điều Ác
  8. Kế Hoạch của Đức Chúa Trời cho Các Thời Đại
  9. Là bạn của Đức Chúa Trời
  10. Tin Cậy vào Đức Chúa Trời
  11. Đáp Ứng với Đức Chúa Trời
  12. Giải quyết mối nghi ngờ của bạn
  13. Nhận biết Ý Muốn của Đức Chúa Trời
  14. Tương giao với Đức Chúa Trời
  15. Trả Lời những Câu Hỏi khó về Đức Chúa Trời

 

1

Đức Chúa Trời Hiện Hữu?

 

KHI CÒN LÀ MỘT THIẾU NIÊN, tôi đã phải vật lộn với câu hỏi, Đức Chúa Trời hiện hữu hay không? Vì tôi muốn biết chắc chắn, nên tôi đã nghĩ ra một phép thử đơn giản. Tôi lấy ra một đồng xu trong túi và cầu nguyện ngắn thế này, “Chúa ơi, nếu Ngài hiện hữu, thì hãy làm cho đồng xu này mặt ngửa lên.”

Tôi tung đồng xu lên và thật ngạc nhiên, đồng xu đã rớt xuống với mặt hình ngửa lên. Điều đó dường như là một dấu hiệu khá rõ ràng Chúa đang hiện hữu! Nhưng tôi vẫn đôi chút nghi ngờ. Tôi tự hỏi có thể chỉ là sự ngẫu nhiên mà đồng xu ngửa mặt hay không. Tôi quyết định tung đồng xu một lần nữa. Lần này là mặt sấp. Vậy thì, Chúa có hiện hữu hay không? Với một chút do dự, tôi quyết định thử lần cuối. Tôi tung đồng xu lần thứ ba. Nó lại là hình mặt ngửa! Tôi quyết định không thử nữa. Tôi quyết định bỏ thử nghiệm nhỏ này và tiếp tục ưu tư về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời!

Đức Chúa Trời có hiện hữu không? Đây là câu hỏi cơ bản và quan trọng nhất trong vũ trụ này. Nếu Chúa không hiện hữu, thì loài người có mặt trên hành tinh này là một sự tình cờ. Không có hoạch định, không có mục đích và không có trách nhiệm cho cuộc sống này. Nhưng nếu Ngài hiện hữu, thì một loạt câu hỏi khác sẽ đặt ra. Ngài như thế nào? Làm thế nào chúng ta biết Ngài? Tại sao Ngài tạo ra thế giới này? Ngài mong đợi điều gì ở chúng ta? Chúng ta có nên thờ phượng Ngài không? Ngài sẽ làm gì nếu chúng ta phớt lờ hoặc không vâng lời Ngài?

Chương này sẽ trình bày những lập luận về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Nếu bạn chưa đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời, tôi hy vọng qua chương sách này tâm trí bạn sẽ thay đổi đối với sự thật về sự hiện hữu của Ngài. Lời cầu nguyện của tôi là bạn sẽ đáp lại sự tự mặc khải của Đức Chúa Trời và gia nhập hàng ngũ các tín nhân. Nếu bạn đã tin Chúa rồi, thì tôi tin rằng những lập luận này sẽ vừa củng cố đức tin của bạn vừa cung cấp cho bạn bằng chứng thuyết phục mà bạn có thể chia sẻ với người khác.

 

 

SỰ MẶC KHẢI PHỔ QUÁT

Các nhà thần học nói chung đã nhận ra hai phạm trù rộng lớn về sự mặc khải của Đức Chúa Trời—phổ quát và đặc biệt. Sự mặc khải phổ quát là sự bày tỏ sự thật cho tất cả mọi người trên khắp thế giới. Sự mặc khải phổ quát không đầy đủ để dẫn mọi người đến sự cứu rỗi trong Đấng Christ, nhưng đưa ra vấn đề là con người phải chịu trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời. Bởi vì đã có sự mặc khải phổ quát, nên không ai có thể bào chữa rằng tôi không biết Đức Chúa Trời là ai. “Vì điều chi có thể biết được về Ðức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Ðức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô. 1:19-20). Rõ ràng là từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, thì Do Thái giáo đã công nhận tầm quan trọng của sự mặc khải phổ quát. Một bản văn của người Do Thái có tên là Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn là một trong những cuốn sách thứ kinh nói, “Sự vĩ đại và vẻ đẹp của vạn vật được tạo dựng cho chúng ta một ý niệm tương ứng về Đấng Tạo Hóa” (13:5). Sự mặc khải phổ quát đã tuyên bố sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa uy nghiêm, toàn năng, khôn ngoan và nhân từ.

 

Bằng Chứng Về Sự Sáng Tạo

Bằng chứng đầu tiên cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là bằng chứng về sự sáng tạo của Ngài. Trong Thi thiên 19:1 Đa-vít viết, “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời; Bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm.” Đa-vít nói thêm, “Ngày nầy giảng cho ngày kia, Ðêm nầy tỏ sự tri thức cho đêm nọ” (19:2). Mặc dù “ngày” và “đêm” không có lời nói hay tiếng nói theo nghĩa đen (19:3), nhưng sự im lặng của chúng là thông điệp quan trọng đã loan đến tận cùng thế giới (19:4). Phao-lô trích dẫn Thi-thiên 19:4 trong Rô-ma 10:18 để cho thấy không ai có thể nói rằng, “Nhưng chúng tôi chưa bao giờ nghe nói về Đức Chúa Trời”. Thông điệp của thế giới tự nhiên rất lớn tiếng và rõ ràng: Đức Chúa Trời hiện hữu!

Bạn đã từng nghe tiếng nói của thiên nhiên làm chứng về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời chưa? Hoạt động giải trí yêu thích của gia đình chúng tôi là cắm trại. Tôi thích đến nghỉ tại khu cắm trại gần hồ trên núi và dành ra một tuần để tận hưởng vẻ đẹp về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Tôi có rất nhiều kỷ niệm tuyệt vời về bơi lội, đi bộ đường dài, chèo thuyền và bắt tôm hùm cùng với các con của mình. Nhưng vào ban đêm là thời điểm đặc biệt khi lửa trại đã tắt và chúng tôi nằm trên một tấm bạt lớn rồi chui vào trong mền để nhìn ngắm các vì sao.

Nằm ngửa trong bóng tối giữa đồng cỏ hoang vu, chúng tôi có thể nhìn thấy hàng ngàn ngôi sao trong số cả trăm tỷ ngôi sao được ước tính trong dải ngân hà của chúng ta. Tôi nhắc nhở các con tôi rằng phải mất bốn năm để ánh sáng đi từ Alpha Centauri, là ngôi sao gần nhất ngoài hệ mặt trời, đến được mắt chúng ta. Một số ngôi sao có nhiệt độ gấp 160.000 lần mặt trời. Sự bao la của vũ trụ khiến chúng ta choáng ngợp như đang mời gọi chúng ta tin vào Đức Chúa Trời.

Cơ thể con người của chúng ta cũng là minh chứng cho sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa. Hãy suy nghĩ về điều kỳ diệu của cơ thể con người. Ví dụ, hãy quan sát máy ảnh của cơ thể, là con mắt. Võng mạc bên trong mắt có chức năng giống như máy quay phim, nhận hình ảnh đảo ngược và gửi nó qua dây thần kinh thị giác đến não. Bộ não điều chỉnh hình ảnh để mọi thứ không bị lộn ngược. Các cơ của mắt liên tục điều chỉnh hình dạng cho mắt để giúp chúng ta có thể nhìn mọi vật ở gần hoặc ở khoảng cách xa. Các tuyến lệ liên tục làm ướt cho cơ quan này bằng chất lỏng có vị mặn, để giữ ẩm cho mắt do đó có thể phản ứng với các cơ chuyển động của mắt. Cơ quan phức tạp này là một phần trong sự mặc khải phổ quát của Đức Chúa Trời đã bày tỏ sự hiện hữu của một Đấng Tạo Hóa kỳ diệu.

Sứ đồ Phao-lô đã tuyên bố sự mặc khải của Đức Chúa Trời về thiên nhiên khi ông đang cùng với với Ba-na-ba rao giảng tại thành Lít-trơ. Phao-lô thách thức những người nghe chuyển đổi từ thần tượng hư không của họ đến với “Ðức Chúa Trời hằng sống, là Ðấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó” (Công. 14:15). Mặc dù Đức Chúa Trời cho phép các dân tộc đi theo con đường riêng của họ, “dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng” (14:17). Phao-lô nói rằng việc Đức Chúa Trời ban cho mưa và thức ăn minh chứng sự hiện hữu của một Đấng Tạo Hóa quan tâm đến con người. Khắp mọi nơi trong sự sáng tạo đều có bằng chứng về sự hài hòa, trí thông minh và sự sắp đặt trật tự của Ngài. Không một ai trong vũ trụ này xuất hiện một cách tình cờ. Những gì chúng ta chứng kiến trong quá trình sáng tạo là công việc của một Đức Chúa Trời khôn ngoan và yêu thương.

 

Bằng Chứng của Lương Tâm

Một khía cạnh khác của sự mặc khải phổ quát của Đức Chúa Trời là sự bày tỏ về chính Ngài trong lương tâm con người chúng ta. Phao-lô chỉ ra trong Rô-ma 2:14-15 rằng Đức Chúa Trời đặt ý thức về luật đạo đức trong mỗi con người. “Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.” Ở chỗ khác, Phao-lô viết rằng ngay cả những người vô tín ghét Đức Chúa Trời cũng biết “mạng lịnh Đức Chúa Trời” (1:32). Từ ngữ chỉ “mạng lịnh Đức Chúa Trời” (dikaioma) đề cập đến một biểu hiện cụ thể của sự công chính – nhận biết những gì Đức Chúa Trời đã tuyên bố là “đúng.”

Theo Phao-lô, luật đạo đức của Đức Chúa Trời hiện diện trong lòng mọi người, dù có học thức, văn minh hay không. Lương tâm của con người là ý thức về trách nhiệm đạo đức mà điều này sẽ khiến con người đối diện với việc nhận thức sự khác biệt giữa đúng và sai.

Vợ tôi, Nancy là giáo viên trợ giảng. Cô ấy tương tác với trẻ em thường xuyên chủ yếu là chủ đề đúng và sai. Cô cho biết hầu hết trẻ em đều biết rằng việc lấy cắp đồ của người khác, nói dối với giáo viên hoặc đánh nhau đó là sai. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả học sinh của cô đều là những thiên thần nhỏ hoàn hảo. Chúng thường hành động trái với lương tâm của chính mình! Nhưng khi phải đối chất, chúng thường sẽ thừa nhận rằng những gì mình làm là sai.

Điều này không có nghĩa là lương tâm của mọi người đều hoàn toàn giống nhau. Lương tâm con người có thể trở nên sai lạc hoặc chai sạn do hậu quả của việc liên tục bị lạm dụng, Một người bình thường cảm thấy xấu hổ khi nói dối với bạn bè. Nhưng đối với người không ăn năn tội lỗi, thì việc nói dối nhiều lần cũng sẽ không khó khăn gì. Nếu một người tiếp tục mỗi chút đều từ chối tiếng nói của lương tâm, thì việc nói dối sẽ trở nên dễ dàng hơn. Lương tâm liên tục bị xâm phạm sẽ rất khó giúp ích trong việc phân biệt đúng sai.

Trong tấm lòng của mỗi người chúng ta, Đức Chúa Trời đã viết sẵn một ý thức về trách nhiệm đạo đức. Chúng ta biết rõ trộm cắp, giết người và tà dâm là điều sai trái. Thông thường thì các giá trị chứa đựng bên trong lương tâm con người cho biết sự hiện hữu của một Đức Chúa Trời, Đấng đã ban cho mỗi người ý thức về điều đúng và điều sai.

Bằng chứng từ những công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật

Anh rể tôi vừa xây xong căn nhà mới cho gia đình. Sau đó không lâu gia đình chuyển đến sống, họ có một ngôi nhà rộng rãi để tiếp đón bạn bè và hàng xóm đến chơi. Đó là một ngôi nhà xinh xắn với nhiều phòng và tầm nhìn ra núi Hood phủ đầy tuyết ở tiểu bang Oregon. Tôi chưa bao giờ gặp người xây dựng, nhưng tôi đã nhìn thấy ngôi nhà. Và tôi hoàn toàn tin rằng những thanh gỗ hai nhân bốn, và các tấm lợp đó không tự kết hợp với nhau. Phải mất rất nhiều thời gian lên kế hoạch, thu mua vật liệu và phải làm việc chăm chỉ để xây dựng ngôi nhà đó. Sự hiện hữu của ngôi nhà minh chứng cho hoạt động của thợ xây dựng. Tác giả Hê-bơ-rơ đã rút ra một số hàm ý từ nguyên tắc này khi viết, “Vả, chẳng có một cái nhà nào không phải bởi có người dựng nên; mà Ðấng đã dựng nên muôn vật ấy là Ðức Chúa Trời” (Hê. 3:4).

Một chiếc đồng hồ là minh chứng cho sự hiện hữu của thợ đồng hồ. Một cuốn sách minh chứng cho sự hiện hữu của một tác giả và một nhà xuất bản. Một bức tranh minh chứng cho sự hiện hữu của một họa sĩ. Không có điều gì là tự hiện hữu. Đối với mỗi kết quả, thì phải có một nguyên nhân tương ứng. Vì vậy thế giới hiện hữu này, cần phải có một nguyên nhân cho sự hiện hữu của nó—chính là một Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo ra nó.

Nếu không có Đấng Tạo Hóa, làm sao có loài bướm, cá hồi đốm đen và loài chim biết hót? Không chỉ Đức Chúa Trời tạo ra thế giới này; Ngài cũng tạo ra vẻ đẹp cho nó! Màu sắc của những bông hoa dại trên đồng cỏ của núi đồi nhắc cho tôi rằng Đức Chúa Trời rất hài lòng khi tạo ra những điều đẹp đẽ như vậy. Lặn với ống thở trong đầm ngoài bờ biển Guam như đã giới thiệu cho tôi về vẻ đẹp thế giới dưới nước của Đức Chúa Trời. Loài cá nhiệt đới có màu sắc rực rỡ như hoa. Nhưng Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch cho từng thứ và tạo ra chúng với nhiều hình dạng và màu sắc khác nhau. Sự hiện hữu của chúng minh chứng cho sự hiện hữu của Ngài là Đấng Tạo Hóa. Các nhà thần học gọi đây là lập luận vũ trụ học về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Vũ trụ học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp kosmos, có nghĩa là “thế giới”. Mọi thứ hiện hữu trên đời đều có nguyên nhân, và sự cuối cùng của nguyên nhân đó là Đức Chúa Trời.

Bằng Chứng của Trực Giác Con Người

Tất cả mọi người đều có bằng chứng nội tại là Đức Chúa Trời hiện hữu. Hầu như không có nhóm người nào, dù là cổ đại hay hiện đại, mà không thừa nhận sự hiện hữu của một vị thần tối cao nào đó. Người Ca-na-an thì thờ thần Baal. Người Ba-by-lôn tôn kính thần Marduk. Người Hy Lạp đã công nhận thần Zeus. Người La Mã tin vào thần Jupiter.

Tại A-thên, Phao-lô kêu gọi người Hy Lạp có sự nhận biết chung về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Để làm bằng chứng, Phao-lô đã dẫn lời hai nhà thơ Hy Lạp. “‘Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có’, y như xưa một vài thi nhân của các ngươi có nói rằng: ‘Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài.’” (Công. 17:28). Epimenides ca ngợi thần Zeus rằng: “Nhưng người sẽ không chết; Người sống và tồn tại mãi mãi, vì trong người, chúng tôi sống và động và tồn tại.”1 Phao-lô đã không ngại khi thay thế chữ “Ngài” thay vì “người”, nhưng nội dung của câu trích dẫn thì không thay đổi. Phao-lô cũng trích dẫn Aratus ở Cilicia, người đã viết về Zeus, “Với thần Zeus, tất cả mọi người trong chúng ta có sự sống và động và tồn tại theo cách nào đó, vì chúng ta cũng là dòng dõi của thần.”2 Sau đó Phao-lô chỉ ra cho người A-thên nên nhận ra họ cũng là, “dòng dõi của Đức Chúa Trời” (17:29). Mặc dù những nhà thơ cổ đại này không biết rõ về danh tính của Đức Chúa Trời, nhưng họ không nghi ngờ gì về sự hiện hữu của Ngài.

Bằng Chứng của Tính Lô-gíc

Lập luận bản thể học về sự hiện hữu Đức Chúa Trời cố gắng chứng minh thông qua tính lô-gíc (hợp lý) rằng quan niệm về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời đòi hỏi thực tại khách quan của một đấng tối cao, vô hạn. Thuật ngữ bản thể học xuất phát từ tiếng Hy Lạp ontos (từ động từ eimi, “là”) và có nghĩa là “tồn tại” hoặc “hiện hữu”. Đây không phải là lập luận dễ hiểu và nó không thuyết phục hầu hết mọi người. Nhưng nó đã hấp dẫn một số bộ óc vĩ đại, thường là những người thiên về toán học và triết học, như Rene Descartes (1596-1650) và Baruch Spinoza (1632-1677). Anselm (1033-1109), tổng giám mục tại Canterbury, là người đầu tiên đề xuất quan điểm này.

Lập luận bản thể học về sự hiện hữu Đức Chúa Trời dựa trên thực tế là tất cả mọi người đều có nhận thức về sự hiện hữu của một đấng tối cao, vô hạn. Người ta lập luận rằng Đức Chúa Trời hoàn hảo, vô hạn, nên Ngài phải đặt ý tưởng này vào tâm trí của con người. Nếu đấng hoàn hảo tuyệt đối chỉ hiện hữu trong suy nghĩ chứ không hiện hữu trong thực tế, thì Ngài sẽ không thực sự là đấng hoàn hảo nhất, vì đấng hiện hữu trong thực tế sẽ hoàn hảo hơn. Anselm kết luận rằng không ai hiểu Đức Chúa Trời là thế nào để có thể cho rằng Đức Chúa Trời không hiện hữu. Do đó Đức Chúa Trời hiện hữu!

Bạn có tuân theo lô-gíc đó không? Đây là một cách khác của lý luận bản thể học được diễn đạt: “Nếu con người có thể quan niệm về một Đức Chúa Trời hoàn hảo không hiện hữu, thì người đó có thể quan niệm một ai đó vĩ đại hơn chính Đức Chúa Trời—điều đó là không thể. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải hiện hữu?”

Bằng Chứng từ Kinh Nghiệm Cá Nhân

Kinh nghiệm cá nhân mang tính chủ quan cao và có thể không phải là bằng chứng thuyết phục cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Con người đã “trải nghiệm” một số điều khó tin, bao gồm cả việc bị người ngoài hành tinh bắt cóc. Tâm trí chúng ta có khả năng tưởng tượng tuyệt vời, vì thực tế là phần lớn trong số các hành tinh có thể cách chúng ta vài năm ánh sáng.

Mặt khác, kinh nghiệm cá nhân có thể dùng để xác nhận những bằng chứng khác khách quan hơn cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Niềm tin của tôi vào Đức Chúa Trời được đặt trên nhiều thứ, bao gồm bằng chứng về sự sáng tạo, tác động của Thánh Linh Đức Chúa Trời đối với lương tâm tôi, và bằng chứng về Lời Chúa. Nhưng về cơ bản tôi đã kinh nghiệm Chúa trong đời sống mình, và do đó tôi tin. Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của tôi, xoa dịu nỗi sợ hãi trong tôi, cung ứng mọi nhu cầu tôi, giải cứu tôi khỏi sự cám dỗ, làm vững tâm tôi, ban cho tôi sự bình an, và chứng tỏ sự thực hữu của Ngài trong đời sống tôi nhiều lần. Không có lập luận nào, dù lô-gíc hay thực tế đến đâu, có thể thuyết phục được tôi rằng Đức Chúa Trời không có thật. Mối quan hệ cá nhân của tôi với Đức Chúa Trời mỗi ngày bác bỏ bất kỳ và mọi quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời không hiện hữu.

 

 

SỰ MẶC KHẢI ĐẶC BIỆT

Sự mặc khải phổ quát là dành cho tất cả mọi người, giúp họ có thể nhận ra sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Nhưng sự mặc khải phổ quát không đủ khả năng để đưa con người vào mối quan hệ cứu rỗi với Đức Chúa Trời. Vì mục đích đó, sự mặc khải đặc biệt là cần thiết. Sự mặc khải đặc biệt là sự bày tỏ thiên thượng thông qua Đấng Christ (Giăng 1:18), Kinh Thánh (1 Giăng 5:9-12) và các công việc quyền năng của Đức Chúa Trời (Giăng 10:25).

 

Bằng Chứng của Đấng Christ

Chúa Giê-su đến thế gian này, mặc lấy hình ảnh con người, để mặc khải Đức Chúa Trời cho nhân loại. Sứ đồ Giăng tuyên bố: “Chẳng hề ai thấy Ðức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết” (Giăng 1:18). Để chia sẻ mối quan hệ mật thiết sâu nhiệm nhất với Đức Chúa Trời là Cha, thì Chúa Giê-su ở trong địa vị bày tỏ lẽ thật sâu nhiệm về Đức Chúa Trời. Những từ “được biết đến” theo nghĩa đen có nghĩa là “chỉ đường.” Qua sự nhập thể, Chúa Giê-su đã chỉ ra cho những tội nhân lầm lạc con đường đến với Đức Chúa Trời.

Trong Cô-lô-se 1:15 Phao-lô tuyên bố Chúa Giê-su là “hình ảnh [eikon] của Đức Chúa Trời vô hình.” Mặc dù Đức Chúa Trời không có thân thể vật lý, và do đó không thể nhìn thấy được, nhưng hình ảnh của Ngài có thể được nhìn thấy trong Đấng Christ. Từ eikön đề cập đến dấu ấn hoặc dấu hiệu trên đồng xu. Giống như một đồng xu phản ánh chính xác cái khuôn đã tạo ra nó, vì vậy Đấng Christ phản ánh chính xác Đức Chúa Trời là Cha. Ngôi vị vô hình của Đức Chúa Trời được nhìn thấy thông qua Đấng Christ. Chính Chúa Giê-su đã tuyên bố, “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30) Và sau đó Ngài phán, “Ai đã thấy ta nghĩa là đã thấy Cha” (14:9).

 

Bằng Chứng của Kinh Thánh

Khi tôi hỏi con gái ở tuổi thiếu niên tại sao con tin Đức Chúa Trời hiện hữu, câu trả lời đã khiến tôi ngạc nhiên. Cháu nói, “Bởi vì Kinh Thánh nói như vậy.” Mặc dù con người chắc chắn đã hưởng lợi từ những lập luận hợp lý và triết học về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, nhưng bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự hiện hữu của Ngài thì được tìm thấy trong Kinh Thánh (1 Giăng 5: 9-10).

Tôi tin rằng điều khá quan trọng là Kinh Thánh không bắt đầu bằng việc bảo vệ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Môi-se không mở đầu Sách Sáng Thế Ký bằng cách trình bày sáu lý do tại sao mọi người nên tin vào Đức Chúa Trời. Đúng hơn, Môi-se thừa nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và tiếp tục ghi chép lại công việc của Ngài. Sự mặc khải đặc biệt của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh, được bắt đầu với dòng chữ, “Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sáng 1:1). Tuyên bố này được xây dựng trên thực tế đó là tất cả mọi người, dựa trên sự mặc khải phổ quát, đều nhận thức về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Mỗi câu trong Kinh Thánh đều bắt đầu bằng những từ “Đức Chúa Trời phán” hoặc “Đức Chúa Trời đã làm” đều chứng tỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời.

 

Bằng Chứng về Các Công Trình Kỳ Diệu của Đức Chúa Trời

Trong suốt lịch sử Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho dân sự qua các công việc kỳ diệu của Ngài (Thi. 77:11-14; 81:10). Khía cạnh sự mặc khải đặc biệt này của Đức Chúa Trời là đặc biệt quan trọng trước khi Đấng Christ nhập thể và việc hoàn thành kinh điển của Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho Môi-se qua phép lạ bụi gai cháy (Xuất. 3:1-6). Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên qua các dịch bệnh trên đất Ai Cập (9:16; 10:2) và các phép lạ trong Xuất Ê-díp-tô Ký (15:1-3). Ngài đã bày tỏ chính Ngài cho mọi người tập trung trên Núi Cạt-mên cùng với Ê-li khi ông gọi lửa từ trời giáng xuống (1 Các vua. 18:36–39).

Một nghiên cứu kinh điển về tác động của các công trình vĩ đại của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong bản tường thuật về việc Đa-vít giết người khổng lồ Gô-li-át (1 Sa. 17). Dân Y-sơ-ra-ên và Phi-li-tin tập trung tại thung lũng Ê-la phía tây Bết-lê-hem. Mỗi ngày, Gô-li-át, nhà vô địch của Gát, đe dọa dân Y-sơ-ra-ên bằng những lời đe dọa. Một ngày nọ, Đa-vít đem thức ăn đến cho các anh em của mình, là những người đang phục vụ trong quân đội của vua Sau-lơ, nghe thấy những lời đe dọa của Gô-li-át và hỏi, “Người Phi-li-tin không cắt bì này là ai mà dám thách thức đội quân của Đức Chúa Trời hằng sống?” (17:26). Đa-vít sau đó đã dùng trành ném đá và vài viên đá xông vào chiến trường để đối mặt với gã khổng lồ Gô-li-át.

Khi gã khổng lồ chế nhạo và nguyền rủa kẻ thù trẻ tuổi, Đa-vít tuyên bố bằng một bài học thần học: “Ngày nay Ðức GIÊ-HÔ-VA sẽ phó ngươi vào tay ta, ta sẽ giết ngươi, cắt đầu ngươi, và ngày nay ban thây của đạo binh Phi-li-tin cho chim trời và thú vật của đất và khắp thế gian sẽ biết rằng Y-sơ-ra-ên có một Ðức Chúa Trời” (17:46). Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời được tuyên bố hùng hồn qua chiến thắng của Đa-vít trước Gô-li-át.

Sự mặc khải của Đức Chúa Trời qua các việc làm quyền năng của Ngài không chỉ giới hạn trong Cựu Ước. Các phép lạ của Chúa Giê-su và các sứ đồ cũng là bằng chứng hùng hồn cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời (ví dụ, xem Giăng 10:25; 20:30–31; Công. 3:12-16). Điều quan trọng nhất của các phép lạ trong Tân Ước minh chứng cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là sự phục sinh của Chúa Giê-su. Các sứ đồ đã xác quyết sự sống lại là minh chứng tối hậu cho những tuyên bố của Chúa Giê-su và lẽ thật về sứ điệp của Ngài (1 Cô. 15:3–4).

Tác giả Thi Thiên tuyên bố rằng các công trình kỳ diệu của Đức Chúa Trời phải được công bố cho các thế hệ tương lai để họ có thể biết Đức Chúa Trời và tuân giữ các điều răn của Ngài (Thi. 78:4-7). Sau cuộc Xuất hành. Môi-se đã chỉ dẫn những người cha Y-sơ-ra-ên để dạy cho con cái họ rằng “Ðức GIÊ-HÔ-VA có làm trước mặt chúng ta những dấu kỳ và phép lạ—rất lớn lao đáng sợ—mà hại xứ Ê-díp-tô, Pha-ra-ôn, và cà nhà người” (Phục. 6:22). Các công trình kỳ diệu của Đức Chúa Trời minh chứng cho sự hiện hữu của Ngài và kêu gọi sự đáp ứng của đức tin và sự vâng lời. Điều này được thể hiện rõ trong Mười Điều Răn theo sau những lời, “Ta là GIÊ-HÔ-VA Ðức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, là nhà nô lệ” (Xuất 20:2).

 

ĐÁP ỨNG SỰ MẶC KHẢI

Tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là bước đầu tiên để nhận biết Đức Chúa Trời. Tác giả Hê-bơ-rơ đã nói rõ điều này khi viết: “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Ðức Chúa Trời phải tin rằng có Ðức Chúa Trời, và Ngài là Ðấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hê 11:6). Điều này cho thấy rằng khi mọi người đáp ứng bởi đức tin đối với sự mặc khải phổ quát của Đức Chúa Trời, nghĩa là thừa nhận sự hiện hữu của Ngài, thì Ngài cung ứng sự mặc khải đặc biệt để họ nhận biết Đấng Christ và kinh nghiệm sự cứu rỗi cá nhân. Chính nhờ đức tin mà con người hiểu được lẽ thật thuộc linh và nhận biết Đức Chúa Trời.

Nhưng làm thế nào để mọi người thực hiện bước đầu tiên đó là tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời? Làm thế nào một người vô thần lại tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời? Làm thế nào để những người hư mất và tội lỗi chấp nhận thế giới tâm linh vô hình là có thực? Phao-lô giải thích cho người Cô-rinh-tô rằng “thế gian bởi sự khôn ngoan của mình mà không nhận biết Đức Chúa Trời” (1 Cô. 1:21). Nếu cần đến sự suy nghĩ sáng suốt để nhận biết Đức Chúa Trời, thì hầu hết chúng ta sẽ không bao giờ có thể biết Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ hành động theo những cách mầu nhiệm.

Thay vì đòi hỏi sự thông minh về học thức hay sự khôn ngoan thế gian, Đức Chúa Trời đã từ trên trời giáng xuống và bắt đầu đời sống tâm linh của chúng ta thông qua đức tin. Phao-lô viết, “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Ðức Chúa Trời” (Êph. 2:8). Đức tin không phải là điều mà con người làm cho xuất hiện như kết quả của những lập luận trí tuệ hoặc triết học về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Đức tin là điều mà Đức Chúa Trời ban tặng cho con người như một món quà. Ngài khuấy động tấm lòng của những người chưa ăn năn bằng đức tin, giúp họ có thể đáp lại sự mặc khải phổ quát của Ngài. Sau đó, Đức Chúa Trời cung ứng cho “những người tìm kiếm” sự mặc khải đặc biệt cần thiết cho sự cứu rỗi trong Đấng Christ.

 

2

Những Quan Niệm Sai Lầm Về Đức Chúa Trời

“NỮ THẦN đang sống và có phép thuật trong thế giới này.” Đây là lời quảng bá từ một miếng dán xuất hiện trên xe hơi gần đây. Các tín ngưỡng thờ nữ thần đang nở rộ khắp nước Mỹ. Theo báo cáo, các nhóm tôn giáo thuộc loại này có thể được tìm thấy tại các cơ sở giáo dục hàng đầu ở Mỹ, bao gồm Trường Thần học Harvard, Đại học Pennsylvania và Đại học Santa Cruz. Tín ngưỡng thờ nữ thần là một khía cạnh của nhóm Thời đại Mới, đang xâm nhập vào đời sống tôn giáo và tư tưởng của người Mỹ. Đáng chú ý, điều này không có gì mới. Ở Babylon cổ đại, bà được gọi là Ishtar; ở Hy Lạp là Artemis; và ở Rome là Diana.

Sự sùng bái nữ thần hay chế tác ra các nữ thần vốn đã có từ rất lâu trong lịch sử và các nền văn hóa. Đây là một trong nhiều ý tưởng sai lầm mà con người có – những quan điểm khác xa với cách Kinh Thánh mô tả về một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật.

CHỦ NGHĨA VÔ THẦN

Từ vô thần mô tả một người tin rằng không có Chúa. Nó có nguồn gốc từ chữ theos trong tiếng Hy Lạp. Từ này xuất hiện một lần trong Tân Ước (Ê-phê-sô 2:12), nơi nó dùng để chỉ những người ngoại chưa được cứu — những người “không có Chúa”. Người Hy Lạp cổ đại sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người không tin vào bất kỳ vị thần nào.

Không phải tất cả những người vô thần đều giống nhau. Người vô thần giáo điều phủ nhận Thiên Chúa và tuyệt đối phủ nhận sự hiện hữu của Ngài. Đa-vít đã viết về người này trong Thi thiên 14: 1: “Kẻ ngu ngốc nói trong lòng rằng: Không có Đức Chúa Trời.” Quan điểm này rất rõ ràng trong khoa học hiện đại, vốn dựa trên tiền đề rằng không có Chúa và sau đó tìm cách giải thích sự sống ngoài sự tham gia của Ngài. Đối với những người theo quan điểm này, thế giới vật chất, không phải thế giới tinh thần, là thực tại cuối cùng. Thuyết tiến hóa khẳng định rằng con người là sản phẩm may rủi của các chất hóa học vô hồn dưới biển. tác động bởi ánh sáng mặt trời. Cuối cùng những chất hóa học này đã ra đời và từ đó phát triển bởi sự chọn lọc tự nhiên và những đột biến ngẫu nhiên vào tất cả các loài thực vật và động vật sống, bao gồm cả con người. Đức Chúa Trời không được bao gồm trong quan điểm này bởi vì những người ủng hộ nó không tin rằng Ngài tồn tại.

Những người vô thần thực dụng không thực sự phủ nhận sự tồn tại của Chúa, nhưng họ sống như thể không có Chúa. Đây có thể là con người mà Đa-vít đã nghĩ đến khi ông viết về kẻ ác, “Không có sự kính sợ Đức Chúa Trời trước mắt nó” (36: 1). Nếu không có Đức Chúa Trời, thì không cần phải tôn trọng các mệnh lệnh trong Kinh Thánh. Nếu không có Chúa, thì không có đạo đức hay trách nhiệm giải trình. Người theo thuyết vô thần thực tế cho rằng những điều tốt đẹp trong cuộc sống có được là nhờ thành quả của con người chứ không phải là kết quả của lòng nhân từ và ân điển của Đức Chúa Trời.

 

THUYẾT BẤT KHẢ TRI

Người theo thuyết bất khả tri được hiểu là người “không có kiến ​​thức” theo nghĩa đen. Trong khi những người hữu thần khẳng định sự tồn tại của Chúa, những người vô thần lại phủ nhận điều đó, và những người theo thuyết bất khả tri tuyên bố không biết gì về nó. Thomas Huxley lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm 1869 tại một cuộc họp tiền trạm của tổ chức Hiệp hội Siêu hình học. Là một người theo chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo, những người theo thuyết bất khả tri bác bỏ ý tưởng rằng con người có thể hiểu biết về những lĩnh vực tâm linh.

Giống như thuật ngữ vô thần, từ bất khả tri có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Trong bối cảnh tích cực nhất của nó, thuật ngữ này có thể mô tả một người không biết gì về Đức Chúa Trời. Người đó có thể cởi mở với những điều thuộc linh nhưng không có quan điểm cá nhân về những vấn đề liên quan đến Chúa, Kinh Thánh hoặc sự sống đời đời. Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để mô tả một người có thái độ thế tục và hoài nghi. Vì vậy, những người theo thuyết bất khả tri cho rằng niềm tin vào Chúa là không thực tế và không phù hợp. Người theo thuyết bất khả tri cũng có thể ám chỉ một người tin rằng chúng ta không thể biết liệu Chúa có tồn tại hay không. Những người như vậy thường phản đối tôn giáo và chống lại Cơ đốc giáo.

Tại sao một số người lại theo thuyết bất khả tri? Thứ nhất, trở thành một người theo thuyết bất khả tri sẽ được xã hội chấp nhận hơn là một người vô thần. Nghe có vẻ hợp lý hơn khi nói “Tôi không biết” hơn là “Tôi không tin.” Thứ hai, không giống như những người vô thần, những người theo thuyết bất khả tri tránh phải đưa ra các luận đề chứng minh. Người ta không cần bằng chứng khi chấp nhận là tôi không biết/ hoặc tôi không thể biết.

Mặc dù thuyết bất khả tri nhận được sự tôn trọng nhất định trong cộng đồng trí thức, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu bạn tránh đưa ra quyết định về những vấn đề có giá trị vĩnh cửu. Nếu Đức Chúa Trời tồn tại, thì thật là phạm thượng khi tuyên bố sự tồn tại của Ngài là không thể chứng minh được! Sự phạm thượng như vậy có thể để lại hậu quả vĩnh cửu. Blaise Pascal (1623-1662) trong cuốn Pensees (Suy nghĩ) đã đề xuất rằng chúng ta “đánh cược” vào khả năng tồn tại của Chúa. Nếu canh bạc của chúng ta dành cho Chúa là đúng (có nghĩa là tin Đức Chúa Trời tự hữu và hằng hữu), chúng ta sẽ giành được mọi thứ — hạnh phúc và cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng không có gì bị mất nếu chúng ta hóa ra là sai. Nói cách khác, tốt hơn là sống như thể Chúa tồn tại và khám phá ra rằng Ngài không tồn tại, hơn là sống như thể Ngài không tồn tại và khám phá ra rằng Ngài có tồn tại!

ĐA THẦN GIÁO

Thuyết đa thần xuất phát từ tiếng Hy Lạp poly, “nhiều” và theos, “Chúa”. Một người theo thuyết đa thần tin vào nhiều vị thần. Quan điểm này phổ biến trong thời kỳ Kinh Thánh. Trong số nhiều vị thần của họ, người Ai Cập tôn thờ Re, vị thần mặt trời; Osiris, kẻ thống trị thế giới; Seth, vị thần của thiên nhiên; và Hathor, nữ hoàng của tất cả các vị thần và nữ thần. Người Ca-na-an đã trung thành với thần sinh sản, Baal, và em gái của thần này là Anath. Người Hy Lạp tôn vinh Zeus là vua của các vị thần, nhưng họ cũng tôn kính mười một người khác, bao gồm cả Ares, thần chiến tranh; Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp; và Apollo, thần âm nhạc và ánh sáng.

Đa thần giáo không chỉ giới hạn trong thế giới cổ đại. Nó tồn tại ngày nay trong Ấn Độ giáo, trong đó những người thờ phượng tìm kiếm một lợi ích cụ thể từ bất kỳ vị thần nào trong số vô số các vị thần. Tuy nhiên, mỗi vị thần trong quần thể Ấn Độ giáo đông đúc chỉ được coi là một khía cạnh của Bà La Môn, “Người Eking tối cao, Đa thần giáo cũng được tìm thấy trong Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Thần đạo ở phương Đông, và trong các tôn giáo bộ lạc của châu Phi. DB Fletcher đã chỉ ra rằng “khi phương Tây thâm nhập vào các tôn giáo phương Đông và các phong trào phái sinh của họ, các Cơ đốc nhân phương Tây sẽ cần phải đối đầu trực tiếp với thuyết đa thần.

Đức Chúa Trời đã đề cập đến vấn đề đa thần trong phần đầu tiên trong Mười Điều Răn của Ngài. Điều răn đầu tiên này tập trung vào bản chất độc quyền của sự thờ phượng thật: Đức Chúa Trời phán: “Trước mặt ta, ngươi không được có thần nào khác” (Xuất 20: 3). Dân Y-sơ-ra-ên phải dành trọn sự tận tụy và trung thành của họ dành riêng cho Chúa, không ràng buộc mình với ai khác ngoài Đức Chúa Trời thật.

Điều răn đầu tiên nhắm vào cả thuyết vô thần và đa thần. Đối với những người vô thần, lời ủy thác nói, “Chúa tồn tại. Hãy nhận biết Ngài!” Đối với những người theo thuyết đa thần, điều răn nói, “‘Chúa là Đức Chúa Trời thật duy nhất. Ngài cũng từ chối chia sẻ sự thờ phượng của Ngài với bất kỳ thần nào khác.” Các vị thần và nữ thần của các tôn giáo đa thần chỉ là kết quả của những tưởng tượng đồi trụy. Sau khi chứng kiến ​​phép lạ về sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên qua Biển Đỏ và sự hủy diệt của người Ai Cập, Môi-se đã hát, ” Hỡi Đức Giê-hô-va! trong vòng các thần, ai giống như Ngài?” (Xuất. 15:11). Đa-vít trả lời câu hỏi này: “Trong số các thần, chẳng có ai giống như Chúa” (Thi. 86:8). Trong lời cầu nguyện tạ ơn, Đa-vít đã tuyên bố về bản chất độc quyền của sự thờ phượng thật, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! Ngài là rất vĩ đại, chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Đức Chúa Trời nào khác hơn Ngài” (2 Sa-mu-ên 7:22).

THUYẾT PHIẾM THẦN

Từ thuyết phiếm thần bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp pan, “tất cả” và theos, “Chúa”. Theo thuyết phiếm thần, Đức Chúa Trời là tất cả mọi thứ, và mọi thứ là Chúa. Từ này lần đầu tiên được sử dụng bởi John Toland vào năm 1705 để chỉ các hệ thống triết học và tôn giáo có xu hướng đồng nhất Thiên Chúa với thế giới vật chất hoặc tự nhiên. Thuyết phiếm thần phổ biến trong các tôn giáo cổ đại đồng nhất hóa vũ trụ vật chất với thần linh.

 

Theo nhà thơ Hy Lạp Hesiod, vào thế kỷ thứ VIII B. C. từ khoảng không tối tăm của Chaos đã xuất hiện Gaea, “Mẹ Trái đất”, nhân từ, ngực rộng, có đất nuôi dưỡng. Nữ thần này, được ghi nhớ trong từ “địa lý”, đã sinh ra bầu trời đầy sao, sao Thiên Vương, “Cha trời.” Khi ông che mưa cho Gaea, hoa, cỏ và cây cối đâm chồi nảy lộc. Sông chảy, hồ và biển bị lấp đầy. Ngày nay, khái niệm “Mẹ Trái đất” đã được truyền lại cho các nhà bảo vệ môi trường, những người đã chịu ảnh hưởng của thần học Thời đại Mới hoặc các tôn giáo phương Đông.

Thuyết phiếm thần có nhiều dạng. Thuyết phiếm thần duy vật khẳng định tính vĩnh cửu của vật chất và cho rằng vật chất là nguyên nhân của mọi sự sống. Thuyết phiếm thần Hylozoistic cho rằng thần thánh là yếu tố cơ bản của thế giới, nhưng vũ trụ vẫn là một tập hợp nhiều phần tử riêng biệt. Thuyết phiếm thần Acosmic đề xuất rằng Đức Chúa Trời là tuyệt đối và tạo nên tính tổng thể của thực tại. Thế giới chúng ta đang sống và trải nghiệm chỉ xuất hiện khi nó có thật. Thuyết phiếm thần khoa học kết hợp tôn giáo và khoa học, tạo cơ sở đạo đức cho các mối quan tâm về môi trường. Theo quan điểm này, mọi người nên tôn kính và bảo vệ rừng, không khí, đại dương và các khía cạnh khác của môi trường trái đất bởi vì vũ trụ và thiên nhiên là thần thánh. Thuyết phiếm thần Thời đại mới cho rằng vạn vật là thần thánh, kể cả con người. Đạo sư Shirley MacLaine của Thời đại mới nói rằng người hướng dẫn tinh thần của cô ấy, được ví von là “Bản ngã cao hơn” đã nói với cô ấy rằng, “Mỗi linh hồn là Thượng đế của riêng mình. Bạn không bao giờ được tôn thờ bất cứ ai hoặc bất cứ thứ gì khác ngoài chính mình. Vì bạn là Thượng đế. Hãy yêu bản ngã như yêu Thượng đế.”

Thuyết phiếm thần Thời đại mới coi thường bản thân và không thừa nhận sự tuyệt đối về mặt đạo đức.

Thuyết phiếm thần rõ ràng không phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh rằng Đức Chúa Trời khác biệt với sự sáng tạo của Ngài. Thượng đế đã tồn tại từ muôn thuở, nhưng vũ trụ đã được tạo ra trong thời gian. Thượng đế là vĩnh cửu, nhưng tạo vật là hữu hạn.

Vấn đề chính của thuyết phiếm thần là nó quá đề cao sự bất diệt của Đức Chúa Trời (sự hiện diện) và phủ nhận tính siêu việt của Ngài (quyền tối cao và sự riêng biệt). Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đang hoạt động trong sự sáng tạo của Ngài, nhưng Ngài không được đồng nhất với nó. Đức Chúa Trời là thánh khiết, cao cả, và tách biệt khỏi tất cả những gì sa ngã và tội lỗi. Nhưng Ngài phục vụ cho những người đang cần. Chúa Giê-su minh họa sự cân bằng hoàn hảo này. Trong Đấng Christ, Đức Chúa Trời bày tỏ sự vô nhiễm của Ngài bằng cách mặc lấy bản tính con người. Nhưng sự siêu việt của Đức Chúa Trời được duy trì trong thực tế rằng Đấng Christ là Con người không tội lỗi. Trong khi những người theo thuyết phiếm thần tôn thờ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời là thần thánh, những người theo đạo Cơ đốc tin rằng chúng ta chỉ nên thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta nên là người quản lý tốt sự sáng tạo của Ngài và những nguồn lực được giao phó cho chúng ta.

PHIẾM TẠI THẦN THUYẾT

Phiếm tại thần thuyết là một thuật ngữ được sử dụng bởi Karl C. K Krause (1781-1832) để mô tả quan điểm của ông về Chúa. Thuật ngữ này có nghĩa đen là “tất cả [đều] ở trong Chúa.” Trong khi thuyết này khác với “thuyết phiếm thần” nghe có vẻ tương tự, cả hai đều phản ánh nỗ lực giải thích mối quan hệ của Chúa và thế giới.

Theo phiếm tại thần thuyết, Thượng đế ở trong mọi thứ, và mọi thứ là Thượng đế. Trong số các xác suất tồn tại với thuyết nội tại là sự tồn tại của cái ác trên thế giới. Nếu Đức Chúa Trời ở trong mọi sự, làm sao chúng ta giải thích được điều ác? Chúa có ngang nhau trong một cái cây đáng yêu và một cuốn băng video xếp hạng X không? Rõ ràng, có một mâu thuẫn ở đây.

Giống như thuyết phiếm thần, thuyết nàyi thừa nhận sự hiện diện của Chúa ở khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng trong khi thuyết phiếm thần nói rằng “Chúa là cái cây,” thì phiếm tại thần thuyết nói, “cây ở trong Chúa.” Sự khác biệt có vẻ nhỏ, nhưng nó rất đáng kể. Thuyết phiếm thần khẳng định rằng Thượng đế và thế giới là một. Tất cả là Chúa — đá, cây, chim và cá. Phiếm tại thần thuyết khẳng định rằng tất cả đều “ở trong” Chúa, phần nào giống như cá ở trong đại dương.

Hãy nghĩ về hai quả trứng — một quả luộc chín và một quả trứng lộn. Thuyết phiếm thần có thể được ví như món trứng lộn trong đó trứng và óc chó được hòa quyện làm một. Chúa và thế giới là một. Mặt khác, phiếm tại thần thuyết có thể được ví như quả trứng luộc, trong đó cái ách màu vàng là riêng biệt. Phiếm tại thần thuyết nói rằng có một quả trứng thần thánh (Chúa) và bên trong nó là cái ách (thế giới).

Phiếm tại thần thuyết là một nỗ lực kết hợp những điểm mạnh của thuyết thần thánh cổ điển với thuyết phiếm thần. Theo học thuyết này, Chúa tồn tại, và thế giới – ở trong Chúa – chia sẻ thần tính. Vấn đề chính của quan điểm này là thế giới thay đổi, và khi nó thay đổi, Chúa cũng phải thay đổi. Khi thế giới phát triển, Đức Chúa Trời tăng trưởng trong kiến ​​thức và sự hiểu biết về sự sáng tạo của Ngài. Phiếm tại thần thuyết đưa ra cho chúng ta một Đức Chúa Trời luôn thay đổi và là chủ thể có kiến ​​thức hạn chế. Quan điểm này của học thuyết mâu thuẫn với những tuyên bố rõ ràng trong Kinh Thánh liên quan đến sự bất biến của Đức Chúa Trời (Ma-la-chi 3: 6; Gia-cơ 1:17) và sự toàn tri (Thi thiên 139: 3-4; Giăng 21:17; 1 Giăng 3:20).

TỰ NHIÊN THẦN GIÁO

Note: DEISM: TỰ NHIÊN THẦN GIÁO niềm tin vào một vị thần duy nhất, vị này không tác động đến các sự kiện; và sự tồn tại của vị thần này không có mối liên hệ nào với các tôn giáo, công trình tôn giáo, hoặc sách tôn giáo, v.v.
Là một phong trào hoặc hệ thống tư tưởng ủng hộ tôn giáo tự nhiên, nhấn mạnh đạo đức, và vào thế kỷ 18 phủ nhận sự can thiệp của Đấng Tạo Hóa với các quy luật của vũ trụ.

Từ deism có nguồn gốc từ thuật ngữ tiếng Latinh deus, “Chúa”. Deism là một quan điểm tôn giáo được một nhóm các nhà văn người Anh bắt đầu từ Lord Herbert của Cherbury vào nửa đầu thế kỷ XVII diễn tả. Những người theo thuyết sùng đạo tin rằng Chúa đã tạo ra thế giới và sau đó để nó tuân theo luật tự nhiên. Đối với những người theo thuyết thần thánh, Chúa ở ngoài thế giới và không hoạt động trong đó theo cách siêu nhiên. Theo tư duy của tự nhiên thần giáo, Đức Chúa Trời đã điều chỉnh đồng hồ của thế giới khi sáng tạo, và bây giờ mọi việc tiến hành theo các nguyên tắc của luật tự nhiên mà không cần đến sự can thiệp hay can dự của Ngài.

Những người theo tự nhiên thần giáo đi đến quan điểm của họ thông qua lời chứng của lý trí con người hơn là qua sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Vì lý do này, họ từ chối thẩm quyền của Kinh Thánh. Khi phủ nhận điều siêu nhiên, họ bác bỏ khả năng có phép lạ. Họ tuân theo một khái niệm Nhất thể về Đức Chúa Trời, phủ nhận các học thuyết về Chúa Ba Ngôi, thần tính của Đấng Christ, và sự cứu chuộc được cung ứng tại Thập tự giá.

Tự nhiên thần giáo đối lập với thuyết phiếm thần. Thuyết phiếm thần nhấn mạnh đến sự bất diệt của Đức Chúa Trời (liên quan đến thế giới của chúng ta), nhưng tự nhiên thần giáo nhấn mạnh sự siêu việt của Đức Chúa Trời (được tôn cao lên trên vũ trụ). Kinh Thánh dạy cả sự vô nhiễm của Đức Chúa Trời và sự siêu việt của Ngài. Đức Chúa Trời rất cao trọng về sự sáng tạo của Ngài (Xuất 15: 1; Thi. 99: 2), nhưng Ngài đã nhân từ xuống để giúp đỡ và giải cứu những người biết mình có nhu cầu và khốn khổ (Xuất 3: 8; Phi-líp 2: 5-8).

Một vấn đề chính của thuyết tự nhiên thần giáo là từ chối sự tham gia liên tục và siêu nhiên của Đức Chúa Trời vào sự sáng tạo của Ngài. Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời, Đấng tạo ra trái đất, duy trì trái đất bằng quyền năng của Ngài (Cô-lô-se 1: l 6-17). Tác giả Thi thiên A-sáp ca ngợi “Đức Chúa Trời là Đấng làm phép lạ” (Thi 77:14). Những can thiệp kỳ diệu của Ngài vào công việc của loài người được ghi lại qua Cựu ước và Tân ước. Những người theo thuyết tự nhiên thần giáo chống đối dựa trên trên lý trí và sự khôn ngoan của con người. Đây là một cách tiếp cận sự thật theo cách chủ quan mà Phao-lô đã nói trong thư tín gửi cho hội thánh tại Cô-rinh-tô. “Vì, tại thế gian cậy sự khôn ngoan mình, chẳng nhờ sự khôn ngoan Đức Chúa Trời mà nhận biết Đức Chúa Trời” (1 Côr. 1:21). Đức tin vào Đấng Christ không dựa vào “sự khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Đức Chúa Trời” (1 Côr. 2: 5).

Chủ nghĩa tự nhiên thần giáo lan rộng từ Anh sang Đức, Pháp và Mỹ. Vào cuối thế kỷ thứ mười tám, chủ nghĩa này đã trở thành một quan điểm tôn giáo thống trị trong giới trí thức và tầng lớp thượng lưu Mỹ. Trong số những người Mỹ nổi tiếng tự coi mình là đi theo tự nhiên thần giáo có Benjamin Franklin, George Washington và Thomas Jefferson. M. H. Macdonald đã chỉ ra rằng mặc dù chủ nghĩa này không được phổ biến rộng rãi ngày nay, nhưng ý nghĩa lịch sử của nó là rất lớn và nó vẫn còn ảnh hưởng đến tư tưởng tôn giáo trong thời đại của chúng ta.

THỜ HÌNH TƯỢNG

Sự thờ hình tượng xuyên tạc Đức Chúa Trời ở chỗ nó miêu tả Ngài là người có thân thể vật chất mà hình ảnh vật chất có thể gây phẫn nộ. Vào thời Kinh Thánh, việc thờ hình tượng rất thịnh hành ở vùng Cận Đông cổ đại. Người Babylon đã diễu hành hình ảnh Marduk của họ qua các đường phố trong thành phố của họ trong lễ hội lên ngôi hàng năm để vinh danh Ngài. Thần tượng của các vị thần Ai Cập Osiris, Isis và Seth đã được tìm thấy trong lăng mộ của các pharaoh. Các thần và nữ thần Ca-na-an được tượng trưng bởi các thần tượng. Sự hiện diện của những thần tượng này trong xứ Ca-na-an đã gây ra một sự cám dỗ nghiêm trọng cho dân Y-sơ-ra-ên. Tôi sẽ không bao giờ quên xem một chiếc tủ kính trong Bảo tàng Rockefeller ở Jerusalem và nhận ra rằng những thần tượng trước tôi đã ở các thành phố của Israel từ nhiều thế kỷ trước! Nhưng việc thờ thần tượng không đơn giản chỉ là lỗi của quá khứ. Ngày nay, bạn có thể thấy việc thờ ngẫu tượng được thực hiện khi những người thờ cúng dâng một giỏ trái cây trước tượng Phật, hoặc những cánh hoa cho thần tượng Hindu, hoặc thắp hương trước ảnh của tổ tiên họ.

Việc thờ hình tượng mang lại cho những người sùng đạo cảm giác gần gũi về thể xác với vị thần mà họ tôn thờ. Nó cũng cho phép họ kiểm soát một số vị thần. Một thần tượng có thể được di chuyển xung quanh, cất vào tủ và mang ra ngoài khi khẩn cấp. Các vị thần và nữ thần thường được miêu tả là những con vật, những đồ vật mà con người quen thuộc. Ví dụ, Baal, vị thần sinh sản của người Canaan-ites, được đại diện bởi một con bò đực khỏe mạnh và hung hãn. Trong việc thờ hình tượng, những người thờ hình tượng hình dung các vị thần của họ và trang điểm cho các vị thần của họ theo trí tưởng tượng của chính họ.

Thờ thần tượng có ba vấn đề nghiêm trọng. Thứ nhất, Đức Chúa Trời không có cơ thể vật chất. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giê-su nói: “Đức Chúa Trời là thần linh” (Giăng 4:24). Vì bản chất thiết yếu của Đức Chúa Trời là thần, Ngài không có thân thể vật chất. Vì vậy, thật sai lầm khi miêu tả Đức Chúa Trời như thể Ngài có thân thể vật lý.

Thứ hai, Đức Chúa Trời vô hình. Phao-lô viết rằng Chúa Giê-su là “hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được” (Cô-lô-se 1: 15). Trong một lời tuyên bố ngợi khen Đức Chúa Trời, Phao-lô viết rằng Ngài là “vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được” (1 Ti-mô-thê 1:17). Và ông mô tả Đức Chúa Trời là Đấng ” chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được” (1 Côr. 6:16).

Thứ ba, cố gắng đại diện cho Đức Chúa Trời bằng hình dạng con người hoặc động vật sẽ là ngăn chặn và giới hạn Ngài. Đức Chúa Trời là vô hạn và ở khắp nơi. Sau khi xây dựng một đền thờ nguy nga cho Chúa, Sa-lô-môn thưa với Chúa rằng: “Trời cao nhất không thể chứa được Ngài. Phương chi cái đền nầy tôi đã cất!” (1 Các vua 8:27).

Hai điều răn đầu tiên trong Mười điều răn (Xuất 20: 3-17) hướng đến sự nguy hiểm của việc thờ hình tượng. Như đã lưu ý, các điều răn đầu tiên tập trung vào bản chất độc quyền của sự thờ phượng thật. “Trước mặt ta, các ngươi không được có thần nào khác” (20: 3). Dân sự của Đức Chúa Trời không phải tuân theo một vị thần nào khác ngoài một Đức Chúa Trời chân thật. Việc tuân theo mệnh lệnh này sẽ giúp dân Y-sơ-ra-ên tránh được các hình thức thờ phượng ngẫu tượng mà các quốc gia láng giềng thực hành. Điều răn thứ hai đề cập đến vấn đề làm thế nào Đức Chúa Trời được thể hiện trong sự thờ phượng. “Các ngươi không được tạo cho mình một thần tượng dưới hình thức nào, bất cứ vật gì ở trên trời, trên trời dưới đất bên dưới đất hay dưới nước. Lệnh này cấm thờ phượng Đức Chúa Trời dưới hình thức một thần tượng hoặc hình ảnh. Lý do cấm thờ thần tượng được tìm thấy trong câu 5, “Vì ta là Đức Chúa Trờii kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời.” Đức Chúa Trời “kỵ tà hay ghen tị” theo nghĩa là Ngài không muốn chia sẻ sự thờ phượng của Ngài với một thần hoặc một hình tượng nào khác. Chỉ một mình Ngài là được tôn thờ. Hậu quả của việc thờ hình tượng được ghi lại trong 20:5-6, “hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến ta và giữ các điều răn ta.” Trong khi Đức Chúa Trời tôn trọng lòng trung thành và sự trung tín, thì con cái của những người thờ hình tượng sẽ thừa hưởng hậu quả từ những hành động tội lỗi của cha mẹ họ.

Mặc dù có nhiều “đốí tượng được gọi là thần” (1 Côr 8: 5), chỉ có một “Đức Chúa Trời là Cha, là Đấng mà nhờ Ngài muôn vật được tạo nên” (8: 6). Thần tượng là những tưởng tượng viển vông của loài người sa ngã trong nỗ lực hình thành khái niệm về Đức Chúa Trời và là dấu hiệu cho sự điên dại của con người (Ê-sai. 40: 18-20; Rô-ma 1: 22-23). Là Cơ đốc nhân, chúng ta có thể không bị cám dỗ để thờ thần tượng, nhưng chúng ta có thể có nguy cơ giới hạn Ngài bởi những suy nghĩ và hành động của mình. Chúng ta cũng có thể gặp nguy hiểm khi để cho mọi người và mọi vật thế chỗ của Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì chiếm vị trí của Đức Chúa Trời trong cuộc sống của một người đều là thờ hình tượng. Lời cảnh báo của Giăng vẫn còn thích hợp cho đến ngày nay: “Hỡi các con yêu dấu, hãy giữ mình khỏi các thần tượng” (1 Giăng 5:21).

HẬU TRUYỀN GIÁO (Post-Evangelicalism)

(POST-EVANGELICALISM: là một phong trào của những người đã từng là tín hữu Tin Lành, nhưng đã xa rời Cơ đốc giáo vì lý do thần học, chính trị hoặc văn hóa.)

Nhà thần học Millard Erickson đã nhận xét rằng giáo lý về Đức Chúa Trời đã bị giám sát chặt chẽ hơn trong những năm gần đây so với hầu như bất kỳ học thuyết nào khác. Nhiều học giả Cơ đốc giáo cho rằng quan điểm truyền thống hoặc “cổ điển” về Đức Chúa Trời không còn phù hợp nữa. Điều này đặc biệt đáng lo ngại khi chúng tôi phát hiện ra rằng một số Cơ đốc nhân này đã hoặc đã có mối liên hệ chặt chẽ với truyền giáo. Cuốn sách của Erickson, The Evangelical Left, thảo luận về những khác biệt này từ quan điểm truyền thống (chính thống) về Chúa. Một bản tóm tắt ngắn gọn được cung cấp ở đây.

Cái gọi là “tiến trình” quan niệm về Chúa dường như đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi một quan điểm sửa đổi về thực tại, như được trình bày bởi vật lý học thế kỷ XX. Vật lý học Newton đã hiểu thực tế là bao gồm các chất và thực thể cố định sở hữu những phẩm chất nhất định, vĩnh viễn. Nhưng vật lý học Einsteinian thế kỷ 20 nói rằng thực tế năng động hơn và tương đối hơn. Áp dụng triết lý cơ bản về sự thay đổi năng động này, tiến trình quan điểm về Đức Chúa Trời cho thấy rằng Ngài thay đổi luôn. Trong khi phương pháp của thần học tiến trình mang tính triết học hơn là dựa trên Kinh Thánh, nhiều người đề xướng nó đã tìm cách liên hệ các chủ đề trong Kinh Thánh với các khái niệm của tiến trình.

Trái ngược với quan điểm truyền thống về Thiên Chúa là hoàn hảo, trọn vẹn và bất biến, thần học tiến trình xem Ngài là “ngẫu nhiên, phụ thuộc, tạm thời, tương đối, và không ngừng thay đổi.” Và nếu Đức Chúa Trời liên tục thay đổi, thì sự mong đợi của Ngài đối với con người cũng vậy.

Theo các nhà thần học tiến trình, Đức Chúa Trời không phải là Đấng ban luật và Thẩm phán thần thánh, người mong đợi mọi người tuân theo các quy tắc của Ngài. Thay vào đó, Ngài quan tâm nhiều hơn đến việc nuôi dưỡng các thái độ đạo đức có thể được áp dụng theo cách khác nhau trong các tình huống khác nhau. “Quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời luôn thay đổi và điều chỉnh các quyết định và hành động của con người mâu thuẫn với nhiều tuyên bố rõ ràng của Kinh Thánh. Mặc dù thực tế là Y-sơ-ra-ên đã phá vỡ giao ước của Đức Chúa Trời và đáng phải chịu cơn thịnh nộ của Ngài, Đức Chúa Trời phán: “Ta là CHÚA không thay đổi. Vì vậy, các ngươi, dòng dõi của Gia-cốp, không bị tiêu diệt “(Ma-la-chi 3: 6). Gia-cơ đã viết rằng Đức Chúa Trời “không thay đổi”(Gia-cơ 1:17).

Hầu hết các nhà thần học Phúc âm đương thời đã tìm cách tách mình khỏi thần học tiến trình. Tuy nhiên, Clark Pinnock lại giữ một cái nhìn được gọi là “cởi mở” về Đức Chúa Trời và xác định vị trí của mình ở đâu đó giữa chủ nghĩa thần học cổ điển và thần học tiến trình. Pinnock nói rằng Chúa không biết trước tất cả các thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngài nhận thức được sự phát triển trên thế giới và phản ứng với chúng, thay đổi suy nghĩ và hành động của Ngài khi cần thiết. Theo Pinnock, “Đức Chúa Trời trải qua thời gian, tìm hiểu sự thật mới khi chúng xảy ra và thay đổi kế hoạch để đáp ứng với những gì con người làm. Pinnock tin rằng Đức Chúa Trời tự nguyện giới hạn bản thân; thích thú trong một vũ trụ mà Ngài không hoàn toàn làm chủ được.” Ông đã lập luận rằng, “Chúa không biết trước mọi lựa chọn trong tương lai hoặc kết quả của mọi quyết định của con người.” Theo Pinnock, “Niềm tin phổ biến vào sự toàn tri toàn diện của Chúa. không phải là một ý tưởng Kinh Thánh như một truyền thống cũ.”

Hầu hết độc giả sẽ ngay lập tức nhận ra rằng quan điểm của Pinnock và những người giữ quan điểm “cởi mở” về Chúa không phù hợp với cách hiểu cổ điển về Chúa như được nêu trong Kinh Thánh. Điều này sẽ được hiển nhiên khi chúng ta xem xét các thuộc tính của Đức Chúa Trời trong chương 7, “Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời”. Các vấn đề chính đối với quan điểm của Pinnock là nó quá đề cao (a) sự bất tử của Đức Chúa Trời với sự siêu việt của Ngài, (b) Sự tương tác của Ngài với sự sáng tạo và sự kiểm soát tối cao của Ngài đối với nó, và (c) sự tự do của con người. Trong khi Pinnock chỉ trích thần học tiến trình, Erickson đã chỉ ra rằng quan điểm cởi mở về Chúa có một số điểm tương đồng với nó.

Khi đánh giá sự khác biệt như vậy với quan điểm chính thống truyền thống về Đức Chúa Trời, sẽ rất hữu ích khi ghi nhớ lời cảnh báo của sứ đồ Giăng, “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ” (1 Giăng 4:1).

NHỮNG HƯỚNG DẪN SAI NGHIÊM TRỌNG

 

Câu chuyện này xảy ra khi tàu lửa còn sử dụng động cơ hơi nước. Một người phụ nữ với một em bé đang đi về phía Tây trên chuyến tàu qua cơn bão tuyết lớn. Động cơ tàu lửa đang hoạt động hết công suất để di chuyển qua lớp tuyết trôi trên đường ray. Trời đã khuya và người phụ nữ không muốn bỏ lỡ việc dừng lại ga nơi chồng cô ở. Vì vậy, cô yêu cầu người người hãm phanh (là một công nhân vận tải đường sắt có công việc ban đầu là hỗ trợ hãm tàu bằng cách hãm từng toa xe) phải cho cô biết khi tàu đến gần điểm dừng của cô.

Tàu chạy chậm lại dường như chuẩn bị dừng, và một người bạn đồng hành nói, “Đây là ga của cô.” Cô nhanh chóng thu dọn đồ đạc của mình và bước xuống tàu trong cơn bão mù mịt. Đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh.

Bốn mươi lăm phút sau, người hãm phanh đến chỗ người phụ nữ đã ngồi. “Người phụ nữ cùng đứa bé đâu?” anh ấy hỏi.

“Cô ấy xuống ở điểm dừng cuối cùng,” một du khách trả lời.

Người hãm phanh kêu lên, “Chúng tôi dừng lại chỉ vì một cái gì đó chặn đường ray. Nơi đó không có mợt nhà ga nào cả!”

Họ kêu gọi các tình nguyện viên xuống tàu và quay lại tìm kiếm người phụ nữ và đứa trẻ. Khi họ tìm thấy cô vài giờ sau đó, không xa nơi họ dừng lại, cô bị bao phủ bởi băng và tuyết. Đứa con nhỏ của cô được bảo vệ dưới lớp áo khoác của cô. Người phụ nữ đã đi theo rất nhiều chỉ dẫn, nhưng chỉ dẫn bị sai sót nghiêm trọng. Những hướng dẫn sai lầm đã dẫn đến cái chết của cô ấy.

Nhiều người thành thật đang đi theo hướng sai trong việc tìm kiếm để biết Đức Chúa Trời. Kinh Thánh dạy rằng chỉ có một con đường đến với Đức Chúa Trời, và đó là qua Chúa Giê-su Christ. Chúa Giê-su phán: “Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14: 6).

 

Chú thích:

Thần học tiến trình (còn được gọi là thần học Tân cổ điển) là một trường phái tư tưởng chịu ảnh hưởng của triết học quá trình siêu hình của Alfred North Whitehead (1861 – 1947). Các khái niệm của thần học tiến trình bao gồm: Đức Chúa Trời không toàn năng theo nghĩa bị ép buộc. Thần thánh có quyền năng thuyết phục hơn là sức mạnh.

 

 

3

DANH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Câu hỏi đầu tiên bạn thường hỏi một người mà bạn gặp lần đầu tiên là gì? Nếu mà bạn cũng giống như hầu hết mọi người, thì đó là bạn muốn biết tên của người đó là gì.

Tên của một người khiến người đó khác biệt với đám đông như một cá thể riêng biệt. Hầu hết mọi người đều thích tên của họ và đánh giá cao việc người khác gọi họ bằng tên. Trong cuốn sách kinh điển của mình, Đắc Nhân Tâm – How to Win Friends and Influence People, Dale Carnegie đã viết rằng tên của một người là “âm thanh ngọt ngào nhất và quan trọng nhất trong bất kỳ ngôn ngữ nào.”1 Nếu tên của ai đó là âm thanh ngọt ngào nhất, thì chúng ta có thể đoán rằng âm thanh tệ nhất là sự phát âm sai tên của người đó! Tôi luôn có thể xác định được ai đó đang gạ tình qua điện thoại. Họ luôn phát âm sai họ của tôi! Thật là thậm tệ nếu bị người mà bạn coi là bạn lại phát âm sai tên của bạn. Có lẽ bạn đã phải rất mắc cỡ khi phát hiện ra rằng bạn đã phát âm sai tên của ai đó mà bạn quen biết trong một thời gian.

Đôi khi chúng ta quên tên một ai đó. Một sinh viên mà tôi đã không gặp trong mười năm đứng trước cửa văn phòng của tôi. Ngay lập tức tôi nhận ra anh ta, nhưng tên của anh ta đã bị khóa trong một “tập tin” không thể truy cập được ở đâu đó trong tâm trí tôi. Cuối cùng tôi đã phải ngăn anh ta lại và nói, “Tôi biết anh là ai, nhưng vì một lý do nào đó, tôi đã quên mất tên của anh. Anh có thể nhắc tôi không?”

Tên không chỉ quan trọng đối với con người; chúng cũng quan trọng đối với Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, tên không chỉ đơn giản là một thẻ nhận dạng. Chúng thường nói lên điều gì đó về tính cách của người đó. Chúng là “sự tiết lộ về con người thật của một người.”2 Những nhân vật trong Kinh Thánh đôi khi được đặt tên hoặc đổi tên dựa trên một đặc điểm tính cách cụ thể. Ví dụ, tên của Chúa Giê-su có nghĩa là “Đức Giê-hô-va, Cứu Chúa.” Khi Giô-sép được cho biết đây là tên của con trai Ma-ri (Ma-thi-ơ 1:21), thiên sứ giải thích, “vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” Tầm quan trọng của tên một người cũng được chứng minh qua việc Người Chăn Hiền Lành “kêu tên chiên mình” (Giăng 10: 3).

 

CUỘC GẶP GỠ TẠI BỤI GAI CHÁY (XUẤT 3: 4-12)

 

Phép lạ về bụi gai cháy xảy ra gần Núi Hô-rếp (Xuất 3:1), tên gọi khác là Núi Si-na-i (19:1-2; Phục 4:10). Môi-se đã ở đó trong sa mạc Si-na-i và đang chăn bầy chiên cho Giê-trô, ông gia mình, ông thấy một điều đáng kinh ngạc. Môi-se đã nhìn thấy một bụi gai đang cháy, nhưng không hề tàn! Khi ông tiến lại gần hơn để xem kỹ hơn hiện tượng bất thường này, thì ông nghe thấy tên mình được gọi lên, “Hỡi Môi-se, Hỡi Môi-se.” Sau đó, ông nghe một tiếng phán ra lệnh cho ông: “Chớ lại gần…Hãy cởi giày ngươi ra, vì chỗ ngươi đương đứng là đất thánh” (Xuất 3:5).

Đấng đang phán đó đã xác nhận chính Ngài trong mối quan hệ với các tổ phụ. “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp” (3:6). Việc đề cập đến Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp sẽ gợi cho Môi-se nhớ lại lời hứa đã được lập với các tổ phụ này — lời hứa về một vùng đất, một dân tộc, và một nguồn phước (Sáng 12:3; 26:2-4; 28:13-15). Môi-se đang đối diện với Đức Chúa Trời, chính Đấng đã lập ra một cam kết vô điều kiện với con cháu của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.

Những sự chịu đựng của dòng dõi Áp-ra-ham đã không trôi qua mà không được biết đến bởi Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Đức Chúa Trời đã nhìn thấy hết những đau khổ của họ và Ngài hứa sẽ “giải cứu họ khỏi tay người Ê-díp-tô, dẫn từ xứ ấy lên đến một xứ kia đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất 3:8). Khi Đức Chúa Trời phán, “Ta ngự xuống” (3:8),3 Ngài xác nhận chính Ngài là một Đức Chúa Trời riêng biệt, Đấng hành động trong lịch sử nhân loại.

Nhưng trong khi Đức Chúa Trời hứa sẽ can thiệp thay cho dân sự Ngài, Ngài không hành động một mình. Ngài cần một người trợ giúp, một người nói thay với tư cách là người đại diện của Ngài. Đức Chúa Trời không cho Môi-se cơ hội tự nguyện hay từ chối. Ngài chỉ đơn giản tuyên bố, “Ta sai ngươi đi đến Pha-ra-ôn, để dắt dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ê-díp-tô” (3:10).

Môi-se có thể đã thiếu tự tin. Mặc dù ông đồng ý với kế hoạch của Đức Chúa Trời, nhưng ông lại không chắc mình là người sẽ thực hiện kế hoạch đó. Ông hỏi “Tôi là ai, dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô?” (3:11). Môi-se đã nghi ngờ về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Để an ủi và bảo đảm với Môi-se, Đức Chúa Trời đã hứa với ông về sự hiện diện cách cá nhân của Ngài, “Ta sẽ ở cùng ngươi” (3:12). Đức Chúa Trời khích lệ và hỗ trợ ông trong nhiệm vụ được giao. Thật đáng được khích lệ khi biết rằng, cũng như với Môi-se, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ giao cho chúng ta một nhiệm vụ mà Ngài không thêm năng lực cho chúng ta để hoàn thành nó!

 

CÂU HỎI VỀ DANH XƯNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (XUẤT 3: 13-15)

 

Môi-se có một thắc mắc. Ông chắc chắn rằng mọi người sẽ hỏi, “Ai đã sai ông đến? Nếu ông được Đức Chúa Trời sai đến như ông nói, hãy cho chúng tôi biết tên của Ngài.” Nhiều vị thần được thờ ở Ai Cập, tất cả họ đều có danh xưng. Môi-se muốn xác thực lời kêu gọi từ Đức Chúa Trời bằng cách đặt tên cho Đấng mà thẩm quyền của ông được đặt nơi Đấng ấy. Vì vậy Môi-se đã hỏi Đức Chúa Trời rằng ông nên nói gì với họ (Xuất 3:13).

Đức Chúa Trời đã ân cần đáp ứng yêu cầu của Môi-se. Trước tiên Ngài tiết lộ ý nghĩa của tên Ngài (3:14) và sau đó là chính tên của Ngài (3:15). “Đức Chúa Trời phán với Môi-se rằng: ‘Ta là ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU’. Đây là điều ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘Đấng Tự Hữu Hằng Hữu sai ta đến cùng các ngươi’” (3:14). Hầu hết các bản Kinh Thánh đều viết hoa thuật ngữ “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU”, để cho thấy rằng có một điều gì đó đặc biệt đang được khẳng định về Đức Chúa Trời, đó là bản thể tuyệt đối của Ngài. Thuật ngữ “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU”, dịch ở dạng ngôi thứ nhất của động từ haya, “to be.” Ý nghĩa là Đức Chúa Trời là Đấng tự hiện hữu. Như Ronald Allen đã nói, “Sự tồn tại của Ngài không phụ thuộc vào bất cứ điều gì hoặc bất cứ ai ngoại trừ ý muốn của Ngài.”4

Thuật ngữ “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU” không chỉ về sự tồn tại thụ động của Đức Chúa Trời mà là sự hiện hữu hoạt động của Ngài. Ngài tích cực tham gia với nhân loại, đáp ứng nhu cầu của họ và tiết lộ thân vị của Ngài. Ngài tồn tại không chỉ vì lợi ích của chính Ngài mà còn vì lợi ích của dân sự Ngài. Sự tham gia tích cực của Đức Chúa Trời được thể hiện rõ ràng trong chính bối cảnh của đoạn văn. “Ta ngự xuống đặng cứu dân nầy khỏi tay người Ê-díp-tô, dẫn họ ra khỏi xứ ấy” (3:8). Khi Đức Chúa Trời phán “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU”, Ngài đang đề cập đến sự hiện hữu có tính hành động và mang đến sự sống. Như Walther Eichrodt đã nhận xét, thuật ngữ “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU” có nghĩa là Đức Chúa Trời “thực sự hiện diện, sẵn sàng giúp đỡ và hành động.”5

Thuật ngữ “ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU” diễn tả ý nghĩa của tên Đức Chúa Trời nhưng chúng không phải là tên của Ngài. Danh xưng của Đức Chúa Trời được tiết lộ trong câu 15. Đức Chúa Trời phán thêm với Môi-se, hướng dẫn ông nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, sai ta đến cùng các ngươi” (3:15). Từ “Giê-hô-va” là từ ở ngôi thứ ba của động từ “to be” trong tiếng Hê-bơ-rơ. Vì vậy, nhiều học giả tin rằng danh xưng này của Đức Chúa Trời nói lên sự hiện hữu của Ngài một cách đúng đắn. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ “Yahweh” được viết với bốn phụ âm yhwh, và do đó có thể được hiểu là Giê-hô-va.
J editing

 

GIÊ-HÔ-VA

 

Đôi khi tên này được rút ngắn thành Yah (Xuất 15: 2; 17:16; Thi 118: 14). Điều này xảy ra nhiều lần trong các Thi thiên gọi là Hallel (Thi thiên 113-118, 146-150), được đánh dấu bằng lời thúc đẩy, Ha-lê-lu-gia. Thuật ngữ hallelujah bao gồm hai yếu tố. Phần thứ nhất là “lời ngợi khen” mang tính bắt buộc tượng trưng bởi hallelu, và phần thứ hai là dạng rút gọn của danh xưng Đức Chúa Trời, Yah. Vì vậy, thuật ngữ hallelujah có nghĩa là “Hãy cất tiếng vui mừng ngợi khen Đức Giê-hô-va.”

Đôi khi danh xưng của Đức Chúa Trời là Giê-hô-va được củng cố bằng cách thêm vào từ “vạn quân,” như trong cụm từ “Đức Giê-hô-va vạn quân” (“Yahweh of host”). Trong khi Bản NASB dịch là “Đức Giê-hô-va vạn quân” (“Lord of host”), thì Bản NIV lại dùng cụm từ “Đức Giê-hô-va Toàn năng.” Sự thay đổi này trong danh xưng của Đức Chúa Trời đôi khi được sử dụng trong các bối cảnh quân sự và hàm ý Ngài là Đấng chỉ huy các đạo binh thiên sứ trên trời (1 Các Vua 18:15; xem thêm Lu-ca 2:13; Khải huyền 19:14) và các đội quân Y-sơ-ra-ên (1 Sa-mu-ên 17:45; xem thêm Giô-suê 5: 13-15). Thuật ngữ này nhấn mạnh quyền năng của Đức Chúa Trời trong sự cai trị của Ngài trên cả trời và đất. Ê-sai đã thấy một khải tượng về Đức Chúa Trời, trong đó các thiên sứ được gọi là các Sê-ra-phim đã kêu lên rằng “Đức Giê-hô-va Toàn năng [nghĩa đen, ‘Đức Giê-hô-va vạn quân’]” thánh thay (Ê-sai 6: 3). Đấng này là “Đức Giê-hô-va của các đạo binh [thiên sứ]” ở cùng với dân sự của Ngài (Thi 46: 7, 11; A-ghê 2: 4).

Đôi khi danh xưng của Đức Chúa Trời là Giê-hô-va được kết hợp với một từ khác để gợi lại tên của một địa điểm hoặc sự kiện.

Giê-hô-va Di-rê (“Đức Giê-hô-va sẽ Sắm sẵn,” Sáng thế ký 22:14)

Giê-hô-va Ra-pha (“Đức Giê-hô-va là Đấng chữa lành,” Xuất 15:26)

Giê-hô-va Ni-si (“Đức Giê-hô-va Cờ xí của tôi,” Xuất 17:15)

Giê-hô-va Sa-lam (“Đức Giê-hô-va Đấng ban sự Bình an,” Các Quan xét 6:24)

Giê-hô-va Sít-Ki-Nu (“Đức Giê-hô-va Đấng công bình của chúng ta,” Giê 23: 6)

Giê-hô-va Sam-ma (“Đức Giê-hô-va ở đó,” Ê-xê-chi-ên 48:35)

 

VIỆC SỬ DỤNG DANH ĐỨC CHÚA TRỜI CÁCH BẤT KÍNH (XUẤT 20:7)

 

Nhiều Cơ đốc nhân không biết rằng danh của Đức Chúa Trời là Giê-hô-va. Điều này có thể xảy ra do sự sốt sắng quan tâm đến việc tránh lạm dụng danh Đức Chúa Trời. Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 7, Điều răn thứ ba nói rằng, “Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giê-hô-va chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi.” Hầu hết mọi người lấy điều răn này để áp dụng cho việc chửi thề và thô tục (có lẽ vì bản KJV và NASB cho rằng “làm chơi” là “dùng … cách vô ích”). Mặc dù đây là những áp dụng thích hợp của điều răn, nhưng nó được áp dụng cách trực tiếp nhất cho việc dùng sai danh xưng riêng của Đức Chúa Trời là Giê-hô-va. Dân sự của Đức Chúa Trời không được sử dụng danh Ngài một cách ngu xuẩn, không mục đích hoặc không xứng đáng.

 

DANH XƯNG TRONG TRUYỀN THỐNG NGƯỜI DO THÁI

 

Sự quan tâm chân thành để tránh phạm thượng và hậu quả nghiêm trọng của việc dùng sai danh xưng Đức Chúa Trời dẫn đến việc sử dụng danh Đức Chúa Trời khá ít. Rõ ràng dân Y-sơ-ra-ên nghĩ: “Tốt hơn là nên tránh dùng danh Đức Chúa Trời còn hơn là vô tình dùng sai danh ấy.” Theo thời gian, người Do Thái đã ngừng sử dụng danh xưng Giê-hô-va. Bất cứ khi nào họ thấy danh xưng này của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, họ thay thế bằng một tên gọi khác là Adonay có nghĩa là “Chúa” hoặc “Chủ”.

Nghi thức trong Ngày Lễ Chuộc Tội là thầy tế lễ thượng phẩm sẽ nói ra danh của Đức Chúa Trời mười lần. Mỗi lần làm như vậy, các thầy tế lễ và toàn thể hội chúng sẽ sấp mình xuống đất và nói: “Chúc tán Danh Ngài, sự vinh quang của vương quốc Ngài hằng đến đời đời không hề thay đổi.”6 Trong thời cổ đại, danh xưng này đã được nói ra rõ ràng. Sau đó, bởi vì một số người cố gắng sử dụng nó cho các mục đích huyền bí, nên danh xưng này chỉ còn là tiếng nói thì thầm, bị lấn át bởi những âm thanh của các nhạc cụ của các thầy tế lễ và lời hát xướng của người Lê-vi. Cuối cùng người Do Thái không dùng đến danh Giê-hô-va nữa.

Phong tục sử dụng tên gọi Adonay (“Chúa”) để thay thế cho danh xưng của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục trong vòng người Do Thái cho đến ngày nay. Nếu bạn có dịp đến thăm một buổi lễ Sa-bát trong một giáo đường Do Thái vào tối thứ Sáu, bạn sẽ nghe thấy từ Adonay được dùng thay cho Yahweh trong Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ. Hầu hết những người Do Thái đều xem việc sử dụng danh xưng Giê-hô-va là điều vô cùng bất kính và vô tín.

 

SỰ LAI GHÉP CỦA DANH XƯNG “GIÊ-HÔ-VA”

 

Nếu tên của Đức Chúa Trời nên được phát âm là “Yahweh”, thì tên “Giê-hô-va” đã ra đời như thế nào? Đây là một câu chuyện thú vị. Cùng với mối quan tâm về việc cải cách Hội thánh vào những năm 1500, người ta lại quan tâm đến việc nghiên cứu Kinh Thánh. Việc không sử dụng danh xưng Yahweh trong truyền thống của người Do Thái đã được khắc phục bằng một nhận thức mới về tầm quan trọng của danh xưng.

Trong bản văn tiếng Hê-bơ-rơ nguyên thủy của Cựu ước, thuật ngữ “Yahweh” chỉ có phụ âm và không có nguyên âm. Điều này cũng đúng với văn học Hê-bơ-rơ hiện đại. Những người quen thuộc với ngôn ngữ Hê-bơ-rơ chỉ cần đọc các phụ âm và thêm các nguyên âm khi phát âm thuật ngữ này. Qua nhiều năm, cách đọc bản văn tiếng Hê-bơ-rơ truyền thống đã được thiết lập. Các thầy thông giáo Do Thái được biết đến là người Masorete đã bảo tồn và lưu truyền một truyền thống theo nguyên văn cố định (masorah). Vào khoảng năm 1000 C.C, họ đã thêm các nguyên âm vào bản văn tiếng Hê-bơ-rơ để duy trì cách đọc được chấp nhận. Khi họ thêm các nguyên âm vào bản văn, thì bốn phụ âm trong Yahweh (yhwh) vẫn được giữ nguyên tức là không thêm nguyên âm, nhưng các nguyên âm của Adonay được thêm vào như một lời nhắc nhở trong việc sử dụng từ “Chúa” thay vì “Yahweh”.

Điều xảy ra tiếp theo là điều mà vẫn thường xuyên xảy ra trong thế giới đầy những trái cây, bông hoa và động vật. Người ta đã lai hai loài lại với nhau và tạo ra một con lai. Vào khoảng thế kỷ thứ sáu, các học giả bắt đầu trộn các phụ âm của Yahweh với các nguyên âm của Adonay và đưa ra một tên ghép “Giê-hô-va.” Tên này đã được giới thiệu với công chúng thông qua các bản dịch và được phổ biến thông qua một số ấn bản của Bản King James và các bài thánh ca Cơ đốc. Nhưng “Giê-hô-va” là một danh xưng ghép và không phải là cách phát âm ban đầu của một danh xưng thần thượng.

 

MỐI QUAN HỆ CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VỚI CHÚA GIÊ-SU

 

Trước khi Chúa Giê-su sinh ra, một thiên sứ đã hiện ra với Giô-sép trong giấc chiêm bao và phán rằng Ma-ri đã được chịu thai bởi Đức Thánh Linh và sẽ sinh một con trai. Sau đó, thiên sứ hướng dẫn Giô-sép đặt tên cho con trai. “Ngươi khá đặt tên là Giê-su, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội” (Mat 1:21). Tên “Giê-su” là tiếng Hy Lạp và là yesua trong tiếng Hê-bơ-rơ. Tên “yesua” là một tên ghép được ghép từ chữ viết tắt của danh xưng Đức Chúa Trời Yahweh và động từ “cứu rỗi” trong tiếng Hê-bơ-rơ. Vì vậy, tên của Chúa Giê-su theo nghĩa đen có nghĩa là “Đức Giê-hô-va cứu rỗi” và được giải thích bằng mệnh đề, “Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” Trong thân vị của Chúa Giê-su, chúng ta có một minh chứng cuối cùng về những gì Đức Chúa Trời đã hứa với Môi-se trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3: 8, “Ta ngự xuống đặng cứu dân nầy.” Qua Chúa Giê-su, công việc cứu rỗi và giải cứu của Đức Giê-hô-va được thực hiện đầy đủ.

Nhiều lần trong chức vụ trên đất, Chúa Giê-su đã bị những người nghe thách thức. Một trong những cuộc đối đầu kịch tính nhất đó là khi kẻ thù của Ngài cáo buộc Ngài bị quỷ ám (Giăng 8:52). Câu hỏi trong tâm trí những người tố cáo Ngài là, “Chúa Giê-su là ai?” Họ yêu cầu Ngài bày tỏ về chính Ngài. Chúa Giê-su đã trả lời câu hỏi của họ bằng cách nói Ngài là niềm hy vọng của Áp-ra-ham. “Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của ta; người đã thấy rồi, và mừng rỡ” (8:56). Từ lời phán này, người Do Thái cho rằng Đấng Christ hẳn đã nhìn thấy Áp-ra-ham, nhưng đối với họ, điều này là không thể. Chúa Giê-su đã củng cố lời của Ngài bằng một tuyên bố kỳ diệu, “Trước khi chưa có Áp-ra-ham, TA HẰNG HỮU” (8:58). Điều này rõ ràng đề cập đến lời tuyên bố của Đức Giê-hô-va trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14, “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU.”

Nhận xét về những lời của Chúa Giê-su, “TA HẰNG HỮU,” Leon Morris viết, “Đó là phong cách của thần thánh, và nó chỉ ra sự đời đời của Đức Chúa Trời theo sự hiểu biết chặt chẽ nhất về bản chất tiếp diễn của hiện tại [theo thì của tiếng Hy Lạp] eimi. Ngài liên tục HIỆN HỮU.”7 Người nghe Do Thái nhận ra rằng Chúa Giê-su đang xác nhận chính Ngài bằng chính những từ ngữ mà Đức Chúa Trời đã dùng để mô tả về Ngài trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14. Việc sử dụng chính lời phán của Đức Chúa Trời là sự phạm thượng, họ đã lấy đá đặng ném Ngài cho tới chết vì đã dùng danh xưng thần thượng cho chính Ngài.

Tuy nhiên, những lời của Ngài là một lời khẳng định rõ ràng về sự hằng hữu và thần tánh của Ngài. Khi Tân Ước trích dẫn các câu Kinh Thánh trong Cựu Ước có từ Yahweh theo tiếng Hê-bơ-rơ, thì Tân Ước sử dụng thuật ngữ kyrios (“Chúa”) theo tiếng Hy Lạp. Điều này đã xác nhận thần tánh của Chúa Giê-su. Vì Kyrios đồng nhất với Yahweh.8

Danh xưng kỳ diệu Giê-hô-va nhắc nhở chúng ta rằng Đức Chúa Trời hiện hữu, và Ngài là Đấng tự hữu, Đấng luôn sẵn sàng dang tay ra và giúp đỡ dân sự của Ngài.

 

4

Các Tên Gọi Của Đức Chúa Trời

 

MẶC DÙ TÔI TÊN là Carl Laney, nhưng đôi khi tôi được gọi theo nhiều cách khác nhau. Bởi vì khi tôi lấy bằng tiến sĩ tại chủng viện Dallas, thì một số sinh viên gọi tôi là “Tiến sĩ”, một thuật ngữ bắt nguồn từ gốc tiếng La-tinh có nghĩa là “thầy”. Bởi vì tôi được thụ phong chức vụ vào năm 1975, thì một số người đã gọi tôi là “Đức cha.” Đây là danh xưng mà tôi không mấy ưa thích bởi vì Đức Chúa Trời mới là Đấng duy nhất thực sự đáng để chúng ta tôn kính. Bởi vì tôi là giáo sư của một chủng viện, nên một số sinh viên đã gọi tôi là “Giáo sư.” Khi tôi còn đang giảng dạy ở Phi-líp-pin tại Chủng viện Thần học Á Châu, các sinh viên Phi-líp-pin đã gọi tôi là “Ngài.” Khi tôi làm mục sư cho Hội thánh Báp-tít Đức tin ở Trung Quốc, thì những người ở đó trìu mến gọi tôi là Mục sư. Các con tôi gọi tôi là Bố, và vợ tôi gọi tôi là Anh yêu.

Có rất nhiều danh hiệu mà tôi đã được gọi. Nhưng tôi thì chỉ có một cái tên—Carl thôi. Tương tự như vậy, trong khi Đức Chúa Trời chỉ có một danh xưng là Giê-hô-va, nhiều danh hiệu của vị thần được tìm thấy trong Kinh Thánh. Như những danh hiệu mà tôi được gọi nói lên điều gì đó về tôi, vì vậy những danh xưng được dùng cho Đức Chúa Trời sẽ cho chúng ta biết điều gì đó về Ngài. Chương này tập chú vào ý nghĩa và tầm quan trọng của các danh xưng trong Kinh Thánh về các vị thần. Nghiên cứu này sẽ cho phép chúng ta biết về Đức Chúa Trời nhiều hơn khi chúng ta quen thuộc với nhiều cách khác nhau mà Ngài được nhận dạng.

 

CÁC DANH XƯNG TRONG CỰU ƯỚC

Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là Chiến sĩ (Xuất Ê-díp-tô ký 15:3), Hòn đá (Thi 18:2), Đấng cứu chuộc (19:14), Vua (10:16), Đấng chăn giữ (23:1), và Người chồng. (Ô-sê 2:16). Những thuật ngữ có chất thơ này truyền đạt những hình ảnh mạnh mẽ mà chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau. Nhưng ở đây chúng tôi tập chú vào các danh xưng rất phổ biến trong Cựu Ước về thần.

 

Ê-lô-him

Ê-lô-him là một dạng số nhiều được sử dụng hơn hai ngàn năm trăm lần trong Kinh Thánh tiếng Do Thái. Nó là một thuật ngữ chung để chỉ Đức Chúa Trời và cũng có thể được sử dụng để áp dụng cho các vị thần giả mạo cũng như cho các quan xét và các vua. Ê-lô-him thường được dịch là “Đức Chúa Trời” trong các bản dịch tiếng Anh.

Ê-lô-him thường được sử dụng với một cụm từ mô tả như một danh hiệu nào đó mà dân sự Đức Chúa Trời có thể nhận biết Ngài. Ví dụ, Ngài được gọi là “Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo ra biển và đất” (Giô-na 1:9). Sự mô tả này nhắc nhớ chú ý đến công việc của Ngài với tư cách là Đấng Tạo Hóa. Thành ngữ “Đức Chúa Trời của cả đất” (Ê-sai 54:5) nhấn mạnh quyền tể trị của Ngài. Những từ “Đức Chúa Trời đoán xét trái đất” (Thi thiên 58:11) nhắc nhở chúng ta về sự công bằng của Ngài và trách nhiệm của chúng ta trước mặt Ngài.

Một số cụm từ mô tả tập trung vào một thuộc tính cụ thể của Đức Chúa Trời, như các cụm từ “Đức Chúa Trời đời đời” (Ê-sai 40:28), “Đức Chúa Trời hằng sống” (Giê-rê-mi 10:10), hoặc “Đức Chúa Trời thánh khiết” (1 Sa-mu-ên 6:20). Cụm từ “Đức Chúa Trời của… Áp-ra-ham” (Sáng thế ký 26:24) gợi nhớ đến lời hứa của Ngài với Áp-ra-ham (12:1-3) và sự thành tín của Ngài đối với ông. Thông thường điều này được đề cao, như trong thành ngữ “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp” (Xuất Ê-díp-tô ký 3:6). Công việc của Ngài với tư cách là Đấng Cứu chuộc được nhấn mạnh trong cụm từ “Đức Chúa Trời là Đấng Cứu rỗi tôi” (Thi thiên 18:46). Công việc của ông với tư cách là Người bảo vệ được thấy trong thành ngữ “Đức Chúa Trời của đạo binh Y-sơ-ra-ên” (1 Sa-mu-ên 17:45).

Một số cách diễn đạt được sử dụng với Ê-lô-him để mô tả hành động của Đức Chúa Trời đại diện cho dân sự Ngài. Ngài là ” Ðấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, tức khỏi nhà nô lệ” (Phục truyền Luật lệ ký 8:14). Một số nhấn mạnh sự gần gũi của Đức Chúa Trời với dân Ngài, như trong lời nói. “Đức Chúa Trời của ngươi, Đấng mà ngươi tin cậy” (2 Các vua 19:10, NASB), hoặc “Đức Chúa Trời yêu thương của tôi” (Thi thiên 59:17).

Từ Ê-lô-him là số nhiều. Điều này thường được mô tả là “sự cứu rỗi vĩ đại của đấng cứu thế của ngài.” Điều này hao hao giống như “số nhiều biên tập”, trong đó tác giả sử dụng đại từ “chúng tôi” khi nói về chính mình. Việc các tác giả tiếng Hê-bơ-rơ không coi Ê-lô-him là số nhiều thực sự là do họ thường xuyên sử dụng thuật ngữ này với các dạng động từ số ít, các tính từ và đại từ.

William F. Albright đã chỉ ra rằng trong thế giới Ca-na-an ngày càng có xu hướng sử dụng hình thức số nhiều với các vị thần Ca-na-an, như trong tiêu đề Ách-ta-rốt đã sử dụng cho Át-tạt-tê.1 Đây là một nỗ lực nhằm nhấn mạnh đến “tính toàn bộ của các biểu hiện của một vị thần hoặc để tôn vinh một trong những vị thần” bằng cách gọi vị thần đó là “tổng thể của các vị thần.” Mặc dù bối cảnh văn hóa này có thể làm sáng tỏ việc sử dụng số nhiều, nhưng một lý do hợp lý hơn được tìm thấy trong chính Kinh Thánh. Từ Ê-lô-him có thể nói về sự hợp nhất của một Đức Chúa Trời uy nghiêm duy nhất và cũng cho phép có nhiều ngôi vị thần linh trong Ba Ngôi Thiên Chúa (Ê-sai 48:16; Ma-thi-ơ 28:19). Mặc dù chúng ta nhận ra rằng “sự cứu rỗi vĩ đại của đấng cứu thế của ngài” thừa nhận Chúa Ba Ngôi thay vì nêu rõ học thuyết này một cách rõ ràng, việc sử dụng nó trong Cựu Ước cho thấy sự tồn tại của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

 

Eo

Thuật ngữ Eo về cơ bản có nghĩa giống như Ê-lô-him. Từ này có thể là gốc của từ Ê-lô-him được tạo thành từ số nhiều. Eo có thể được sử dụng như một danh xưng chung cho bất kỳ vị thần nào bao gồm cả Đức Chúa Trời chân thật của Y-sơ-ra-ên. Nó được khám phá từ trong các văn bản chữ hình nêm cổ đại được tìm thấy tại Ugarit, thuộc Sy-ri ngày nay, đã chỉ ra rằng thuật ngữ này là cái tên trong tiếng Semitic rất cổ chỉ về thần. Trên thực tế, vị thần tối cao của dân Ca-na-an được đặt tên là Eo.

Các học giả đã quan sát thấy trong Kinh Thánh có xu hướng là danh xưng Eo đi kèm với các văn bản. Nó hiếm khi được sử dụng trong Kinh Thánh mà không có một số từ để mô tả đề cao và phân biệt Đức Chúa Trời chân thật với các giả thần khác mang tên eo (“thần”), và vì vậy Eo được dùng để biểu thị sự vĩ đại và siêu việt thực sự của Đức Chúa Trời so với tất cả các vị thần khác. Theo nghĩa đen thì dịch, Ngài “là Eo vĩ đại “(Giê-rê-mi 32:18),2Eo của các eo” (Đa-ni-ên11:36), “Eo của các từng trời “(Thiên thiên 136:26) và “Eo chí cao” (Sáng thế ký 14:18-19).

Thuật ngữ Eo thường đi kèm với các bản văn mô tả Ngài là Đấng Cứu Thế của Y-sơ-ra-ên. Một lần nữa, các bản dịch theo nghĩa đen chỉ Ngài là “Eo thành tín” (Phục truyền Luật lệ ký 7:9), “Eo thánh khiết” (Ê-sai 5:16). “Eo toàn năng” (Sáng 17:1), “Eo vạn quân” (Ê-sai 9:6), và “Eo hằng hữu” (Sáng 21:33). Một số bản văn khá mang tính cá nhân, chẳng hạn như “Eo là đấng ban sức mạnh cho tôi” (Thi thiên 18:32), “Eo hòn đá của tôi” (42:9), và “Eo là sự cứu rỗi của tôi” (Ê-sai 12:2, NASB).

Trong một số câu kinh thánh, ‘Eo được sử dụng kết hợp với tính từ Ê-ly-ôn trong tiếng Do Thái, có nghĩa là “cao”. Khi được sử dụng cho Chúa, thuật ngữ này có hàm ý so sánh nhất, “cao nhất.” Và vì thế trong Sáng thế ký 14:19 Mên-chi-xê-đéc đã công nhận Ngài là “Đức Chúa Trời Chí Cao” [Eo ê-ly-ôn], Đấng tạo dựng trời và đất”. Người viết Thi thiên vô thần nhớ lại cách Eo ê-ly-ôn là “Hòn đá” và “Đấng Cứu chuộc” của dân sự Ngài (Thi thiên 78:35).

Sự kết hợp Eo Sa-đai là một danh xưng quen thuộc dành cho Đức Chúa Trời. Nguồn gốc của Sa-đai đang được tranh luận. Một số đã liên kết nó với một từ có nghĩa là “dẫy núi”, theo cách đó gọi là “Chúa của những ngọn núi.” Những người khác cho rằng nó xuất phát từ một từ trong tiếng Akkadian, có nghĩa là “ngực”, do đó gợi ý rằng Đức Chúa Trời nuôi dưỡng dân sự của Ngài. Trong Cựu Ước, danh xưng này nhấn mạnh đến sức mạnh và quyền năng của Đức Chúa Trời (ví dụ, xem Sáng thế ký 17:1; 28:3; 35:11; 43:14; 48:3; 49:25). Eo Sa-đai toàn năng có thể và sẽ đại diện cho chính Ngài để đáp ứng nhu cầu của họ và thực hiện lời hứa của Ngài.

 

Ê-lô-a

Chữ Ê-lô-a được sử dụng khoảng sáu mươi lần trong Cựu Ước để chỉ về Đức Chúa Trời. Nguồn gốc chính xác của Ê-lô-a thì không chắc chắn, mặc dù rõ ràng nó có liên quan đến các thuật ngữ EoÊ-lô-him. Việc sử dụng nó thường xuyên trong sách Gióp (bốn mươi mốt lần) đã khiến một số học giả cho rằng nó có thể là một thuật ngữ cổ xưa dành cho Đức Chúa Trời.

Ê-lô-a được sử dụng ba lần song song với từ “hòn đá” như một thuật ngữ mô tả Đức Chúa Trời (Phục truyền Luật lệ ký 32:15; Thi thiên 18:31; Ê-sai 44:8). Nó được dùng trong Châm ngôn 30:5 để mô tả Đức Chúa Trời như một cái thuẫn cho những ai nương náu nơi Ngài. Việc sử dụng nó trong Đa-ni-ên 11:37-39 cho thấy rằng danh xưng này truyền đạt các khái niệm về sức mạnh và quyền năng. Tất cả những điều này cho thấy rằng Ê-lô-a rất mạnh mẽ và có thể an ủi và đảm bảo cho dân sự của Ngài trong những thời điểm cần thiết.

 

A-đô-nai

Từ a-đô-nai có nguồn gốc từ một từ Ugaritic cổ (adn) có nghĩa là “chúa” hoặc “cha”. Thuật ngữ a-đôn thường dùng để chỉ người đàn ông. Sa-ra đã sử dụng nó để nói đến chồng của mình là Áp-ra-ham (Sáng 18:12). Pha-ra-ôn của Ai Cập được gọi bằng tước hiệu này (Sáng thế ký 40:1), và An-ne đã gọi Ê-li là thầy tế lễ, a-đôn (1 Sa-mu-ên 1:15). Trong những câu này, thuật ngữ này được sử dụng như một danh hiệu cao quí và tôn trọng, như là từ “chủ”. Cũng trong nhiều đoạn văn, thuật ngữ này đề cập đến Đức Chúa Trời. Trong Xuất Ê-díp-tô ký 34:23 Đức Chúa Trời gọi chính Ngài là “Chúa [ha a-đôn], là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.” Phục truyền luật lệ ký 10:17 đã sử dụng cấu trúc so sánh nhất, “Chúa của các chúa” (a-đô-nai ha a-đô-nim). Đấng Mê-si có danh hiệu là a-đôn trong Thi thiên 110:1.

Trong khoảng ba trăm đoạn văn, a-đôn xuất hiện ở dạng số nhiều đặc biệt với hậu tố số ít ở ngôi thứ nhất là (a-đô-nai). Hình thức này đã được tìm thấy trong Thi thiên, Ca thương và Các Tiên tri, thuật ngữ này luôn đề cập đến Đức Chúa Trời. Hình thức số nhiều A-đô-nai là dạng số nhiều của sự uy nghiêm, mà chúng ta cũng quan sát thấy có trong danh xưng Ê-lô-him (“Đức Chúa Trời”). Nó làm nổi bật sự vĩ đại của Đức Chúa Trời được thể hiện qua nhiều thuộc tính của Ngài và cho phép sự phát triển sau này của học thuyết về Chúa Ba Ngôi.

 

Thời Kỳ Cổ Đại

Danh xưng “Thời kỳ cổ đại” xuất hiện ba lần trong phần tiếng A-ram của Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 7:9, 13, 22). Cụm từ này, cùng với các mô tả thời đại quan trọng trong bối cảnh, để truyền đạt ấn tượng về “sự tôn kính cao quý.”3 Danh xưng này gợi chú ý đến tính đời đời của Đức Chúa Trời, Đấng phán rằng, “Ta là đầu tiên và cuối cùng; ngoài ta không có Ðức Chúa Trời nào khác.”(Ê-sai 44:6, NASB).

 

NHỮNG DANH XƯNG TÂN ƯỚC

Có rất nhiều danh xưng được sử dụng cho Chúa Giê-su trong Tân Ước. I Giăng ghi lại tám danh xưng: Lời, Chiên Con của Đức Chúa Trời, Con của Đức Chúa Trời, Thầy, Đấng Mê-si, Chúa Giê-su người Na-xa-rét, Vua của Y-sơ-ra-ên và Con Người. Những danh hiệu này rất quan trọng và được thảo luận thích đáng trong Cơ Đốc học. 4 Ở đây chúng tôi tập trung vào những danh xưng phổ biến hơn về Đức Chúa Trời trong Tân Ước.

 

Thê-ô

Từ Hy Lạp thê-ô là danh xưng phổ biến nhất cho vị thần trong Tân Ước. Thê-ô được sử dụng trong bản Bảy Mươi để phiên dịch các từ Ê-lô-himEo. Đôi khi nó đề cập đến các giả thần (1 Cô-rinh-tô 8:5; Ga-la-ti 4:8), nhưng thường xuyên nhất nó đề cập đến là Đức Chúa Trời chân thật. Một số câu sử dụng thê-ô của Đấng Christ (Giăng 1:1; Rô-ma 9,5; Tít 2:13;2 Phi-e-rơ 1:1; I Giăng 5:20).

Đôi khi thê-ô được kết hợp với các từ khác để mô tả các thuộc tính của Đức Chúa Trời. Ngài là “Đức Chúa Trời của sự vinh hiển” (Công vụ 7:2), “Đức Chúa Trời của mọi sự yên ủi” (2 Cô-rinh-tô 1:3), “Đức Chúa Trời của tình yêu thương và sự bình an” (13:11). “Đức Chúa Trời của sự hy vọng” (Rô-ma 15:13), “Đức Chúa Trời của sự bình an” (15:33; Phi-líp 4:9), và “Đức Chúa Trời của mọi ân điển” (1 Phi-e-rơ 5:10). Những cụm từ này không chỉ mô tả Đức Chúa Trời, chúng còn chỉ ra rằng Ngài là nguồn của mọi phước lành này. Ngoài ra, Ngài là “Đức Chúa Trời ban sự nhịn nhục và yên ủi (Rô-ma 15:5).

 

Ky-ri-ô

Thuật ngữ ky-ri-ô có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là ky-rô, “quyền lực hoặc sức mạnh” Trong Tân Ước, ky-ri-ô được sử dụng như một danh hiệu của phép lịch sự, như từ “chúa” “chủ nhân” “ngài” Thuật ngữ này xuất hiện hơn chín ngàn lần trong bản Bảy Mươi. Trong phần lớn các trường hợp này thì ky-ri-ô dịch là Giê-hô-va, tên riêng của Đức Chúa Trời. Vào thế kỷ đầu tiên, một số hoàng đế La Mã nhận thấy danh hiệu này hấp dẫn. Hoàng đế Nê-rô (54-68. SC) được mô tả trong một dòng chữ là “ky-ri-ô của cả thế giới.”

Nhiều lần xuất hiện trong Tân Ước, ky-ri-ô đôi khi nói theo nghĩa chung về một người có cấp bậc hoặc quyền hành, chẳng hạn như là chủ (Ê-phê-sô 6:5) hoặc chúa (1 Phi-e-rơ 3:6), hoặc được dùng như một hình thức lịch sự khi xưng hô (Giăng 12:21). Tuy nhiên, hầu hết các lần xuất hiện đều đề cập đến Đức Chúa Trời. Ngài là Chúa, là Chủ, là Người có thẩm quyền tối thượng. “Thuật ngữ ky-ri-ô để chỉ Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng, là Chúa, Đấng sở hữu, Đấng thống trị có quyền lực và thẩm quyền hợp pháp.”5

Trong một số trích dẫn từ Cựu Ước, các trước giả Tân Ước đã thay thế ky-ri-ô cho Giê-hô-va để phù hợp với phong tục của người Do Thái là tránh sử dụng tên riêng của Đức Chúa Trời (ví dụ, trích dẫn Rô-ma 4:8, trích dẫn Thi thiên 32:2; Rô-ma 10:16, trích dẫn Ê-sai 53:1).

Trong suốt Tân Ước, Chúa Giê-su được công nhận là ky-ri-ô. Trong bài giảng đầu tiên của Phi-e-rơ, ông thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đã tôn Chúa Giê-su Christ là “Chúa” (Công vụ 2:36). Với Cọt-nây, Phi-e-rơ đã tuyên bố rằng Đức Chúa Giê-su Christ “là Chúa của loài người” (10:36). Gia-cơ dùng ky-ri-ô để chỉ Chúa Giê-su, người anh em cùng cha khác mẹ của mình (Gia-cơ 1:1). Giu-đe đã viết về Chúa Giê-su Christ là “Chúa” của chúng ta (Giu-đe 4). Phao-lô thường xuyên sử dụng ky-ri-ô của Chúa Giê-su (ví dụ, Rô-ma 10:9; 14:9; 1 Cô-rinh-tô 1:3; 7:25).

 

Father

Thuật ngữ pater, “cha” biểu hiện cho một người là “người nuôi dưỡng, người bảo vệ, hoặc người nâng đỡ.” Trong khi thuật ngữ này thường được sử dụng theo nghĩa thông thường trong Tân Ước, pater cũng được dùng để chỉ Đức Chúa Trời theo nghĩa chung là Đấng Tạo hóa và Khởi nguyên của mọi vật (1 Cô-rinh-tô 8:6; Ê-phê-sô 3:14-15; Hê-bơ-rơ 12: 9). Thuật ngữ này cũng được sử dụng cho các tín hữu có mối quan hệ đặc biệt với Đức Chúa Trời như những đứa con thiêng liêng của Ngài. Bằng đức tin, chúng ta bước vào mối quan hệ này và trở thành “con cái của Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12). Trên cơ sở mối quan hệ thiêng liêng này, các tín hữu có thể tiếp cận với “Cha” (Ê-phê-sô 2:18). Chúa Giê-su khuyến khích các môn đồ của Ngài bắt chước “Cha ở trên trời” (Mat 5:45), “Cha trên trời” của họ (5:48). Phao-lô mô tả Đức Chúa Trời là “Cha hay thương xót” (2 Cô-rinh-tô 1:3), và trước giả viết Hê-bơ-rơ đề cập đến vấn đề kỷ luật của Đức Chúa Cha (Hê-bơ-rơ 12:9-10).

Chúa Giê-su đã sử dụng thuật ngữ “Cha” để diễn tả mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Đức Chúa Trời ở trong Ba Ngôi. Ngài đã được Đức Chúa Cha sai đến (Giăng 6:37). Ngài đã làm các công việc của Đức Chúa Cha (5:19). Ngài gọi Đức Chúa Trời là Cha của chính Ngài, do đó kẻ thù của Ngài nghĩ rằng Ngài “tự cho mình bằng với Đức Chúa Trời” (5:18). Phúc âm Giăng nhấn mạnh mối quan hệ Cha-Con giữa Chúa Giê-su và Đức Chúa Trời là Cha, khi đề cập đến điều này khoảng tám mươi lần.

Mặc dù Đức Chúa Trời là Cha của các tín hữu. Nhưng Ngài không phải là Cha của họ giống như cách Ngài là Cha của Chúa Giê-su. Bất cứ khi nào Chúa Giê-su nói về mối quan hệ của Ngài với Đức Chúa Trời là Cha thì Ngài luôn sử dụng số ít “Cha tôi” (Ma-thi-ơ 11:27; 25:34; Giăng 20:17; Khải huyền 2:27). Mối quan hệ của Ngài với Đức Chúa Cha đã tồn tại vĩnh viễn trong Ba Ngôi Thiên Chúa, trong khi mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời là bởi ân điển và thông qua sự tái sanh.

 

Cha

Abba là một thuật ngữ tiếng A-ram để chỉ về “cha”; nó được dùng ba lần trong Tân Ước để nói đến Đức Chúa Trời (Mác 14:36; Rô-ma 8:15; Ga-la-ti 4:6). Trong những câu này, thì thuật ngữ này được dịchtừ bản dịch là, ho pater (“Đức Chúa Cha”) để làm rõ rằng Đức Chúa Trời là có ý nghĩa. Abba có chức năng như một lời cầu xin Đức Chúa Trời và thể hiện mối quan hệ cá nhân mật thiết của người nói chuyện với Đức Chúa Trời.

Abba trong tiếng A-ram bắt nguồn từ điều có thể được gọi là “trò chuyện với trẻ em”. Theo kinh Talmud của người Do Thái, khi một đứa trẻ cai sữa, “nó sẽ học cách nói abba [cha) và imma (mẹ)” (Berakoth 40a; Sanhedrin 70b). Theo thời gian, ý nghĩa của từ này đã được mở rộng để nó không còn là một dạng xưng hô cho trẻ nhỏ nữa mà cũng được dùng cho cả con trai và con gái người trưởng thành. Tính chất trẻ con của từ này đã giảm dần và từ abba chiếm được sự thân thiện, quen thuộc mà chúng ta có thể cảm thấy trong cách diễn đạt như “cha yêu kính”.

Không nơi nào trong Cựu Ước chúng ta tìm thấy được thuật ngữ abba được sử dụng để xưng hô với Đức Chúa Trời. Những người Do Thái sùng đạo cảm thấy có khoảng cách quá lớn giữa họ và Đức Chúa Trời nên sử dụng một cách diễn đạt quen thuộc như vậy. Giáo đường Do Thái giáo có một ví dụ thú vị về từ abba được sử dụng liên quan đến Đức Chúa Trời. Kinh Talmud ghi lại, “Khi thế giới cần mưa, các giáo viên của chúng tôi thường dẫn học sinh đến Giáo sư Hanan ha Nehba (thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên), và họ sẽ nắm lấy vạt áo choàng của ông ấy và gọi rằng: ‘Cha yêu ơi! (abba), cha yêu ơi! [abba], hãy ban mưa cho chúng con.’ Ông nói trước mặt Đức Chúa Trời: “Đấng chủ tể của thế gian này, hãy làm điều đó vì lợi ích của những người không thể phân biệt giữa abba có thể ban cho mưa và một abba không thể ban cho mưa” (Taanith 23b). , “Quyền tể trị thế giới này”, chứ không phải là thuật ngữ abba, trong việc xưng hô với Đức Chúa Trời.

Chúa Giê-su đã sử dụng từ abba khi xưng hô với Đức Chúa Trời là Cha trong lời cầu nguyện của Ngài tại Vườn Ghết-sê-ma-nê. “Abba, thưa Cha,” Ngài nói, “mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn.” (Mác 14:36). Khi sử dụng cách diễn đạt này, Chúa Giê-su đã nói như một người con nói chuyện với cha của mình. Điều này phản ánh điều gì đó rất gần gũi và tin cậy đặc trưng cho mối quan hệ của Ngài với Đức Chúa Trời.

Khi Đức Thánh Linh làm chứng rằng các tín hữu là con cái của Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:16), họ được đề nghị hãy kêu “Abba, Cha ơi” (8:15; Ga-la-ti 4:6). Các tín hữu có thể xưng hô với Đức Chúa Trời theo cách này vì mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời thông qua đức tin. Thật là một sự khích lệ khi biết rằng chúng ta có thể cầu nguyện với Cha cùng một cảm giác ấm áp và thân mật trong mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời mà Chúa Giê-su đã vui thích.

Các con tôi biết cách đề nghị sự giúp đỡ theo cách mà chúng nhận được phản ứng tích cực. Chúng biết rằng đòi hỏi và cằn nhằn không có tác dụng. Chúng đã học biết rằng cách tôi phản ứng tốt nhất là nói dịu dàng, đáng yêu và tôn trọng. Con gái tôi có thể nói, “Bố yêu quý, có một chiếc váy tuyệt vời đang được bán ở Nordstrom’s. Bố có thể chia sẻ chi phí với con không? “Làm sao tôi có thể nói được điều gì ngoài lời đồng ý với kiểu đề nghị đó? Chúa đã tạo ra những người cha vì mục đích này và chúng tôi có niềm vui khi hoàn thành chức phận của mình!

Khi tôi vui mừng vì sự đáp ứng của các con tôi và đáp ứng nhu cầu của chúng, vậy nên Đức Chúa Trời là Cha rất sẵn lòng đáp ứng những ai gọi Ngài là Abba, “Thưa Cha!” Ngài có cả nguồn cung ứng và giải pháp để đáp ứng những lời cầu nguyện của chúng ta và đáp ứng nhu cầu của chúng ta.

Đây chỉ là một số trong nhiều cách mà Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su Christ và Đức Thánh Linh được nhắc đến trong Kinh Thánh. Mary Loeks liệt kê một trăm năm mươi lăm tên và danh xưng của Đức Chúa Trời!7    

 

 

 

 

 

 

 

5

Đức Chúa Trời Tự Khải Thị Chính Ngài

TRONG NHỮNG NGÀY TÔI CÒN LÀ SINH VIÊN tại trường Đại Học Oregon, tôi thực sự quan tâm đến những nữ sinh ở đây, tự hỏi liệu Chúa có sắm sẵn cho một người để làm vợ tôi không. Tại một cuộc hội nghị College Life (Đời Sống Sinh Viên Đại Học), được tài trợ bởi Campus Crusade for Christ (Chinh Phục Sinh Viên cho Đấng Christ), một người bạn Cơ đốc đã giới thiệu tôi với em gái của cô ấy, Nancy. Tôi thích Nancy ngay từ đầu. Cô ấy có một sự nhiệt tình và tự nhiên khiến thu hút tôi. Tôi nhớ một trong những buổi hẹn hò đầu tiên của chúng tôi. Khi tôi đưa cô ấy về nhà khoảng 11:30 tối, tôi đột nhiên có một nguồn cảm hứng. Thay vì về nhà, tôi có ý muốn đi leo lên Spencer Butte, Nancy trở thành mục tiêu!

Nửa giờ sau, chúng tôi khởi hành trong bóng tối trên một con đường mòn quanh co dẫn đến đỉnh của mô đất phía nam Eugene. Cuối cùng chúng tôi cũng đã lên đến đỉnh, từ nơi này chúng tôi nhìn chung quanh một khung cảnh tuyệt đẹp, ánh đèn thành phố và bầu trời đêm đầy sao. Sau trải nghiệm đó, tôi cứ thêm lên sự khao khát muốn biết nhiều hơn về cô gái này.

Vì vậy, tôi bắt đầu hỏi Nancy về bản thân cô ấy. Tôi hỏi cô ấy về sở thích, ước muốn, và giấc mơ của cô ấy. Tôi hỏi về đời sống tinh thần của cô ấy. Tôi hỏi về gia đình cô ấy, bố mẹ cô ấy, xuất thân của cô ấy. Tôi chăm chú lắng nghe từng lời cô ấy nói. Càng tìm hiểu về người đẹp có đôi mắt đen này, tôi càng thích cô ấy. Theo thời gian, cái “thích” của tôi đã trở thành “tình yêu”. Mối quan hệ của chúng tôi ngày càng mặn nồng cho đến vài năm sau, tôi đã ngỏ lời cầu hôn cô ấy.

Mặc dù chúng tôi đã kết hôn hơn 25 năm, tôi vẫn phải tìm hiểu thêm về Nancy. Và một trong những cách tốt nhất để tôi biết cô ấy nhiều hơn là hỏi cô ấy về chính bản thân cô. Nếu tôi đặt những câu hỏi phù hợp và chăm chú lắng nghe những gì cô ấy nói, tôi có thể biết được rất nhiều điều về những suy nghĩ và tính cách sâu kín nhất của Nancy khi cô ấy bộc bạch nhiều hơn về bản thân với tôi.

Chương này xem xét một phân đoạn Kinh văn ghi lại một sự kiện mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho Môi-se. Tôi tin rằng đây là một trong những văn bản thần học quan trọng nhất trong Kinh thánh vì đây là phân đoạn duy nhất thực sự ghi lại việc Đức Chúa Trời mô tả chính Ngài, nêu tên các thuộc tính của chính Ngài. Phân đoạn này được trích dẫn bởi các nhà tiên tri sau này, những người đã ghi nhận vị trí trung tâm của nó là văn bản nền tảng để biết Đức Chúa Trời.

Nếu muốn hiểu rõ ai đó hơn, chúng ta cần hỏi chính người đó về bản thân họ. Nếu muốn hiểu rõ hơn về Đức Chúa Trời, chúng ta cần nghiên cứu sự đáp lời của Đức Chúa Trời đối với thỉnh cầu của Môi-se, “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài” (Xuất. 33:18).

PHÁ VỠ GIAO ƯỚC

Xuất Ê-díp-tô Ký 32 nhắc lại một trong những sa sút thuộc linh trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Tội thờ hình tượng của nó đã dẫn đến việc phá vỡ giao ước mới vừa được thiết lập với Đức Chúa Trời.

Trong khi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại Núi Si-nai, Môi-se đã lên núi để gặp Đức Chúa Trời và nhận hai bảng luật. Khi sự việc này mất nhiều thời gian hơn dự kiến, dân sự đã đến gặp A-rôn mà kêu lên rằng, “Nào! Hãy làm các thần để đi trước chúng tôi đi, vì về phần Môi-se nầy, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chúng tôi chẳng biết điều chi đã xảy đến cho người rồi” (Xuất Ê-díp-tô ký 32:1). Ở đây, có thể ghi nhận ba thất bại của dân sự. Họ không ghi nhận lòng trung thành của họ chỉ dành riêng với Chúa; họ không nhận biết rằng chính Đức Chúa Trời, không phải Môi-se, đã giải cứu họ khỏi Ai Cập; và họ đã thất bại trong việc trông cậy vào Môi-se, người làm trung gian giao ước của họ.

A-rôn đã chịu khuất phục trước áp lực của đám đông và làm nên một con bê bằng vàng, sau đó ông cho ra mắt dân sự mà rằng, “Nầy là các thần của ngươi đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô” (32:4). Con bê mà A-rôn làm ra gợi nhớ đến tín ngưỡng thờ lạy bò thiêng (Apis) rất thịnh hành ở Memphis, Ai Cập, gần Gô-sen nơi dân Y-sơ-ra-ên sinh sống. Kế đến A-rôn xây một bàn thờ để dân sự thờ con bê! A-rôn tỏ ý rằng hình ảnh này nhằm đại diện cho Chúa, “Sáng mai sẽ có lễ tôn trọng Đức Giê-hô-va” (32:5).

Tại núi Si-nai, Đức Chúa Trời báo cho Môi-se biết về việc thờ lạy hình tượng đã diễn ra trong trại. Chúa cảnh báo hủy diệt dân sự, hứa sẽ dấy lên một dân tộc mới từ dòng dõi Môi-se (32:10). Đây là một thử thách thực sự đối với Môi-se, nhưng ông đã chọn sự bảo tồn mạng sống của dân sự Y-sơ-ra-ên thay vì sự tôn cao của chính mình. Để đáp lại lời cầu xin của Môi-se, Đức Chúa Trời đã rút lại sự phán xét (32:14).

LỜI CẦU XIN CỦA MÔI-SE

Vì sự thất bại của dân sự Y-sơ-ra-ên có liên quan đến con bê vàng, Chúa đã rút sự hiện diện của Ngài khỏi những người trong trại (Xuất Ê-díp-tô ký 33:1-7). Ngài không thể ở cùng những kẻ phạm tội phá bỏ giao ước.

Chắc chắn Môi-se đã rất nản lòng trước sự thất bại của Y-sơ-ra-ên. Ông muốn ở với Chúa, nhưng Ngài đã lìa khỏi trại. Vì vậy, Môi-se dựng một cái lều bên ngoài trại để ông có thể gặp gỡ Đức Chúa Trời.1 Khi suy ngẫm về thời gian này với Đức Chúa Trời, Môi-se viết, “Đức Giê-hô-va đối diện phán cùng Môi-se, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình” (33:11).

Trên hết mọi sự, Môi-se muốn biết rõ hơn về Đức Chúa Trời. Ông cầu nguyện rằng, “Vậy bây giờ, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin cho tôi biết đường của Chúa, để cho tôi biết Chúa” (33:13). Thật là tuyệt khi dành thời gian ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, nhưng Môi-se muốn biết Ngài một cách gần gũi và ngoan hơn bao giờ hết. Với ý tưởng này, Môi-se thưa cùng Chúa rằng, “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài” (33:18). Kabob Trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “vinh hiển,” có liên quan đến một động từ có nghĩa là “trở nên một mức độ lớn.” Kabod đôi khi được sử dụng để chỉ “trọng lượng” hay địa vị danh giá của một người (1 Các vua 3:13). Từ này được sử dụng theo cách tương tự để chỉ thực tế và sự chói sáng của sự hiện diện vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đôi khi, sự vinh hiển của Ngài được nhìn thấy cùng với đền tạm hoặc đền thờ (Xuất Ê-díp-tô ký 40:34, 1 Các vua 8:11; Ê-xê-chi-ên 9:3).

Thật ra Môi-se đã cầu xin điều gì khi ông cầu nguyện, “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài”? Môi-se đã biết Đức Chúa Trời, nhưng ông muốn biết Ngài rõ hơn. Ông muốn biết Ngài cách tỏ tường. Môi-se đang cầu xin Ngài tự bày tỏ trọn vẹn về sự vinh hiển của Ngài — một sự mặc khải sẽ nâng đỡ và khích lệ ông với tư cách là người dẫn dắt dân sự Y-sơ-ra-ên.

Đức Chúa Trời đáp lại bằng cách phán cùng Môi-se rằng con người không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời mà còn sống (Xuất Ê-díp-tô ký 33:20). Nhưng Ngài chính Ngài đã đáp ứng lời cầu xin của Môi-se và tỏ cho ông biết rằng Ngài sẽ đặt ông vào trong một bộng đá, lấy tay Ngài mà che ông lại, cho đến chừng nào Ngài đã đi qua. Kế đến Đức Chúa trời phán cùng Môi-se rằng, “Ta sẽ rút tay lại, và ngươi thấy phía sau ta; nhưng thấy mặt ta chẳng được” (33:23). Phân đoạn này rất giàu tính nhân hóa (theo thuyết thần nhân đồng hình) quy cho Đức Chúa Trời các đặc điểm của con người như: bàn tay, lưng và khuôn mặt. Vì Đức Chúa Trời không có thân thể hữu hình (Giăng 4:24), nên có vẻ như những thuật ngữ này được dùng để cho thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ hiện diện rất riêng tư và thân mật với Môi-se.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI BÀY TỎ CÁC THUỘC TÍNH TRONG XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ 34:6-7

Đức Chúa Trời đã làm trọn lời hứa của Ngài là ban cho Môi-se một sự mặc khải mới mẻ về vinh hiển Ngài. Một lần nữa Môi-se được gọi lên Núi Si-nai (Xuất Ê-díp-tô ký 34:1-2). Ở đó, trên ngọn núi thiêng này, Đức Chúa Trời đã đứng gần Môi-se và “hô danh Giê-hô-va” (34:5).2 Trong Kinh Thánh, tên tuổi của một người gắn liền với danh tiếng của người đó. Tại đây Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho Môi-se, công bố những thuộc tính đặc trưng nhất cho danh vinh hiển của Ngài.

Xuất Ê-díp-tô ký 34:6-7 khác thường ở chỗ đây là nơi duy nhất trong Kinh Thánh mà Đức Chúa Trời liệt kê các thuộc tính của Ngài! Ở đây Đức Chúa Trời nói với chúng ta về chính Ngài. Nhận thấy ý nghĩa của phân đoạn Kinh văn này, các trước giả Kinh thánh đã trích dẫn nó nhiều lần. (Dân số ký 14:18; 2 Sử ký 30:9; Nê-hê-mi 9:17; Thi thiên 86:15; 103:8; 111:4; 112:4; 116:5; 145:8; Giô-ên 2:13; Giăng 4:2; Na-hum 1:3). Khi chúng ta tìm hiểu những thuộc tính này và nhận biết những gì Đức Chúa Trời muốn Môi-se (và chúng ta) biết về Ngài, chúng ta sẽ đồng lòng với tác giả Thi thiên, trong một phân đoạn đã bày tỏ rằng, “Tôi sẽ suy gẫm về sự tôn vinh oai nghi rực rỡ của Chúa, Và về công việc lạ lùng của Ngài” (Thi thiên 145:5).

Lòng trắc ẩn

Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên rằng điều đầu tiên Đức Chúa Trời bày tỏ về chính mình cho Môi-se là lòng trắc ẩn của Ngài (Xuất Ê-díp-tô 34:6)—không phải sự thánh khiết, vương quyền, hay tình yêu.

Lòng trắc ẩn nghĩa là gì? Trong tiếng Hê-bơ-rơ rahum (tiếng Anh “compassionate”) đề cập đến một tình yêu sâu sắc bắt nguồn từ một sự ràng buộc tự nhiên.3 Tình yêu này thường là của một kẻ bề trên dành cho một kẻ thấp kém hơn. Tiếng Hê-bơ-rơ có một từ có liên quan được dịch là “womb” (Giê-rê-mi 20:17), điều đó gợi ý rằng tình yêu và lòng trắc ẩn được đề cập ở đây giống như tình yêu của một người mẹ dành cho con mình. Và tình yêu dịu dàng này không giới hạn ở giới tính nữ. Những người cha cũng có lòng trắc ẩn! Trước giả Thi thiên tuyên bố “Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài, Khác nào cha thương xót con cái mình vậy” (Thi thiên 103:13).

Tính từ rahum xuất hiện mười ba lần trong Cựu ước — mười hai lần để nói đến Đức Chúa Trời và một lần nói đến con người (Thi thiên 112:4). Khi được dùng để nói đến Đức Chúa Trời, từ lòng trắc ẩn truyền đạt một mối gắn kết bền chặt của Đức Chúa Trời đối với những người được Ngài gọi là con cái Ngài. Đức Chúa Trời nhìn dân sự Ngài như một người mẹ và người cha nhìn con cái của họ, với một tình yêu thương dịu dàng. Một khái niệm khác liên quan đến từ lòng trắc trẩn ấy là sự chọn lựa vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Ngài có lòng trắc ẩn đối với người mà Ngài chọn (Xuất Ê-díp tô ký 33:19). Lòng trắc ẩn của Đức Chúa Trời cũng gắn liền với sự thành tín của Ngài. Moses chép, “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi là Đức Chúa Trời hay thương xót sẽ không bỏ ngươi và không hủy diệt ngươi đâu; cũng chẳng quên sự giao ước mà Ngài đã thề cùng các tổ phụ ngươi” (Phục truyền 4:31). Vì Ngài có lòng trắc ẩn, Ngài cũng tha thứ. Trước giả Thi thiên A-sáp đã tuyên bố, “Nhưng Ngài, vì lòng thương xót, tha tội ác cho, chẳng hủy diệt chúng nó”
(Thi thiên 78:38). Lòng trắc ẩn của Đức Chúa Trời là điều cơ bản khiến Ngài tha thứ cho một dân tộc ăn năn khỏi sự phán xét xứng đáng. Phục truyền 30:3 tuyên bố rằng sự ăn năn để từ bỏ tội lỗi sẽ được đáp ứng bởi lòng trắc ẩn và sự phục hồi của Đức Chúa Trời để dẫn đến phước hạnh (cũng xem 2 Sử ký 30:9). Đáng lưu ý là lòng trắc ẩn của Đức Chúa Trời tạo nền tảng cho hy vọng cuối cùng của Y-sơ-ra-ên (Ê-sai 14:1; 49:13; 54:7; Giê-rê-mi 12:15; 33:26; Mi-chê 7:19; Xa-cha-ri 1:16).

Cha mẹ nào cũng yêu con mình, chúng ta yêu vì chúng là con của chúng ta. Chúng ta yêu con cái mình bất chấp sự bất tuân và nổi loạn của chúng. Chúng ta đau xót cho con cái mình khi chúng phải gánh chịu hậu quả từ những sai lầm dại dột của chúng. Chúng ta tận tụy với chúng suốt đời và sẽ luôn cố gắng làm những gì có lợi nhất cho chúng. Một buổi chiều chủ nhật mùa đông, con trai tôi đến với tôi và nói: “Ba ơi, con lạnh lắm. Ba đốt lửa vào lò sưởi nhé?” Tôi có thể bảo nó mặc áo len hoặc tập một vài bài thể dục. Nhưng lòng trắc ẩn của tôi khiến tôi muốn thực hiện yêu cầu của nó nhằm xua đi cơn lạnh mà con tôi đang phải chịu. Vì vậy, tôi chẻ một ít gỗ và đốt một đống lửa lớn. Với tư cách là một người cha, tôi rất muốn đáp ứng yêu cầu của con trai mình và nhìn nó sưởi ấm trước lò sưởi của chúng tôi.

Chúa là Đức Chúa Trời của chúng ta, là Cha nhân từ. Ngài yêu chúng ta vì chúng ta là con cái của Ngài. Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng vùa giúp khi chúng ta gặp phải hoàn cảnh khó khăn, tìm kiếm lợi ích cho chúng ta vì sự vinh hiển của Ngài. Mặc dù Ngài là thánh vô cùng, nhưng lòng trắc ẩn của Ngài khiến Ngài đối đãi nhẹ nhàng với những người yếu đuối. Ngài đầy lòng thương xót và nhân từ đối với những đau khổ và những khó nhọc của thân phận dễ hư mất của con người. Ngài luôn sẵn lòng tha thứ tội lỗi và phục hồi chúng ta vì lòng thương xót lớn lao của Ngài.

 

Lòng khoan dung

Phẩm chất thứ hai mà Đức Chúa Trời tự nói về Ngài là lòng khoan dung. Tính từ hannun bắt nguồn từ hanan, có nghĩa là kẻ mạnh hơn đến cứu giúp kẻ yếu hơn là kẻ lâm vào hoàn cảnh khó khăn nhưng không được cầu xin sự đối đãi khoan dung. Đó là một trải nghiệm như một phước hạnh hay ân huệ không đáng có. Từ nầy được sử dụng rất nhiều trong Cựu Ước và lấy Chúa làm chủ thể. Gia-cốp giải thích với anh trai của mình, Ê-sau, rằng sự phát đạt của gia đình và tài sản của ông là nhờ Đức Chúa Trời đã đối xử “khoan dung” với ông (Sáng thế ký 33:5, 11). Đa-vít giải thích lời cầu nguyện và kiêng ăn cho con trai sắp chết của mình mà rằng, “Nào ai biết; có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ thương xót ta, và cho đứa trẻ được sống chăng” (2 Sa-mu-ên 12:22). Thường thì ân điển của Đức Chúa Trời được nhìn thấy trong việc Ngài giải cứu chính con cái Ngài khỏi tội lỗi của họ (Ma-la-chi 1:9).

Từ “khoan dung” (hannun) xuất hiện mười ba lần trong Cựu ước, mười một lần trong số đó kết hợp với rahum, “trắc ẩn.” Giống như hình thức động từ, tính từ “khoan dung” nói đến ân huệ được ban cho nhưng không của một người có địa vị cao hơn. Tất cả những lần xuất hiện của từ này, ngoại trừ một lần chỉ về Chúa luôn ưu ái đối với những người khốn khổ và thiếu thốn. Trường hợp ngoại lệ, Thi thiên 112:4, sử dụng tính từ để mô tả người kính sợ Đức Chúa Trời có cùng đặc điểm với Đức Chúa Trời. Nhưng với con người, thuộc tính này không được hoàn hảo cũng không lâu dài. Với Đức Chúa Trời, chúng ta luôn có thể trông cậy vào sự nhân từ trọn vẹn của Ngài. Và vì Ngài là như vậy, Ngài sẽ nghe tiếng kêu cầu của người nghèo khó. (Xuất Ê-díp-tô ký 22:27), Ngài sẽ không từ chối kẻ ăn năn (2 Sử ký 30: 9), và Ngài sẽ không bao giờ từ bỏ con cái mình (Nê-hê-mi 9:17, 31).

Ân điển của Đức Chúa Trời được đề cao trong cả Cựu ước và Tân ước, nhấn mạnh cơ sở thần học cho mọi hành vi đối xử nhân từ của Đức Chúa Trời với dân Ngài. Charles Ryrie có viết rằng, “Cơ đốc giáo khác biệt với tất cả các tôn giáo khác bởi vì nó là một thông điệp ân điển. Chúa Giê-su Christ là sự mặc khải tối cao về ân điển của Đức Chúa Trời; sự cứu rỗi là bởi ân điển; ân điển chi phối và tạo sức mạnh cho cuộc sống của Cơ đốc nhân. Không có ân điển Cơ đốc giáo không là gì cả.”4

Thật đáng khích lệ khi biết rằng Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta không phải theo những gì chúng ta xứng đáng, mà là bởi ân điển. Trong khi chúng ta xứng đáng với sự phán xét của Ngài, Ngài đã nhân từ ban đến một Đấng Cứu Chuộc để chịu thay hình phạt cho tội lỗi của chúng ta. Dựa trên ân điển, chúng ta có thể nhận được sự ban cho cách hào phóng là sự cứu rỗi và sự sống đời đời của Ngài.

 

Chậm giận

Đức Chúa Trời không vô cớ khi nổi giận trước tội lỗi và sự không vâng lời của dân sự Ngài, những người làm Ngài đau lòng và không vâng lời (Xuất Ê-díp-tô 32:10). Cơn giận của Đức Chúa Trời, mặc dù sự nóng giận (Giê-rê-mi 25:37), không phải là tội lỗi hay xấu xa. Đặc tính thánh khiết của Đức Chúa Trời bị xúc phạm một cách thẳng thừng bởi sự phản nghịch đầy tội lỗi của các tạo vật Ngài. Cơn giận của Đức Chúa Trời thường dẫn đến sự sửa phạt (Thi thiên 6:1; Ê-sai 12: 1) và hình phạt dân sự Ngài (2 Sa-mu-ên 6: 7; Giê-rê-mi 44: 6).

Thuộc tính chậm giận này của Đức Chúa Trời là tin đáng mừng cho chúng ta. Cụm từ “chậm giận” được sử dụng chín lần trong Kinh thánh để nói đến sự chịu đựng của Đức Chúa Trời trong việc đối xử với những người mà tội lỗi của họ khơi dậy cơn thịnh nộ của Ngài. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, cụm từ “chậm giận” bao gồm một tính từ có nghĩa là “dài” và danh từ số nhiều “mũi”. Một người tức giận thường biểu lộ cảm xúc của mình qua vẻ ngoài của mũi (mũi đỏ và lỗ mũi loe ra). Ý tưởng đằng sau cách diễn đạt, “chậm giận,” là Đức Chúa Trời phải chịu đựng một thời gian dài trước khi nổi giận. Giống như thể Ngài hít một hơi dài và sâu trước khi bày tỏ sự tức giận của Ngài.

Bởi vì Đức Chúa Trời là thánh, Ngài phải đáp lại bằng cơn thịnh nộ và sự phán xét lên tội lỗi và sự không vâng lời. Sự công bình của Ngài khiến Ngài không thể không trừng phạt kẻ gian ác. Sự khoan dung như vậy sẽ trái với tính cách thánh thiện của Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không vội trừng phạt kẻ có tội. Thay vào đó, Ngài ban cho họ nhiều cơ hội để quay lại và ăn năn. Sự chịu đựng của Đức Chúa Trời trong việc đối phó với kẻ ác không nên được hiểu theo cách tự cho rằng tội lỗi không là vấn đề hoặc không có gì nghiêm trọng. Đúng hơn, sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời nhằm khiến kẻ ác có cơ hội ăn năn. Như Phi-e-rơ đã viết, Đức Chúa Trời “không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2 Phi-e-rơ 3:9).

Đức Chúa Trời không vội phán xét tội nhân. Sẽ có một ngày họ phải đứng trước Ngai Trắng và Lớn của Ngài và chịu phán xét tùy theo việc làm của họ (Khải huyền 20:11-15). Nhưng trong khi chờ đợi, Đức Chúa Trời tiếp tục bày tỏ sự chịu đựng và ân điển của Ngài. Cơn giận của Ngài đang bị tội lỗi của loài người đốt nóng, nhưng cơn giận của Ngài không bị thổi bùng cách nhanh chóng.

Nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm được sự chịu đựng của Đức Chúa Trời trong những khi phạm tội và không vâng lời. Trong năm đầu sinh viên đại học, tôi đã chạy khỏi Chúa, sống theo người đời. Tôi lấy làm lạ trước sự chịu đựng và uốn nắn nhẹ nhàng của Ngài trong khi tôi đáng phải chịu trừng phạt bởi cơn thịnh nộ của Ngài! Sự dung chịu của Đức Chúa Trời đối với tôi là một lời nhắc nhở rằng tôi cần phải chịu đựng đối với những người yếu đuối, chưa trưởng thành và đang vật lộn với tội lỗi.

 

Đầy dẫy tình yêu thương

Điều tiếp theo Đức Chúa Trời nói với Môi-se về chính Ngài là “đầy dẫy ân huệ và thành thực.” Từ “đầy dẫy” (có nghĩa đen là lớn lao) mô tả những gì hiện tại dồi dào và áp dụng rõ ràng cho lòng nhân từ của Đức Chúa Trời và lẽ thật của Ngài. Cụm từ “Lòng nhân từ và lẽ thật” xuất hiện khoảng hai mươi lăm lần cùng nhau và có thể là một ví dụ về hình ảnh lời nói trong đó hai từ đại diện cho một khái niệm hoặc tư tưởng. Theo cách này “lòng nhân từ và lẽ thật” có thể nói đến “tình yêu đích thực” hoặc “tình yêu thành tín” của Đức Chúa Trời. Vì chúng ta không biết chắc rằng các từ nên được kết hợp với nhau hay không, chúng ta sẽ giải quyết từng từ riêng biệt.

Tiếng Hê-bơ-rơ được phiên dịch thành “lòng nhân từ” (NASB), “tình yêu” (NIV), “nhân từ” (JB), hay “tìn yêu lâu bền” (NRSV) là hesed, “tình yêu không hư mất” hay “lòng trung thành.” Cựu ước bằng tiếng Hy Lạp sử dụng từ eleos (“lòng thương xót” hay “lòng trắc ẩn”) phiên dịch thành hesed. Tiếng Hê-bơ-rơ “stork” dựa trên từ hesed, có lẽ vì con cò được chú ý vì tình yêu và lòng từ đối với con non của nó. Vì lý do này, con cò thường được kết hợp với trẻ sơ sinh và tình mẫu tử. Rõ ràng rằng một tình yêu mạnh mẽ, kiên định là điều cơ bản đối với ý nghĩa của hesed.6 Nhưng có một từ tiếng He-bơ-rơ khác cho “tình yêu”, ấy là, ahaba. Vậy điều gì là độc đáo và khác biệt của hesed?

Năm 1927 Nelson Glueck công bố luận án tiến sĩ bằng tiếng Đức, sau đó được dịch sang tiếng Anh với tiêu đề Hesed in the Bible.7 Glueck chỉ ra rằng các hiệp ước cổ đại sử dụng sự dối trá để mô tả mối quan hệ giao ước giữa các vị vua và thần dân của họ. Nhà vua được mong đợi bày tỏ hesed đối với thần dân là những kẻ mà ông vừa lập giao ước, do vậy các thần dân phải bày tỏ hesed đối với vua của họ. Tình yêu này là chung của nhau và là của cầm trong giao ước — một “tình yêu theo giao ước.” Nó bao gồm các ý tưởng về lòng trung thành, sự phục vụ và sự vâng lời. Khi các vua thời xưa bắt đầu mối quan hệ với thần dân của họ được thể hiện qua tình yêu thương theo giao ước, nên Chúa khi thiết lập giao ước của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên đã hứa trung thành với những lời hứa giao ước của Ngài và kêu gọi dân Ngài trung thành.

Không phải tất cả đều đồng ý với phân tích của Glueck về hesed. Những người khác cho rằng hesed thể hiện tình yêu theo một nghĩa chung hơn, nhấn mạnh sự tự do của Đức Chúa Trời để yêu mà không có bất kỳ nghĩa vụ nào như trong mối quan hệ giao ước. Tôi không tin rằng nó phải là cách này hay cách khác. Chắc chắn mối quan hệ của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài đã được chính thức hóa và xác định bằng một giao ước (Xuất Ê-díp-tô 19:5; 24:8; 31:16; 34:10). Nhưng cũng có tự do, sáng kiến và ân sủng trong hesed của Đức Chúa Trời. Tất cả ân huệ của Đức Chúa Trời đều dựa trên tình yêu thương của Ngài (Phục truyền Luật lệ ký 7:8). Đức Chúa Trời đã thiết lập một giao ước với dân sự Ngài để bảo đảm sự lâu bền của tình yêu này.

Tình yêu của Ngài là một tình cảm chọn lọc, không xứng đáng mà qua đó, Ngài ràng buộc chính Ngài với dân sự theo cách dẫn đến sự cứu chuộc và phước hạnh của họ. Ngài có toàn quyền trong việc ban cho các ân tứ và phước lành vượt quá những gì chúng ta có thể trông mong và bất luận những gì chúng ta đáng được nhận. Lòng nhân từ (hesed) của Đức Giê-hô-va hằng còn đến đời đời, vì điều nầy được thiết lập trên cam kết giao ước của Ngài. Trước giả Thi thiên khích lệ chúng ta “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện; Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” (Thi thiên 136:1).

 

Đầy dẫy sự Thành tín

Bên cạnh sự “lớn lao” trong tình yêu vững bền của Ngài, Đức Chúa Trời cũng rất mực thành tín. Từ ’emet, dựa trên động từ ‘aman, có nghĩa là “hỗ trợ, thiết lập, xác nhận.” Ý tưởng cơ bản là sự quả quyết, chắc chắn và đáng tin cậy. Cựu ước thường áp dụng từ emet chỉ về đặc tánh bản chất của Đức Chúa Trời. Từ nầy mô tả Đức Chúa Trời là Đấng đã dẫn tôi tớ của Áp-ra-ham tìm đến đúng người để Y-sác lấy làm vợ (Sáng 24:27). Ngoài ra, thuật ngữ này cũng được áp dụng một cách thích hợp cho lời của Đức Chúa Trời (Thi thiên 119:142, 151, 160). Là một đặc tính của Đức Chúa Trời, emet trở thành phương tiện để con người nhận biết và phục vụ Đức Chúa Trời (I Các vua 2: 4; Thi thiên 25: 5; 26: 3).

Nhiều người không thể tin được rằng họ sẽ giữ lời hứa mình. Họ thất hứa, vắng mặt trong các cuộc hẹn, và không làm theo các cam kết và bổn phận của họ. Thật đáng khích lệ biết bao khi biết rằng có một Đấng luôn đáng tin cậy, lời Ngài là chân thật, và luôn làm trọn lời mình. Đức Chúa Trời luôn luôn thành thực với chính Ngài và các thuộc tính của Ngài. Ngài giống như Đá tảng Gibraltar trong một thế giới đầy rung chuyển bởi sự bất ổn. Ngài là Đấng mà chúng ta luôn có thể trông cậy trong lúc khó khăn.

Giữ Lòng Yêu Thương đối với Nhiều Người

Tình yêu đặc trưng của tính cách Đức Chúa Trời không phải là một thuộc tính đơn thuần để thảo luận và chiêm ngưỡng. Ấy là tình yêu sốt sắng can dự vào việc dành tấm lòng thương xót thiêng liêng cho những kẻ gặp cảnh khó khăn. Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 34:7, từ được phiên dịch là “yêu thương” cùng chung một từ hesed mà chúng ta đã đề cập đến trước đó trong chương này. Nó nói đến tình yêu không dời đổi của Đức Chúa Trời, tình yêu này thường được thể hiện với dân sự Ngài là sự thành tín với giao ước. Ở đây chúng ta thấy Đức Giê-hô-va đã dành tình yêu thương dư dật của Ngài cho nhiều người. Từ được dịch là “gìn giữ” có nghĩa là Đức Chúa Trời dành thuộc tính này trong việc giúp đỡ những kẻ gặp khó khăn. Hình thức phân từ của động từ cho thấy tính liên tục. Đức Chúa Trời không ngừng dành tình yêu thương của Ngài cho hàng ngàn người cần đến sự đến sự can thiệp nhẹ nhàng của Ngài.

Xá Điều Gian Ác, Phản Nghịch, và Tội Lỗi

Một sự thật khác mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về Ngài là Ngài sẵn sàng tha thứ tội lỗi của dân Ngài. Từ “tha thứ” (nasa’) có nghĩa là “cất khỏi, mang, lấy đi.” Xuất Ê-díp-tô Ký 34:7 sử dụng từ nầy theo theo nghĩa bóng nói về việc Đức Chúa Trời “cất đi” tội lỗi. Khái niệm Đức Chúa Trời xóa bỏ tội lỗi của chúng ta được nhấn mạnh cách mạnh mẽ trong Thi thiên 103:12, “Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu, Thì Ngài đã đem sự vi phạm chúng tôi khỏi xa chúng tôi bấy nhiêu.”

Đức Chúa Trời đã dùng ba từ trong phân đoạn này để chỉ những hành động và thái độ mà Ngài đã tha thứ. Từ đầu tiên, “sự gian ác,” là từ một động từ có nghĩa là “uốn cong hoặc bóp méo”. Khi đó, điều gian ác nói đến hành vi không thật thà, quay lưng lại với con đường ngay thẳng và hẹp. Từ này được dùng trong Kinh Thánh để xác định các loại vi phạm dân sự, xã hội và đạo đức. Từ thứ nhì, “phản nghịch,” đề cập đến sự vi phạm các mối quan hệ, dân sự hoặc tôn giáo, giữa hai bên. Trong bối cảnh của các mối quan hệ quốc tế, hình thức động từ nói đến một cuộc nổi dậy chống lại những kẻ thống trị. Về tôn giáo, từ nầy ám chỉ sự nổi loạn chống lại thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Từ thứ ba, “tội lỗi,” có liên quan đến động từ “lầm đường.” Thiếu hụt tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời hoặc không đáp ứng các yêu cầu của Ngài cấu thành một hành động tội lỗi. Tất cả tội lỗi đều không thể coi thường và khiến ngăn cách loài người với Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời là thánh nên Ngài không thể bỏ qua tội lỗi. Tội lỗi phải được xử lý. Đây là nơi mà sự tha thứ cần đến.

“Forgives” là một động từ, nó nhấn mạnh việc đang xảy ra và tính liên tục của sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Ngài luôn tha thứ cho những ai thừa nhận tội lỗi của họ và ăn năn. Mi-chê đã suy ngẫm về đặc tính tha thứ của Đức Chúa Trời khi ông nói, “Ai là Đức Chúa Trời giống như Ngài, tha thứ sự gian ác, và bỏ qua sự phạm pháp của dân sót của sản nghiệp Ngài? Ngài không cưu giận đời đời, vì Ngài lấy sự nhân từ làm vui thích (hesed)” (Mi-chê 7:18). Thật may mắn cho chúng ta rằng “Ngài không đãi chúng tôi theo tội lỗi chúng tôi,
Cũng không báo trả chúng tôi tùy sự gian ác của chúng tôi” (Thi thiên 103:10). Chúng ta rất biết ơn về điều đó! Nhờ sự tha thứ của Đức Chúa Trời, mà Đa-vít có thể thốt lên: “Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình, Được khỏa lấp tội lỗi mình!” (32:1).

Không Để Kẻ Có Tội không bị trừng phạt

Thuộc tính tiếp theo là đặc trưng cho mặt khác của ân điển tha thứ của Đức Chúa Trời. Vì lòng nhân từ và ân điển vô hạn của Ngài, Chúa vui thích trong việc tha thứ và phục hồi tội nhân cho chính Ngài. Nhưng ân điển của Ngài không thể đánh mất sự công bình của Ngài. Con người phải trách nhiệm cách nghiêm khắc trước một Đức Chúa Trời thánh khiết, phẫn nộ khi họ không chịu ăn năn.

Câu nầy được hiểu theo nghĩa đen, “Ngài chắc hẳn sẽ không tha bổng kẻ có tội.” “Tha bổng” (naqa) có nghĩa là “sạch sẽ, tinh khiết hoặc không tì vết.” Trong ngữ cảnh thuộc tòa án, nó có nghĩa là “không bị trừng phạt.” Người chồng sẽ “vô tội”, khi tuyên bố vợ mình phạm tội ngoại tình, tuân theo các thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật (Dân số ký 5:31). Từ này đôi khi được dùng với hàm ý tiêu cực, mang ý nghĩa cảnh cáo hoặc khiển trách mạnh mẽ. Trong Châm ngôn 6:29, cho chúng ta thấy một ví dụ về điều này, kẻ nào đi tới cùng vợ người lân cận mình, ắt “chẳng được khỏi bị phạt.” Trong Xuất Ê-díp-tô ký 34:7 động từ được sử dụng với phủ định từ “không” để tăng thêm mức độ cảnh báo: Đức Chúa Trời sẽ không coi tội nhân không ăn năn là vô tội.

Ân điển của Đức Chúa Trời vô cùng phong phú và rộng rãi, người ta tự hỏi tại sao có người lại từ chối tình yêu thương miễn thứ và tha tội của Ngài. Nhưng con người sa đọa và si mê đến mức từ chối món quà tối thượng của Đức Chúa Trời. Vì Ngài là thánh khiết và công bình, cũng như yêu thương và tha thứ, những kẻ ác không ăn năn phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng nhất do tội lỗi và sự phản nghịch của họ gây ra.

Không xóa bỏ hậu quả của tội lỗi

Cụm từ cuối cùng trong sự tự mặc khải của Đức Chúa Trời với Môi-se trong Xuất Ê-díp-tô Ký 34: 6-7 đề cập đến hậu quả của tội lỗi. Mặc dù bản chất của Đức Chúa Trời là tha thứ, nhưng Ngài không trừ bỏ những hậu quả tự nhiên sanh ra do hành vi tội lỗi và dại dột. Mệnh đề, “Ngài nhân tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời,” đôi khi bị hiểu nhầm có nghĩa là Đức Chúa Trời trừng phạt con cái vì những tội lỗi riêng của cha mẹ và tổ tiên của chúng. Tuy nhiên, những câu khác cho thấy không phải như vậy.

Chắc chắn rằng sẽ là bất công nếu Chúa trừng phạt những đứa trẻ vì tội lỗi của cha mẹ chúng. Tuy nhiên, đây là những gì một số người đã nói vào thời Ê-xê-chi-ên. Người ta đã sáng tác ra một câu tục ngữ, “Cha ăn trái nho chua, mà con ghê răng” (Ê-xê-chi-ên 18:2). Người ta cảm thấy rằng Đức Chúa Trời trừng phạt họ vì tội lỗi của tổ tiên họ qua việc cho phép người Ba-by-lôn phá hủy Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Trời đáp lại bằng cách nói rằng họ không nên sử dụng câu tục ngữ đó nữa. Ngài công bố, “Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không mang sự gian ác của cha, và cha không mang sự gian ác của con. Sự công bình của người công bình sẽ được kể cho mình, sự dữ của kẻ dữ sẽ chất trên mình” (18:20).

Vậy, Xuất Ê-díp-tô ký 34:7 không có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt con cái vì tội lỗi của cha mẹ họ. Thay vào đó, Đức Chúa Trời cho phép con cái và con cháu phải trải qua hậu quả của hành vi tội lỗi. Trong khi Đức Chúa Trời hầu như sẵn sàng tha thứ và xá tội, Ngài không xóa bỏ hậu quả của hành vi tội lỗi. Nhiều đứa trẻ đã phải gánh chịu hậu quả khi lớn lên trong một gia đình có cha mẹ nghiện rượu hoặc bạo hành. Khi cha mẹ bị ở tù, con cái thực sự đau khổ. Đức Chúa Trời không đảo ngược hậu quả tự nhiên của những hành động dại dột và tội lỗi của chúng ta. Thật không may, những đứa trẻ thường gặt hái những gì do tội lỗi cha mẹ chúng đã gieo.

 

SỰ ĐÁP LẠI CỦA MÔI-SE

Môi-se cầu xin, “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài” (Xuất Ê-díp-tô ký 33:18) đã được nhậm lời. Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài cho Môi-se theo một cách độc đáo. Đức Chúa Trời đi qua trước mặt Môi-se và công bố các thuộc tính của Ngài. Môi-se đã đáp lại như thế nào?

Ông không lấy ngay tấm bản đất sét gần nhất để viết ra những gì Đức Chúa Trời đã nói về chính Ngài. Ông cũng không bắt đầu chú giải những thuộc tính này để hiểu rõ hơn về chúng, thảo luận chúng với Giô-suê và A-rôn, hay tranh luận về chúng với những nhà lãnh đạo khác. Ông đáp lại sự tự mặc khải của Đức Chúa Trời bằng sự thờ phượng. “Môi-se lật đật cúi đầu xuống đất và thờ lạy” (34:8).

Khi Môi-se nhìn thấy Đức Chúa Trời theo cách Ngài tự khải thị, ông đã nhìn thấy chính mình với cái nhìn sâu sắc mới. Ông liền sấp mình xuống đất và thờ lạy Chúa. Nguyện chúng ta noi theo Môi-se khi chúng ta ngày càng hiểu biết rõ hơn về Đức Chúa Trời. Xin cho chúng ta đến gần Ngài trong sự thờ phượng, đầu phục và phục vụ khi Ngài bày tỏ chính Ngài cho chúng ta qua Lời của Ngài.

 

 

– 6 –

Ngũ Kinh Dạy Gì Về Đức Chúa Trời

THÔNG THƯỜNG, trong giai đoạn đầu của một mối quan hệ mới chớm nở, thì người ta có một số khám phá rất quan trọng về người mới đó. Điều này đúng với một người bạn câu cá cùng học lớp giáo lý. Tôi gặp Mike tại nhà thờ và ngay lập tức bị anh ấy thu hút. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi thấy rằng chúng tôi và những người của chúng tôi đã cùng nhau có những buổi tối vui vẻ với nhau. Điều này đã cho tôi cơ hội để hiểu rõ hơn về Mike. Một lần Mike mời tôi đi du lịch và câu cá cuối tuần tại một trong những hồ trên núi Oregon. Kinh nghiệm đó đã đánh dấu mối quan hệ của chúng tôi. Trong những năm qua, chúng tôi đã dành vô số ngày cuối tuần để ngồi trong một chiếc bè cao su, bị ướt đẫm vì cơn mưa lạnh, để chờ đợi những con cá hồi tiếp theo cắn câu.

Tôi đã làm bạn với Mike khoảng 25 năm nay. Nhưng hầu hết những gì tôi biết được về tính cách của anh ấy, là vì tôi đã nhận biết được trong những năm đầu tiên những khi chúng tôi dành thời gian bên nhau. Trong những năm đầu tiên của tình bạn giữa chúng tôi, tôi đã nhận biết rằng Mike là một Cơ đốc nhân tin kính, nhiệt thành. Anh ấy là một người sống đạo với niềm tin vững vàng về các vấn đề đạo đức và tín lý. Tôi chưa từng thấy điều gì trong đời sống của anh ấy kể từ những năm đầu tiên quen biết nhau đã làm thay đổi quan điểm này.

Cũng như đối với tình bạn, tôi tin rằng chúng ta nhận biết một số khía cạnh quan trọng về bản tính của Đức Chúa Trời trong những cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh. Những sách này ghi lại nhiều cuộc gặp gỡ của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham, Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên. Giai đoạn này có thể được coi là giai đoạn bắt đầu của một tình bạn. Những gì chúng ta khám phá về Đức Chúa Trời trong các sách đầu tiên của Kinh Thánh được xác nhận và mở rộng xuyên suốt Lời của Đức Chúa Trời.

Chương này thảo luận về những gì năm sách đầu tiên của Kinh Thánh bày tỏ về Đức Chúa Trời. Những sách này là do Môi-se viết, ghi lại khoảng thời gian từ khi sáng tạo thế gian đến khi Y-sơ-ra-ên chuẩn bị cho cuộc chinh phục Ca-na-an. Cơ đốc nhân thường gọi những cuốn sách này là “Ngũ kinh”, thuật ngữ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “năm cuốn sách”. Năm sách này—Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi Ký, Dân số ký và Phục truyền luật lệ ký—bày tỏ những lẽ thật nền tảng về Đức Chúa Trời. Mỗi cuốn sách nêu bật một thuộc tính đặc biệt quan trọng của Đức Chúa Trời giúp chúng ta hiểu biết Ngài rõ hơn.

 

SÁNG THẾ KÝ: QUYỀN TỂ TRỊ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Chủ đề thần học của Sáng thế ký là quyền tể trị của Đức Chúa Trời, tức là quyền lực tối cao và tuyệt đối của Ngài với tư cách là Đấng cai trị trên tất cả mọi tạo vật của Ngài. Giê-rê-mi khẳng định, “Nhưng CHÚA là Đức Chúa Trời chân thật; Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, là Vua đời đời” (Giê-rê-mi 10:10). Trong khi các vị vua trên đất cai trị bằng một quyền thống trị cá nhân trong khoảng thời gian giới hạn, thì Đức Chúa Trời cai trị trên cả hoàn vũ và đời đời. Đa-vít đã tuyên bố, “Ðức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai trị trên muôn vật.” (Thi 103:19) Và một tác giả Thi thiên khác nói rằng: “Ðức Giê-hô-va làm Vua đến đời đời vô cùng” (10:16). Trong khi Sáng thế ký không có tuyên bố, “Đức Chúa Trời là Đấng tể trị”, sự thật này được nêu bật trong suốt cuốn sách.

Bằng chứng đầu tiên về quyền tể trị của Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký là sự sáng tạo của Ngài về vũ trụ vật chất, “các tầng trời và trái đất” (Sáng thế ký 1:1). Đức Chúa Trời không cần phải hỏi bất cứ ai xem việc sáng tạo vũ trụ có được không. Ngài không cần phải báo cáo cho bất cứ ai khi Ngài đã hoàn thành. Ngài không cần phải phụ thuộc vào bất cứ ai để cung cấp các vật liệu cần thiết. Đức Chúa Trời chỉ đơn giản là phán và vũ trụ đã hình thành! Sự sáng, bầu trời, đất khô, cây cỏ, các vì sao, các loài động vật và loài người đều hiện hữu để đáp ứng cho lời phán toàn năng, uy quyền của Ngài.

Quyền tể trị của Đức Chúa Trời cũng được chứng minh trong Sáng thế ký bằng sự sắp đặt của Ngài đối với con người. Ngài truyền lệnh cho A-đam và Ê-va: “Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến” (2:16-17). Ngài cũng thực thi quyền tể trị của Ngài bằng cách lên án và phán xét tội lỗi của họ (3:14–19). Quyền tể trị của Đức Chúa Trời đối với sự sáng tạo của Ngài càng được chứng minh bằng sự phán xét của Ngài đối với thế giới gian ác vào thời Nô-ê. Chỉ một Đức Chúa Trời tối cao mới có thể phán, “Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng nên” (6:7).

Quyền tể trị của Đức Chúa Trời được minh họa một cách mạnh mẽ trong việc Ngài chọn Áp-ra-ham làm tổ phụ cho một dân tộc sẽ mang lại phước hạnh cho các quốc gia trên thế giới (12:1-3). Đức Chúa Trời không chỉ chọn Áp-ra-ham cách uy quyền, mà Ngài còn thể hiện quyền tể trị của Ngài bằng cách lập giao ước vô điều kiện với Áp-ra-ham và con cháu của ông—những lời hứa sẽ ảnh hưởng đến mọi dân tộc mãi mãi. Quyền tể trị của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ trên Núi Mô-ri-a, nơi vào thời điểm quan trọng, Đức Chúa Trời đã cung ứng một con chiên đực để thế chỗ của Y-sác (22:8, 13-14), để minh họa việc Ngài cung ứng Chiên Con, là Chúa Giê-su Christ, để thế chỗ cho chúng ta.

Một trong những minh họa lớn nhất về quyền tể trị của Đức Chúa Trời là câu chuyện về Giô-sép. Việc bán Giô-sép sang Ai Cập, rồi bị cầm tù, cuối cùng được thăng chức lên vị trí rất cao trong triều đình Ai Cập, và việc cung ứng cho gia đình Gia-cốp trong nạn đói khủng khiếp, đều nằm trong kế hoạch và mục đích tối cao của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã làm cho Giô-sép trở nên thịnh vượng trong bất cứ việc gì ông làm (39:23), và Giô-sép thừa nhận rằng chính Đức Chúa Trời đã sai ông đến Ai Cập để bảo toàn sự sống cho nhiều người (45:5).

Một trong những tuyên bố quan trọng nhất trong Kinh thánh về quyền tể trị của Đức Chúa Trời xuất hiện trong Sáng thế ký 50 sau cái chết của Gia-cốp. Các anh của Giô-sép sợ rằng ông sẽ trừng phạt họ vì đã làm sai trái với ông. Giô-sép đáp: “Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Ðức Chúa Trời sao? Các anh toan hại tôi, nhưng Ðức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo.” (50:19-20). Giô-sép thừa nhận những gì anh em mình làm là xấu xa, nhưng ông sẽ không hành động như một quan tòa phán xử của họ. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng những hành động xấu xa của họ để hoàn thành điều tốt lành! Thật ngạc nhiên, Đức Chúa Trời có thể hoàn thành các mục đích tối cao của Ngài thông qua các hành động tội lỗi của con người.

Điều này không có nghĩa là mọi người không chịu trách nhiệm về hành động của họ. Quyền tể trị của Đức Chúa Trời không loại bỏ trách nhiệm của chúng ta trong việc làm điều đúng đắn. Nói cách khác, khi chúng ta làm sai, chúng ta không thể đổ lỗi cho Đức Chúa Trời. Nhưng Ngài có thể sử dụng một điều sai trái để hoàn thành một điều gì đó tốt đẹp. Một minh họa hữu ích về sự kiện này là sự đóng đinh của Chúa Giê-su Christ. Khi rao giảng cho người dân thành Giê-ru-sa-lem về cái chết của Chúa Giê-su, Phi-e-rơ tuyên bố: “Người đó bị nộp, theo ý định trước [‘kế hoạch định trước,’ NASB] và sự biết trước của Ðức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thật tự giá và giết đi” (Công vụ 2:23). Việc đóng đinh là theo kế hoạch đã định trước của Đức Chúa Trời, nhưng đó là một việc làm xấu xa của những người không tin kính. Trong sự đóng đinh của Đấng Christ, điều ác đã hoàn thành điều tốt, nhưng những người đóng đinh Ngài phải chịu trách nhiệm về điều đó. Đức Chúa Trời có quyền tể trị trên điều ác, nhưng Ngài không phải bị đổ lỗi cho điều đó.

Sự thật về quyền tể trị của Đức Chúa Trời được nhấn mạnh trong suốt Kinh Thánh. Có lẽ văn bản kinh điển của Tân Ước là Rô-ma 8:28, “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Ðức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” Và Phao-lô gọi Đức Chúa Trời là Đấng “theo mạng của Ðấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán” (Ê-phê-sô 1:11). Cả hai câu đều chỉ ra rằng quyền tể trị của Ngài trải dài trên “mọi sự.” Không có gì nằm ngoài quyền tối cao và sự kiểm soát tuyệt đối của Đức Chúa Trời.

Quyền tể trị của Đức Chúa Trời là một tín lý rất thực tế, mang lại cho các tín đồ sự an ủi và khích lệ to lớn khi đối diện với những hoàn cảnh khó khăn hoặc thậm chí là bi kịch. Khi anh trai tôi bị giết trong một vụ tai nạn ô tô ở tuổi mười lăm, lẽ thật về quyền tối cao của Đức Chúa Trời đã nâng đỡ gia đình chúng tôi qua nỗi buồn và sự thương tiếc. Đây không phải là một “tai nạn” hay trường hợp không may mắn mà trong đó Đức Chúa Trời mất quyền kiểm soát và anh trai tôi ở ngoài sự gìn giữ của Ngài. Không phải vậy! Nhưng cái chết của anh trai tôi là một phần trong kế hoạch tối cao và yêu thương của Đức Chúa Trời—một kế hoạch mà tôi không hiểu, nhưng một kế hoạch mà tôi có thể tin cậy vào một Đức Chúa Trời tối cao, Đấng biết rõ và làm điều tốt nhất.

 

XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ: SỰ CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời cung ứng là một trong những chủ đề lớn của Kinh Thánh. Điều này được nhấn mạnh trong Sách Xuất Ê-díp-tô ký, trong đó Ngài được trình bày như là Đức Chúa Trời hành động trong sự cứu rỗi để giải cứu chính Ngài. Chúng ta thấy chủ đề này được giới thiệu trong lời tuyên bố của Đức Chúa Trời với Môi-se, “Ta ngự xuống đặng cứu dân nầy khỏi tay người Ê-díp-tô, dẫn từ xứ ấy lên đến một xứ kia đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật, tức là nơi dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít ở.” (Xuất Ê-díp-tô ký 3:8). Đức Giê-hô-va không giống như các thần của Ca-na-an, là những kẻ bất lực và không giá trị (1 Các vua 18:27). Ngài là Đức Chúa Trời quyền năng Đấng có quyền can thiệp và cứu rỗi. Như Môi-se đã hát, “Ðức Giê-hô-va là sức mạnh và sự ca tụng của tôi: Ngài đã trở nên Ðấng cứu rỗi tôi” (Xuất Ê-díp-tô ký 15:2).

Chủ đề về sự cứu rỗi được trình bày một cách mạnh mẽ trong Xuất Ê-díp-tô Ký thông qua ghi chép về sự ra đời của dân tộc Y-sơ-ra-ên. Chúa đã giải cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ ở Ai Cập một cách kỳ diệu, mở đường cho họ vượt qua Biển Đỏ, cung ứng nhu cầu cho họ trong đồng vắng, ban cho họ Luật pháp và hướng dẫn họ về đền tạm. Tất cả những hành động này đều bày tỏ đặc tính cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Ngài quyền năng và sẵn sàng giải cứu.

Lễ Vượt Qua đầu tiên (được ghi lại trong Xuất Ê-díp-tô-ký 12) là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Ở đây, Đức Chúa Trời đã đặt ra một khuôn mẫu cho sự cứu chuộc mà Ngài cho phép những thỏa thuận trong tương lai với dân Ngài. Lễ Vượt Qua dạy về nền tảng của sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời và hướng tới công việc cứu chuộc của Đấng Christ tại thập tự giá. Lễ Vượt Qua phải được hiểu trong bối cảnh bản án tử hình giáng xuống toàn bộ Ai Cập vì Pha-ra-ôn ngoan cố không cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi (11:4-8). Đức Chúa Trời loan báo rằng tất cả các con đầu lòng trong xứ Ai Cập sẽ chết. Điều đó bao gồm người Ai Cập, nô lệ và dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng Đức Chúa Trời của sự phán xét cũng là Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi, và Ngài đã cung ứng một giải pháp để những đứa con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi bản án tử hình.

Đức Chúa Trời phán mỗi gia đình phải chuẩn bị một con vật nhỏ từ đàn của họ để dâng của lễ. Kể từ đó, khi cử hành Lễ Vượt Qua mỗi năm, người Do Thái thường hy dâng của lễ là một con cừu, hoặc một con dê cũng có thể được sử dụng vào Lễ Vượt Qua đầu tiên đó. Sau khi bị giết, máu của con vật sẽ được bôi lên các cột cửa và mày cửa của nhà người Y-sơ-ra-ên (12:7). Máu là biểu tượng cho cái chết của người thay thế. Rồi Đức Chúa Trời loan báo: “Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Ê-díp-tô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi” (12:13). Điều này tạo nên một tuyên bố thần học sâu sắc về sự cứu chuộc. Đức Chúa Trời phán rằng huyết của con vật sẽ được chấp nhận thay cho huyết của con đầu lòng. Hành động của sự thay thế này dự báo trước công việc của Đấng Christ, là Đấng đã chết thay cho tất cả chúng ta, những người đáng chịu bản án của sự chết đời đời.

Của lễ hy sinh trong Lễ Vượt Qua không nên được hiểu là một công việc mà dân Y-sơ-ra-ên xứng đáng có được sự giải cứu của họ. Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời luôn luôn là một sự ban cho ân điển của Ngài và không bao giờ là kết quả của nỗ lực hay việc làm xứng đáng. Sau đó, khi dân Y-sơ-ra-ên đương đầu với Biển Đỏ và quân đội Ai Cập đang áp sát từ phía sau, Môi-se nói: “Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự giải cứu Ðức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. Ðức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng.” (14:13-14). Đức Chúa Trời không yêu cầu dân Y-sơ-ra-ên giúp Ngài để cứu họ. Về bản chất, Ngài chỉ nói: “Hãy đứng lại và xem Ta làm điều đó.”

Vì vậy, việc hy sinh và bôi máu không phải là một “công việc”, mà là một minh chứng về sự đáp ứng của những người đã nghe kế hoạch giải cứu của Đức Chúa Trời và tin vào kế hoạch đó. Dân Y-sơ-ra-ên được cứu bởi đức tin, không phải bởi việc làm của chính họ. Và khuôn mẫu đó được thể hiện xuyên suốt Kinh Thánh. Sự cứu rỗi luôn luôn là bởi ân điển, nhờ đức tin, dựa trên huyết—sau cùng là huyết của Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 10:4, 10-14).

Sự cứu rỗi của Đức Giê-hô-va lên đến đỉnh điểm trong lịch sử cứu chuộc khi Chúa Giê-su, Chiên Con của Đức Chúa Trời, đổ huyết Ngài ra cho một thế giới của những tội nhân đang hư mất và hấp hối. Tất cả các Lễ Vượt Qua trước đây đều chỉ đến sự kiện đặc biệt này. Khi suy ngẫm về sự hy sinh của Đấng Christ tại thập tự giá, Phao-lô viết: “Vì Ðấng Christ là con sinh lễ Vượt Qua của chúng ta, đã bị giết rồi” (1 Cô-rinh-tô 5:7). “tin mừng” của phúc âm là sự cứu rỗi thông qua Đấng Christ, Đấng Cứu Rỗi của thế gian.

 

LÊ-VI KÝ: SỰ THÁNH KHIẾT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và hậu quả là sự phân rẽ giữa những người được Ngài chọn ra khỏi tội lỗi và sự ô uế là chủ đề chính của Lê-vi Ký. Nhưng Kinh Thánh muốn nói gì khi sử dụng thuật ngữ thánh? Kô-đéc, là tiếng Do Thái chỉ sự thánh khiết, truyền đạt ý tưởng về “sự biệt riêng” (Lê-vi ký 20:26). Từ kô-đéc nghĩa chính của nó không phải về mặt đạo đức, mặc dù sự thánh khiết về mặt đạo đức hoặc luân lý xuất phát từ ý tưởng về sự biệt riêng (11:44; 19:2). Những gì là “thánh” thì được đánh dấu nổi bật, được biệt riêng và tách khỏi cách dùng thông thường. Sự thánh khiết được coi là đối lập với , “ô uế,” tức là “sự thô tục” (10:10; Ê-xê-chi-ên 22:26). Thực tế là sự thánh khiết phải được hiểu: “Mặc dầu sự hứa nguyện ngươi thể nào, chớ đem vào nhà của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, hoặc tiền công của một con đĩ, hay là giá trả cho một con chó; vì cả hai đều lấy làm gớm ghiếc cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục truyền. 23:18).

Khi chúng ta đọc biết rằng Chúa là thánh, chúng ta phải hiểu rằng Ngài hoàn toàn và tuyệt đối tách biệt khỏi bất cứ điều gì làm ô uế hoặc trái ngược với đặc tính của Ngài. Trong khi thuộc tính “sự thánh khiết” nhấn mạnh tính siêu việt của Đức Chúa Trời, chúng ta khám phá ra rằng sự thánh khiết của Ngài không phải là duy nhất, nhưng cuốn hút những người khác đến với Ngài. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, Ngài phán: “Ðối cùng ta các ngươi hãy nên thánh, vì ta, Ðức Giê-hô-va, là thánh; ta đã phân rẽ các ngươi với các dân, để các ngươi thuộc về ta. (Lê-vi ký 20:26). Ngay cả những đồ vật vô tri vô giác, chẳng hạn như của lễ dâng (2:3) hoặc một ngôi nhà (27:14), có thể được coi là “thánh” nếu chúng được biệt riêng cho Đức Chúa Trời. Khi dân sự được yêu cầu biệt riêng hoặc dành riêng cho Đức Chúa Trời, là Đấng công bình, thì sự thánh khiết mang ý nghĩa của sự trong sạch về mặt đạo đức—phù hợp với các tiêu chuẩn và luật công bình của Đức Chúa Trời (20:7-8).

Một trong những bài học mạnh mẽ nhất về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Lê-vi ký 10. Vào đúng ngày các thầy tế lễ được phong chức và dâng các của lễ hàng ngày bắt đầu, thì hai người con trai của A-rôn, là Na-đáp và A-bi-hu, đã bị mất mạng vì vi phạm nghi lễ của thầy tế lễ. Trong sự phấn khích trước ngọn lửa từ trời giáng xuống thiêu rụi của tế lễ trên bàn thờ, Na-đáp và A-bi-hu đã lạm dụng một số quyền tự do cá nhân, dâng hương không đúng thời điểm và không đúng cách (10:1). Loại lửa này là “không được phép” vì nó trái với nghi lễ tế lễ đã được quy định. Kết quả là Na-đáp và A-bi-hu đã bị Chúa giết chết trong đền tạm.

Hành động của các thầy tế lễ này có gì tồi tệ đến mức phải trả giá bằng mạng sống của họ? Môi-se đã giải thích về cái chết của họ cho A-rôn: “Đây là điều mà CHÚA đã bày tỏ khi ngài phán: “Ta sẽ nhờ những kẻ lại gần ta mà được tôn thánh và được vinh hiển trước mặt cả dân sự” (10:3). Tội lỗi của Na-đáp và A-bi-hu là họ đã thất bại trong việc coi Đức Chúa Trời là thánh. Nếu thuộc tính này bị bỏ qua hoặc lờ đi, thì Ngài sẽ chứng tỏ sự thánh khiết của Ngài qua sự phán xét tội lỗi.

Lê-vi ký 20:22-26 chứa đựng những lẽ thật chính yếu của sách liên quan đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Thứ nhất, Đức Chúa Trời là thánh, vừa siêu việt vừa tách biệt khỏi mọi ô uế đạo đức. Thứ hai, Y-sơ-ra-ên đã được biệt ra khỏi các quốc gia khác bởi sự lựa chọn tối cao của Đức Chúa Trời. Thứ ba, vì dân Y-sơ-ra-ên được biệt riêng ra khỏi các quốc gia khác để phụng sự và tôn vinh Đức Chúa Trời, nên dân chúng phải tuân theo các mệnh lệnh của Đức Giê-hô-va, vốn đã được quy định đường lối cho một đời sống biệt riêng và trong sạch về mặt đạo đức.

Dân Y-sơ-ra-ên phải sống cuộc sống thánh khiết, biệt riêng cho Đức Giê-hô-va là thánh và dân sự của Ngài có liên hệ mật thiết với Ngài. Sự trong sạch về mặt đạo đức là một sự phát triển hợp lý của khái niệm về sự thánh khiết. Những người được biệt riêng cho Chúa phải sống phù hợp với các tiêu chuẩn công bình của Ngài.

Giống như quyền tể trị và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Sự thánh khiết của Ngài là một chủ đề thần học được khai triển xuyên suốt Kinh thánh. Môi-se nói về Đức Chúa Trời là Đấng “vinh hiển trong sự thánh khiết” (Xuất 15:11). Phi-e-rơ xưng nhận Chúa Giê-su là “Đấng Thánh của Đức Chúa Trời” (Giăng 6:69), và ông gọi Chúa Giê-su là “Đấng Thánh và Công bình” (Công vụ 3:14). Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được công nhận bởi bốn “sinh vật sống” trong khải tượng của Giăng, chúng đã tuyên bố “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Chúa, là Ðức Chúa Trời, Ðấng Toàn năng” (Khải huyền 4:8). Và trong Khải huyền 15:4 các thánh trên trời hát một bài hát bao gồm các từ “Chỉ một mình Ngài là thánh.” Phi-e-rơ đã kêu gọi con cái Đức Chúa Trời trở nên giống như Cha của họ trong sự thánh khiết của tấm lòng và đời sống: “Nhưng, như Ðấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình, bởi có chép rằng: Hãy nên thánh, vì ta là thánh” (1 Phi-e-rơ 1:15-16).

 

DÂN SỐ KÝ: SỰ THẠNH NỘ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Sách Dân số ký giới thiệu cho chúng ta một khía cạnh dễ bị hiểu lầm về tính cách của Đức Chúa Trời, về cơn giận thánh của Ngài. Trong Cựu Ước, các thành ngữ “cơn thịnh nộ của CHÚA”, “cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời” và “cơn giận dữ của CHÚA” xảy ra với tần suất đáng ngạc nhiên—khoảng 375 lần. Trên thực tế, Kinh Thánh bao gồm nhiều đề cập đến sự tức giận, cơn giận dữ và thịnh nộ của Đức Chúa Trời hơn là tình yêu và sự dịu dàng của Ngài.

Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời là phản ứng hợp lý và cần thiết của sự thánh khiết và sự công bình của Ngài đối với sự hiện diện của tội lỗi. Cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va là sự bày tỏ tự nhiên về sự thánh khiết của Ngài, chính sự biểu lộ này chống lại tội lỗi cố ý và sự phản nghịch.

Ví dụ về cơn thịnh nộ thánh của Đức Chúa Trời nghịch lại tội lỗi được thấy trong Dân số ký 11:1-3. Chỉ sau ba ngày đi từ Núi Si-na-i, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu lẩm bẩm và phàn nàn về tình trạnh của họ. Điều này phản ánh lòng biết ơn của họ đối với Đức Chúa Trời đối với sự nhân từ trong quá khứ của Ngài và sự thiếu đức tin của họ vào sự cung ứng của Ngài cho những nhu cầu hiện tại. “cơn thạnh nộ Ngài nổi lên, lửa của Ðức Giê-hô-va cháy phừng phừng giữa dân sự và thiêu hóa đầu cùng trại quân.” (Dân số Ký 11: 1). Môi-se đặt tên nơi này là Tha-bê-ra (“cháy”) vì lửa của Ðức Giê-hô-va đã cháy giữa dân sự (11:3).

Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời lại nổi lên khi dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu ăn chim cút mà Đức Chúa Trời đã sai vào trại. Môi-se thuật lại: “Thịt vẫn còn nơi răng, chưa nhai, thì cơn giận của Ðức Giê-hô-va nổi lên cùng dân sự, hành dân sự một tai vạ rất nặng” (11:33). Môi-se đặt tên cho nơi này là Kíp-rốt—Ha-tha-va (“nấm mồ của lòng tham”), cho thấy có lẽ họ thiếu niềm tin vào sự cung ứng đầy đủ của Đức Chúa Trời (Dân số Ký 11:34). Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời được tái hiện khi phán xét Mi-ri-am (12:9-10) và sự hủy diệt đối với những người theo phe nổi dậy Cô-rê  (16:31-33).

Dân số ký dạy chúng ta rằng nhờ lòng thương xót và sự kiên nhẫn của Ngài (14:18), Chúa có thể để cho cơn thịnh nộ của Ngài hành động một cách nhẹ nhàng, để tạo cơ hội cho tội nhân ăn năn. Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời cũng có thể được làm nguôi hoặc xoay chuyển bằng một của lễ hoặc bằng sự cầu thay. Khi dân Y-sơ-ra-ên nổi loạn chống lại Chúa tại Ca-đe Ba-nê-a và tìm kiếm một người lãnh đạo để đưa họ trở lại Ai Cập, lời cầu nguyện của Môi-se đã ngăn chặn sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (14:11-20). Khi dân Y-sơ-ra-ên phàn nàn rằng Môi-se và A-rôn đã gây ra cái chết của Cô-rê và những người theo ông, bệnh dịch đã bày tỏ cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã được kiểm chứng bằng sự hy sinh của Môi-se (16:46-48).

A-sáp người viết thi thiên nhớ lại cơn giận của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên: “cơn giận của Ðức Chúa Trời nổi lên cùng chúng nó (Thi 78:31). Trong Thi thiên 90, là thi thiên duy nhất được viết bởi Môi-se, nhà lãnh đạo vĩ đại của Y-sơ-ra-ên nói về cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời: “Ai biết sức sự giận của Chúa? Tùy theo sự kính sợ xứng đáng cho Chúa, ai biết sức sự nóng nả Chúa?” (90:11). Nhiều câu khác cũng nói về cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời, bao gồm Thi thiên 21:9; 95:11; 106:23; Ê-sai 10:6; 60:10; Giê-rê-mi 7:29; 10:10; Ô-sê 5:10; 13:11. Một số người đã đặt câu hỏi liệu cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời có phù hợp với tình yêu thương thiêng liêng của Ngài hay không. Thực ra không có gì mâu thuẫn khi khẳng định cả hai. Leon Morris đưa ra nhận xét hữu ích này: “Tình yêu của Đức Chúa Trời là một tình yêu ghen tị vì lẽ phải và điều tốt với người yêu mến đến nỗi nó bùng cháy trong cơn thịnh nộ dữ dội để chống lại mọi thứ gian ác.”2 Nếu không có cơn thịnh nộ của Ngài, “Đức Giê-hô-va sẽ không còn là công bình trọn vẹn nữa và tình yêu thương của Ngài sẽ biến thành tình yêu đa cảm.” Ngoài ra, như J. I. Packer chỉ ra cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời “luôn luôn mang tính phán xét—tức là cơn thịnh nộ của vị quan án, cai trị công bằng.” Rô-ma 2:5-6 nhấn mạnh rằng cơn thịnh nộ của Ngài dựa trên công lý, không phải sự độc ác bất công.

Trong khi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời nổi lên trong Cựu Ước, nó cũng được bày tỏ trong Tân Ước. Chỉ có đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã thỏa mãn cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:25; 1 Giăng 2:2), mới có thể cứu tội nhân khỏi sự phán xét thiên thượng.

 

PHỤC TRUYỀN LUẬT LỆ KÝ: TÌNH YÊU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Phục truyền Luật lệ ký trình bày rõ ràng nhất về tình yêu thương của Đức Giê-hô-va đối với dân Ngài và điều cần thiết để dân Ngài đáp lại tình yêu thương đối với Ngài. William Moran đã chỉ ra rằng tình yêu của Đức Chúa Trời trong Phục truyền Luật lệ ký là một tình yêu được xác định và cam kết trong giao ước là—một “tình yêu thuộc giao ước”. Các văn bản ngoại Kinh có niên đại từ thế kỷ thứ mười tám đến thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên sử dụng thuật ngữ tình yêu để mô tả lòng trung thành và tình bạn hợp nhất các vị vua độc lập với nhau, cũng như các vị vua với thần dân của họ. Vì người cai trị được mong đợi là yêu thần dân của mình, vì vậy người dân cũng phải yêu người cai trị của họ.

Một phân đoạn quan trọng về tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Phục truyền Luật lệ ký là 7:7-11. Đức Giê-hô-va không yêu dân Y-sơ-ra-ên vì họ nhiều hơn hay tốt hơn dân các nước khác (7:7). Đúng hơn, Đức Chúa Trời đã giữ giao chính Ngài đối với dân sự tuân theo giao ước của Ngài đã lập với các tổ phụ của họ. Tình yêu thương của Đức Giê-hô-va là tình cảm có chọn lọc, không xứng đáng của Ngài, qua đó Ngài ràng buộc chính Ngài với dân sự của Ngài và dẫn đến sự cứu chuộc họ khỏi cảnh nô lệ. Do đó, những người được cứu chuộc có nghĩa vụ phải thể hiện đáp lại tình yêu của họ đối với Đức Chúa Trời.

Các vị vua thời xưa yêu cầu thần dân của họ phải tuyên thệ trung thành, thể hiện dưới dạng tình yêu. Vì vậy, Đức Giê-hô-va, khi thiết lập giao ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên, cũng đòi hỏi dân Ngài phải yêu thương và vâng phục. Đức Chúa Trời phán với họ: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi.” (6:5). Đây là một tình yêu thương có thể là mệnh lệnh bắt buộc và được định nghĩa với thuật ngữ là lòng trung thành (11:1,22), sự phục vụ (10:12; 11:13) và sự vâng phục (10:12; 19:9).

Khái niệm về tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Phục truyền Luật lệ ký đã làm rõ sự thật rằng mối quan hệ của Ngài với dân Ngài theo giao ước là mối quan hệ của tình yêu thương chứ không phải là luật pháp (4:37; 7:13; 33:3). Tình yêu này là tấm lòng tôn kính cá nhân được tạo thành và duy trì bởi Đức Chúa Trời trong tấm lòng con người (30:6). Tình yêu đối với Đức Giê-hô-va bao gồm cả tấm lòng, linh hồn và sức mạnh—toàn bộ nhân cách của mỗi người. Tình yêu này không phải là thể hiện qua sự vâng phục bề ngoài mà cũng không phải là kết quả của sự xác tín của tấm lòng chân thành (6:5; 13:3). Theo bối cảnh đó, những lời của Chúa Giê-su có ý nghĩa lớn hơn: “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta.” (Giăng 14:15).

Trong khi tình yêu của Đức Chúa Trời được giới thiệu trong Phục truyền Luật lệ ký, chủ đề này được làm nổi bật qua Kinh thánh. Sách Ô-sê sử dụng những bi kịch trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của nhà tiên tri để minh họa tình yêu thương không ngừng của Đức Chúa Trời dành cho dân sự Ngài bất chấp sự bất trung của họ (Ô-sê 1-3). Đức Chúa Trời tiếp tục yêu thương ngay cả khi dân sự của Ngài không giữ lòng trung tín. Tội lỗi và thất bại không làm giảm đi tình yêu thương của Đức Chúa Trời, mặc dù những điều đó có thể dẫn đến những hậu quả không dễ chịu cho chúng ta.

Giăng 3:16 dạy rằng Đức Chúa Trời yêu thương người nam và người nữ đến nỗi đã ban Con của Ngài là Chúa Giê-su để chết thay vì tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Đức Chúa Trời là tình yêu ban cho, hy sinh. Trong Rô-ma 5:8, Phao-lô nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời chủ động thực hiện tình yêu thương. ” Nhưng Ðức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Ðấng Christ vì chúng ta chịu chết.” Phao-lô đã trình bày gương yêu thương hy sinh của Đức Chúa Trời như một khuôn mẫu cho các tín đồ noi theo (Ê-phê-sô 5:1-2).

Trong bài giải thích kinh điển của mình về tình yêu, Giăng đã viết, “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (1 Giăng 4:8), một tình yêu đã được minh chứng một cách sâu sắc trong sự nhập thể của Chúa Giê-su Christ (4:10). Là tín đồ, chúng ta phải yêu vì Ngài đã yêu chúng ta trước (4:11,19). Trong tác phẩm The Brothers Karamazov của Dostoevsky, Cha Zossima nói rằng thiếu tình yêu thương là sự trừng phạt cũng giống như bản chất của tội lỗi. Đối với câu hỏi “Địa ngục là gì?” Cha Zossima trả lời: “Tôi khẳng định rằng đó là nỗi đau khổ khi không thể yêu.” Sau đó, ông lại đưa ra lời kêu gọi: “Hãy yêu một người ngay cả đối với tội lỗi của người ấy, vì đó là vẻ bên ngoài của tình yêu thiên thượng và là tình yêu cao cả nhất trên thế gian này.”

 

BÀI HỌC TỪ NGŨ KINH

Năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh dạy chúng ta một số bài học căn bản về Đức Chúa Trời. Đây là những lẽ thật nền tảng mà bất cứ ai muốn biết Đức Chúa Trời rõ hơn thì phải nhận biết và áp dụng. Những điều này quan trọng đến mức tôi phải yêu cầu các học sinh lớp giáo lý của tôi học thuộc lòng.

 

  • Sáng thế ký: Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể tối cao.
  • Xuất Ê-díp-tô ký: Đức Chúa Trời là Đấng Cứu thế quyền năng.
  • Lê-vi ký: Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết tuyệt đối.
  • Dân số ký: Đức Chúa Trời là một Quan án phẫn nộ.
  • Phục truyền Luật lệ ký: Đức Chúa Trời giàu lòng yêu thương.

 

Tổng hợp lại, những lẽ thật này đã bày tỏ nhiều điều về Đức Chúa Trời và các mục đích của Ngài: Đức Chúa Trời tối cao, là Đấng thánh khiết tuyệt đối, đã phải phản ứng bằng cơn thịnh nộ trước sự phô bày của tội lỗi. Nhưng giàu tình yêu thương, Ngài cung ứng một giải pháp cứu rỗi cho những ai đầu phục Ngài bởi đức tin.

 

 

7

Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời

NHỮNG NGƯỜI SỬ DỤNG các thuật ngữ nhất định để mô tả tính cách của các cá nhân khác. Chúng ta nói một đứa con trai là nhút nhát hoặc dè dặt, và chúng ta nói đến một người khác là người lạc quan và hướng ngoại. Người khác có thể được mô tả là ủ rũ hoặc dễ bị trầm cảm. Các nhà tâm lý học đã phát triển cách tiếp cận này thành một khoa học, xây dựng các bài kiểm tra tính cách thường có thể cho chúng ta biết thêm về con người thực sự như thế nào. Việc kiểm tra như vậy có thể cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về tính cách của một người ngoài những gì là bề ngoài.

Không ai đã xây dựng một bài kiểm tra tính cách để giúp chúng ta nhận biết Chúa. Nhưng Ngài đã cho trong Kinh Thánh nhiều mô tả về những đặc điểm tính cách cơ bản nhất của Ngài. Chúng thường được gọi là “thuộc tính” của Ngài. Một nhà thần học đã định nghĩa các thuộc tính của Đức Chúa Trời là “những đặc điểm phân biệt của thần tính không thể tách rời với ý tưởng về Đức Chúa Trời và tạo thành cơ sở và nền tảng cho các biểu hiện khác nhau của Ngài đối với các tạo vật của Ngài.” Tất nhiên, các thuộc tính của Đức Chúa Trời có thể phân biệt được với các công việc của Ngài, nhưng chúng không phải là không liên quan. Rõ ràng, Đức Chúa Trời là tác nhân chính trong những gì Ngài làm. Các thuộc tính của Đức Chúa Trời bày tỏ bản chất Ngài như thế nào.

Nhiều nhà thần học đã tìm cách phân loại theo nhóm các thuộc tính của Đức Chúa Trời. Herman Bavinck, Louis Berkhof, Charles Hodge, William Shedd, và những người khác theo sau với một số biến thể của các danh mục xuất hiện trong Westminster Confession. Những người khác, chẳng hạn như J. Oliver Buswell Jr. và Charles Ryrie thì không phân loại các thuộc tính. Thông thường, các thuộc tính của Đức Chúa Trời được xếp thành hai loại tương phản với nhau. Các phân loại thường xuyên bao gồm tuyệt đối và tương đối (A. H. Strong), không thể truyền đạt và truyền đạt (William G. T. Shedd, Louis Berkhof), đạo đức và phi đạo đức (Henry C. Thiessen)! Những phạm trù này không khó và các nhà thần học tiếp tục tranh luận về những thuộc tính nào thuộc phạm trù nào. Quan trọng hơn các loại là bản thân các thuộc tính và những gì chúng tiết lộ về Đức Chúa Trời.

Hai điều nổi bật trong Kinh Thánh liên quan đến Đức Chúa Trời. Ngài vĩ đại (Nê-hê-mi 9:32; Thi-thiên 77:13) và Ngài tốt lành (34: 8; 100: 5; Na-vi 1: 7). Sự vĩ đại và tốt lành của Ngài là nền tảng cho sự ngợi khen mà dân sự của Ngài dâng lên Ngài (Ê-xơ-tê 3:11; Thi 48: 1; 96: 4). Tôi đề nghị rằng hai đặc điểm này đóng vai trò là những phạm trù cơ bản nhất mà các thuộc tính của Đức Chúa Trời có thể được xem xét. Tính hợp lệ của việc phân nhóm này cũng đã được các nhà thần học khác công nhận.

Chương này xem xét các thuộc tính nhấn mạnh sự vĩ đại và duy nhất của Đức Chúa Trời, và chương sau tập trung vào lòng tốt của Đức Chúa Trời và những thuộc tính cung cấp nền tảng cho các hành vi nhân từ của Ngài với nhân loại. Thứ tự mà các thuộc tính này được thảo luận không nhằm phản ánh mức độ ưu tiên hoặc tầm quan trọng của chúng.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ LINH

 

Trong số những thuộc tính cơ bản nhất của Đức Chúa Trời là sự thật rằng Ngài là một đấng thuộc linh. Chúa không được cấu tạo từ vật chất vật chất. Trong cuộc trò chuyện của Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri, Ngài nói về thuộc tính này: “Đức Chúa Trời là linh, và những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và lẽ thật” (Giăng 4:24). Bản chất thiêng liêng của Đức Chúa Trời cũng được gợi ý bởi nhiều đề cập đến Ngài là “vô hình” (Cô-lô-se 1:15; 1 Ti-mô-thê 1:17; Hê-bơ-rơ 11:27). Chúa Giê-su cũng nói rằng không ai đã từng thấy Đức Chúa Trời là Cha (Giăng 1:18; 5:37; 6:46).

Sự thật rằng Đức Chúa Trời là thần linh phân biệt Đức Chúa Trời thật với các hình thức thờ phượng ngẫu tượng rất thịnh hành vào thời Kinh thánh. Đức Chúa Trời thật, là linh, không thể được ví với bất kỳ hình thức vật chất nào. Vì vậy, dân Y-sơ-ra-ên được hướng dẫn trong điều đầu tiên trong Mười Điều Răn là không được tạo ra bất kỳ hình tượng hoặc hình ảnh thể chất nào của Đức Chúa Trời (Xuất 20: 4). Ê-sai chế nhạo kẻ thờ thần tượng, người làm tượng thờ rồi “lấy đinh đóng nó cho khỏi lung lay” (Ê-sai 41:7). Đại diện cho Đức Chúa Trời về mặt thể chất là trình bày sai về Ngài và gây hiểu lầm và lừa dối người khác.

Người ta có thể phản đối thuộc tính này bằng cách trích dẫn các tham chiếu đến các đặc điểm thể chất của Đức Chúa Trời như khuôn mặt, bàn tay và lưng của Ngài (Xuất 33: 20-23). Nhưng đây chỉ đơn giản là một cách thể hiện lẽ thật thuộc linh về Đức Chúa Trời thông qua phép loại suy của con người. Khi Đức Chúa Trời phán về dân Y-sơ-ra-ên, “Hãy xem, Ta đã khắc các ngươi vào lòng bàn tay ta” (Is. 49:16), Ngài chỉ đơn giản nói bằng cách ví von rằng dân Ngài sẽ không bị lãng quên hay bỏ mặc. Nó giống như thể Đức Chúa Trời buộc một sợi dây quanh ngón tay của Ngài để nhắc nhở chính Ngài phải quan tâm đến Y-sơ-ra-ên. Bất kỳ tham chiếu nào đến các đặc điểm cơ thể của Đức Chúa Trời (ví dụ, đôi mắt, khuôn mặt, cánh tay của Ngài) đều là theo thuyết thần nhân đồng hình và không nên hiểu theo nghĩa đen.

Việc Đức Chúa Trời là một đấng thiêng liêng có ý nghĩa đối với việc thờ phượng. Quan điểm của Chúa Giê-su với người phụ nữ Samari là không quan trọng bạn thờ phượng trên Núi Gerizim hay trên đỉnh đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Việc thờ phượng phải tập trung vào thực tế thuộc linh, không phải hình thức vật chất, và không nên bị giới hạn bởi thời gian hoặc địa điểm. Là tín đồ Đấng Christ, chúng ta phải thờ phượng Đức Chúa Trời “trong tâm thần và lẽ thật” (Giăng 4:24), nghĩa là theo cách phù hợp với bản chất thuộc linh chân thật của Ngài.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI HẰNG SỐNG

Trái với lời dạy của triết gia người Đức Friedrich Nietzsche (1844-1890), Chúa không chết. Theo Kinh Thánh, Ngài rất sống động và năng động. Người viết Thi-thiên kêu lên: “Linh hồn tôi khao khát Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời hằng sống” (Thi 42: 2). Giê-rê-mi nói, “Nhưng CHÚA là Đức Chúa Trời thật; Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, là Vua đời đời” (Giê-rê-mi 10:10). Phi-e-rơ đã thú nhận rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si, “Con của Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Phao-lô thừa nhận rằng dân Tê-sa-lô-ni-ca từ bỏ thần tượng của họ để phụng sự “Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 1: 9). Ông nhắc nhở Ti-mô-thê rằng chúng ta là những người tin Chúa “đã đặt hy vọng vào Đức Chúa Trời hằng sống” (1 Ti-mô-thê 4:10). Đấng thiêng liêng trong khải tượng khải huyền của Giăng đã tuyên bố, “Tôi là Đầu tiên và Cuối cùng. Tôi là Đấng Sống; Tôi đã chết, và này tôi là mãi mãi!” (Khải 1: 17-18).

 

Sự sống mà Đức Chúa Trời sở hữu khác với sự sống mà các sinh vật khác được hưởng. Cuộc sống vật chất của chúng ta có khởi đầu và kết thúc. Nhưng sự sống mà Đức Chúa Trời sở hữu là vĩnh cửu. Sự sống là nội tại của chính bản chất của Ngài. Chúa Giê-su nói Ngài “có sự sống trong chính mình” (Giăng 5:26). Cuộc sống của anh ấy không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Một đặc điểm quan trọng khác về sự sống của Đức Chúa Trời là nó không lệ thuộc vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai. Cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào thức ăn, nước uống, giấc ngủ, oxy và một loạt các nhu cầu thiết yếu khác. Phao-lô chỉ ra cho người Athen rằng Đức Chúa Trời không “do bàn tay con người phục vụ, như thể Ngài cần bất cứ vật gì, vì chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở và mọi thứ khác” (Công vụ 17:25).

Việc Đức Chúa Trời sở hữu thuộc tính của sự sống có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời có sự sống trong chính Ngài và có thể truyền sự sống đó cho người khác (Sáng 2: 7). Chúa Giê-xu đã dựa trên lẽ thật này khi Ngài nói với những kẻ tố cáo Ngài, ” Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy” (Giăng 5:21)

 

Cả Cha và Con đều có sự sống trong chính mình và do đó có thể cấp ban sự sống vĩnh cửu cho những người đã chết về phần thuộc linh (5:24) và sự sống phục sinh cho những người đã chết về thể chất (5: 28-29). Sự thật rằng Đức Chúa Trời đang sống có nghĩa là những ai đặt đức tin vào Ngài sẽ được sống đời đời. Những ai từ chối Ngài sẽ bỏ lỡ cơ hội đó mãi mãi.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐỜI ĐỜI

Đức Chúa Trời là vĩnh hằng, tức là Ngài luôn hiện hữu và luôn luôn hiện hữu. Sáng thế ký 1: 1 khẳng định sự tồn tại của Đức Chúa Trời ngay từ thuở sơ khai, “Ban đầu Đức Chúa Trời ….” Trong khi sự sáng tạo có một thời điểm bắt đầu, Đức Chúa Trời không có sự khởi đầu như vậy. Môi-se gọi Đức Chúa Trời là “Đức Chúa Trời đời đời” (Phục truyền Luật lệ Ký 33:27), và Phao-lô cũng nói như vậy (Rô-ma 16:26). Mặc dù không thể hiểu được, nhưng Chúa đã tồn tại từ quá khứ vĩnh cửu và sẽ tiếp tục tồn tại trong suốt tương lai vĩnh cửu. Trong Thi thiên 90: 2, Môi-se tuyên bố, “Trước khi núi non chưa sanh ra,

Đất và thế gian chưa dựng nên,

Từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là Đức Chúa Trời.”

Và Ê-sai gọi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng sống” (Ê-sai 40:28). Thực tế về sự tồn tại vĩnh cửu của Đức Chúa Trời là nội tại đối với tên riêng của Ngài, Yahweh, có thể có nghĩa là, như đã thảo luận trước đó, “Đấng Ta Là/ Dắng Tự Hữu.”

Sự vĩnh cửu của Đức Chúa Trời có ý nghĩa quan trọng. Vì Ngài là vĩnh hằng, nên Ngài không bị ràng buộc bởi những giới hạn của thời gian. Ngài có thể nhìn lại mãi mãi và hướng về phía trước mãi mãi. Ngàia nhìn quá khứ và tương lai như thể chúng là hiện tại. Và trong khi con người bị giới hạn về kiến ​​thức của họ bởi các sự kiện xảy ra liên tục, thì Đức Chúa Trời không biết giới hạn đó. Ví dụ, tôi không thể biết con dâu của tôi sẽ là ai vì con trai tôi chưa kết hôn. Nhưng Chúa biết con dâu của tôi sẽ là ai vì Ngài nhìn tương lai như tôi nhìn hiện tại. Sự thật rằng Đức Chúa Trời là vĩnh cửu cho tôi niềm tin vào kế hoạch của Ngài cho cuộc đời tôi. Không có gì làm Ngài ngạc nhiên. Ngài là ” Đầu tiên và … Cuối cùng”, “Alpha và Omega,” “Khởi đầu và Kết thúc” (Is. 44: 6; Khải 1: 8; 21: 6). Ngài biết “sự kết thúc ngay từ đầu” (Ê-sai 46:10) và mọi thứ ở giữa tiến trình đó.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG BIẾT HẾT MỌI SỰ

Kinh thánh dạy rằng Đức Chúa Trời biết mọi điều. Như sứ đồ Giăng đã viết, “Đức Chúa Trời cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi sự” (1 Giăng 3:20). Phi-e-rơ đề cập đến thuộc tính này khi ông nói với Chúa Giê-su, “Lạy Chúa, Chúa biết mọi điều; Chúa biết rằng con yêu Chúa” (Giăng 21:17). Các nhà thần học gọi thuộc tính này là toàn tri, từ omni trong tiếng Latin, “tất cả,” và cosia, “tri thức.” Giáo lý về sự toàn tri trong Kinh thánh có nghĩa là Đức Chúa Trời – nhờ bản chất thiêng liêng của Ngài và không cần nỗ lực học hỏi – biết mọi sự vật, quá khứ, hiện tại và tương lai. Chúng ta có thể nói nhiều điều khác nữa về sự toàn tri của Ngài.

Đầu tiên, Chúa biết tất cả những thứ tồn tại trên thực tế. Trước giả sách Hê-bơ-rơ đã tuyên bố: ” Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta phải thưa lại” (Hê 4:13). Đa-vít cầu nguyện: “Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi,

Quen biết các đường lối tôi.

Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi,

Kìa, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã biết trọn hết rồi.

(Thi. 139: 3-4). Chúa Giê-su nói rằng Cha trên trời của chúng ta “biết những gì các ngươi cần trước khi cầu hỏi Ngài” (Mat 6: 8). Chúa biết khi nào một con chim sẻ rơi xuống đất (10:29). Ngài thậm chí biết số lượng sợi tóc trên đầu chúng ta (10:30), và Ngài biết điều gì trong lòng chúng ta (1 Sa-mu-ên 16:7; Lu-ca 16:15; Giăng 2:25) và những suy nghĩ (Ê-xê-chi-ên 11:6).

Thứ hai, Chúa biết tất cả các sự kiện trong tương lai. Đây là cơ sở để tiên tri dự đoán. Bởi vì Đức Chúa Trời biết trước tương lai, Ê-sai đã có thể thông báo về sự xuất hiện của vua Si-ru để giải cứu người Do Thái khỏi Ba-by-lôn khoảng 150 năm trước khi sự kiện xảy ra (Ê-sai 45:1-3). Vì Đức Chúa Trời biết trước tương lai, Đa-ni-ên có thể dự đoán sự trỗi dậy và sụp đổ của các quốc gia sẽ thống trị Y-sơ-ra-ên (Đan. 2: 36-43; 7: 4-8). Vì Đức Chúa Trời biết trước tương lai, Xa-cha-ri có thể đoán trước rằng Chúa Giê-su sẽ vào thành Giê-ru-sa-lem “nhu mì và cưỡi lừa, tức là con của lừa cái” (Xa-cha-ri 9:9; Ma-thi-ơ 21:1-7).

 

Bởi vì Đức Chúa Trời biết trước tương lai, các tác giả của Kinh thánh đã có thể thông báo về sự xuất hiện của các sự kiện cánh chung như Sự cất lên, Đại nạn, vương quốc ngàn năm, trời mới và đất mới. Đức Chúa Trời biết trước tương lai bởi vì Ngài kiểm soát tương lai. Ngài “làm mọi việc phù hợp với mục đích của ý muốn mình” (Ê-phê-sô 1:11).

Thứ ba, Chúa biết những điều có thể đã xảy ra nếu các biến số khác nhau. Chẳng hạn, Ngài biết rằng những người ở Tyre và Sidon sẽ ăn năn nếu họ chứng kiến ​​những phép lạ xảy ra ở Chorazin và Bethsaida (Mat 11:21).

Bởi vì Đức Chúa Trời có thể nhìn xa hơn bề mặt và có quyền truy cập vào mọi thông tin, chúng ta biết rằng những phán xét và quyết định của Ngài là khôn ngoan và công bình. Bởi vì Đức Chúa Trời biết tất cả mọi thứ, nên Ngài có thể bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm về những thái độ cũng như hành động không thể nhìn thấy được của chúng ta. Bởi vì Đức Chúa Trời biết tất cả các kết quả tiềm năng của các hành động có thể xảy ra của chúng ta, chúng ta phải tin cậy sự dẫn dắt của Ngài trên con đường sự sống.

Một số người có thể thắc mắc tại sao nên khuyến khích các tín hữu mang mối quan tâm cầu nguyện của họ lên Đức Chúa Trời nếu Ngài đã biết nhu cầu của chúng ta. Câu hỏi hay! Điều quan trọng là nhận ra rằng cầu nguyện bao hàm nhiều điều hơn là đưa cho Đức Chúa Trời một danh sách điều ước. Nếu lần duy nhất các con tôi giao tiếp với tôi là gửi cho tôi danh sách Giáng sinh của chúng, tôi sẽ thất vọng. Cầu nguyện là giao tiếp với Chúa. Và Ngài thích giao tiếp và mối quan hệ với nó. Đức Chúa Trời biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta cầu nguyện (Phi-líp 4: 6; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17). Tôi hài lòng khi các con tôi tiếp cận tôi với những yêu cầu của chúng. Nó cho chúng tôi một cơ hội để nói chuyện và một cơ hội để tôi bày tỏ tình yêu của mình. Tôi tin chắc rằng Đức Chúa Trời thích nghe những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dù Ngài biết nhu cầu của chúng ta ngay cả trước khi chúng ta nói với Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG TOÀN NĂNG

Một sự thật khác về Đức Chúa Trời là trong Ngài có tất cả mọi quyền năng hoặc toàn năng. Từ toàn năng xuất phát từ các từ trong tiếng Latinh omni, “tất cả” và potens, “mạnh mẽ”. Sự toàn năng của Đức Chúa Trời có nghĩa là Ngài có thể làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Ngài. Gabriel đã công bố sự thật này khi Ma-ri được cho biết rằng bà sẽ trở thành mẹ của Đấng Mê-si: “Đối với Đức Chúa Trời, không có gì là không thể làm được” (Lu-ca 1:37). Chính Chúa Giê-su đã nói với các môn đồ của Ngài rằng: “Với Đức Chúa Trời, mọi sự đều có thể làm được” (Mat 19:26). Đức Chúa Trời mô tả chính Ngài là “Đấng toàn năng” (Khải huyền 1: 8).

Sự toàn năng của Đức Chúa Trời được thể hiện trong lời tường thuật của Kinh thánh về sự sáng tạo. Khi Đức Chúa Trời phán, “Hãy có ánh sáng” (Sáng 1: 3), thì ánh sáng đã hiện hữu. Mô hình này thể hiện rõ ràng trong sáu ngày sáng tạo khi Đức Chúa Trời phán tạo sự tồn tại. Ngài đã làm tất cả điều này bởi quyền năng toàn năng của Ngài. Đa-vít thừa nhận, “Tiếng của CHÚA thật quyền năng” (Thi 29: 4). Suy ngẫm về quyền năng của Đức Chúa Trời, Giê-rê-mi cầu nguyện: “Ôi, Đức Giê-hô-va tối cao, Chúa đã làm nên trời và đất bởi quyền năng lớn lao và cánh tay dang rộng của Ngài. Không có gì là quá khó cho con” (Giê-rê-mi 32:17).

Cuộc di cư của Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập được coi là một sự phô trương khác về quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời (Xuất 14:31). Sau khi giải cứu Y-sơ-ra-ên băng qua Biển Đỏ và tiêu diệt dân Ai Cập, Môi-se kêu lên: “Lạy Chúa, cánh tay phải của Chúa, uy nghi đầy quyền năng” (15: 6). Khi dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng lo lắng không biết họ sẽ lấy bữa ăn tiếp theo ở đâu, Đức Chúa Trời hỏi Môi-se, “Quyền năng của Chúa có giới hạn không?” (Dân số ký 11:23, NASB). Câu trả lời ngụ ý là không. Đức Chúa Trời toàn năng có thể đáp ứng nhu cầu của dân Ngài.

Quyền năng tuyệt đối của Đức Chúa Trời được thể hiện rõ ràng trong khả năng của Ngài trong việc di chuyển các sự kiện của lịch sử (Ê-sai 14: 26-27). Ngài có thể đưa tất cả các sự kiện và tất cả mọi người đến kết cục đã định trước của họ (Ê-phê-sô 1:11; Rô-ma 8: 29-30). Ngay cả khi đối mặt với tội lỗi và sự bất tuân, các mục đích vĩnh cửu của Đức Chúa Trời không bị thất vọng trước sự phản nghịch của con người. Thay vào đó, các mục đích của Ngài được hoàn thành (Giăng 12: 37-40; 17:12; Công vụ 2:23; 4: 27-28).

Trong khi quyền năng của Đức Chúa Trời được thể hiện trong sự sáng tạo, cuộc Xuất hành và trong sự kiểm soát của Ngài đối với lịch sử, thì sự thể hiện quyền năng toàn năng của Ngài là trong sự cứu rỗi của chúng ta. Phúc âm là “quyền năng của Đức Chúa Trời” để cứu rỗi (Rô-ma 1:16).

Chúa Giê-su được xức dầu “bằng Đức Thánh Linh và quyền năng” (Công vụ 10:38). Sự phục sinh của Ngài thể hiện quyền năng của Đức Chúa Trời (Phi-líp 3:10). Và quyền năng của Đức Chúa Trời được thể hiện qua khả năng Ngài cứu những ai tin vào Đấng Christ và giữ họ trong sự cứu rỗi (1 Cô 1:18; 6:14; 1 Phi 1: 5).

Trong khi Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, Kinh Thánh cho biết có một số điều Ngài không thể làm. Đây là những điều không hòa hợp với bản chất của Ngài. Đức Chúa Trời không thể phạm tội hoặc chấp nhận điều ác (Heb. 1:13; Gia-cơ 1:13), Ngài không thể nói dối (Hê-bơ-rơ 6:18), và Ngài không thể bất trung hoặc phá vỡ lời hứa của Ngài (2 Ti-mô-thê 2:13; Hê-bơ-rơ 13:5). Ngài cũng không thể làm bất cứ điều gì mà theo định nghĩa là không thể, chẳng hạn như tạo ra một hình tròn vuông, một hình chữ nhật tròn, hoặc một hình tam giác có bốn cạnh.

Khi đối mặt với những khó khăn không thể vượt qua và những hoàn cảnh đe dọa, chúng ta nên nhớ rằng không có gì là quá khó đối với Chúa, giống như một thiên sứ đã nhắc nhở Áp-ra-ham (Sáng 18:14). Thật khích lệ biết bao khi biết rằng Đức Chúa Trời toàn năng truyền sức mạnh của Ngài cho dân sự của Ngài. Những ai trông cậy vào Chúa sẽ “cất cánh bay như chim đại bàng” (Ê-sai 40:31). Họ sẽ có thể làm “mọi sự” nhờ Đấng Christ, Đấng làm thay cho họ (Phi-líp 4:13).

Có lần một người đàn ông đến gần Chúa Giê-xu, cầu xin Ngài giải cứu con trai mình khỏi một ác thần gây ra chứng động kinh. Ông đã yêu cầu các môn đồ của Chúa Giê-su đuổi quỉ, nhưng họ không làm được. Vì vậy, trong lúc tuyệt vọng, cha của cậu bé đã cầu xin Chúa Giê-su rằng: “Nhưng nếu thầy có thể làm được gì, xin thương xót chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi” (Mác 9:22). Chúa Giê-su trả lời: “Nếu thầy có thể”? … Ai tin thì mọi sự đều có thể được “(9:23). Cha của cậu bé đang tự hỏi liệu Chúa Giê-su có đủ quyền năng để giải cứu cậu bé bị quỷ ám hay không. Chúa Giê-su chỉ ra rằng vấn đề không phải là quyền năng thần thánh của Ngài, mà là vấn đề về niềm tin của người cha. Đức Chúa Trời không có giới hạn trong khả năng của Ngài để hoàn thành những điều lớn lao cho những ai sẽ tiếp cận Ngài với niềm tin. Thật là một sự khích lệ khi biết rằng chúng ta phụng sự Đức Chúa Trời toàn năng!

ĐỨC CHÚA TRỜI Ở TẤT CẢ MỌI NƠI CÙNG MỘT LÚC

Bởi vì Đức Chúa Trời là Linh, chứ không phải là một thực thể vật chất, Ngài có thể ở khắp mọi nơi cùng một lúc. Đa-vít đã suy ngẫm về lẽ thật này khi ông viết, “Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa?

Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?

Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó,

Ví tôi nằm dưới Âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó.

Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông,

Bay qua ở tại cuối cùng biển,

Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi,

Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi.” (Thi 139:7-10). Đây là lẽ thật về sự toàn năng của Đức Chúa Trời, có nghĩa là Đức Chúa Trời hiện diện ở khắp mọi nơi. Đức Chúa Trời hiện diện khắp vũ trụ.

Điều quan trọng là phải phân biệt giáo lý Kinh thánh về sự toàn năng của Đức Chúa Trời với quan điểm sai lầm về thuyết phiếm thần. Sự toàn tri nói rằng Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, mặc dù tách biệt khỏi thế giới và vạn vật trong đó. Mặt khác, thuyết phiếm thần dạy rằng Chúa ở trong mọi thứ. Kinh thánh khẳng định rằng Đức Chúa Trời hiện diện với bạn khi bạn đọc cuốn sách này, trong khi thuyết phiếm thần dạy rằng Đức Chúa Trời ở trên chiếc ghế mà bạn đang ngồi. Thuyết phiếm thần bóp méo học thuyết về sự bất diệt của Đức Chúa Trời (sự hiện diện) và thất bại không thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đang hoạt động trong cõi sáng tạo của Ngài, nhưng Ngài không đồng nhất với nó.

Đa-vít nhận ra rằng không có nơi nào mà ông có thể đến, nơi không thể tìm thấy Đức Chúa Trời. Không nơi nào trong sự sáng tạo của Ngài mà Đức Chúa Trời vắng mặt hoặc không thể đến được. Giê-rê-mi trích lời Chúa nói, “Ta chỉ là Chúa ở gần …. chứ không phải Chúa ở xa sao?” (Giê 23:23). Hàm ý là Đức Chúa Trời vừa “ở gần” vừa “ở xa”. Chúa chỉ ra trong câu tiếp theo rằng không có nơi nào trong cõi sáng tạo mà con người có thể trốn tránh sự hiện diện của Đức Chúa Trời. “Chẳng phải ta đầy dẫy các từng trời và đất sao? » (Giê. 23:24).

Giáo lý về sự toàn năng của Đức Chúa Trời được bày tỏ với danh “Em-ma-nu-ên”, một danh xưng cuối cùng đã được ứng nghiệm trong Đấng Christ (Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:23). Tên tiếng Do Thái có nghĩa là “Chúa ở cùng chúng ta.” Trong Chúa Giê-su Christ, Đức Chúa Trời hiện diện giữa dân Ngài. Chúa Giê-su đã nâng cao ý nghĩ này khi Ngài nói với các môn đồ của Ngài, “Vì nơi nào có hai hoặc ba người nhân danh ta nhóm lại, thì ta ở đó với họ” (Ma-thi-ơ 18:20). Khi kết thúc sứ vụ trên đất của Ngài, Ngài đã ủy nhiệm cho các sứ đồ ra đi và “đào tạo môn đồ” (28:19) và Ngài đã hứa với họ, “Chắc chắn ta luôn ở cùng các ngươi, cho đến tận cùng thời đại” (28:20). Ngài sẽ ở với từng môn đồ khi họ bị tản lạc ra khỏi Giê-ru-sa-lem để đi rao giảng khắp thế giới.

Khi nguy hiểm đe dọa hoặc tai họa ập đến, chúng ta có thể yên tâm về sự hiện diện riêng của Đức Chúa Trời để an ủi và xoa dịu chúng ta. Những lời của Ngài thật an ủi biết bao, “Ta sẽ không bao giờ bỏ ngươi; ta sẽ không bỏ ngươi bao giờ” (Hêb 13: 5). Chúa Giê-su là Người Chăn Nhân Lành không bao giờ bỏ chiên của Ngài trong lúc nguy khốn (Giăng 10: 11-12). Giáo lý về sự toàn tri của Đức Chúa Trời cũng như một lời cảnh báo cho những ai có ý nghĩ về tội lỗi và không vâng lời. Đức Chúa Trời không vắng mặt chính Ngài khỏi những người làm buồn lòng Ngài. Ngài có mặt trong mọi lời nói dối, trộm cắp và ngoại tình. Ngài có mặt khi chúng ta đang xem truyền hình, kể chuyện cười và hoàn thành các biểu mẫu thuế thu nhập. Tôi tự hỏi những người tin Chúa sẽ cư xử khác nhau như thế nào nếu họ thực sự tin rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện với họ ở mọi nơi và mọi lúc.

CHÚA KHÔNG THAY ĐỔI

Trong một thế giới đặc trưng bởi sự thay đổi, thật yên tâm khi biết rằng có ít nhất Một người là không đổi. Chúa không thay đổi. Anh ấy là không thay đổi và không thể thay đổi. Các nhà thần học gọi đây là thuộc tính của sự bất biến. Gia-cơ viết rằng Đức Chúa Trời luôn ban cho những món quà tốt. “Mọi sự ban cho tốt lành và trọn vẹn là từ trên cao xuống, bởi Cha là các ánh sáng trên trời, là Đấng không hề thay đổi như bóng mờ” (Gia-cơ 1:17). Trong Ma-la-chi 3: 6, Đức Chúa Trời đã tuyên bố qua tiên tri, “Ta là CHÚA không hề thay đổi. Vì vậy, các ngươi, hỡi dòng dõi của Gia-cốp, không bị tiêu diệt.” Nếu Đức Chúa Trời có khả năng thay đổi, Ngài có thể sẵn sàng phá bỏ lời hứa của Ngài và hủy diệt một quốc gia tội lỗi (Thi 89:34). Nhưng dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục tồn tại vì mục đích và đặc tính không thay đổi của Đức Chúa Trời! Một tác giả Thi thiên ẩn danh đã tuyên bố rằng trong khi trời và đất sẽ “hư mất”, “hao mòn” và “thay đổi,” thì Đức Chúa Trời vẫn như vậy mãi mãi (102: 26-27).

Tuy nhiên, Kinh Thánh có dạy rằng Đức Chúa Trời thay đổi ý định của Ngài không? Xuất Ê-díp-tô Ký 32:14 ghi lại rằng “Chúa đã thay đổi ý định của Ngài về sự tổn hại mà Ngài phán rằng Ngài sẽ làm cho dân sự của Ngài” (NASB). Trong 1 Sa-mu-ên 15:11, Chúa phán: “Ta lấy làm tiếc vì đã lập Sau-lơ làm vua” (Nash). Giô-na 3:10 (sass) ghi lại rằng Đức Chúa Trời “hài lòng về tai họa mà Ngài đã tuyên bố là Ngài sẽ giáng xuống” dân Ni-ni-ve. Động từ tiếng Hê-bơ-rơ được sử dụng trong mỗi đoạn này là naham (“xin lỗi, ăn năn, hối hận”), cho rằng Ngài là một kiểu phản ứng của con người. Từ góc nhìn hạn chế của chúng ta, có vẻ như mục đích của Đức Chúa Trời đã thay đổi. Khi người ta ăn năn để đáp lại những lời cảnh báo của đấng tiên tri, thì Ngài sẽ giữ lại sự phán xét. Nhưng Ngài đã không thực sự thay đổi ý định hoặc mục đích của Ngài; Ngài chỉ đơn giản đáp lại sự ăn năn bằng một biểu hiện của ân sủng. Để thảo luận thêm về vấn đề này, hãy xem chương 20, “Trả lời cho những câu hỏi hóc búa về Đức Chúa Trời.” Việc Đức Chúa Trời không thay đổi cung cấp một cơ sở thần học vững chắc cho sự an toàn và hy vọng của người tin Chúa. Sự bất biến của Đức Chúa Trời có nghĩa là các kế hoạch và mục đích của Ngài không thể thay đổi hoặc sửa đổi. Khi Ba-la-am được thuê để nguyền rủa Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời hướng dẫn ông ta tuyên bố rằng: “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối,

Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải.

Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm ư?

Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?

20 Nầy, tôi đã lãnh mạng chúc phước;

Ngài đã ban phước, tôi chẳng cãi đâu”

(Dân-số Ký 23:19-20). Những gì Đức Chúa Trời đã có ý định làm trên thực tế sẽ được hoàn thành. Những lời hứa và giao ước của ‘Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện.

ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỘC LẬP VỚI CÕI SÁNG TẠO

Chúa hoàn toàn tự do và độc lập. Ngài “có sự sống trong chính Ngài” (Giăng 5:26), và sự sống này hoàn toàn độc lập với những người khác. Ngài không có nhu cầu phải được đáp ứng từ cõi sáng tạo của Ngài hoặc từ con người.

Đức Chúa Trời không bị chủ thể nào thao túng hay áp đặt lên Ngài những kế hoạch. Các tác phẩm của Ngài là do Ngài tự quyết định thay vì bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ, cảm xúc và kế hoạch của bất kỳ ai khác. Ê-sai đã nghĩ đến thuộc tính này của Đức Chúa Trời khi ông viết, “Ai lường được Thần của Đức Chúa Trời, và làm mưu sĩ Ngài, đặng dạy Ngài điều gì? Nào Ngài đã bàn luận với ai? Ai đã dạy khôn cho Ngài và dạy Ngài đường công nghĩa? Nào ai đã đem sự thông biết dạy Ngài và chỉ cho Ngài lối khôn ngoan?” (Ê-sai 40:13-14). Mở rộng ý tưởng của Ê-sai, Phao-lô viết, “Hay là ai đã cho Chúa trước, đặng nhận lấy điều gì Ngài báo lại?” (Rô-ma 11:35). Nói cách khác, Đức Chúa Trời không nợ ai. Ngài có nghĩa vụ phải trả ơn cho một ai không? Câu trả lời là không. Đức Chúa Trời hoàn toàn tự do.

Đức Chúa Trời tự do hoàn thành điều tốt theo ý muốn của Ngài (Ê-phê-sô 1: 5). Ngài cũng có thể cho phép điều ác, mặc dù không hài lòng (Công vụ 2:23). Đức Chúa Trời tự do lựa chọn một số người cho chính Ngài (Ma-la-chi 1: 2; Ê-phê-sô 1: 4), và Ngài tự do bỏ qua những người khác (Ma-la-chi 1: 3; Rô-ma 9:22). Ngài toàn quyền làm cho chết, hoặc làm cho sống (1 Sa-mu-ên 2:6). Ngài toàn quyền hạ người này xuống, nhắc người kia lên (2:7-8). Ngài khiến các thánh đồ đã chết được sống lại (Giăng 5:21), và Ngài toàn quyền làm cho kẻ chết sống lại và rồi thi hành sự phán xét (5:27, 29).

Trong khi Đức Chúa Trời độc lập và toàn quyền tuyệt đối, có một số điều Ngài không thể làm vì chúng trái với bản chất của Ngài. Chẳng hạn, Ngài không thể nói dối (Hê-bơ-rơ 6:18), bất trung (2 Ti-mô-thê 2:13), hoặc làm điều ác (Hê-bơ-rơ 1:13; Gia-cơ 1:13). Không có khả năng phạm tội không được coi là yếu đuối trong bản chất của Ngài; thay vào đó nó phản ánh sự nhất quán thiêng liêng về bản chất và thuộc tính của Ngài.

Vì Đức Chúa Trời tự do, toàn quyền và độc lập, nên Ngài không cần bất cứ thứ gì chúng ta dâng lên. Chúng ta không hề đóng góp bất cứ điều gì cho Đức Chúa Trời để xứng đáng với sự chú ý hoặc quan tâm của Ngài. Không có gì Chúa đã làm cho chúng ta vì Ngài có nghĩa vụ phải đáp trả chúng ta. Tất cả những gì Ngài đã làm cho chúng ta là từ tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Và không có cách nào để chúng ta có thể trả lại cho Ngài những ân phước này vì Ngài không có nhu cầu. Hiểu được điều này về Đức Chúa Trời giúp chúng ta đánh giá cao sự siêu vĩ đại của ân điển thiêng liêng mà Ngài đã ban cho chúng ta cách miễn phí. Và dĩ nhiên, khi đã am hiểu bài học này, chúng ta có thể nào bước đi mà phớt lờ các mạng lệnh và trách nhiệm Ngài đã giao phó?

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG MÀ CON NGƯỜI KHÔNG THỂ DÒ LƯỜNG HẾT ĐƯỢC

Một trong những thuộc tính quan trọng nhất cần suy ngẫm khi xem xét bản chất của Đức Chúa Trời là chúng ta không có khả năng hiểu tất cả những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Khi chúng ta khẳng định rằng Đức Chúa Trời không thể hiểu được, chúng ta đang nói rằng vẫn còn một bí ẩn về thân vị của Ngài mà chúng ta không thể biết mặc dù đã nghiên cứu cẩn thận. Phao-lô đề cập đến điều này khi ông viết, “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?” (Rô-ma 11:33-34).

Đức Chúa Trời đã bày tỏ rất nhiều về chính Ngài cho con người qua sự mặc khải phổ quát và mặc khải đặc biệt. Các sự mặc khải này cho phép chúng ta biết Ngài trong giới hạn. Nhưng vẫn còn nhiều điều về Chúa bị che giấu. Gióp công nhận rằng Đức Chúa Trời “thực hiện những điều kỳ diệu không thể tin được, những phép lạ không thể đếm được” (Gióp 9:10). Trước câu hỏi của Sô-pha, “Nếu ông dò xét, há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. Và thấu rõ Đấng Toàn năng sao?” (Gióp 11:7). Chúng ta phải trả lời câu này cách rõ ràng là không. Trong khi Đức Chúa Trời là “Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm” (Đa-ni-ên 2:47), thì Ngài vẫn giữ một số bí ẩn về chính Ngài. Chúa có thể được biết đến, nhưng không thể mổ xẻ và phân tích hết được. Ngài có thể được hiểu, nhưng con người không thể hiểu Ngài hoàn toàn. Một số điều thuộc về Ngài là bí mật (Phục truyền. 29:29).

Các nhà thần học thường xuyên phân tích Đức Chúa Trời đến mức họ cố gắng xóa bỏ bí ẩn về bản chất thiêng liêng của Ngài. Thật không may, họ kết luận về Đức Chúa Trời với một cái gì đó kém hơn nhiều so với Ngài. Họ nhìn thấy một Đức Chúa Trời nhỏ bé, một Đấng vĩ đại nhưng bị giới hạn bởi sự hiểu biết hữu hạn của chính họ. Là Cơ đốc nhân, chúng ta phải theo đuổi sự hiểu biết về Đức Chúa Trời. Nhưng đồng thời cũng phải cẩn thận để những lý giải thần học của chúng ta không làm giảm đi sự mầu nhiệm về bản chất thần thượng của Ngài.

 

 

9

Những Hình Ảnh Về Đức Chúa Trời

THẬT THÚ VỊ khi khám phá những gì người ta tưởng Đức Chúa Trời là như vậy. C. S. Lewis kể một câu chuyện hài hước về một cậu học sinh được hỏi về những gì cậu đã hình dung về Chúa. Cậu ta trả lời rằng, theo như anh ta có thể xác định, Chúa là “loại người luôn rình mò để xem có ai đang vui hưởng những lạc thú với bản thân hay không rồi tìm cách ngăn chặn điều đó.”1

Đức Chúa Trời thực sự như thế nào? Những người viết Kinh Thánh cổ đại muốn dân Y-sơ-ra-ên được biết, nhưng họ sống trong thời kỳ mà các phương pháp giao tiếp khá hạn chế. Chúng ta có thể tưởng tượng mình đang sống trong một thế giới không có tivi, radio, máy đèn chiếu, trình phát video và đồ họa máy tính không? Những người sống trong thời của Kinh Thánh lúc bấy giờ không có những phương tiện này. Những gì họ có là từ ngữ. Vì vậy họ đã sử dụng từ ngữ để tạo ra những hình ảnh tinh thần về Đức Chúa Trời. Những “hình ảnh từ ngữ” này đặc biệt nổi bật trong các phần thơ văn của Kinh Thánh, nơi có rất nhiều hình ảnh và ẩn dụ.

Sử dụng hình ảnh là một cách tuyệt vời để truyền đạt lẽ thật về Chúa, vì một số lý do. Thứ nhất, những hình ảnh tinh thần dường như lưu lại trong ký ức của chúng ta tốt hơn những giới luật trừu tượng. Hãy nghĩ về một quảng cáo mà chúng ta vừa xem gần đây. Trong tâm trí chúng ta luôn lưu lại một số hình ảnh của những quảng cáo mà chúng ta vừa mới xem! Thứ nhì, hình ảnh tinh thần hấp dẫn cảm xúc cũng như tâm trí. Người ta được thông báo bằng lời nói, nhưng được cảm động bởi những bức tranh nói thay lời. Thứ ba, những hình ảnh trình bày lẽ thật về Đức Chúa Trời có thể dễ dàng được truyền đến cho người khác. Chẳng hạn, trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn đều có thể hiểu hình ảnh mà Chúa Giê-su dùng trong lời tuyên bố của ngài, “Ta là người chăn nhân lành.” Trong chương này, chúng ta sẽ xem những hình ảnh mà Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Đức Chúa Trời.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ VẦNG ĐÁ CỦA CHÚNG TA

Trong số bảy mươi lăm lần xuất hiện của từ “đá” trong Kinh Thánh, ba mươi ba lần là tượng trưng cho Đức Chúa Trời. Môi-se là người đầu tiên gọi Đức Chúa Trời là “Vầng Đá” (Phục-truyền. 32:4; 32:15), nhưng khi đề cập đến các dân tộc ngoại giáo, Môi-se nói: “Vầng đá của họ không giống Vầng Đá đá của chúng ta” (32:31). Đa-vít công bố rằng, “Đức Giê-hô-va là hòn đá và đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi. Đức Chúa Trời tôi là hòn đá tôi, nơi tôi sẽ nương náu mình, Là thuẫn đỡ tôi, sừng chửng cứu tôi, Ngọn tháp cao và nơi nương dựa của tôi; Hỡi Đấng che chở tôi!” (2 Sa-mu-ên 22:2-3). Hình ảnh vầng đá cũng nổi bật trong Thi thiên.2

Trong tiếng Hê-bơ-rơ sur, “rock,” không đề cập đến một viên đá hoặc viên sỏi nhỏ, mà là một tảng đá lớn, khối đá, vách đá, hoặc có thể là núi. Chúng ta biết gì về những tảng đá khiến các trước giả Kinh Thánh sử dụng chúng làm hình ảnh cho Đức Chúa Trời? Thứ nhất, những tảng đá lớn không thể chuyển dời được. Chúng có xu hướng đứng yên. Thứ nhì, đá tồn tại rất lâu. Dưới mái vòm của tảng đá đền thờ Giê-ru-sa-lem là tảng đá của Núi Mô-ri-a nơi Áp-ra-ham dâng Y-sác (Sáng thế ký 22). Sau gần bốn nghìn năm, đến nay tảng đá đó vẫn còn. Chúng ta có thể nhìn thấy tảng đá đó khi đến thăm Giê-ru-sa-lem. Thứ ba, những tảng đá có thể đem lại sự che chở. Người ta có thể ẩn sau chúng khi bị kẻ thù tấn công. Thứ ba, đá có thể cung cấp sự bảo vệ. Bạn có thể ẩn sau chúng khi kẻ thù của bạn tấn công. Cả những mũi tên nhọn và đá bắn ra từ ná, đều không thể xuyên thủng một pháo đài bằng đá vững chắc. Những tảng đá lớn cũng có thể tạo ra bóng râm che chắn sức nóng gay gắt của mặt trời trong một vùng hoang dã cằn cỗi đầy đá sỏi.

Với những sự thật này trong tâm trí, chúng ta có thể hiểu tại sao các trước giả Kinh Thánh gọi Chúa là “Tảng đá của chúng ta.” Ngài chắc chắn, vững vàng, không lay chuyển và ban cho sự bảo vệ. Ngài hoàn toàn đáng tin cậy. Ngài không chịu ảnh hưởng của thời gian. Trong khi các pháo đài nhân tạo đổ nát và sụp đổ, Chúa là “vầng đá của các thời đại” (Ê-sai 26:4). Sau hàng ngàn năm, Ngài vẫn không hề thay đổi. Như một tảng đá, Đức Chúa Trời là đồn lũy và nơi ẩn náu của chúng ta (Thi thiên 18:2). Ngài là Đấng mà chúng ta có thể chạy đến khi bị kẻ thù tấn công hoặc gặp lúc đau khổ và khó khăn. Là “hòn đá về sự cứu rỗi tôi” (89:26), Ngài là Nguồn sức lực và sự giải cứu chắc chắn của chúng ta. Người nào nương cậy vào Chúa như Tảng đá mình sẽ được an ninh (62:2, 6).

Ê-sai đề cập đến Đấng Mê-si là “hòn đá vấp ngã, vầng đá vướng mắc cho cả hai nhà Y-sơ-ra-ên, và là bẫy cùng lưới cho dân cư thành Giê-ru-sa-lem vậy” (Ê-sai 8:14). Hễ ai đến với Ngài phải nhận biết Ngài. Một số vấp ngã và Ngài khiến kẻ ấy đổ vỡ để ăn năn. Những kẻ khác vấp ngã và bị chính tảng đá đè nát, tức là họ bị phán xét vì tội lỗi mình. Chúa Cứu Thế cũng là “Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra” (Thi thiên 118:22; Ma-thi-ơ 21:42). Nhưng ai tin vào Tảng đá này sẽ không hổ thẹn (Ê-sai 28:16; 1 Phi-e-rơ 2:6). Trong thời gian ở đồng vắng, Môi-se đã đập vào hòn đá và nước chảy ra cho dân Y-sơ-ra-ên đang khát (Xuất 17: 6; Phục truyền 8:15; Thi thiên 78:15). Phao-lô đồng nhất tảng đá này với Đấng Christ (1 Cô-rinh-tô 10:4). Hình ảnh tảng đá trong Kinh thánh cuối cùng chỉ về Chúa Giê-su, Vầng đá cứu rỗi của chúng ta.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI NƠI ẨN NÁU CỦA CHÚNG TA

Hình ảnh Chúa là nơi ẩn náu của chúng ta khá giống với Chúa là vầng đá của chúng ta. Trên thực tế, những hình ảnh này đôi khi xuất hiện dưới dạng các thuật ngữ song song. Trong Thi thiên 62:7 Đa-vít viết rằng Đức Chúa Trời “Hòn đá về sức lực tôi, và nơi nương náu mình.” Từ nguyên Hê-bơ-rơ hasa, “tìm nơi ẩn náu,” và danh từ mahseh, “nơi ẩn náu” được sử dụng chủ yếu trong Thi thiên và các sách văn thơ khác. Những từ này được sử dụng theo nghĩa đen là trú ẩn khỏi cơn mưa bão (Ê-sai 4:6; 25:4) hoặc trú ẩn khỏi nguy hiểm trên các núi cao (Thi thiên 104:18). Nhưng những từ này thường được dùng theo nghĩa bóng để nói về việc tìm kiếm sự nương tựa nơi Đức Chúa Trời.

Những trước giả Thi thiên thường xác định Đức Giê-hô-va là nơi ẩn náu. “Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, tôi nương náu mình nơi Ngài” (7:1). “Tôi nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va” (11:1). “Linh hồn tôi nương náu nơi Chúa” (57:1). “Thà nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va còn hơn tin cậy loài người” (118:8).

Những trước giả Thi thiên muốn nói gì về hình ảnh này? Rõ ràng là Đức Chúa Trời không đem đến sự bảo vệ theo cách mà những bức tường phòng thủ hay một pháo đài vững chắc ở đời nầy mang lại. Lấy Đức Chúa Trời làm nơi nương náu nghĩa là “tin cậy” nơi Ngài. Đây là hình ảnh có tính văn thơ thể hiện sự tin chắc vào Đức Chúa Trời quyền năng của chúng ta, Đấng cung cấp sự an toàn cho những người không nơi nương tựa, gặp cảnh khó khăn. Như những núi cao cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho những người đang gặp gian nguy (Giô-suê 2:22), Đức Chúa Trời là “nơi nương náu vững bền” (Thi 71:7). Ngài như một “cái thuẫn cho mọi người nương náu mình nơi Ngài” (2 Sa-mu-ên 22:31).

Trong tiếng Hê-bơ-rơ có một từ khác được sử dụng để chỉ các thành ẩn náu (Dân số ký 35), người ta không thể không thấy mối liên hệ giữa họ và Đức Chúa Trời như một nơi ẩn náu. Sáu thành lánh nạn đã cung cấp nơi cư trú cho một người Y-sơ-ra-ên phạm tội ngộ sát. Chừng nào kẻ có tội vẫn còn trong các bức tường của thành, kẻ báo thù huyết không thể thi hành hình phạt. Cũng giống như vậy, Chúa Giê-su Christ là “nơi nương náu” cho những tội nhân (Hê-bơ-rơ 6:18). Ngài là nơi nương náu vững bền và an toàn cho những ai tin cậy nơi Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI – ĐẤNG CHIẾN TRẬN CHO CHÚNG TA

Hầu hết người ta không nghĩ về bằng các thuật ngữ quân đội. Nhưng vì Y-sơ-ra-ên thường bị ngoại bang tấn công, dân sự của Đức Chúa Trời hình dung Chúa của họ như một chiến binh dũng mãnh có thể vừa bảo vệ vừa minh oan cho họ. Đức Giê-hô-va đã chiến trận cho dân Ngài không phải bằng gươm và giáo, nhưng bởi những phép lạ thiên thượng. Sau khi Đức Chúa Trời đánh bại người Ai Cập, dìm quân đội của Pha-ra-ôn ở Biển Đỏ, Môi-se và dân sự Y-sơ-ra-ên đã hát một bài hát như sau: “Đức Giê-hô-va là một chiến sĩ; Danh Ngài là Giê-hô-va. Ngài đã ném xuống biển binh xa Pha-ra-ôn và cả đạo binh của người; Quan tướng kén chọn của người đã bị đắm nơi Biển Đỏ” (Xuất Ê-díp-tô ký 15:3-4). Hình ảnh về Đức Giê-hô-va như một chiến binh phổ biến và quan trọng đến mức trọn một cuốn sách đã được viết về chủ đề này.3 Tiếng Hê-bơ-rơ được dịch “chiến binh” trong đoạn văn này đề cập đến một người đã học được nghệ thuật chiến tranh và đã chứng tỏ bản thân trên chiến trường.

Làm sáng tỏ chủ đề về Giê-hô-va là chiến binh, Ê-sai tuyên bố, “Đức Giê-hô-va sẽ ra như người mạnh dạn; giục lòng sốt sắng như người lính chiến; kêu la quát tháo; ra sức cự lại kẻ thù nghịch mình” (Ê-sai 42:13). Còn Sô-phô-ni đã giục lòng dân sự mình như sau, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi” (3:17). Trong những phân đoạn này, trong tiếng Hê-bơ-rơ từ được dịch là “chiến binh” là một tính từ có nghĩa là “mạnh mẽ” hoặc “hùng mạnh.” Khi được sử dụng cho một cá nhân, nó nói lên một người đàn ông mạnh mẽ hoặc dũng cảm. Khi được sử dụng cho Đức Chúa Trời, thuật ngữ này nhấn mạnh quyền năng của Ngài để bảo vệ dân sự Ngài và đánh bại kẻ thù của họ.   Vì “Đức Giê-hô-va mạnh dạn trong chiến trận” (Thi thiên 24:8), Đa-vít tuyên bố, “Nguyện Đức Chúa Trời chỗi dậy, khiến thù nghịch Ngài tản lạc, Và làm cho những kẻ ghét Ngài phải trốn trước mặt Ngài” (68:1).

Hình ảnh về Chúa như một chiến binh dũng mãnh cuối cùng sẽ được ứng nghiệm bởi sự trở lại của Đấng Cứu Thế “sẽ ra đánh cùng các nước đó” là những nước nhóm lại tranh chiến cùng Giê-ru-sa-lem (Xa-cha-ri 14:3). Giăng đã hình dung sự trở lại của Chúa Giê-su trên một “con ngựa trắng” (Khải huyền 19:11), ngựa của chiến binh thắng trận. Đáng để ý là nhà lãnh đạo La Mã Vespasian đã cưỡi một con ngựa trắng trong chiến thắng của mình trước Giu-đê.4 Trong Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn, Đấng Cứu Thế sẽ “đánh các dân” bằng “một lưỡi gươm bén” và sẽ “cai trị họ bằng một cây gậy sắt” (Khải huyền 19:15).

Thật an ủi khi biết rằng chúng ta có một Đấng Che Chở mạnh mẽ, Đấng có thể đánh bại kẻ thù vô hình mạnh sức nhất là kẻ chống Chúa, tiên tri giả và ma quỷ (Khải huyền 19:20; 20:1-2, 10). Vì Ngài có thể ban cho họ những gì họ xứng đáng, nên không kẻ thù nào có thể chống nổi sự đáp trả của Ngài. Như Phao-lô tuyên bố, “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?” (Rô-ma 8:31). Không thế lực nào có thể đánh bại chúng ta khi chúng ta đứng bên cạnh Chúa Giê-su, Đấng Che Chở là Chúa Cứu Thế của chúng ta.

ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẤNG CHĂN GIỮ CHÚNG TA

Một trong những hình ảnh quen thuộc nhất trong Kinh Thánh là hình ảnh người chăn chiên. Vì nhiều người trong Y-sơ-ra-ên là những người chăn cừu, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi tìm thấy hình ảnh này trong Kinh thánh. Trên thực tế, phép ẩn dụ người chăn chiên đã được sử dụng khắp vùng Cận Đông cổ đại để nói về chức vụ cho những người cai trị cả đời nầy và thuộc linh. Trong một bài thánh ca cổ của người Su-me, thần Enlil được coi là “người chăn trung thành” của tất cả các tạo vật sống. Trong phần mở đầu của bộ luật nổi tiếng của mình, vua Ba-by-lon Hammurabi đã tự mô tả mình là một người chăn chiên được thần Enlil lựa chọn cho dân tộc mình. Trong Cựu Ước, ẩn dụ về người chăn chiên được áp dụng cho cả Chúa (Sáng thế ký 49:24; Thi thiên 80: 1; 95: 7) và những người lãnh đạo đời này (78:70-72; Xa-cha-ri 11:4-14).

Thi thiên hai mươi ba quen thuộc bắt đầu bằng những lời, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi.” Ê-sai đã tiên đoán về chức vụ giống như người chăn chiên của Đấng Cứu Thế. “Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên; thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào lòng; từ từ dắt các chiên cái đương cho bú” (Ê-sai 40:11). Sử dụng hình ảnh người chăn chiên, Ê-xê-chi-ên kết tội các nhà lãnh đạo quốc gia, những người giống như những người chăn giả. Họ bóc lột dân chúng thay vì chăm sóc nhu cầu của họ như một người chăn nhân lành nên làm (Ê-xê-chi-ên 34: 2-4). Sau đó, Ê-xê-chi-ên tiên báo cách Đức Giê-hô-va sẽ trở thành Người chăn chiên của Y-sơ-ra-ên là thể nào. Ngài sẽ đem bầy Y-sơ-ra-ên bị phân tán trở lại đất của họ (34:13). Ngài sẽ “chăm nom” bầy của mình, “Tìm con nào đã mất, dắt về con nào đã bị đuổi,” và “rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh” (34:14, 16).

Hình ảnh người chăn có sự ứng nghiệm cuối cùng trong Chúa Giê-su, “người chăn hiền lành” (Giăng 10:11). Ngài là Người Chăn Hiền Lành vì Ngài chăm sóc đàn chiên, cung cấp cho đàn chiên và phó mạng sống của mình cho đàn chiên (10:12-15). Bầy chiên biết tiếng của Người chăn chúng và đi theo Người (10:2-4). Ngài cũng được gọi là “Đấng chăn chiên lớn” (Hê-bơ-rơ 13;20) và là “Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên” (1 Phi-e-rơ 5:4). Nếu có dịp đến thăm vùng đất Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhiều người chăn chiên cùng với đàn chiên của họ. Chúng ta sẽ thấy những người chăn gọi bầy của mình bằng những âm thanh nghe rất lạ. Bạn sẽ thấy những con chiên đáp lại và đi theo người chăn chúng. Chúng biết rằng chúng có thể tin cậy người ấy bảo vệ và cung cấp những nhu cầu của chúng. Và với tư cách là những người tin Chúa, chúng ta là thành viên trong bầy của Đức Chúa Trời, “bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi thiên 100:3). Chúa Giê-su có thể sử dụng tất cả các nguồn cung cấp thiêng liêng của Ngài với tư cách là Người Chăn Hiền Lành trong việc chăm sóc và cung cấp cho đàn chiên của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI NHƯ CHIM ĐẠI BÀNG HUẤN LUYỆN CON MÌNH

Một hình ảnh đẹp như tranh vẽ nhưng có lẽ đáng ngạc nhiên về Chúa là hình ảnh chim ưng. Sau cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, Đức Chúa Trời phán với dân Ngài rằng: “Các ngươi đã thấy điều ta làm cho người Ê-díp-tô, ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm sao, và dẫn các ngươi đến cùng ta thế nào” (Xuất Ê-díp-tô ký 19:4). Trong một kiệt tác thi ca tiếng Hê-bơ-rơ, Môi-se đã ví mối quan hệ của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên như một chim ưng chăm sóc con non. “Ngài săn sóc người… như phụng hoàng phấp phới giỡn ổ mình, Bay chung quanh con nhỏ mình, Sè cánh ra xớt nó, Và cõng nó trên chéo cánh mình thể nào” (Phục truyền 32:10-11).

Đa-vít thích hình ảnh đôi cánh của Đức Chúa Trời. Ông đã cầu nguyện, “Hãy ấp tôi dưới bóng cánh của Chúa” (Thi thiên 17:8). Ông tỏ lòng biết ơn về đôi cánh của Đức Chúa Trời cung cấp nơi ẩn náu cho ông hỏi nguy hiểm: “Tôi nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa, Cho đến chừng tai họa đã qua” (57:1; 61:4; 91:4). Nhận biết sự an ninh được tìm thấy trong bóng cánh của Đức Chúa Trời là một nguồn vui cho những người tin. Đa-vít tuyên bố, “Vì Chúa đã giúp đỡ tôi, Dưới bóng cánh của Chúa tôi sẽ mừng rỡ” (63:7).

Trong một phép ẩn dụ tương tự, Chúa Giê-su nói với vẻ buồn bã về việc Ngài bị dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối. “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng!” (Ma-thi-ơ 23:37). Khi từ chối Đấng Cứu Thế, dân Y-sơ-ra-ên khước từ sự bảo vệ được cung cấp dưới “đôi cánh” của Đức Chúa Trời. Sự tàn phá Giê-ru-sa-lem bởi Ti-tớt và quân đội La Mã của ông ngay sau đó (23:38; 24:2).

Là những người tin vào Chúa Giê-su Christ, chúng ta biết ơn về sự bảo vệ yêu thương mà Đức Chúa Trời ban cho dưới đôi cánh quyền năng của Ngài. Đây là một bức tranh tuyệt vời về sự an toàn của chúng ta trong Ngài và sự chăm sóc, bảo vệ khỏi bị tổn hại và tình yêu thương của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI – THUẪN ĐỠ CỦA CHÚNG TA

Sáng thế ký 15:1 ghi lại những lời yên ủi của Đức Chúa Trời đối với Áp-ram, “Hỡi Áp-ram! Ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi.” Từ được dịch là “cái thuẫn” (magen) bắt nguồn từ động từ tiếng Đức, “bảo vệ hoặc đặt một tấm chắn.” Trong thời cổ đại, các chiến binh sử dụng hai loại tấm chắn. Tấm magen là tấm lá chắn tròn nhỏ hơn và phổ biến hơn được bộ binh hạng nhẹ mang theo. Tấm sinna là một tấm lá chắn hình chữ nhật lớn hơn nhiều, giống như cái được mang bởi người hầu của Goliath (I Sa-mu-ên 17:7, 41), có thể bảo vệ toàn bộ cơ thể. Những tấm chắn ban đầu được làm bằng gỗ hoặc đan dệt và được lợp bằng da. Đôi khi chúng được gia cố bằng đồng. Lá chắn là vật dụng thiết yếu để phòng thủ của một người lính. Nhờ tấm chắn, người lính có thể làm chệch hướng những đòn tấn công của kiếm, giáo và mũi tên của kẻ thù.

Vì Đức Chúa Trời là Đấng bảo vệ dân sự Ngài, nên chẳng có gì lạ khi Ngài được mô tả theo phép ẩn dụ là “Ngài là cái khiên cho những kẻ nào nương náu mình nơi Ngài” (Thi thiên 18:30). Môi-se nhắc cho dân Y-sơ-ra-ên nhớ rằng Đức Giê-hô-va là “Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi” (Phục Truyền 33:29). Là một chiến binh, David biết tầm quan trọng của lá chắn trong việc phòng thủ cá nhân trên chiến trường. Trong một bài Thi thiên mà Đa-vít đã viết khi chạy trốn Áp-sa-lôm, ông nói, “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi” (Thi thiên 3:3). Trong một Thi thiên khác ông viết rằng, “Đức Chúa Trời là cái khiên tôi, Ngài là Đấng cứu rỗi những kẻ có lòng ngay thẳng” (7:10).

Được Đức Chúa Trời che chở ngụ ý đến sự cứu rỗi dành cho dân sự Ngài (Thi thiên 18:2), Người dân Y-sơ-ra-ên được khuyến khích “hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va” vì “Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ” (115:9-11). Biết được Đức Chúa Trời là lá chắn của mình đã đem lại cho Đa-vít sự dạn dĩ khi đối mặt với sự tranh chiến. Ông viết, “Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi; Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài” (28:7).

Mặc dù Đa-vít thường xuyên sử dụng magen để mô tả Đức Chúa Trời là lá chắn và người bảo vệ dân Ngài, nhưng ông đã sử dụng sinna trong Thi thiên 5:12 (xem thêm I Các vua 10:16; Thi thiên 35:2; 91:4). Một nhóm binh lính có thể sử dụng những chiếc khiên này để tạo một mái che bảo vệ trên đầu của họ, những người lính La Mã sau này đã thành thạo nghệ thuật di chuyển qua chiến trường bị bao vây bọc theo cách này. Họ gọi cách tiếp cận này là đội hình pha lăng (đội hình sát cánh nhau). Đức Chúa Trời “sẽ ban phước cho người công bình, Lấy ơn vây phủ người khác nào bằng cái khiên” (5:12). Thật khích lệ biết bao khi biết rằng Đức Chúa Trời che chở và bảo vệ những người tin Ngài chống lại các cuộc tấn công của Sa-tan, kẻ sử dụng những “mưu chước” tinh ranh (2 Cô-rinh-tô 2:11; Ê-phê-sô 6:11) để tìm cách lừa dối và tiêu diệt chúng ta (1 Phi 5:8).

ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA

Mười tám lần trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là Đấng Cứu Chuộc. Gióp có thể là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này về Đức Chúa Trời, khi ông nói, “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25). Đa-vít người viết thi thiên có chép, “Hỡi Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi và là Đấng cứu chuộc tôi, Nguyện lời nói của miệng tôi,
Sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi thiên 19:14). Ê-sai rất yêu thích hình ảnh này; ông đã sử dụng hình ảnh ấy đến mười ba lần. Ông viết, “Đấng chuộc ngươi tức là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên” (Ê-sai 54:5). Chúng ta có thể đã quá quen thuộc với danh xưng của Đức Chúa Trời là “Đấng Cứu Chuộc” của chúng ta đến nỗi chúng ta không nhận ra rằng điều đó thật ra là một phép ẩn dụ.

Từ “Đấng Cứu Chuộc” đến từ gaal có nghĩa là “thực hiện vai trò của một người thân và do đó cứu chuộc họ hàng của mình khỏi khó khăn hoặc hoạn nạn.”5 Điều nầy ngụ ý những công việc mà một người nhân đức và thành thật sẽ làm cho một người thân đang gặp cảnh khó khăn. Người họ hàng gần [“người bà con (nam),”] có trách nhiệm chuộc lại một mảnh ruộng mà trước đó đã được bán khi gặp cảnh khó khăn nhằm giữ lại tài sản của gia đình (Lê-vi 25:25). Người đó cũng có trách nhiệm mua lại và giải thoát cho một người họ hàng đã bán mình làm nô lệ vì nghèo đói (25:48-49). Người họ hàng cũng phải trả thù kẻ sát hại thành viên trong gia đình (Dân số ký 35:16-19). Ý tưởng đằng sau việc thi hành bổn phận này là sự thiệt mạng phải trả bằng mạng sống của kẻ sát nhân. Mỗi công việc “chuộc tội” này phải do người thân ruột thịt thực hiện.

Ba yêu cầu đối với một người chuộc lại. Thứ nhất, vì việc chuộc lại là nghĩa vụ của gia đình, nên chỉ người thân ruột thịt mới có quyền chuộc lại. Thứ nhì, vì việc chuộc lại rất tốn kém, nên người đó phải có đủ nguồn tài sản chuộc lại. Thứ ba, vì việc chuộc lại đòi hỏi phải có hành động dứt khoát, nên người ta phải có quyết tâm để chuộc lại. Sách Ru-tơ mô tả một “người bà con có quyền chuộc sản nghiệp” là người có quyền và tài sản để chuộc lại đất của Na-ô-mi và Ru-tơ nhưng không muốn làm như vậy (Ru-tơ 4: 1-8).

Khi Chúa được mô tả là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, hình ảnh cuối cùng nói đến Chúa Giê-su Christ. Đấng Christ đã trở thành người bà con của chúng ta khi Ngài mặc lấy thân xác con người và nhập thể qua sự hạ sinh bởi nữ đồng trinh (Ma-thi-ơ 1:18; Giăng 1:14). Là Người Bà Con – Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, Đấng Christ có nguồn huyết báu của chính Ngài để trả giá cho sự cứu chuộc chúng ta (I Phi-e-rơ 1:18-19). Và Ngài đã quyết hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta (Mác 10:45). Chỉ một mình Chúa Giê-su Christ có thể ban cho “sự cứu rỗi [khỏi tội] bởi huyết Ngài” (Ê-phê-sô 1:7) và bởi ân điển Ngài (Rô-ma 3:24). Được làm dân sự của Đức Chúa Trời thật phước hạnh biết bao, khi biết rằng trong Ngài, họ có Đấng Cứu Chuộc mạnh mẽ (Giê-rê-mi 50:34).

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NƠI ẨN NÁU CỦA CHÚNG TA

Đa-vít cầu nguyện cùng Chúa rằng, “Chúa là nơi ẩn núp tôi; Chúa bảo hộ tôi khỏi sự gian truân” (Thi thiên 32:7). Hình ảnh này lại xuất hiện trong Thi thiên 119:114, “Chúa là nơi ẩn náu và cái khiên của tôi”. Đa-vít bày tỏ lòng tin tưởng rằng “trong ngày hoạn nạn” Đức Giê-hô-va sẽ “che khuất tôi trong đền của Ngài, Giấu tôi nơi kín mật của trại Ngài” (27:5).

Đường hầm Malinta nằm trên đảo Corregidor ở Vịnh Manila. Đường hầm này từng là kho vũ khí trước Thế chiến thứ hai. Nhưng khi Quân đội Nhật Bản xâm lược Philippines vào năm 1941, Đường hầm Malinta đã trở thành một bệnh viện quân đội và là tổng hành dinh của Tướng Douglas MacArthur. Sau nầy, khi máy bay chiến đấu Nhật Bản ném bom lên đảo Corregidor, đường hầm này đã đem lại sự sự che chở cho binh lính Mỹ và Philippines. Mặc dù ngày nay bị bỏ hoang, nhưng Đường hầm Malinta vẫn là một nhân chứng thầm lặng về sự bảo vệ mà nó mang lại cho những người lính khỏi các cuộc bắn phá chết người. Tôi hy vọng rằng không ai trong chúng ta từng phải đối mặt với những trận ném bom của máy bay chiến đấu. Nhưng thường thì dân sự của Đức Chúa Trời trải qua sự thù ghét của một thế giới đầy gian ác và không tin Chúa. Đối mặt với sự tấn công thuộc linh, các tín đồ có một nơi ẩn náu chắc chắn trong Đức Chúa Trời của chúng ta.

Yêu cầu duy nhất đối với những người tìm kiếm lối vào nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời là một thái độ ăn năn và đức tin. Sô-phô-ni đã chỉ dẫn những người trong thời của ông “tìm kiếm sự công bình” và “tìm kiếm sự nhu mì.” Kế đến ông khích lệ họ mà rằng, “hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va” (Sô-phô-ni 2:3).

Đức Chúa Trời là “nơi ẩn náu”, nơi con dân Ngài có thể tìm thấy sự an toàn và nương náu trong lúc nguy nan. Ngài là Đấng mà chúng ta có thể đến khi không ai khác biết hoặc hiểu những gì chúng ta đang trải qua. Là nơi ẩn náu của chúng ta, Ngài có thể ban sự che chở khi sự bảo đảm của con người bị thất bại.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NGUỒN NƯỚC SỐNG CỦA CHÚNG TA

Nếu Kinh thánh được viết ở Oregon là nơi có nhiều mưa chứ không phải tại xứ Y-sơ-ra-ên, thì hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước của chúng ta đã có thể không được nói đến. Nhưng phần lớn đất của Y-sơ-ra-ên chỉ hưởng được lượng mưa khá ít ỏi, nên nước ở đó rất quý báu. Trong những tháng mùa hè, khi mặt trời chiếu trực tiếp, rất dễ trở nên quá nóng và mất nước. Khi tôi đưa sinh viên đến Y-sơ-ra-ên, tôi nhắc họ mang theo nước trong các chuyến đi thực tế và uống thường xuyên.

Trong một vùng đất khô khan, Đức Giê-hô-va được tuyên bố là “nguồn nước sống của Y-sơ-ra-ên” (Thi thiên 68:26, NASB). Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời rằng, “Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa” (36:9). Qua diều này, ông muốn nói rằng Đức Chúa Trời là nguồn sự sống và sự tươi mát tâm linh cho những ai tin cậy Ngài.

Khi dân Y-sơ-ra-ên vào Xứ Đồi Núi sau cuộc chinh phục Ca-na-an, họ phát hiện ra rằng nhiều thành phố được xây dựng gần với suối nước tự nhiên. Ví dụ, Giê-ru-sa-lem cổ đại có Suối nước Gihon luôn chảy là nguồn nước chính của cư dân ở đó. Đây được gọi là “nước sống” vì trong dòng chảy liên tục của nó, nó sống động như thật và mang lại sự sống. Những con suối như vậy đã cung cấp cho dân Y-sơ-ra-ên một nguồn nước ngọt, trong lành. Nhưng khi các thành phố phát triển, nhu cầu về nước của họ thật sự cần phải đề cập đến. Nhu cầu này được đáp ứng bằng cách khoét các lỗ trên đá vôi và dẫn nước mưa vào các bể chứa trát vữa để sử dụng trong mùa khô kéo dài sáu tháng mỗi năm. Loại nước mưa này không ngọt và ngon như nước suối, đặc biệt khi có cặn hoặc tảo trong bể chứa. Nhưng vẫn còn hơn là không có nước!

Chúa đã sử dụng hình ảnh loại nước này khi khiển trách người Giu-đa trong Giê-rê-mi. 2:13. “Dân ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được.” Ở đây chúng ta khám phá ra rằng con người khao khát lẽ thật của Đức Chúa Trời, nhưng họ đang tìm kiếm sự thỏa mãn ở những nơi sai lầm. Họ tìm đến những “bể chứa” đầy bụi bặm và rạng nứt trong khi họ có thể tìm đến Nguồn nước sống làm nguôi cơn khát.

Hình ảnh về Đức Chúa Trời như một nguồn nước sống tâm linh và sự tươi mát đã cuối cùng được ứng nghiệm trong Chúa Giê-su. Ngài đã ban cho người nữ Sa-ma-ri “nước sự sống” (Giăng 4:10). Những ai uống từ giếng của Gia-cốp sẽ còn khát nữa, nhưng Chúa Giê-su phán, “Hễ ai…” (4:14). Chỉ có Chúa mới có thể làm dịu cơn khát thuộc linh của chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Đó là lý do tại sao Chúa Giê-su nói về nhu cầu thuộc linh của chúng ta mà rằng, “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống” (7:37). Thật đáng lưu tâm rằng chương cuối cùng của Kinh Thánh chứa đựng lời mời mọi người hãy thỏa mãn cơn khát thuộc linh của họ trong Đấng Christ: “Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không” (Khải huyền 22:17).

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHỒNG CỦA CHÚNG TA

Leo Perdue đã chỉ ra rằng mối quan hệ hôn nhân được sử dụng như một “lăng kính thần học để hiểu về Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên.”6 Đức Chúa Trời được miêu tả là “mẹ” (Dân số ký 11:12; Phục truyền 32:18), người đã thụ thai và sinh ra Y-sơ-ra-ên; với tư cách là một “người cha” (Phục truyền 32:6; Ma-la-chi 2:10), người đã nuôi dưỡng và yêu thương con trai mình là Y-sơ-ra-ên; và với tư cách là “chồng”, người đã cưới Y-sơ-ra-ên làm vợ (Giê-rê-mi 2:2).

Hình ảnh Đức Chúa Trời là người chồng được áp dụng cho Y-sơ-ra-ên như một thể hiệp nhất. Đối với Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời công bố, “Vì chồng ngươi tức là Đấng đã tạo thành ngươi; danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân” (Ê-sai 54:5). Hình ảnh Đức Chúa Trời là người chồng được Ê-xê-chi-ên giới thiệu trong lời tường thuật của ông về Y-sơ-ra-ên là một người vợ ngoại tình (Ê-xê-chi-ên 16). Trong trường hợp tương tự, Ê-xê-chi-ên nói về việc Đức Chúa Trời tìm thấy Y-sơ-ra-ên như một đứa trẻ thờ ơ, bị bỏ rơi và được dẫn đến với Ngài. Theo cách ví von đầy quyền năng của Ê-xê-chi-ên, khi dân Y-sơ-ra-ên trưởng thành, Đức Chúa Trời lập giao ước hôn nhân với dân Ngài. “Khi ta qua gần mầy, và nhìn mầy, nầy, tuổi mầy nầy, mầy đã đến tuổi yêu mến. Ta lấy áo ngoài ta trùm trên mầy, che sự trần truồng mầy. Phải, ta thề cùng mầy và kết giao ước với mầy, thì mầy trở nên của ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy” (16:8).

Các nhà tiên tri đặc biệt thích hình ảnh Đức Chúa Trời là chồng của dân Ngài. Trong Giê-rê-mi, mối quan hệ hôn nhân đóng vai trò như một nỗi niềm để ăn năn. “Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở về; vì ta là chồng ngươi” (Giê-rê-mi 3:14). Giê-rê-mi mô tả cách Y-sơ-ra-ên phá bỏ giao ước cũ, một sự vi phạm gây sốc hơn vì “dầu rằng ta làm chồng chúng nó” (31:32).

Trong lời quở trách mạnh mẽ đối với những kẻ thờ hình tượng đã vi phạm giao ước, Chúa tuyên bố, “Hãy kiện mẹ các ngươi, hãy kiện đi; vì nó chẳng phải là vợ ta, còn ta chẳng phải là chồng nó! Nó hãy cất bỏ sự dâm loạn khỏi trước mặt nó, và sự ngoại tình khỏi giữa vú nó đi” (Ô-sê 2:2). Nhưng Ô-sê đã đoán trước sẽ đến một ngày hôn nhân của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên sẽ được phục hồi và đổi mới. “Trong ngày đó ngươi sẽ gọi ta là: Chồng tôi; … ta sẽ cưới ngươi cho ta trong sự thành tín, và ngươi sẽ biết Đức Giê-hô-va” (2:16, 20).

Hình ảnh Đức Chúa Trời là chồng cũng xuất hiện trong Tân Ước, ở đây Đấng Christ được giới thiệu là Chàng rể hoặc Chồng của dân sự Ngài, tức là hội thánh (Ê-phê-sô 5:23-32). Khi mô tả sự trở lại được dự đoán trước của Đấng Christ, Giăng nói về “lễ [tiệc] cưới Chiên Con” và “tiệc cưới Chiên Con” (Khải huyền 19:7,9). Giăng cũng hình dung về Giê-ru-sa-lem Mới, nơi cư ngụ đời đời của dân Đức Chúa Trời, từ trời xuống “sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình” (21:2).

Hình ảnh nầy về Đức Chúa Trời với tư cách là một người chồng, ấy là điều mang tính dạy dỗ. Là chồng, Đức Chúa Trời cung cấp và bảo vệ dân Ngài. Là chồng, Đức Chúa Trời yêu mến dân Ngài bằng một tình yêu đời đời. Với tư cách là người chồng, Đức Chúa Trời chia sẻ sự thân mật với dân Ngài. Là nàng dâu của Đức Chúa Trời, dân sự của Ngài phải trung thành với Ngài. Chúng ta không bao giờ được dành sự quan tâm hay tình cảm của mình cho người khác; chúng ta đừng bao giờ cho phép bất cứ điều gì chiếm vị trí của Đức Chúa Trời trong cuộc sống chúng ta. Là nàng dâu của Đức Chúa Trời, chúng ta phải giữ mình trong sạch về tâm hồn và thể xác. Chúng ta phải phục tùng sự chỉ dạy của Ngài, biết rằng các luật lệ của Ngài bắt nguồn từ tình yêu sâu sắc và bền vững của Ngài.

ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯỜI TRỒNG NHO CỦA CHÚNG TA

Cây nho là hình ảnh quen thuộc của Y-sơ-ra-ên trong Thi thiên và các sách Tiên tri. (Thi thiên 80:8-16; Giê-rê-mi 5:10; 12:10; Ê-xê-chi-ên 15:1-8; Ô-sê 10:1). Đức Chúa Trời phán cùng dân sự Ngài, “Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt, giống đều rặc cả; mà cớ sao ngươi đã đốc ra nhánh xấu của gốc nho lạ cho ta?” (Giê-rê-mi 2:21). Ê-sai đã viết một câu chuyện ngụ ngôn mô tả cách Đức Chúa Trời chuẩn bị một cánh đồng, trồng một vườn nho và mong đợi một mùa bội thu. Nhưng vườn nho chỉ sinh ra toàn trái nho hoang (Ê-sai 5:1-2). Đức Chúa Trời mong muốn vườn nho của Ngài — Y-sơ-ra-ên và Giu-đa — sinh hoa kết trái “công bình” và “ngay thẳng”, nhưng đến mùa Ngài gặt toàn là “đổ máu” và “những tiếng kêu than đau khổ” (5:7). Vì vậy, Đức Chúa Trời quyết định phá bỏ vườn nho hoang nầy. Dân sự Ngài có thể phải đón nhận giao ước rủa sả thay vì phước lành.

Hình ảnh của Đức Chúa Trời là Người Trồng nho cũng xuất hiện trong những lời dạy tương tự của Chúa Giê-su về thân cây nho và cành. Ngài phán, “Ta là gốc nho thật, Cha ta là người trồng nho” (Giăng 15:1). Chúa Giê-su là “cây nho thật” trái ngược với cây nho biến tính — dân Y-sơ-ra-ên vô tín. Từ “người trồng nho” (“người làm vườn”; theo nghĩa đen, “người lao động trên ruộng vườn”) đề cập đến việc một người nông dân chuẩn bị đất để trồng trọt. Sau đó, Chúa Giê-su mô tả hai loại “cành” và hai hành động được thực hiện bởi Người trồng nho. Ngài chặt bỏ những cành không trái (15:6) và Ngài tỉa sửa những cành có trái để chúng có thể sinh nhiều bông trái hơn nữa (15:2).

Chúng ta có thể học biết những gì về Đức Chúa Trời qua hình ảnh của người trồng nho? Sự thật cơ bản nhất là Đức Chúa Trời làm cho sinh hoa kết trái. Thật vô lý khi một người nông dân chuẩn bị đất và gieo hạt mà không mong muốn gì đến ra một vụ mùa. Đức Chúa Trời mong đợi những ai được kết hiệp với Ngài bởi đức tin cá nhân để sinh bông trái thuộc linh. Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ Ngài, “ta đã chọn … để các ngươi đi và kết quả” (15:16).

Chúng ta cũng học được từ phân đoạn này rằng Đức Chúa Trời làm cho chúng ta “có kết quả”. Như đã nói, những cành có trái thì được cắt tỉa để chúng có thể sinh nhiều trái hơn (15:2). Qua việc trồng nho ở sân sau đem lại cho tôi một số hiểu biết về nhu cầu cắt tỉa cây nho. Mỗi năm vào mùa thu những cành già cỗi cần được loại bỏ để chuẩn bị cho các nhành non mới. Vào mùa xuân, cần tước bỏ các chồi non khỏi thân và các cành chính. Trong mùa hè, các cành nho tạo thành chùm phải được tỉa thưa và các chồi dài, vượt trội được ngắt bỏ. Khi người làm vườn cắt bỏ những gì có thể gây trở ngại đến việc sanh bông trái của cây nho, cũng vậy Đức Chúa Trời là Cha, qua kỷ luật yêu thương (thanh tẩy, gột rửa, làm cho sạch), loại bỏ những thứ không góp phần vào việc sinh bông trái thiêng liêng khỏi đời sống của các tín hữu. Trước giả Hê-bơ-rơ có thể đã nhận lấy sự bày tỏ này khi ông chỉ ra rằng Đức Chúa Trời sửa phạt con cái Ngài (Hê-bơ-rơ 12:6).

Một bài học khác có thể học được từ hình ảnh của Đức Chúa Trời với tư cách là Người trồng nho, ấy là Chúa hài lòng khi dân sự của Ngài sinh hoa kết trái. Chúa Giê-su phán, “Nầy, Cha ta sẽ được sáng danh là thể nào: Ấy là các ngươi được kết nhiều quả” (Giăng 15:8). Chúng ta không thể thêm gì vào các thuộc tính của Chúa. Nhưng chúng ta có thể tôn vinh Ngài, góp phần vào việc bày tỏ trước mọi người về sự vĩ đại và nhân từ của Ngài qua cách chúng ta sống và những việc chúng ta làm. Chúa Giê-su phán, “Sự sáng các người hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Ma-thi-ơ 5:16).

 

 

 

10
Đức Chúa Trời Ba Ngôi

GẦN ĐÂY TÔI CÓ THAM DỰ đám cưới con trai của một đồng nghiệp tại Chủng viện Western. Khi buổi lễ bắt đầu, người chủ lễ thông báo cho bạn bè và những người thân rằng họ sắp chứng kiến lễ tuyên thệ một giao ước—giao ước hôn nhân. Những lời hứa nguyện sẽ được trao cho nhau, ràng buộc Bill và Julie bên nhau trọn đời. Nhưng không chỉ hội chúng sẽ chứng kiến sự khởi đầu của giao ước, mục sư chủ lễ giải thích. Những người có mặt cũng sẽ chứng kiến một phép lạ, vì trong hôn nhân, hai người thực sự trở thành một. Như Đức Chúa Trời đã phán, “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng thế ký 2:24). Mặc dù Bill và Julie sẽ vẫn duy trì cá tính và tính cách của riêng họ, nhưng thực tế theo lẽ mầu nhiệm trong Kinh Thánh – họ sẽ kết hiệp làm một không thể tách rời và trở thành một thực thể tâm linh.

Lẽ mầu nhiệm của sự kết hợp trong hôn nhân có thể dùng để minh họa một điều gì đó về Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Trong lễ cưới của họ, Bill và Julie đã thắp lên một ngọn nến hiệp nhất để biểu thị rằng hai người đang trở thành một trong hôn nhân. Theo một cách tương tự nhưng hoàn toàn độc đáo và đặc biệt, Đức Chúa Trời là Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh là một trong thần tánh. Họ là ba ngôi riêng biệt hợp nhất với nhau trong một Chúa Ba Ngôi.

Chương này xem xét tín lý về Chúa Ba Ngôi, hay ba thân vị, chú trọng vào những câu hỏi sau: Có cơ sở Kinh Thánh cho tín lý này không? Các Cơ đốc nhân có luôn đồng ý về Chúa Ba Ngôi không? Ý nghĩa thực tiễn của tín lý này là gì? Làm thế nào để sự nhận thức về tín lý Chúa Ba Ngôi có thể giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn về Đức Chúa Trời hơn?

NỀN TẢNG KINH THÁNH VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI BA NGÔI

Từ Chúa Ba Ngôi, theo nghĩa đen có nghĩa là “trạng thái hoặc tính cách của ba thân vị”, có thể để lại ấn tượng rằng Cơ đốc nhân thờ phượng ba vị thần. Theo Charles Ryrie, Tôi thích từ Triunity hơn vì nó diễn tả cụ thể hơn những gì chúng ta tin về Đức Chúa Trời.1 Kinh Thánh dạy rằng trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi, có ba thân vị riêng biệt – Cha, Con và Thánh Linh – một Chúa Ba Ngôi. Nhưng theo lẽ mầu nhiệm và siêu nhiên, cả ba hợp nhất — Đức Chúa Trời Ba Ngôi Hiệp Một.

Chứng Cứ của Sự Hiệp Nhất

Kinh Thánh tuyên bố khá dứt khoát rằng chỉ có một Đức Chúa Trời thật. Điều này được minh chứng trong kinh Shema, được đọc vào mỗi ngày Sa-bát trong các giáo đường Do Thái. “Hỡi Y-sơ-ra-ên! [‘s‘ma], Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai” (Phục truyền 6:4). Đây là một tuyên bố mạnh mẽ về tính hiệp nhất và duy nhất của Đức Chúa Trời. Bản văn này đôi khi được trích dẫn để làm bằng chứng chống lại giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Nhận xét về Phục truyền luật lệ ký 6:4, một nhà bình luận người Do Thái có nói, “Niềm tin rằng Đức Chúa Trời được kết hiệp từ một số thân vị, chẳng hạn như niềm tin Cơ đốc giáo vào Chúa Ba Ngôi, là một sự xuất phát từ quan niệm thuần túy về Sự Hiệp Nhất của Đức Chúa Trời.”2 Tuy nhiên, các nhà thần học bất đồng về việc liệu từ ehad trong tiếng Hê-bơ-rơ có ám chỉ đến sự hợp nhất của Đức Chúa Trời, sự độc nhất của Đức Chúa Trời, hay cả hai.3 Có lẽ ehad, có nghĩa là sự hợp nhất theo nghĩa ba ngôi vị của Chúa Ba Ngôi là một, bởi vì trong Sáng thế ký 2:24, cùng một từ tiếng Hê-bơ-rơ được sử dụng để chỉ A-đam và Ê-va là “một”, tức là hai ngôi vị riêng biệt được xem như một thể hiệp nhất. Mặt khác, Wolf gợi ý rằng cả bối cảnh rộng lớn của Phục truyền luật lệ ký và bối cảnh trước mắt của Phục truyền luật lệ ký 6:4 đều nhấn mạnh sự thật về sự duy nhất của Đức Chúa Trời và rằng dân Y-sơ-ra-ên có lòng trung thành với Ngài là một Đức Chúa Trời duy nhất (5:9; 6:5).4 Với điều này trong tâm trí, cụm từ “Giê-hô-va có một không hai” có thể được dịch là “Chỉ một mình Yahweh!”

Trong số tất cả các vị thần làm cho tuyển dân Y-sơ-ra-ên tập chú đến, bao gồm cả Asherah và Anath, Baal và Marduk, nhưng chỉ có một vị thần thực sự xứng đáng được thờ phượng – chỉ mình Đức Giê-hô-va!

Điều Răn thứ nhất trong Mười Điều Răn nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên rằng họ chỉ được thờ phượng một mình Đức Chúa Trời chân thật duy nhất (Xuất Ê-díp-tô 20:3; Phục truyền 5:7) Môi-se thay mặt dân sự Y-sơ-ra-ên nhắc nhở họ về công việc của Đức Chúa Trời, ông nói: “Giê-hô-va, ấy là Đức Chúa Trời, chớ không ai khác hơn Ngài” (4:35). Tân Ước cũng rõ ràng khẳng định rằng “chỉ có một Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 8: 6; xem thêm Ê-phê-sô 4:4-6; Gia-cơ 2:19).

 

Chứng Cứ về Ba Thân Vị

Trong số các tôn giáo lớn trên thế giới, Cơ đốc giáo là tôn giáo duy nhất chấp nhận giáo lý về ba ngôi vị thánh trong một Chúa Ba Ngôi. Thần uy của ba ngôi vị này được chứng minh rõ ràng trong Kinh Thánh.5 Trước hết, Chúa Cha được gọi là Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 8:6). Chúa Giê-su đã nhìn nhận Chúa Cha là Đức Chúa Trời. Ngài phán, “Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là chính Đức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình” (Giăng 6:27). Phi-e-rơ cũng đề cập đến “Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha” (1 Phi-e-rơ 1:2).

Thứ nhì, Đức Chúa Con được gọi là Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 1:8). Trong Rô-ma 9:5, Phao-lô đề cập đến “Đấng Christ, là Đấng trên hết mọi sự, tức là Đức Chúa Trời đáng ngợi khen đời đời!” Là kẻ nghi ngờ đã nhìn thấy Chúa Giê-su phục sinh, Thô-ma thưa rằng: “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” (Giăng 20:28). Những tuyên bố của Chúa Giê-su về sự toàn tri (Ma-thi-ơ 9: 4), sự toàn năng (28:18) và sự toàn tại (28:20) cho thấy Ngài là Đức Chúa Trời. Trong Giăng 8:58 Ngài công bố, “trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta!” Cụm từ “Ta là” (tiếng Hy Lạp, ego eimi) là một sự đề cập rõ ràng về Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha, Đấng đã xác định chính Ngài trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14 là “Ta là Đấng tự hữu hằng hữu.” (Xem thảo luận trong phần “Câu hỏi về Danh Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô ký 3:13-15]” ở chương 3.) Những người Do Thái khi nghe Chúa Giê-su thừa nhận lời khẳng định rằng Ngài là Đức Chúa Trời thì nhặt đá để ném Ngài vì tội báng bổ (Giăng 8:59). Chúa Giê-su khẳng định sự bình đẳng của Ngài với Đức Chúa Trời bằng mà rằng, “Ta với Cha là một” (10:30). Bằng chứng thêm nữa về thần tính của Đấng Christ được chứng minh bằng các phép lạ của Ngài (20:30-31) và Ngài có quyền tha tội (Mác 2:1-12)—là những công việc mà chỉ Đức Chúa Trời mới có thể làm.

Thứ ba, Đức Thánh Linh được gọi là Đức Chúa Trời. Trong Công vụ 5:3-4, chúng ta được biết Phi-e-rơ quở trách A-na-nia là thể nào về sự lừa dối của ông về món tiền mà ông dâng cho hội thánh. “Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng ngươi, đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh, mà bớt lại một phần giá ruộng đó?” Kế đến Phi-e-rơ nói thêm, “ấy chẳng phải ngươi nói dối loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời.” Nói cách khác, nói dối Đức Thánh Linh cũng là nói dối Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh có các thuộc tính của Đức Chúa Trời, bao gồm toàn tri (1 Cô-rinh-tô 2:10), toàn năng (Gióp 33:4) và toàn tại (Thi 139:7). Thêm nhiều chứng cứ nữa về thần tính của Đức Thánh Linh được tìm thấy trong các công việc mà Ngài đã làm, bao gồm việc tái sanh (Tít 3:5), cầu thay (Rô-ma 8:26) và sự làm cho được nên thánh (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13).

 

Chứng cứ của Chúa Ba Ngôi

Bằng chứng đầu tiên về Ba Ngôi của Đức Chúa Trời trong Tân Ước được thấy trong phép báp têm của Chúa Giê-su, khi Cha, Con và Thánh Linh đều có dự phần (Ma-thi-ơ 3:13-17). Khi Chúa Giê-su chịu Giăng làm phép báp têm cho mình, “Thánh Linh của Đức Chúa Trời” (3:16) ngự trên Ngài và Đức Chúa Cha từ trời phán rằng: “Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (3:17).

Chúa Giê-su phán bảo các sứ đồ của Ngài khiến mọi người trở nên môn đệ, làm báp têm cho những người mới tin “nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh” (28:19). Ba ngôi vị thánh được xác định — Cha, Con và Thánh Linh — nhưng Chúa Giê-su đã sử dụng từ “danh” (số ít) thay vì “danh” (số nhiều). Như vậy, Chúa Giê-su đã nhận biết Ba Ngôi của Đức Chúa Trời.

Trong lời chúc phước của Phao-lô trong 2 Cô-rinh-tô 13:13 thêm vào sự củng cố cho Ba Ngôi Đức Chúa Trời: “Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy.” Chỉ ba câu trước đó Phao-lô đã nói đến “Đức Chúa Trời sự yêu thương và sự bình an” (13:11). Phao-lô tin vào một Đức Chúa Trời duy nhất (1 Cô-rinh-tô 8:4), nhưng ông thừa nhận rằng các phước lành thiêng liêng đến từ Đức Chúa Trời là Cha, Đức Chúa Giê-su Christ và Đức Thánh Linh.

Phải chăng Ba Ngôi Đức Chúa Trời chỉ là một tín lý Tân Ước, hay chúng ta cũng tìm thấy chứng cứ cho điều đó trong Cựu Ước? Bằng chứng không được nêu trực tiếp hoặc rõ ràng, nhưng Ê-sai 48:16 có lẽ đề cập rõ ràng nhất về Chúa Ba Ngôi trong Cựu Ước. Ở đây Ê-sai đã ghi lại những lời của Đấng Cứu Thế với tư cách là Tôi tớ: “Các ngươi hãy đến gần ta, và nghe điều nầy: Từ lúc ban đầu ta chưa từng nói cách kín giấu. Vừa lúc có sự ấy, ta đã ở đó rồi. Vả, bây giờ, Chúa Giê-hô-va, và Thần của Ngài, sai ta đến.” Hãy để ý dòng cuối cùng – “CHÚA Giê-hô-va” (Đức Chúa Trời là Cha), “ta” (Đấng Cứu Thế), và “Thánh Linh của Ngài” (Đức Thánh Linh). Ba ngôi vị của Đức Chúa Trời Ba Ngôi được liên kết chặt chẽ trong mối quan hệ dường như là một mối quan hệ đồng đẳng, một Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Trong một đoạn tương tự, Ê-sai đã cho biết rằng Đức Chúa Trời là Cha (“Chúa Giê-hô-va”) đã xức dầu cho Đấng Cứu Thế (“ta”) bằng Thánh Linh của Ngài (61:1).

Ở một phân đoạn Kinh Thánh khác, Ê-sai đã tiên báo về sự ra đời và cai trị vương quốc của Đấng Cứu Thế. “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an” (9:5). Bằng cách gọi Đấng Cứu Thế là “Đức Chúa Trời quyền năng”, Ê-sai khẳng định rõ ràng thần tính của Đấng Christ. Khi tiên báo về sự ra đời của Đấng Cứu Thế tại Bết-lê-hem, tiên tri Mi-chê đã viết rằng “gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng.” (Mi-chê 5:1,). Đây là bằng chứng cho sự hiện hữu và tính đời đời của Đấng Cứu Thế.

Cựu ước nói đến Thiên sứ của Chúa cũng hỗ trợ cho khái niệm nhiều thân vị trong một Chúa Ba Ngôi. Gia-cốp vật lộn với một “người”, một “thiên sứ” theo Ô-sê 12:4, người sau này được xác định là Đức Chúa Trời. Gia-cốp đặt tên cho nơi này là “Phê-ni-ên” (nghĩa đen là “mặt của Chúa”), vì ông nói, “Tôi đã thấy Đức Chúa Trời đối mặt cùng tôi” (Sáng Thế ký 32:30). Con “người” mà Gia-cốp đã vật lộn dường như là ngôi hai của Chúa Ba Ngôi, Chúa Giê-su Christ trước khi Ngài nhập thể. Trong một phân đoạn khác “người đã đến cùng tôi ngày nọ” (người của Chúa) được xác định là “Thiên sứ của Đức Giê-hô-va,” hiện đến với một cặp vợ chồng người Y-sơ-ra-ên để báo cho biết về sự ra đời của Sam-sôn (Các Quan Xét 13:3). Vào cuối cuộc gặp gỡ, Ma-nô-a, người chồng, kết luận, “Quả thật chúng ta sẽ chết, vì đã thấy Đức Chúa Trời!” (13:22). Một lần nữa chúng ta thấy bằng chứng cho thấy một “người đàn ông” được công nhận là thần linh. Đây là một minh chứng khác về Đấng Christ, ngôi thứ hai của Chúa Ba Ngôi, trước khi Ngài nhập thể. Những đề cập đến Thiên sứ của Chúa cho thấy có ít nhất có hai ngôi vị thánh đồng đẳng.5

Nhiều nhà thần học và nhà bình luận Cơ đốc đã thấy bằng chứng về Ba Ngôi của Đức Chúa Trời trong từ số nhiều chỉ Đức Chúa Trời, Elohim. Trong khi hình thức số nhiều của ‘El (“thần”) cho phép và phù hợp với sự mặc khải sau này về Chúa Ba Ngôi, nó không đòi hỏi sự thông giải này. Điều này có thể hiểu là hình thức số nhiều Elohim là một số nhiều chỉ về nhà vua nhấn mạnh sự đầy trọn bản tánh và thuộc tánh của Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, những người bạn Do Thái của chúng ta nhận biết hình thức số nhiều nhưng không chấp nhận tín lý Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên, hình thức số nhiều được sử dụng để chỉ về Chúa Ba Ngôi, điều này được nói rõ ràng hơn trong sự mặc khải sau này.

Xem xét sự mặc khải của cả Tân ước và Cựu ước, chúng tôi kết luận rằng có bằng chứng Kinh Thánh mạnh mẽ cho Ba Ngôi của Đức Chúa Trời.6 Chỉ có một Đức Chúa Trời, nhưng trong sự hợp nhất của Chúa Ba Ngôi trong ba thân vị đồng đẳng và đời đời – Cha, Con và Thánh Linh.

Người ta vận dụng nhiều nỗ lực để minh tín lý về Chúa Ba Ngôi. Một số trong số này là hữu ích vì chúng cho phép chúng ta nhận ra những sự vật trong tự nhiên là ba trong một. Một quả trứng là ba trong một, có vỏ, lòng trắng và lòng đỏ. Các bộ phận khác nhau, nhưng tất cả đều tạo nên một quả trứng. Tuy nhiên, minh họa này không phù hợp vì các bộ phận của quả trứng không sở hữu các đặc tính hoặc “thuộc tính” của nhau. Ryrie sử dụng mặt trời để minh họa Chúa Ba Ngôi.7 Có ba phương diện khác biệt của mặt trời — quả cầu khí hydro phát nổ, ánh sáng phát ra từ khí đốt và năng lượng hay năng lượng bức xạ có thể làm nóng trái đất và làm cho mọi thứ phát triển. Bản thân mặt trời giống như Chúa Cha, ánh sáng giống như Chúa Con, và năng lượng giống như Đức Thánh Linh. Trên trái đất, chúng ta nhìn thấy ánh sáng của mặt trời, không phải chính mặt trời. Tuy nhiên, ánh sáng chiếu xuống trái đất sở hữu các đặc tính của mặt trời và cho chúng ta biết được một điều gì đó về bản chất của mặt trời. Năng lượng của mặt trời sở hữu những đặc tính của mặt trời nhưng lại riêng biệt với nó. Mặt trời, với ánh sáng và năng lượng của nó, có thể giúp một số người hiểu được tín lý rắc rối này về Chúa Ba Ngôi.

Những người theo đạo Cơ đốc ngày xưa đã sử dụng sơ đồ sau đây để minh họa Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Nó giúp hình dung ý tưởng rằng các ngôi vị của Chúa Ba Ngôi là khác biệt, nhưng họ cùng chung trong một Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Chúng ta phải cẩn thận với những hình ảnh minh họa này vì chúng không hoàn hảo và không đủ để mô tả sự mầu nhiệm lớn lao của Đức Chúa Trời. Là tín đồ, chúng ta phải công nhận rằng Ba Ngôi của Đức Chúa Trời là một giáo lý chân chính trong Kinh Thánh. Nhưng đó là một khía cạnh của Đức Chúa Trời mà chúng ta sẽ không thể hiểu hết được khía cạnh này của thiên đàng. Ngay cả Phao-lô cũng thừa nhận rằng “chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” (1 Cô-rinh-tô 13:9). Kế đến ông nói thêm, “Ngày nay chúng ta xem như trong một cái gương, cách mập mờ: Đến bấy giờ chúng ta sẽ thấy hai mặt đối nhau; ngày nay tôi biết chưa hết: Đến bấy giờ tôi sẽ biết như Chúa đã biết tôi vậy” (13:12). Ở thiên đàng chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự thật này. Nhưng ngày nay chúng ta xem tín lý về Chúa Ba Ngôi từ xa, như thể sử dụng ống nhòm trong sương mù. Bình luận của Bromiley rất hữu ích trong vấn đề này. Một người tin Chúa sẽ “không ngạc nhiên nếu một yếu tố bí ẩn vẫn tồn tại bất chấp những phân tích cuối cùng hoặc những điều chưa rõ ràng, vì chúng ta chỉ là một con người và Chúa là Đức Chúa Trời.”8 Một ngày nào đó chúng ta có thể hiểu tín lý này rõ hơn, nhưng ngay cả khi đó chúng ta cũng có thể không hiểu hết điều này.

PHẢI CHĂNG HỘI THÁNH LUÔN TÁN THÀNH GIÁO LÝ NÀY?

Chúa Ba Ngôi là một chủ đề rất khó giảng giải, không có gì ngạc nhiên khi biết rằng giáo lý này đã trở thành chủ đề tranh luận trong nhà thờ. Tất nhiên, cuộc tranh luận tập trung vào mối quan hệ của Chúa Cha, Chúa Con, và Đức Thánh Linh với nhau.

Tín lý về Chúa Ba Ngôi nảy sinh từ nhu cầu của các Cơ đốc nhân để phân biệt Chúa Giê-su với Đức Chúa Trời, song đồng nhất Ngài với Đức Chúa Trời. Tertullian (vào khoảng 160-220), Nhà lý luận và nhà thần học Bắc Phi, là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Chúa Ba Ngôi” và bắt đầu trình bày một cách có hệ thống về tín lý này. Nhưng quan điểm của ông liên quan đến sự hạ thấp tầm quan trọng của Chúa Con đối với Chúa Cha. Origen (vào khoảng 185-254) tiến thêm một bước nữa, lập luận rằng Chúa Con là thuộc cấp của Chúa Cha về bản chất cơ bản của Ngài, và Đức Thánh Linh là thuộc cấp của Chúa Con.

Vào thế kỷ thứ hai, Theodotus xứ Byzantium đã trình bày chi tiết quan điểm rằng Chúa Giê-su chỉ là một con người đơn thuần, người chịu ảnh hưởng bởi quyền năng của Đức Thánh Linh khi Ngài chịu phép báp têm và sau đó được gọi là “Con Đức Chúa Trời.” Quan điểm này được gọi là “Chủ nghĩa quân chủ năng động” bởi vì điều này khẳng định “quyền tể trị duy nhất” (chế độ quân chủ) hoặc quyền tối cao của Đức Chúa Cha, nhưng vẫn công nhận “chức năng” thuộc linh của con người Giê-su.

Trong khi Chủ Nghĩa Quân Chủ Năng Động thực sự phủ nhận tín lý về Chúa Ba Ngôi, một hình thức khác của Chủ nghĩa quân chủ đã tìm cách khẳng định điều đó nhưng đã làm như vậy bằng cách hạ thấp các thân vị của Đức Chúa Trời Ba Ngôi với các phương thức hoặc biểu hiện khác nhau của một Đức Chúa Trời.

Chú thích:

Modalistic (modalism – hình thức thuyết)

Monarchianism (duy nhất thần thuyết)

Học thuyết Duy nhất thần hình thức (Modalistic Monarchianism) được thúc đẩy bởi Sabellius (chúng ta được biết đến qua các tác phẩm của Tertullian), người hoạt động ở Rome vào đầu thế kỷ thứ ba sau Công nguyên. Ông dạy rằng có một Đức Chúa Trời có thể được tôn vinh là Cha, Con hoặc Thánh Linh. Cách giải thích theo kiểu thể thức đối với sự mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi là cách thu nhỏ “ba ngôi” của Đức Chúa Trời thành những tên gọi, vai trò hoặc hoạt động khác nhau.

Sự nhầm lẫn liên quan đến Chúa Ba Ngôi cuối cùng đã tạo tiền đề cho những lời dạy của Arius (khoảng năm 250-336), một vị trưởng lão người Hy Lạp ở Alexandria, Ai Cập, người có lập luận một cách logic rằng nếu Chúa Cha sinh ra Chúa Con, thì đã có lúc Chúa Con chưa hiện hữu. Arius và những người theo ông đã phủ nhận thần tính trọn vẹn của Chúa Con bằng cách cho rằng Ngài là tạo vật đầu tiên của Chúa Cha, và Thánh Linh là tạo vật đầu tiên của Chúa Con.

Sự nhầm lẫn liên quan đến Chúa Ba Ngôi bắt đầu được giải quyết vào thế kỷ thứ tư. Năm 325, Hội đồng Nicaea được Hoàng đế Constantine triệu tập để đối phó với chủ nghĩa Arian, vốn đe dọa sự thống nhất của giáo hội. Sau khi nghe những cáo buộc chống lại Arius, ba trăm giám mục có mặt đã tìm cách trình bày một thể thức bày tỏ quan điểm chính thống của Cơ đốc giáo. Tín điều của họ khẳng định rằng Chúa Giê-su Christ là “Con Đức Chúa Trời, sinh ra từ Cha, chỉ sinh ra, ấy là thực thể (ousia) của Cha, Thần của Đức Chúa Trời, Ánh sáng của Ánh sáng, Đức Chúa Trời thật của Đức Chúa Trời thật, không được tạo ra từ vật chất (homoousion) bởi Cha.” Thể thức nhấn mạnh rằng Chúa Cha và Chúa Con tồn tại khác biệt, mặc dù về cơ bản là một. Công đồng Constantinople, được triệu tập bởi hoàng đế La Mã Theodisius I vào năm 381, đã áp dụng từ khóa homoousia (“cùng thực thể”) với Thánh Linh. Bằng cách khẳng định rằng Đức Thánh Linh là “cùng thực thể” với Chúa Cha, thần tính đầy trọn của Đức Thánh Linh đã được khẳng định.

Thật không may, các quyết định của các hội đồng ban đầu này đã không giải quyết được vấn đề về Ba Ngôi của Đức Chúa Trời cho các Cơ đốc nhân ở mọi thời đại. Sự dạy dỗ sai lầm có xu hướng được lặp lại, và vào khoảng năm 550 Johannes Askunages và Johannes Philiponus cho rằng có ba thực thể thần thánh (ousiai) trong Chúa Ba Ngôi. Về cơ bản, họ lập luận rằng có ba vị thần chứ không phải ba thân vị trong Chúa Ba Ngôi. Những người theo thuyết nhất thể đã sai lầm khi coi Chúa Giê-su Christ như một con người đơn thuần và Đức Thánh Linh chỉ là một năng lực hoặc ảnh hưởng. Chứng Nhân Giê-hô-va và Người Mặc Môn có chung quan điểm dị giáo khi họ phủ nhận thần tính của Đấng Christ.

Ý NGHĨA THIẾT THỰC CỦA BA NGÔI ĐỨC CHÚA TRỜI

Giáo lý về Chúa Ba Ngôi không chỉ đơn thuần là một vấn đề để các nhà thần học suy ngẫm. Điều này còn có ý nghĩa thiết thực đối với việc hiểu các công việc của Đức Chúa Trời, sự cứu rỗi cá nhân của chúng ta và đời sống Cơ đốc.

Chúa Ba Ngôi trong sự sáng tạo

Kinh thánh bắt đầu với cụm từ, “Ban đầu Đức Chúa Trời [elohim] dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1). Đây là một lời giới thiệu chung về sự sáng tạo. Nghiên cứu sâu hơn chỉ ra rằng các thân vị của Chúa Ba Ngôi đã đóng những vai trò riêng biệt trong công cuộc lớn lao này. Đức Chúa Trời là Cha, “muôn vật bởi Ngài mà ra” (1 Cô-rinh-tô 8:6), đã dựng nên thế giới và mọi vật (Công vụ 17:24-26). Ngài là Kiến trúc sư có chủ quyền trên sự sáng tạo, là Đấng “đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán” (Ê-phê-sô 1:11).

Đức Chúa Con đã thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa Trời bằng cách thực hiện công việc tạo dựng. Giăng có chép “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (Giăng 1:3). Điều này được khẳng định trong Cô-lô-se 1:16, “Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, … bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên.”

Đức Thánh Linh cũng hoạt động trong việc sáng tạo. Sáng thế ký 1:2 ghi lại rằng “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.” Tiếng Hê-bơ-rơ được dịch là “bay lượn” được sử dụng trong Phục truyền 32:11 về hình ảnh của một con đại bàng bay chung quanh con non của nó nhằm theo dõi và bảo vệ. Và vì vậy Đức Thánh Linh đã hoạt động tích cực trong việc sáng tạo, bay lượn trên nó, đảm bảo mọi sự diễn ra an toàn.

Chúa Ba Ngôi trong Sự Nhập thể

Ba Ngôi Đức Chúa Trời cũng được thể hiện rõ ràng trong sự nhập thể và sự sống của Chúa Giê-su Christ. Kinh thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời là thần linh (Giăng 4:24) và vô hình (Cô-lô-se 1:15). Ngài không có thể chất, hình thể. Nhưng để cho mọi người biết đến Đức Chúa Trời, “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta” (Giăng 1:14). Trong thân vị của Chúa Giêsu Christ, Đức Chúa Trời đã mặc lấy hình thể con người và đến sống trên thế gian. Như Sứ đồ Giăng có chép, “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (1:18). Là ngôi Lời (logos, 1:1, 14), Đấng Christ dự phần sự thân mật cách sâu nhiệm nhất với Đức Chúa Cha và do đó có thể bày tỏ những lẽ thật sâu sắc về Chúa Cha. Chúa Giê-su, Ngôi Lời thiên thượng, được tỏ ra (exegeomai, “công bố” [NKJV] hay “giãi bày” [NASB] ) tính cách của Đức Chúa Trời. Do vậy Phao-lô chép rằng, “Chính Ngài [Giê-su] là hình ảnh [eikon] của Đức Chúa Trời không thấy được” (Cô-lô-se 1:15). Từ eikon được sử dụng trong thời xưa để chỉ hình ảnh hoàng đế trên đồng xu. Hầu hết người La Mã chưa bao giờ nhìn thấy hoàng đế, nhưng họ biết ông ấy từ hình ảnh trên đồng tiền của họ. Cũng vậy đối với Đức Chúa Trời. Trong sự nhập thể của Chúa Giê-su Christ, loài người đã có được cái nhìn thoáng qua về Đức Chúa Trời là Cha. Như Chúa Giê-su đã phán, “Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha” (Giăng 14:9).

Giăng đã sử dụng cụm từ “chỉ Con một ở trong lòng Cha” (1:18) để mô tả mối quan hệ của Chúa Giê-su với Đức Chúa Trời. Bản dịch theo (NASB), “con một từ Cha” đã dẫn đến sự nhầm lẫn về mối quan hệ giữa Cha và Con trong Ba Ngôi. Nếu Chúa Con được “sinh ra”, thì làm sao Ngài có thể hiện hữu đời đời và đồng đẳng với Chúa Cha? Để giải quyết song đề này, các nhà thần học đã lập luận rằng Chúa Giê-su “được sinh ra từ trước vô cùng” và do đó không có sự khởi đầu. Tôi tin rằng có một cách giải thích hợp lý hơn.

Có một số tranh luận về việc cụm từ trong tiếng Hy Lạp được dịch là “con một” (monogenes) có nguồn gốc từ gennao (“được sinh ra”) hay genos (“thực thể”). Tiền tố mono nghĩa là “một.” Chúa Giê-su hoặc là “con một” hoặc “một thực thể”. Từ monogenes cũng được sử dụng đối với Y-sác (Hê-bơ-rơ 11:17), người không phải là trai một của Áp-ra-ham (Sáng thế ký 16:15-16), nhưng ấy là “một thực thể” con trai theo lời hứa của ông. Sức nặng của bằng chứng ngôn ngữ cho thấy Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời “duy nhất” hay “độc nhất vô nhị”.9 Bản NIV dịch thành, “Con Một” trong Giăng 1:14 (cũng như 3:16) có thể chinh phục quan điểm này. Đức Thánh Linh dự phần như thế nào trong sự nhập thể của Đấng Christ? Ma-thi-ơ tường thuật lại rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã ngự đến trên Ngài khi Ngài chịu phép báp têm. (Ma-thi-ơ 3:16). Phi-e-rơ đã chỉ ra tầm quan trọng của sự kiện này trong bài giảng luận của ông với Cọt-nây khi ông giảng giải rằng “Đức Chúa Trời đã xức cho Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét bằng Đức Thánh Linh và quyền phép” (Công vụ 10:38; xem Ê-sai 61:1). Chúa Giê-su phán rằng Ngài đã làm những công việc phi thường “bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời” (Ma-thi-ơ 12:28). Tất cả điều này cho thấy rằng Chúa Giê-su đã thực hiện chức vụ nhập thể của Ngài bởi quyền năng của Đức Thánh Linh.

Ba ngôi trong công cuộc cứu rỗi

Ba Ngôi của Đức Chúa Trời rất rõ ràng trong các bản văn Kinh thánh giãi bày sự cứu rỗi của người tin Chúa. Trong phần giới thiệu thư tín đầu tiên của mình, Phi-e-rơ đã đề cập đến những người “theo sự biết trước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha, và được nên thánh bởi Đức Thánh Linh, đặng vâng phục Đức Chúa Jêsus Christ và có phần trong sự rải huyết Ngài: nguyền xin ân điển và bình an thêm lên cho anh em” (1 Phi-e-rơ 1:2). Ở đây chúng ta nhận thấy rằng mỗi thân vị trong Chúa Ba Ngôi có một vai trò riêng biệt: Chúa Cha chọn, Chúa Con cứu chuộc, và Thánh Linh làm cho nên thánh.

Sự khác biệt này về các vai trò trong sự cứu rỗi người tin Chúa cũng được thấy rõ ở Ê-phê-sô. Đức Chúa Trời là Cha đã “chọn” và “định trước” chúng ta (Ê-phê-sô 1:4-5). Trong Đức Chúa Con “Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài” (1:7). Đức Thánh Linh có vai trò quan trọng trong việc bắt phục những người không tin “Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét” (Giăng 16:8). Khi một người đến với Đấng Christ bởi đức tin, người ấy được “ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta” (Ê-phê-sô 1:13-14). Ngày xưa, con dấu được sử dụng như một dấu hiệu nhận biết, thể hiện quyền sở hữu hợp pháp đối với vật được đóng ấn. Và do đó, chức vụ được ấn chứng của Thánh Linh đánh dấu các tín đồ là sự chứng nhận của chính Đức Chúa Trời, bảo đảm sự an ninh cho họ đến đời đời.

Ba Ngôi trong Sự Khải Thị

Ba Ngôi của Đức Chúa Trời được bày tỏ một cách đầy uy nghi trong quá trình bày tỏ lẽ thật thiêng liêng. Đức Chúa Trời là nguồn của sự mặc khải thiêng liêng (2 Phi-e-rơ 1:21; Khải huyền 1:1). Phao-lô chép rằng “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn” (2 Ti-mô-thê 3:16). Từ “soi dẫn” (theopnieustos) theo nghĩa đen “Đức Chúa Trời hà hơi,” theo bản Kinh thánh NIV (New International Version). Cả Kinh thánh đều đến từ Đức Chúa Trời như là “ hơi thở” của lẽ thật và sự mặc khải thiêng liêng của Ngài. Đức Chúa Con là chủ đề của sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su cho biết rõ điều này khi Ngài phán cùng các môn đồ, “Đoạn, Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các thi thiên phải được ứng nghiệm” (Lu-ca 24;44). “Sự mặc thị của Đức Chúa Jêsus Christ” (Khải huyền 1:1) là sự mặc thị về Chúa Giê-su Christ. Chúa Giê-su là chủ đề và nhân vật trung tâm của mọi mặc khải tiên tri.

Đức Thánh Linh cũng có một vai trò quan trọng trong việc mặc khải của Đức Chúa Trời. Thánh Linh là tác nhân tích cực về sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Phi-e-rơ nói rằng khi người ta viết Kinh thánh, họ “bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (2 Phi-e-rơ 1:21). Nói về Thánh Linh, Chúa Giê-su phán cùng các sứ đồ rằng, “Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16:13-14). Những gì Đức Chúa Trời đã tỏ cho các sứ đồ đầu tiên, Ngài đã bày tỏ “bởi Đức Thánh Linh Ngài” (1 Cô-rinh-tô 2:10).

Ba Ngôi trong Sự Cầu Nguyện

Một áp dụng thực tế của Chúa Ba Ngôi được thể hiện rõ ràng trong sự hướng dẫn của Kinh thánh về sự cầu nguyện. Mặc dù Đức Chúa Trời là một bản thể thiêng liêng, nhưng Ngài cũng gồm ba thân vị. Chúng ta nên trình dâng sự cầu nguyện của mình lên thân vị nào trong số những thân vị này?

Trong Bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã hướng dẫn các môn đồ cầu nguyện với Chúa Cha. “Vậy, các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh” (Ma-thi-ơ 6:9). Sau đó, trong bài giảng tại Phòng Cao, Chúa Giê-su dạy các môn đồ cầu nguyện “nhân danh Chúa Giê-su”. Ngài phán, “Trong ngày đó, các ngươi không còn hỏi ta về điều chi nữa. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, điều chi các ngươi sẽ cầu xin nơi Cha, thì Ngài sẽ nhân danh ta mà ban cho các ngươi. Đến bây giờ, các ngươi chưa từng nhân danh ta mà cầu xin điều chi hết. Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn” (Giăng 16:23-24). Lời cầu nguyện của Cơ đốc nhân bao gồm việc cầu xin Chúa Cha trên nhờ vào sự xứng đáng, ảnh hưởng và danh tiếng của Đức Chúa Con (danh”). Tất nhiên, những lời cầu nguyện của chúng ta cũng có thể được trình dâng lên Chúa Giê-su, như được thấy trong Giăng 14:14, “Nếu các ngươi nhân danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho.”

Đức Thánh Linh tham dự phần vào sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời qua lời cầu nguyện như thế nào? Phao-lô chép rằng Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện khi chúng ta yếu đuối hoặc không biết cầu nguyện như thế nào. Mẹ tôi đã trải qua điều này trong vài tháng sau cái chết đột ngột của người anh mười lăm tuổi của tôi. Trong những lúc khó khăn như vậy, “Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rô-ma 8:26-27). Khi chúng ta không thể cầu nguyện hoặc không biết cách cầu nguyện, Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời dò xét tấm lòng chúng ta và cất tiếng rên rỉ thay cho chúng ta trước Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng trắc ẩn và luôn quan tâm đến chúng ta.

Biết Đức Chúa Trời Rõ Hơn

Một nghiên cứu về Ba Ngôi Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ giúp chúng ta biết Ngài rõ hơn. Chúng ta học biết rằng Đức Chúa Trời là một, không phải nhiều. Nhưng Ngài cũng là ba thân vị thiêng liêng — Cha, Con và Thánh Linh. Trong khi điều nầy có vẻ mâu thuẫn từ góc độ lý trí của con người, mâu thuẫn không những hiển nhiên, không thực. Bởi đức tin, chúng ta chấp nhận sự mầu nhiệm lớn lao về Ba Ngôi của Đức Chúa Trời là một lẽ thật trong Kinh thánh. Đức Chúa Cha đã sai Con Ngài đến thế gian để chúng ta có thể nhận biết Đức Chúa Trời qua công việc bắt phục và tái sinh của Đức Thánh Linh. Ngoài lẽ thật nền tảng này, chúng ta không có cơ sở nào để biết Đức Chúa Trời, càng không thể biết Ngài rõ hơn.

 

 

 

 

 

 

11

Nguyên Chỉ (Sắc Lệnh) Của Đức Chúa Trời

 

NĂM 1994, tôi được phép nghỉ hè giành cho giảng viên đại học khi giảng dạy tại Chủng viện Western. Tôi đã chọn dành thời gian ở Y-sơ-ra-ên để làm giàu thêm kiến thức căn bản của mình với tư cách là một giáo viên dạy Kinh Thánh. Kỳ nghỉ hè này bao gồm nhiều hoạt động, tất cả đều phải được sắp xếp từ trước, tôi dự định dành ba tuần đầu tiên của mùa hè với một nhóm sinh viên của mình, giới thiệu cho họ về vùng đất của Kinh Thánh. Hai tuần tiếp theo, tôi sẽ tham gia vào một cuộc khai quật khảo cổ tại Bethsaida, gần Biển Galilee. Từ đó tôi lên kế hoạch thuê một chiếc xe hơi và đến Tel-Aviv để gặp gia đình. Chúng tôi sẽ dành bốn tuần tiếp theo cùng nhau đi thăm các địa điểm trong kinh thánh và các cuộc khai quật khảo cổ học. Tôi rất mong được trở thành hướng dẫn viên du lịch riêng cho gia đình tôi! Sau khi gia đình tôi trở về nhà, tôi dự định dành một tuần để nghiên cứu khảo cổ học ở Jerusalem, tiếp theo là hai tuần khai quật tại Tell Jezreel.

Trước khi đi nghỉ phép, tôi đã viết ra kế hoạch về một hành trình đầy đủ cho mùa hè với ngày tháng và địa chỉ của những nơi tôi sẽ đến. Đó là một kế hoạch khá toàn diện! Và ngoại trừ một số điều chỉnh do lỗi của con người, tôi đã có thể thực hiện hành trình đã định.

Lên kế hoạch cho cả một mùa hè học tập và du lịch là một thách thức. Nhưng tầm quan trọng của một thành quả như vậy bị giảm đi rất nhiều khi so sánh với kế hoạch đời đời của Đức Chúa Trời. Không thể tin được vì có vẻ như, Đức Chúa Trời có một kế hoạch cho vũ trụ này và tất cả các tạo vật bên trong nó. Kế hoạch này bắt đầu trong quá khứ vô hạn và tiếp tục ở tương lai vô hạn. Đây là một kế hoạch toàn diện và đầy đủ, được thiết kế để mang lại vinh quang cho Đức Chúa Trời.

Trong chương này, chúng ta sẽ hiểu biết Đức Chúa Trời nhiều hơn bằng cách nghiên cứu kế hoạch của Ngài cho mọi thời đại. Chúng ta sẽ khám phá xem mỗi người trong chúng ta phù hợp với kế hoạch của Đức Chúa Trời như thế nào. Chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng kế hoạch của Đức Chúa Trời không thể bị thay đổi hoặc thất bại như một số kế hoạch của tôi trong kỳ nghỉ hè. Hãy cùng khám phá xem kế hoạch dành cho các thời đại này đòi hỏi những gì và nó liên quan đến chúng ta như thế nào.

 

KẾ HOẠCH TỐI HẬU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Kinh Thánh bày tỏ rằng Đức Chúa Trời có một kế hoạch tối thượng và toàn diện cho toàn bộ sự sáng tạo của Ngài, một kế hoạch mà Ngài đã thiết lập trong cõi đời đời. Kế hoạch này được các nhà thần học gọi là sắc lệnh của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh sử dụng từ sắc lệnh để chỉ các quyết định hoặc phán quyết tối cao của những người cai trị trên đất. Vua Si-ru đã ban hành một sắc lệnh liên quan đến việc xây dựng lại đền thờ Giê-ru-sa-lem (Era. 6:3).

Sau đó vua Đa-ri-út đã ban hành một sắc lệnh xác nhận quyết định này (6:12). Vua A-suê-ru đã ban hành một sắc lệnh cho phép tiêu diệt người Do Thái trên khắp Ba Tư (Êtê. 3:13). Vua Ạt-ta-xét-xe đã ban hành một sắc lệnh cấp cho E-xơ-ra thẩm quyền được sấp xếp các chức vụ trong đền thờ (Era. 7:13). Mỗi sắc lệnh này là một quyết định của nhà vua, do người có thẩm quyền ban hành.

Tuy nhiên, mặc dù có thể tạo ra một sự tương tự giữa sắc lệnh của Đức Chúa Trời và những sắc lệnh được ban hành bởi những nhà cai trị con người, nhưng có một sự khác biệt quan trọng. Các sắc lệnh của những nhà cai trị con người bị giới hạn bởi quyền lực của các vị vua và sự sẵn sàng tuân theo của thần dân. Kế hoạch của con người thay đổi. Những sắc lệnh của vua có thể được sửa đổi. Nhưng sắc lệnh của Đức Chúa Trời là tuyệt đối, bất khả xâm phạm và không thể thay đổi. Sắc lệnh của Đức Chúa Trời có sự hỗ trợ của quyền năng vô hạn của Ngài. Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời, những gì Ngài ra lệnh thì sẽ được hoàn thành.

Sắc lệnh của Đức Chúa Trời có thể được định nghĩa là “mục đích đời đời của Ngài, theo dự định của ý muốn Ngài. Theo đó, vì sự vinh hiển của chính Ngài, mà Ngài đã định trước bất cứ điều gì sẽ xảy ra.”1 Hay nói thêm! đơn giản, sắc lệnh của Đức Chúa Trời là “quyết định đời đời của Ngài làm cho mọi điều chắc chắn sẽ xảy ra.”2

 

KINH THÁNH DẠY GÌ VỀ SẮC LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Cả Cựu Ước và Tân Ước đều bày tỏ về lịch sử thế giới, bao gồm các sự kiện trong cuộc sống của chúng ta, đang được thực hiện theo sắc lệnh của Đức Chúa Trời.

 

Lời Dạy Của Cựu Ước

Trước giả Thi Thiên đã viết về “sắc lệnh của Chúa” về Con của Ngài (Thi. 2:7). Đề cập đến sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, trước giả Thi Thiên viết, “Ngài đã ban một sắc lệnh (định luật) không bao giờ qua đi” (148:6). Theo tiên tri Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời đã đặt ngay cả ranh giới của biển bằng một sắc lệnh đời đời: “Vì ta đã đặt cát làm ranh giới cho biển, một sắc lệnh đời đời, nên nó không thể vượt qua đó” (Giê. 5:22, NASR). Không giống như các quyết định của con người sắc lệnh của Đức Chúa Trời được xác định vĩnh viễn và áp dụng cho mọi thời đại. Ê-sai đã bày tỏ rằng Đức Chúa Trời đã lên “kế hoạch từ trước” để sử dụng Vua San-chê-ríp người A-si-ri làm đại diện của Ngài phán xét nghịch lại Giê-ru-sa-lem (Êsai. 37:26). Việc chống lại kế hoạch của Đức Chúa Trời là vô ích được thể hiện rõ ràng trong lời của Ê-sai, “Vì Ðức Giê-hô-va vạn quân đã toan định, thì ai bãi đi được? Tay Ngài đã giang ra, thì ai day lại được?” (14:27).

Sự phán xét đến với Nê-bu-cát-nết-sa là theo “sắc lệnh của Đấng Tối Cao” (Đa 4:24). Sắc lệnh của Đức Chúa Trời là lời tiên tri có cơ sở. Đức Chúa Trời đã phán với Đa-ni-ên rằng: “Bảy mươi tuần lễ định trên dân ngươi và thành thánh ngươi” (9:24). Sau đó, ông phác thảo những sự kiện chính của thời kỳ đó, bao gồm sự giáng sinh của Đấng Mê-si, sự đóng đinh của Ngài, sự tàn phá của Giê-ru-sa-lem, các sự kiện của Đại nạn và sự hủy diệt Antichrist (9:24-27). Khi đề cập đến các hoạt động của Antichrist, Đa-ni-ên viết, “Người sẽ được may mắn cho đến khi cơn thạnh nộ Chúa được trọn, bởi vì điều gì đã có chỉ định [đó là “sắc lệnh”] thì phải ứng nghiệm” (11:36).

Sắc lệnh của Đức Chúa Trời được thể hiện rõ ràng trong những lời nổi tiếng của sáchTruyền Đạo, “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định. Có kỳ sanh ra, và có kỳ chết; có kỳ trồng, và có kỳ nhổ vật đã trồng” (Truyền. 3:1-2). Vấn đề không phải là có thời kỳ thích hợp cho những sự kiện này, mà là có thời kỳ được chỉ định thiêng liêng. Đó là, mọi thứ đều phù hợp với kế hoạch của Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn viết, “CHÚA đã dựng nên muôn vật để dùng cho Ngài; Ðến đỗi kẻ ác cũng vậy, để dành cho ngày tai họa” (Châm. 16:4).

Lời Dạy Của Tân Ước

Các tác phẩm Tân Ước giúp chúng ta hiểu biết hơn về sắc lệnh của Đức Chúa Trời. Mặc dù Tân Ước không sử dụng từ sắc lệnh cho kế hoạch tối thượng của Đức Chúa Trời, nhưng các từ quan trọng khác được giới thiệu. Trong các sách Phúc Âm, sắc lệnh của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua sự ứng nghiệm của lời tiên tri. Đây là điều đặc biệt nổi bật trong Ma-thi-ơ. Sự ra đời đồng trinh của Chúa Giê-su “diễn ra để ứng nghiệm những gì Chúa đã phán qua nhà tiên tri” (Mat. 1:22; xin xem Êsai. 7:14) Ma-thi-ơ chỉ ra rằng nơi sinh của Ngài đã được xác định trước và đã được công bố bởi nhà tiên tri Mi-chê (Mat. 2:5-6; Mi. 5:2). Việc tàn sát trẻ em tại Bết-lê-hem (Mat. 2:16-18), chức vụ của Giăng Báp-tít (3:1-3), vị trí chức vụ của Đấng Christ ở Ga-li-lê (4:12-16). và các phép lạ của Ngài (8:16-17)—tất cả những điều này đã hoàn thành mệnh lệnh của Đức Chúa Trời bằng cách ứng nghiệm lời tiên tri. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su nói về sự phán xét hầu đến trên Giê-ru-sa-lem sẽ xảy ra “để ứng nghiệm tất cả những gì đã xảy ra” (Lu. 21:22). Và sự phản bội Ngài sẽ xảy ra “như nó đã được chỉ định” (22:22).

Các sứ đồ đã nhận ra sắc lệnh của Đức Chúa Trời trong các biến cố của cuộc đời Đấng Christ. Trong bài giảng vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ làm chứng rằng Chúa Giê-su đã bị nộp và đóng đinh “theo ý định và sự biết trước của Đức Chúa Trời” (Công. 2:23). Trong lời cầu nguyện của mình, các sứ đồ nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã chỉ định cho Hê-rốt, Bôn-sơ Phi-lát, các dân ngoại và dân Do Thái để “thực hiện theo quyền năng và ý định của Ngài đã định trước sẽ xảy ra” (4:28).

Trong các bài giảng và bài viết của Phao-lô, tín lý về sắc lệnh của Đức Chúa Trời được trình bày cặn kẽ nhất. Trong bài giảng cho người A-thên, Phao-lô thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên mọi dân tộc, “xác định thời gian dành cho họ và chính xác những nơi họ sẽ sống” (17:26). Tất cả công tác cứu chuộc của Đức Chúa Trời là theo kế hoạch thiêng liêng của Ngài, mà Ngài đã sai Con Ngài ra đến đúng thời điểm (Ga. 4:4). Dân Y-sơ-ra-ên không tin và từ chối Đấng Mê-si của họ đã được báo trước bởi tiên tri (Rô. 11:7-10; Thi. 69:22-23; Êsai. 29:10), và việc đưa dân ngoại vào kế hoạch của Đức Chúa Trời đã được dự đoán trong giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Ga. 3:8; Sáng. 12:3). Những người tin vào Đấng Christ chọn “trước khi tạo dựng thế gian” và được “tiền định…. để ngợi khen về ân điển vinh hiển của Ngài” (Êph. 1:4-6). “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài” (Rô. 8:29). Trong một tuyên bố khá bao quát, Phao-lô khẳng định rằng Đức Chúa Trời làm mọi việc “theo ý muốn của Ngài” (Êph. 1:11, NASB). Ở những nơi khác, Phao-lô thừa nhận rằng “Đức Chúa Trời khiến mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho những ai được gọi theo ý định của Ngài” (Rô. 8:28, NASB).

 

ĐẶC ĐIỂM CHÍNH YẾU CỦA SẮC LỆNH ĐỨC CHÚA TRỜI

Có thể nói gì về sắc lệnh của Đức Chúa Trời qua một bản tóm tắt có hệ thống? Năm điểm sau đây cần được lưu ý.

Thứ nhất, sắc lệnh của Đức Chúa Trời đã được ấn định trong cõi đời đời nhưng được thi hành đúng thời điểm. Như đã lưu ý trước đó, Giê-rê-mi đã dùng từ “đời đời” để mô tả sắc lệnh của Đức Chúa Trời (Giê. 5:22), và Phao-lô viết rằng những người tin Chúa đã được Đức Chúa Trời chọn “trước khi sáng thế” (Êph. 1:4). có nghĩa là “từ muôn đời” kể cả đến quá khứ đời đời. Phi-e-rơ đã dùng chính cụm từ này để chỉ Chúa Giê-su, người đã được “chọn trước khi sáng thế.” Sau đó, Phi-e-rơ nói thêm “Ngài được bày tỏ trong cuối các thời kỳ vì cớ anh em” (1 Phi. 1:20). Kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho Đấng Christ đã được ấn định trong cõi đời đời nhưng được thực hiện vào một thời điểm cụ thể. Điều này cũng đúng với sự kêu gọi và sự cứu rỗi của các tín đồ: Đức Chúa Trời đã gọi chúng ta “trước buổi sáng thế” nhưng “đã cứu chúng ta” vào một thời điểm cụ thể (2 Ti. 1:9).

Thứ hai, sắc lệnh của Đức Chúa Trời là toàn diện. Một trong những điều tôi phát hiện ra trong kỳ nghỉ hè năm 1994 ở Y-sơ-ra-ên là trong khi kế hoạch của tôi là toàn diện, nhưng nó không bao gồm toàn bộ. Có một số vấn đề quan trọng mà tôi đã bỏ qua khi lập kế hoạch. Đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời thì không phải như vậy. Theo Kinh Thánh, không có gì nằm ngoài kế hoạch của Đức Chúa Trời. Khi Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời “làm mọi sự theo ý muốn Ngài” (Êph. 1:11, NASB), ông ngụ ý rõ ràng không có gì bị bỏ sót hoặc để lại ngẫu nhiên. Không có gì xảy đến với đời sống của chúng ta mà không nằm trong kế hoạch của Đức Chúa Trời.

Thứ ba, sắc lệnh của Đức Chúa Trời là một kế hoạch tốt lành và khôn ngoan. Bởi vì Đức Chúa Trời là tốt lành (Na. 1:7), chúng ta tin chắc rằng Đức Chúa Trời làm mọi việc “vì sự tốt lành” theo ý Ngài (Rô. 8:28). Bởi vì Đức Chúa Trời là khôn ngoan (16:27), kế hoạch của Ngài là đan kết những sự kiện khá xa vời và dường như không liên quan lại với nhau thành một tổng thể hài hòa. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được thể hiện rõ qua việc Chúa Giê-su Christ bị đóng đinh. (1 Cô. 1:23-24) và trong việc hợp nhất những người Do Thái và dân ngoại tin vào trong một thân thể Đấng Christ (Êph. 3:6-10). Sau khi suy ngẫm về sự mầu nhiệm sâu xa trong kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên (Rô. 9-11), Phao-lô đã kết thúc bài luận bằng một câu nói đầy sự ca ngợi về sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong mọi sự: “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Ðức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (11:33).

Thứ tư, sắc lệnh của Đức Chúa Trời là ý định tối hậu để mang lại vinh quang cho Ngài. Tất cả những gì Đức Chúa Trời tạo ra và làm ra đều nhằm mục đích tôn vinh các thuộc tính của Ngài để mọi người ca tụng Ngài. Vũ trụ vật chất được tạo ra để bày tỏ sự vinh hiển của Ngài (Thi. 19:1), và loài người được tạo ra để làm vinh hiển Ngài (Êsai. 43:7). Sự lựa chọn và tiền định của Ngài đối với các tín đồ nhằm ca ngợi ân điển vinh hiển Ngài “(Êph. 1:4-6). Các tín đồ được hướng dẫn để sống đời sống của họ sao cho họ được vinh hiển Đức Chúa Trời (Mat. 5:16; 1 Cô. 10:31). Ngay cả việc sử dụng các ân tứ thuộc linh của bạn với tư cách là tín đồ để “trong mọi sự Đức Chúa Trời được tôn vinh” (1 Phi. 4:11, NASB). Khải tượng của Giăng về hàng ngàn hàng vạn sinh vật sống xung quanh ngai của Đức Chúa Trời cho thấy rằng mục đích của sự thờ phượng là vì sự vinh hiển của Ngài, “Chiên Con đã chịu giết đáng được quyền phép, giàu có, khôn ngoan, năng lực, tôn quí, vinh hiển và ngợi khen!” (Khải. 5:12). Kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho sự sáng tạo của Ngài là vinh quang và mang lại sự vinh hiển cho Ngài.

Thứ năm, sắc lệnh của Đức Chúa Trời không bãi bỏ trách nhiệm của con người. Mặc dù Đức Chúa Trời có một kế hoạch tối thượng sẽ được hoàn thành, nhưng điều này không đánh mất trách nhiệm cá nhân đối với hành động của mình. Điều này đặc biệt quan trọng vì sắc lệnh của Đức Chúa Trời liên quan đến những hành động tội lỗi của con người. Mặc dù Đức Chúa Trời có quyền tối cao đối với các hành động của chúng ta, nhưng Ngài không thể bị đổ lỗi như vậy vì cớ hành động của chúng ta. Sự thật này được minh họa trong cuộc đời của Giô-sép. Sau khi cha của Giô-sép là Gia-cốp qua đời, các anh của Giô-sép sợ rằng ông sẽ trừng phạt họ vì những điều họ đã làm với ông. Nhưng Giô-sép đáp lại: “Các anh toan hại tôi, nhưng Ðức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo.” (Sáng. 50:20). Anh em của Giô-sép đã làm một điều xấu xa khi bán em mình làm nô lệ. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng hành động tội lỗi đó để thực hiện một điều tốt đẹp cho gia đình Gia-cốp. Vì Giô-sép bị bán làm nô lệ ở Ai Cập, mà sau này ông có thể chu cấp cho gia đình Gia-cốp trong thời kỳ đói kém. Các anh trai của Giô-sép phải chịu trách nhiệm về hành vi sai trái của họ. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã sử dụng những hành động đó để hoàn thành một điều gì đó tốt đẹp.

Một minh họa khác cho lẽ thật này là việc Chúa Giê-su chịu đóng đinh. Trong Công Vụ 2:23 Phi-e-rơ giải thích rằng Chúa Giê-su chết “bởi ý định và sự biết trước của Đức Chúa Trời.” Những gì đã xảy ra trong sự phản bội, xử án và đóng đinh của Đấng Christ đều là việc thực hiện kế hoạch đã định trước của Đức Chúa Trời (4:27-28). Nhưng kế hoạch tối thượng của Đức Chúa Trời có bãi bỏ trách nhiệm con người của Giu-đa, Phi-lát, và những kẻ đã giết Chúa Giê-su Christ không? Phi-e-rơ nói thêm rằng Chúa Giê-su đã bị “những kẻ gian ác” đóng đinh vào cây thập tự (2:23). Klooster lưu ý, “Việc đóng đinh là một phần trong sắc lệnh đời đời của Đức Chúa Trời, và hành động tội lỗi của con người có liên quan; nhưng tội lỗi của hành động đó không được giảm bớt ngay cả khi nó hoạt động như một phương tiện để thực hiện sắc lệnh của Đức Chúa Trời.”4 Chúa Giê-su lưu ý đến sự cân bằng quan trọng này giữa quyền tể trị thiêng liêng của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người khi Ngài nói, “Con người đi, theo như điều đã chỉ định; nhưng khốn cho người nầy phản Ngài!” (Lu. 22:22).

Ngoài ra, sắc lệnh của Đức Chúa Trời thì không miễn trừ trách nhiệm về hành động của con người. Đức Chúa Trời sẽ cứu những người mà Ngài đã chọn. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta có thể lơ là trách nhiệm truyền giáo (Mat. 28:19-20; Giăng 15:16). Đức Chúa Trời sẽ đưa những người được Ngài chọn đến với đức tin nơi chính Ngài, nhưng điều này đòi hỏi sự làm chứng của những Cơ đốc nhân vâng lời (Rô. 10:14). Một lần nữa, Đức Chúa Trời sẽ cứu những người Ngài đã chọn, nhưng không sẽ ai được cứu ngoài niềm tin cá nhân vào Đấng Christ. Lu-ca đã chỉ ra lẽ thật này khi ông viết, “Phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo” (Công. 13:48).

Thứ sáu, sắc lệnh của Đức Chúa Trời là không thể thay đổi. Vì Đức Chúa Trời là hoàn hảo (Mat. 5:48), nên kế hoạch của Ngài là hoàn hảo. Ngài không bao giờ cần phải thay đổi ý định của mình vì một số hoàn cảnh bất ngờ hoặc để vạch ra kế hoạch của mình theo một cách khác vì ai đó không hợp tác. Đức Chúa Trời không thay đổi (Mal. 3:6); với Ngài, “không có sự thay đổi hay bóng của sự biến đổi” (Gia. 1:17, NASH). “Đức Chúa Trời không phải là con người, để mà nói dối, và cũng không phải là con loài người, để có thể thay đổi ý định của mình. (Dân. 23:19). Tuy nhiên, có phải một số câu cho rằng Đức Chúa Trời thay đổi ý định của Ngài không? (Để thảo luận về câu hỏi này, hãy xem phần “Đức Chúa Trời bất biến” trong chương 7.)

SẮC LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SỰ CỨU RỖI CÁ NHÂN

Một khía cạnh trong sắc lệnh của Đức Chúa Trời được các tín đồ đặc biệt quan tâm là chương trình của Đức Chúa Trời liên quan đến sự cứu rỗi cá nhân của chúng ta như thế nào. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu một số thuật ngữ quan trọng trong kinh thánh— sự tiền định, sự lựa chọn và sự biết trước thiêng thượng. Sau khi xem xét Kinh Thánh nói gì về những vấn đề này, chúng ta sẽ đưa ra tuyên bố thần học về sắc lệnh của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi cá nhân.

Kinh Thánh dạy rõ ràng về khái niệm tiền định. Vì Ngài đã định trước sự chết của Đấng Christ (Công. 4:28), nên Đức Chúa Trời đã định trước về sự cứu rỗi cho những người tin (Rô. 8:29-30; Êph. 1:5). Nhưng tiền định vượt ra ngoài sự cứu rỗi của chúng ta. Ê-phê-sô 1:11 cho biết rằng Đức Chúa Trời đã định trước không chỉ sự cứu rỗi của chúng ta, mà còn cả cuộc đời của chúng ta! Để thực hiện sắc lệnh thiêng liêng của Ngài, Đức Chúa Trời đã định đoạt tất cả những gì sẽ xảy ra. Từ tiền định dịch từ nguyên ngữ tiếng Hy Lạp là proorizo, “vạch ra ranh giới từ trước.”5 Tiền định liên quan đến sự lựa chọn của Đức Chúa Trời (Êph. 1:4), được thực hiện trong tình yêu thương (1:4), là theo niềm vui tốt lành của Ngài (1:5), và cuối cùng là tôn vinh Đức Chúa Trời (1:14). Thật an ủi biết bao khi biết rằng trong tình yêu lớn lao của Ngài dành cho chúng ta, Đức Chúa Trời đã “vạch rõ ranh giới” của cuộc đời chúng ta theo nhiều cách để cuối cùng là làm vinh hiển Ngài!

Một từ quan trọng khác mà Kinh Thánh sử dụng để đề cập đến sắc lệnh của Đức Chúa Trời với sự cứu rỗi cá nhân là lựa chọn, từ eklektos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “được gọi ra, được chọn ra hoặc được chọn từ”. Từ này được dùng cho Đấng Christ, Đấng được Đức Chúa Trời lựa chọn (Lu. 23:35; 1 Phi. 2:4), cho các thiên sứ (1 Ti. 5:21), cho các tín đồ Do Thái trong Đại nạn (Mat. 24:22, 24), và cho những người được chọn trong hội thánh (Rô. 8:33; 1 Phi. 1:1; 2:9). Động từ dạng eklegomai (“chọn lựa hoặc lựa chọn”) được dùng để chỉ các sứ đồ mà Đấng Christ đã chọn (Giăng 13:18; Công. 1:2) và những người tin đã được Chúa chọn (1 Cô. 1:27-28). Danh từ ekloge biểu thị một “sự chọn lọc”, “sự lựa chọn” hay “sự chọn lựa” và được Phao-lô sử dụng như một “công cụ được chọn” (Công. 9:15) và đặc biệt là sự lựa chọn thiêng liêng của các tín đồ (Rô. 11:5, 7; 1 Tê. 1:4; 2 Phi. 1:10). Mỗi từ quan trọng này chuyển tải khái niệm về sự lựa chọn của Đức Chúa Trời. Trong mối quan hệ với hội thánh, lựa chọn là hành động của Đức Chúa Trời chọn những người sẽ tin và được cứu để làm chi thể trong thân thể của Đấng Christ.

Tín lý về sự lựa chọn là một trong những tín lý khó chấp nhận nhất đối với các tín đồ bởi vì có vẻ như không công bằng khi Đức Chúa Trời chỉ chọn một số người này mà không chọn những người khác. Phao-lô giải thích rằng với tư cách là một người thợ gốm, Đức Chúa Trời có quyền “tạo ra từ cùng một cục đất sét một số đồ gốm cho mục đích cao cả và một số đồ dùng thông thường” (Rô. 9:21). Tôi không bao giờ nghĩ đến việc lựa chọn mà không nhắc nhở bản thân rằng tín lý này phải được hiểu theo thực tế là Đức Chúa Trời yêu thương, tể trị và công bình. Mặc dù tín lý về sự lựa chọn trong kinh Thánh khó hiểu và khó đánh giá đúng, nhưng thật an ủi khi biết rằng nó sẽ không mâu thuẫn với bất kỳ sự thật nào về Đức Chúa Trời.

Một từ khóa khác phải được hiểu đúng khi luận về sắc lệnh của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi cá nhân là biết trước, bản dịch nguyên ngữ là prognosis, bắt nguồn từ pro (“trước”) và gnosis (“hiểu biết”). Từ này chỉ được dùng cho Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Sự biết trước thiêng thượng là một khía cạnh của sự toàn tri của Đức Chúa Trời. Đấng Christ đã bị hành hình, như đã được ghi nhận, theo “sự biết trước…. của Đức Chúa Trời” (Công. 2:23). Những người tin Chúa “được chọn theo sự biết trước của Đức Chúa Trời là Cha” (1 Phi. 1:2). Hình thức động từ proginosko (“biết trước”) được sử dụng trong Rô-ma 8:29 để chỉ những người tin vào Đấng Christ và trong Rô. 11:2 liên quan đến sự xót lại của Y-sơ-ra-ên.

Theo cách giải thích phổ biến về sự biết trước thiên thượng, Đức Chúa Trời “biết trước” đáp ứng của chúng ta đối với phúc âm và do đó đã chọn những người tin dựa trên sự biết trước đó. Tuy nhiên, việc nghiên cứu kỹ lưỡng về proginosko không ủng hộ quan điểm này. Ginosko không chỉ đơn giản là một kiến thức về một số sự việc nhất định. Nó được dùng trong Kinh Thánh để chỉ sự hiểu biết sâu sắc, cá nhân, với hình thức hiểu biết của một người đàn ông về vợ mình. Khái niệm kinh thánh về sự biết trước thiêng thượng liên quan đến sự cứu rỗi của từng cá nhân có khuynh hướng “tiền định”. Đức Chúa Trời đã chọn trước trong tình yêu thương và mối quan hệ với những người mà Ngài sẽ ân cần gọi đến với chính Ngài bởi đức tin cá nhân. Việc gợi ý rằng “sự biết trước” chỉ đơn thuần là Đức Chúa Trời biết trước về hành động của con người bị khướt từ bởi sự lựa chọn của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên. Nếu Đức Chúa Trời biết trước dân Y-sơ-ra-ên có sự đáp ứng thiện chí vì sự hiểu biết vượt bật của Ngài, thì Ngài đã sai! Nhưng Y-sơ-ra-ên đã nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời và khướt từ Đấng Mê-si của họ. Đức Chúa Trời “biết trước” về dân Y-sơ-ra-ên (Rô. 11:2) theo ý định là Ngài chọn họ làm dân sự của Ngài trong sự tể trị bất chấp sự vô tín mà Ngài biết đó là tính cách của quốc gia đó (10:21).

Trong cuộc bàn luận kinh điển về sự lựa chọn dân Y-sơ-ra-ên, Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời “thương xót người mà Ngài muốn thương xót” (9:18). Câu hỏi quan trọng trong cuộc thảo luận này là, “Lòng thương xót và ân điển của Đức Chúa Trời được ban cho trên cơ sở nào?” Có thể có ba câu trả lời. Thứ nhất, Đức Chúa Trời ban lòng thương xót dựa trên sự biết trước của Ngài về quyết định của những người sẽ chọn tin vào Đấng Christ. Thứ hai. Đức Chúa Trời ban lòng thương xót dựa trên công đức và việc lành. Thứ ba, Đức Chúa Trời ban lòng thương xót theo sự lựa chọn tối thượng của Ngài vì những lý do mà chỉ Ngài mới biết.

Quan điểm thứ nhất, cho rằng Đức Chúa Trời ban cho lòng thương xót dựa trên sự biết trước, cho con người quyền quyết định cuối cùng về số phận của chính họ. Theo quan điểm này, Đức Chúa Trời đáp lại sự quyết định tin cậy của một người. Nhưng điều này làm suy giảm quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời và sự hiểu biết đúng đắn về sự biết trước thiêng thượng hay gọi là “tiền định.” sẽ bị loại bỏ. Khi Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời “biết trước chúng ta” (Rô. 8:29). Thì có nghĩa là Ngài thực sự “tiền định” chúng ta một cách thân mật và riêng tư.

Quan điểm thứ hai, cho rằng Đức Chúa Trời ban lòng thương xót dựa trên những việc lành, nhấn mạnh đến khả năng của con người có thể đạt được sự cứu rỗi. Quan điểm này rõ ràng đã bị Kinh Thánh bác bỏ. Trong Rô-ma 3:12, Phao-lô ám chỉ sách Thi Thiên để chứng minh rằng con người hoàn toàn không thể đạt được công đức đối với Đức Chúa Trời. “Chúng nó thay thảy đều bội nghịch, cùng nhau trở nên ô uế; chẳng có ai làm điều lành, Dầu một người cũng không.” (Thi. 14:3; xem thêm 53:3). Sứ đồ nhấn mạnh trong Ga-la-ti rằng người ta không được xưng công bình bởi việc làm của luật pháp (Ga. 2:16), và ông viết cho người Ê-phê-sô rằng sự cứu rỗi là sự ban cho của Đức Chúa Trời—không phải bởi việc làm, để không ai có thể khoe khoang “( Êph. 2:8-9).

Chúng ta còn lại với quan điểm thứ ba, Đức Chúa Trời ban lòng thương xót trên cơ sở lựa chọn tối thượng của Ngài vì những lý do chỉ Ngài mới biết. Theo quan điểm này, chỉ bằng sự can thiệp tối thượng và sự lựa chọn nhân từ của Đức Chúa Trời, các cá nhân mới có thể trở thành “đối tượng của lòng thương xót Ngài, người mà Ngài đã chuẩn bị trước vì sự vinh hiển” (Rô. 9:23). Quan điểm này có sự ủng hộ mạnh mẽ nhất trong Kinh Thánh và phản ánh sự hiểu biết đúng đắn về các học thuyết về tiền định, sự biết trước và sự lựa chọn.

Một câu hỏi nữa phải được trả lời khi chúng ta xem xét sắc lệnh của Đức Chúa Trời vì nó liên quan đến sự cứu rỗi cá nhân. “Tiền định kép” có phải là một khái niệm trong Kinh Thánh? Những người theo học thuyết lựa chọn nói chung đồng ý rằng khi thực hiện quyền tể trị của Ngài, Đức Chúa Trời đã chọn một số cá nhân nhất định để tin và được cứu. Câu hỏi đặt ra là liệu khi chọn một số người để tin, Đức Chúa Trời cũng đã chọn những người khác không tin và bị kết án. Quan niệm về việc Đức Chúa Trời chọn một số người để không tin và bị kết án có vẻ không công bằng và trái với lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Câu hỏi cuối cùng đối với những người nghiên cứu Kinh Thánh là liệu học thuyết này có trong Kinh Thánh hay không.

Một số đoạn kinh thánh dường như ủng hộ học thuyết này, bao gồm Xuất Ai Cập Ký 4:21; Châm Ngôn 16:4; Ê-sai 6: 9-10; Rô-ma 9:22; 1 Phi-e-rơ 2:8; và Giu-đe 4. Nhưng chúng ta phải cẩn thận ở đây. Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng cuối cùng Đức Chúa Trời đứng sau mọi hành động (Êph. 1:11). Nhưng mặc dù Đức Chúa Trời đứng sau số phận của cả những người được chọn và những người không được chọn, thì Ngài có thể không làm theo cách giống hệt như vậy, điều này có lẽ rất quan trọng khi Phao-lô sử dụng phân từ katertiomena (“được chuẩn bị”) để nói đến người không được chọn trong Rô-ma 9:22, ông không chỉ rõ Đức Chúa Trời là chủ thể như khi viết về số phận của người được lựa chọn trong 9:23. Sự khác biệt là nhỏ, nhưng quan trọng. Trong khi Đức Chúa Trời có quyền tối cao đối với số phận của cả những người được chọn và không được chọn, Ngài không đứng sau số phận của những người không được chọn giống như cách mà Ngài đứng sau số phận của những người được chọn. Vấn đề đối với tiền định kép là nó đưa ra ý tưởng rằng cả hai tiền định này có tính chất ngang nhau, nhưng điều này không xuất hiện trong trường hợp này. Sự khác biệt quan trọng này được hỗ trợ trong Rô-ma 6:23, nơi hình phạt được coi là “tiền công” kiếm được, trong khi sự sống đời đời là “món quà miễn phí”. Ngoài ra, chúng ta cần nhớ rằng mọi người đều đáng bị địa ngục vì tội lỗi của mình, nhưng Đức Chúa Trời đã quyết định cứu một số người bởi ân điển của Ngài và để những người khác đi theo con đường của họ. Ngài đã không định trước hoặc quyết định cho một số người trung lập về thuộc linh xuống địa ngục thay vào đó Ngài để họ đi theo con đường tội lỗi của chính họ, vì Đức Chúa Trời là công bình, nên hậu quả đã dẫn đến việc họ bị kết án đời đời. Để biết thêm về vấn đề này, hãy xem chương 20, “Câu trả lời cho những câu hỏi hóc búa về Đức Chúa Trời.”

 

SẮC LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ Ý CHÍ TỰ DO CÁ NHÂN

Nếu sắc lệnh của Đức Chúa Trời là tuyệt đối và bao gồm mọi sự, thì mỗi cá nhân chúng ta có quyền tự do lựa chọn nào? Tôi có quyền tự do lựa chọn khi nói đến các vấn đề về sự cứu rỗi, hôn nhân và sự nghiệp của mình không? Hay là Đức Chúa Trời đã giải quyết tất cả và tôi chỉ đơn giản là con tốt trong bàn tay quyền năng của Ngài?

Chìa khóa để trả lời câu hỏi quan trọng này là duy trì sự cân bằng trong kinh thánh. Như đã lưu ý, Kinh Thánh dạy rõ ràng rằng mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là tuyệt đối và bao gồm tất cả (Êph. 1:11). Nhưng Kinh Thánh cũng dạy rằng mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành động của mình (Lu. 22:22), Quyền tể trị của Đức Chúa Trời không bao giờ loại bỏ trách nhiệm của con người. Nếu mọi người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình, thì phải có quyền tự do lựa chọn cần thiết về mặt đạo đức. Và Kinh Thánh đã dạy rõ điều này.

Chúa Giê-su dạy rằng không ai biết Cha, “ngoại trừ Con và những người mà Con chọn để bày tỏ về Ngài” (Mat. 11:27). Lý trí tự nhiên không thể làm cho con người đặt niềm tin vào Đấng Christ. Sự hiểu biết về Đức Chúa Cha chỉ có được là nhờ ý muốn thiêng liêng của Đức Chúa Con. Nhưng trong câu tiếp theo Chúa Giê-su phán. “Hỡi tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, và ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (11:28). Trong khi câu 27 nhấn mạnh đến quyền tể trị của Đức Chúa Trời, thì câu 28 công nhận nơi đáp ứng của con người. Con người có quyền tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su, “Hãy đến cùng ta.” Sự cân bằng mong manh này cũng được thấy trong Giăng 6:37, “Tất cả những gì Cha ban cho ta sẽ đến với ta [quyền tể trị của Đức Chúa Trời], và bất cứ ai đến với ta [quyết định của con người] Ta sẽ không bao giờ bỏ ra ngoài.” Câu này khẳng định hai lẽ thật lớn về quyền tối thượng và trách nhiệm của con người. Một số có xu hướng tập trung vào một trong những lẽ thật này mà bỏ qua lẽ thật kia, nhưng chúng ta phải nắm lấy những khái niệm có vẻ mâu thuẫn này với tinh thần cởi mở như nhau.

Quyền tự do quyết định của con người được thể hiện rõ trong lời của Chúa Giê-su, “Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ” (10:9). Một điều kiện được nêu lên trong lời nói, “ai bởi ta mà vào.” Điều này liên quan đến sự lựa chọn cá nhân. Ngoài quyết định như vậy, thì không có sự cứu rỗi. “Bất cứ ai” trong Giăng 3:16 và “tất cả những ai đã tiếp nhận Ngài” (1:12) thừa nhận vị trí và tầm quan trọng của quyền tự do lựa chọn của con người. Nhận xét của Klooster rất hữu ích, “Mặc dù sự sa ngã của A-đam và sự đóng đinh của Chúa Giê-su Christ đã được bao gồm trong sắc lệnh của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh chỉ rõ rằng sắc lệnh đó không bắt buộc phải có kết quả. Con người đã hành động một cách tự do nhưng vô trách nhiệm; họ đã làm chính xác những gì Đức Chúa Trời đã truyền cho họ không được làm.”

Khi thảo luận về quyền tể trị của Đức Chúa Trời và quyền tự do của con người, điều quan trọng là phải nhận ra ba khía cạnh khác nhau của ý muốn Đức Chúa Trời. Ý muốn tối thượng của Đức Chúa Trời là điều Đức Chúa Trời ra lệnh phải thực hiện. Nó bao gồm tất cả mọi sự (Êph. 1:11), không thể cưỡng lại và không thể thay đổi. Ý muốn của Đức Chúa Trời là những gì Ngài quy định hoặc ưa thích. Ý muốn Đức Chúa Trời trong khía cạnh này là bao gồm những ước muốn đạo đức của Ngài như đã bày tỏ trong Lời Ngài (Xuất. 20:1-17). Thứ ba, ý muốn Đức Chúa Trời là những gì Chúa cho phép ngay cả khi điều đó không phù hợp với ý muốn đã được bày tỏ hoặc quy định của Ngài. Đức Chúa Trời có thể cho phép tội lỗi, mặc dù nó không phù hợp với những gì Ngài muốn.

Quyền tự do lựa chọn đối với sắc lệnh thiêng liêng của Đức Chúa Trời có nghĩa là gì? Tôi nghĩ rằng điều này không liên quan đến bất kỳ ràng buộc hay bắt buộc có ý thức nào để hành động theo sắc lệnh thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Khi tôi quyết định kết hôn với người yêu thời đại học, tôi đã không tuân theo sắc lệnh thiêng liêng của Chúa một cách có ý thức. Tôi chỉ đơn giản đưa ra quyết định mà tôi nghĩ là một quyết định khôn ngoan, đó là giữ nguyên mong muốn của bản thân và được sự đồng ý của Nancy và cha mẹ tôi. Chỉ sau khi lập gia đình, tôi mới có thể nhìn lại và nói, “Sự kết hợp này là sắc lệnh của Chúa.” Sắc lệnh của Đức Chúa Trời khiến cho hành động của chúng ta trở nên chắc chắn, nhưng không có nghĩa chúng ta bị ép buộc.

Ý định biết trước của Đức Chúa Trời được bày tỏ rõ ràng trong Lời của Ngài. Ý định cho phép của Ngài được biết đến khi mọi người đưa ra quyết định trái với những gì Ngài đã bày tỏ. Chúng ta chủ yếu biết đến ý muốn tối thượng hoặc sắc lệnh của Đức Chúa Trời qua lịch sử. Quyền tự do con người có nghĩa là chúng ta phải có trách nhiệm hành động theo các lời dạy của Đức Chúa Trời và không thể sử dụng sắc lệnh của Đức Chúa Trời như một cái cớ cho tội lỗi của mình.

ỨNG DỤNG THỰC TẾ SẮC LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Tín lý về sắc lệnh toàn diện và bao trùm của Đức Chúa Trời không phải là “thần học ghế bành” dành riêng cho một vài vị thánh tự hào bản thân về việc nghiên cứu sâu hơn. Sự thật là sắc lệnh của Đức Chúa Trời có ý nghĩa rất thiết thực đối với những người tin Chúa.

Klooster lưu ý rằng “Các tham khảo trong Kinh Thánh đối với sắc lệnh của Đức Chúa Trời thường được đặt ra trong mối liên hệ cụ thể với các tình huống lịch sử nhằm mục đích thúc đẩy sự thoải mái, an ninh, đảm bảo và tin cậy.”9 Ví dụ, bạn có lo lắng thế giới đang mất kiểm soát không? Thi Thiên 33:10-11 cung cấp sự trấn an: “Ðức Giê-hô-va làm bại mưu các nước, Khiến những tư tưởng các dân tộc ra hư không. Mưu của Ðức Giê-hô-va được vững lập đời đời, ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” Chúng ta có thể giao phó cuộc sống và số phận của chúng ta cho Đức Chúa Trời, là Đấng đang kiểm soát mọi quốc gia.

Bạn có gặp rắc rối bởi những hoàn cảnh dường như cản trở những kế hoạch tốt nhất của bạn đã đặt ra không? Có một sự an ủi trong Rô-ma 8:28: “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Ðức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định”

Bạn có cảm thấy mình khá bình thường và không đặc biệt lắm không? Hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời đã chọn bạn trước khi sáng thế và đã định trước cho bạn làm con của Ngài (Êph. 1:4-5).

Bạn đang tự hỏi nếu sự cứu rỗi của bạn có thể bị mất? Phao-lô đã trả lời câu hỏi đó trong Rô-ma 8:29-30, ông đã thuật lại một chuỗi bằng chứng không bị rò rỉ của Đức Chúa Trời. “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển” Chúng ta có sự bảo đảm rằng khi Đức Chúa Trời khởi đầu một hành động cứu chuộc, thì sắc lệnh của Ngài đảm bảo rằng nó sẽ được hoàn tất.

Những người tin Chúa có thể nhìn thấy niềm an ủi lớn lao về lẽ thật Đức Chúa Trời đang cai tể trị, kiểm soát mọi sự và đang vạch ra kế hoạch tốt lành và hoàn hảo cho thế giới này và cuộc sống của chúng ta.

12

Đức Chúa Trời Và Sự Hiện Hữu Của Điều Ác

MỘT CẬU BÉ đến với Brian và Haley vào một sáng Chúa Nhật tại Hội thánh Cộng Đồng Sunset Park. Nó lướt qua gương mặt bị cháy đầy sẹo của Brian để xem xét những gì còn sót lại trên hai cánh tay. “Anh Brian đang lành” thằng bé nói. “Con biết mà, vì tay anh đang mọc ra lại!”

Vào tháng 12 năm 1995, một trận hỏa hoạn tại chỗ làm đã thiêu 97% thân thể của Brian. Các bác sĩ và y tá tại trung tâm trị bỏng đã cứu mạng sống của anh. Nhưng cơn hỏa hoạn đã lấy đi thị lực của Brian, và sự nhiễm trùng đã lấy đi những phần chân tay của anh.1

Vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn Brian đã đính hôn với người yêu thời trung học. Haley chứng minh tình yêu chân thành là như thế nào bằng cách xúc tiến hôn lễ sau khi Brian được xuất viện, với sự nhận biết rằng cuộc sống chung của họ sẽ rất khác với dự định. Cô sẽ là người chăm sóc chính của Brian trong suốt phần đời còn lại.

Tại sao Đức Chúa Trời cho phép Brian, một Cơ Đốc Nhân bị bỏng đến mức biến dạng và đầy sẹo? Nếu Đức Chúa Trời là tốt lành, và là Đấng tể trị, lẽ nào Ngài lại không ngăn chặn thảm họa này?

Chỉ cần đọc trang đầu của bất cứ tờ báo nào, bạn cũng đủ để đối mặt với câu hỏi tại sao Đức Chúa Trời để cho điều xấu xảy ra. Cậu bé Patrick Meier, 7 tuổi, đang trên đường về nhà trên chiếc xe đạp leo núi mới thì bị chiếc xe chở rác cán chết.2 Patrick mới đi thăm bà sống cách đó vài dãy nhà. Người lái xe tải nói với cảnh sát rằng ông đã chạy quá khúc cua và đang lui lại để quay đầu thì xảy ra tai nạn. Trong khi chiếc xe tải đang lui thì Patrick định vượt qua nhưng không kịp.

Tại sao Đức Chúa Trời cho phép một cậu bé vui tươi mới học lớp hai bị đâm chết bởi một chiếc xe tải mười lăm tấn? Lẽ nào Ngài lại không ngăn chặn thảm họa này và giúp gia đình Meier tránh khỏi một nỗi đau như thế? David Cornwall là một bác sĩ thành đạt ở một thị trấn nhỏ. Ông vướng vào vụ tranh quyền nuôi con với vợ. Vụ li hôn đe dọa sẽ cướp mất đi điều ý nghĩa nhất với ông đó là gia đình. Một ngày kia, ông giữ ba đứa con gái và rõ ràng ông đã cho chúng uống những liều ma túy mạnh chết người, đặt chúng lên giường và sau đó tự sát bằng carbon monoxide từ khói xe ô tô.3

Tại sao Đức Chúa Trời để cho những việc tồi tệ như vậy xảy ra? Tại sao một Đức Chúa Trời nhân từ lại cho phép điều ác hoành hành trên sự sáng tạo của Ngài? Nếu Đức Chúa Trời toàn năng để làm mọi việc, tại sao Ngài không can thiệp để ngăn những người tốt và tin kính khỏi đau khổ?

VẤN ĐỀ CỦA THẦN LÝ HỌC

Câu hỏi liên quan đến chủ đề “Thần Lý Học” (Theodicy – từ theos, “Thần,” và dicy, “công lý”), một thuật ngữ dùng để chỉ những nỗ lực biện minh cho những đường lối có vẻ là ác của Đức Chúa Trời’

 

Nan đề của thần lý học là vừa hợp lý vừa thần học. Câu hỏi hợp lý là: “Nếu Đức Chúa Trời là nhân từ và Ngài toàn năng, tại sao có điều ác trên thế giới?” Nhà thần học Millard Erickson nói đây là câu hỏi “khó nghĩ nhất đối với đức tin Cơ Đốc.” Nếu Đức Chúa Trời là tốt lành, chắc chắn Ngài muốn loại bỏ điều ác. Và nếu Ngài là toàn năng thì Ngài có khả năng loại bỏ điều ác. Thế nên một số người kết luận rằng vì điều ác tồn tại trong thế gian, nên hoặc là Đức Chúa Trời không nhân từ hoặc là Ngài không toàn năng.

Ngoài câu hỏi hợp lý, một vấn đề thần học được đưa ra. Đức Chúa Trời bày tỏ điều gì qua Lời của Ngài về những mục đích tối thượng của Ngài? Kinh Thánh nói gì về chủ đề điều ác trong thế gian? Theo John Feinberg, “Một thần lý học có kết quả khi lý giải được vấn đề của điều ác… và chứng minh rằng Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, yêu thương và công bằng, bất chấp sự hiện hữu của điều ác.”6 Chương này tìm cách chứng minh thông qua logic và Kinh Thánh rằng sự hiện diện của điều ác trong thế giới không phủ nhận sự tốt lành của Ngài hoặc làm suy yếu quyền tể trị của Ngài. Đức Chúa Trời chắc chắn có quyền năng để ngăn chặn tội lỗi và điều ác, nhưng Ngài sẵn sàng cho phép chúng xảy ra để hoàn thành điều tốt đẹp hơn.

 

NHỮNG THẦN LÝ HỌC MẮC KHUYẾT ĐIỂM

Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà thần học và triết học đã đưa ra một số câu trả lời cho câu hỏi – Tại sao Đức Chúa Trời cho phép điều ác xảy ra?

 

Chúa Không Thể Ngăn Chặn Mọi Điều Ác

Một giải pháp cho vấn đề điều ác là kết luận rằng Đức Chúa Trời không thể ngăn chặn mọi điều ác. Những điều tồi tệ xảy ra không nằm trong kế hoạch hay nguyên chỉ của Đức Chúa Trời. Ngài muốn “thiện” cho mọi người, nhưng sự tồn tại của điều ác trên thế giới hạn chế điều thiện mà Ngài có thể thực hiện. Theo quan điểm này, Đức Chúa Trời đang làm những gì tốt nhất có thể để khiến thế giới trở thành một nơi dễ chịu, nhưng đừng mong đợi nhiều hơn những gì Ngài có thể làm được. Giải pháp cho vấn đề điều ác này được giáo sĩ Do Thái Harold Kushner ủng hộ trong cuốn sách bán chạy nhất của ông – Khi Điều Ác Xảy Ra Với Người Thiện.7 Rõ ràng, quan điểm như vậy thỏa hiệp sự toàn năng của Đức Chúa Trời, vì nếu Đức Chúa Trời là toàn năng, thì Ngài thực sự có thể ngăn chặn điều ác.

 

Đức Chúa Trời Sẽ Không Ngăn Chặn Mọi Điều Ác

Một số học giả đã đặt câu hỏi liệu Đức Chúa Trời có thực sự tốt lành hay không, ít nhất là như chúng ta thường hiểu từ đó. Họ cho rằng nếu Đức Chúa Trời thực sự nắm quyền kiểm soát thế giới này, thì Ngài không phải là một Đức Chúa Trời tốt lành. Ít nhất, Ngài không tốt đủ để ngăn chặn điều ác. Để ủng hộ quan điểm này, có thể thấy rằng Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên tàn sát dân Ca-na-an — đàn ông, đàn bà và trẻ em. Như vậy thì tốt sao được? Ngài đã phó Gióp và gia đình của ông cho Sa-tan để chịu khổ không kể xiết chỉ để chứng minh một quan điểm thần học. Làm thế nào một Đức Chúa Trời tốt lành có thể làm điều đó?

Triết gia Friedrich Nietzsche (1844-1900), nổi tiếng với quan điểm “Thượng đế đã chết”, đã thỏa hiệp một cách tương tự sự tốt lành của Đức Chúa Trời khi cho rằng Đức Chúa Trời tạo ra cả thiện và ác. Ngài là tác giả của điều đúng lẫn điều sai, niềm vui lẫn nỗi buồn.

 

Điều Ác Không Có Thực

Một số người đã tìm cách giải quyết vấn đề điều ác bằng cách phủ nhận thực tế của nó. Tín lý của Khoa Học Cơ Đốc khẳng định rằng không có thực tại ngoại trừ Tâm trí hay Tâm Linh. Những thứ xấu xa — như tội lỗi, bệnh tật và cái chết — là ảo tưởng. Theo Khoa học Cơ Đốc, quyển sách hoàn hảo “Khoa học và Sức khỏe, với Chìa khóa mở ra Kinh Thánh” của Mary Baker Eddy,9 sự cứu rỗi đến khi mọi người nhận ra rằng tội lỗi, bệnh tật và cái chết là không có thực.

 

KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SỰ THÂM NHẬP CỦA ĐIỀU ÁC

 

Nan đề của ba cách giải quyết trên đối với vấn đề điều ác và sự đau khổ là không nhất quán với những sự dạy dỗ rõ ràng trong lời Chúa. Những quan điểm này là sai trật vì chúng thỏa hiệp sự nhân từ, thần tánh, và sự tể trị của Chúa hoặc khước từ thực tế của điều ác. Một thần lý học Cơ Đốc phải nhất quán với Kinh Thánh. Nơi bắt đầu cuộc nghiên cứu của chúng ta là từ Sáng Thế Ký, sách về những sự khởi đầu. Tại đây, chúng ta khám phá rằng kế hoạch nguyên thủy của Đức Chúa Trời để ban phước cho tạo vật bị gián đoạn vì sự thâm nhập của tội lỗi.

 

Đức Chúa Trời và Kế hoạch ban phước

Sáng Thế Ký 1-2 nói rõ rằng kế hoạch nguyên thủy của Đức Chúa Trời dành cho tạo vật của Ngài là ban cho một nơi tốt lành và phước hạnh. Trong đoạn đầu tiên của Sáng Thế Ký, từ “tốt lành” được dùng sáu lần để mô tả điều Chúa làm trong suốt sáu ngày của sự sáng tạo. Từ này có thể đề cập đến sự tốt đẹp trừu tượng như “sự ham thích, sự hài lòng và vẻ đẹp” hoặc sự tốt lành về mặt đạo đức, như trong “cách tốt lành”. Rõ ràng, Đức Chúa Trời sáng tạo ra và mong muốn những gì là “tốt.” Từ “phước” xuất hiện ba lần trong câu chuyện về sự sáng tạo. Đức Chúa Trời ban phước cho các tạo vật (1:22), đàn ông và đàn bà (1:28), và ngày thứ bảy (2:3). Từ “ban phước” (Mink) có nghĩa là “kết thúc bằng năng lực để thành công, thịnh vượng và trường thọ.” Sự lặp lại của các từ “tốt” và “ban phước” nhấn mạnh một chân lý thần học quan trọng: kế hoạch ban đầu của Đức Chúa Trời cho sự sáng tạo của Ngài là một nơi tốt lành và phước hạnh.

 

Sự Thâm Nhập Của Tội Lỗi và Điều Ác

Đáng buồn thay, kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho tạo vật của Ngài đã bị gián đoạn bởi sự thâm nhập của tội lỗi và điều ác. Sáng thế ký đoạn 3 kể về một câu chuyện bi thảm. Bởi vì chúng ta được tạo ra theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, chúng ta có khả năng đưa ra các quyết định có đạo đức. Nhưng ngược lại với Đức Chúa Trời, Đấng không thể phạm tội, chúng ta có thể từ chối ý muốn của Ngài và vi phạm các mệnh lệnh của Ngài. Do ảnh hưởng của Sa-tan, cặp vợ chồng đầu tiên, A-đam và Ê-va, đã chọn điều ác thay vì điều thiện. Và quyết định của họ đã mang đến một thảm kịch khủng khiếp trên toàn nhân loại. Phao-lô nói: “sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội” (Rô-ma 5:12). Hậu quả tội lỗi của A-đam là mối tương giao với Đức Chúa Trời bị phá vỡ và loài người phải chịu cái chết về thuộc linh và thuộc thể.

Sự xâm nhập của tội lỗi vào sự sáng tạo tốt đẹp của Đức Chúa Trời đã mang lại đau khổ khôn lường cho nhân loại. Trong khi toàn bộ thế giới động vật bị ảnh hưởng bởi Sự Sa Ngã (Rô-ma 8:20-22), thì công cụ cho sự lừa dối — con rắn — đã bị “nguyền rủa” (Sáng thế ký 3:14). Hậu quả của Sự Sa Ngã là Ê-va và dòng dõi những người nữ của bà sẽ phải chịu nhiều đau đớn hơn khi sinh con và phiền lòng trong mối quan hệ hôn nhân của họ (3:l6) .1 ° Hơn nữa, đất bị rủa sả, chỉ sau khi con người chịu nhiều khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. (3:17-18). Cuối cùng, cuộc sống trên đất sẽ kết thúc trong cái chết — đó là sự phán xét định trước của Đức Chúa Trời dành cho sự bất tuân của A-đam (3:19).

Trong khi Đức Chúa Trời tạo dựng thế giới là một nơi tốt lành và phước hạnh thì điều ác qua tội lỗi của cặp vợ chồng đầu tiên đã được đem đến nơi tốt lành. Cuộc sống trên đất này chưa bao giờ trở lại như thời vô tội trong vườn Ê-đen. Hầu như tất cả những điều xấu trong tự nhiên và về mặt đạo đức mà nhân loại phải trải qua đều là hậu quả của Sự Sa Ngã. Vì Sự Sa Ngã mà người ta bị ung thư và chết. Vì Sự Sa Ngã mà trẻ em bị lạm dụng và trở thành nạn nhân. Vì Sự Sa Ngã, những người lái xe say rượu đã giết và làm cho tàn phế hàng ngàn nạn nhân vô tội mỗi năm. Tất cả điều này là do sự xâm nhập của tội lỗi và điều ác trên trái đất này.

Kế Hoạch Của Đức Chúa Trời Để Đảo Ngược Lời Rủa Sả

Thật đáng khích lệ khi biết rằng Đức Chúa Trời chưa từ bỏ kế hoạch của Ngài để biến trái đất này thành một nơi phước hạnh. Khi chúng ta theo dõi các hoạt động của Đức Chúa Trời từ Sáng Thế Ký đến Khải Huyền, một chủ đề lớn được ưu tiên: Đức Chúa Trời có kế hoạch đảo ngược lời rủa sả và thay thế nó bằng phước hạnh của Ngài. Kế hoạch này liên quan đến sự

cứu chuộc những tội nhân, sự phục hồi quyền lực vương quốc của Ngài, và việc thi hành bản án đối với Sa-tan và những kẻ theo hắn. Sứ đồ Giăng đã đoán trước ngày mà kế hoạch của Đức Chúa Trời sẽ được hoàn thành. Trong Khải Huyền 22:3, ông viết: “Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa.” Một ngày nào đó, theo kế hoạch của Đức Chúa Trời, tạo vật đầy tội lỗi này sẽ được đem trở về đúng với sự tạo dựng ban đầu tốt lành và phước hạnh của Ngài — để ngợi khen sự vinh hiển của Ngài.

Những Quan Sát Sơ Bộ Về Đức Chúa Trời Và Điều Ác

Đầu tiên, rõ ràng là điều ác tồn tại. Người học Kinh Thánh không thể phủ nhận thực tế của điều ác đã thâm nhập vào sự sáng tạo qua tội lỗi. Thứ hai, điều ác này có nguồn gốc từ Sa-tan, kẻ đã dụ dỗ A-đam để không vâng lời Đức Chúa Trời, là điều đã mang đến sự hỗn loạn của tội lỗi và sự gian ác trên tất cả tạo vật. Thứ ba, Đức Chúa Trời có kế hoạch để đối phó với điều ác và đem tạo vật này trở lại đúng với sự tốt lành và phước hạnh của Ngài. Điều ác không nằm ngoài tầm kiểm soát. Đức Chúa Trời đang đối phó với nó và sẽ phán xét Sa-tan và những kẻ theo hắn vào thời điểm thích hợp.

HỌC TỪ GIÓP

Sách Gióp trình bày một nghiên cứu kinh điển về vấn đề sự đau khổ. Ở đây chúng ta đọc về nỗi đau khủng khiếp của một người nam rất chính trực. Chúng ta cũng thấy cách cuối cùng người ấy đã chiến thắng bi kịch của mình. Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về vấn đề của điều ác từ câu chuyện của Gióp. Ở đây, chúng ta có thể bắt đầu xây dựng một thần lý ủng hộ cả sự tốt lành và quyền tể trị của Đức Chúa Trời mà không cần thỏa hiệp.

Bi Kịch Của Gióp

Câu đầu tiên của sách giới thiệu Gióp như một người công chính: ” Ngươi có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của ta chăng; nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác,” ngay cả chính Chúa cũng làm chứng cho Gióp rằng ông có phẩm chất đạo đức và thuộc linh khác biệt (1:8; 2:3). Để hiểu thông điệp của sách Gióp, chúng ta phải nhận ra rằng nỗi đau của Gióp không phải do tội lỗi trong cuộc đời ông. Ngay cả trong tai họa, ông cũng không phạm tội (1:22), cũng không phỉ báng Đức Chúa Trời như Sa-tan đã tiên đoán (2:5,10).

Hai chương đầu tiên của sách cho người đọc biết lý do tại sao bi kịch và đau khổ lại đến với Gióp. Khi câu chuyện bắt đầu, bức màn của thiên đàng được kéo lại để tiết lộ một màn kịch mà Gióp hoàn toàn không hề hay biết. Giữa vòng các thiên sứ trên trời, xuất hiện một vị khách – kẻ thù của chúng ta, ma quỷ – chính là Satan. Giống như một người cha đầy tự hào, Chúa nói Sa-tan hãy nhìn xem Gióp — một người gương mẫu về sự công bình và tin kính. Nhưng Sa-tan không bị ấn tượng. Ông giải thích rằng hạnh kiểm tốt của Gióp là do những lợi ích mà ông đã nhận được từ Đức Chúa Trời. Sa-tan lý luận rằng Gióp tốt chỉ vì Đức Chúa Trời tốt với ông.

Sau đó, Sa-tan thách thức rằng: “Nhưng bây giờ hãy giơ tay Chúa ra, đụng đến hại các vật người có, ắt là người sẽ phỉ-báng Chúa trước mặt.” (1:11). Để chứng tỏ đức tin và tính cách thiêng liêng của Gióp ngược lại với thử thách của Sa-tan, Đức Chúa Trời đã cho phép Sa-tan hủy hoại tài sản của Gióp. “Nầy, các vật người có đều phó trong tay ngươi; nhưng chớ tra tay vào mình nó.” (1:12). Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là Sa-tan không thể tự do tiếp cận Gióp hoặc có quyền trên sự sống của ông. Chỉ bởi sự cho phép của Đức Chúa Trời Sa-tan mới có thể gây tổn hại về thuộc thể cho Gióp.

Gióp đang thịnh vượng và đang tận hưởng cuộc sống khi bị giáng bốn cú đánh kinh hoàng khiến thế giới của ông ngập tràn đau khổ. Đầu tiên, những kẻ cướp bóc đã tấn công và giết những đầy tớ của Gióp, đánh cắp bò và lừa của ông. Thứ hai, một ngọn lửa từ trời, có lẽ là tia sét, đã giết chết những con chiên và những tôi tớ của ông. Thứ ba, ba băng cướp bắt lạc đà, giết thêm đầy tớ của ông. Thứ tư, một cơn gió lớn đã thổi sập nhà con trai cả, giết chết tất cả mười người con của ông.

Trong khi mất tất cả con cái và tài sản, Gióp không đánh mất đức tin mình. Phản ứng của Gióp đối với bi kịch cá nhân này là sự thờ phượng Chúa. Thay vì phỉ báng Đức Chúa Trời, như Sa-tan đã tiên đoán, Gióp ngợi khen Đức Chúa Trời. “Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà về; Đức Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va!” (1:20). Phản ứng của ông trước những thảm kịch đã bác bỏ mạnh mẽ giả định của Sa-tan rằng Gióp tốt vì Đức Chúa Trời tốt với ông.

Nhưng Satan không dễ dàng bỏ cuộc. Khi Đức Chúa Trời chỉ ra tính cách kiên định của Gióp bất chấp tổn thất cá nhân, Sa-tan cho rằng Gióp chấp nhận những mất mát này để không gây nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của mình. Vì tấm lòng đạo đức chân thật của Gióp vẫn còn bị nghi ngờ, Đức Chúa Trời đã cho phép Sa-tan thử nghiệm Gióp lần nữa.

Cuộc tấn công thứ hai của Sa-tan mang hình thức đau đớn thể xác. Gióp bị “bịnh ung độc từ bàn chân cho đến chót đầu” (2:7). Có nhiều quan điểm ​​y học khác nhau trong chẩn đoán bệnh của Gióp (2:7-8; 7:5,14; 19:17; 30:17,30). Dù Gióp bị gì đi nữa thì bịnh đó không hề dễ chịu! Theo phong tục của một người đang có tang chế, ông ngồi trong một đống tro. Để tìm cách xoa dịu cơn đau của mình, ông dùng một mảnh sành để gãi vết lở ngứa của mình.

 

Phản ứng của Gióp

Chúng ta có thể học được nhiều điều từ Gióp, cách ứng phó với những bi kịch ập đến với ông. Đau đớn vì mất mười đứa con, tài sản của gia đình và sức khỏe của chồng, vợ của Gióp đã đề nghị ông từ bỏ đức tin của mình: “Ông hãy còn bền đỗ trong sự hoàn toàn mình sao?… Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!” (2:9). Đây chính là điều mà Sa-tan đã hy vọng Gióp sẽ làm. Nhưng Gióp đáp lại: “Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (2:10). Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc phát triển một thần lý theo Kinh Thánh. Gióp đã nhận ra rằng không có điều gì đến trên cuộc sống của dân sự Đức Chúa Trời nằm ngoài quyền tể trị của Ngài. Đức Chúa Trời tể trị trên điều tốt lành cũng như nghịch cảnh. Ngay cả điều ác mà Sa-tan giáng trên đời sống của Gióp đều do sự cho phép của Đức Chúa Trời.

Những người bạn của Gióp là Ê-li-pha, Binh-đát, và Sô-pha, tin chắc rằng đau khổ luôn là hình phạt cho tội lỗi. Vì Gióp đang phải chịu đựng rất nhiều đau khổ, họ kết luận rằng ông hẳn đã phạm tội rất nhiều. Gióp đáp lại những thách thức lặp đi lặp lại của bạn bè bằng cách khẳng định mình vô tội, nhấn mạnh rằng nỗi đau khổ của ông không thể là do tội lỗi kín giấu nào đó trong đời.

Khi sự hiểu biết của con người về thảm kịch của Gióp cuối cùng đã cạn kiệt, thì chính Đức Chúa Trời đã phán với Gióp. Có lẽ chúng ta mong đợi Đức Chúa Trời giải thích lý do đằng sau sự đau khổ của Gióp và cách phản ứng của ông đối với thảm kịch cá nhân bác bỏ quan điểm sai lầm của Sa-tan về đời sống thuộc linh của Gióp. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Trên thực tế, Đức Chúa Trời thậm chí còn không đề cập đến vấn đề về sự đau khổ của Gióp. Thay vào đó, Đức Chúa Trời hướng Gióp đến sự vĩ đại và quyền năng của chính Ngài với tư cách là Đấng Tạo Hóa. Trong chương 38-41, Đức Chúa Trời đã cho Gióp thấy rằng Ngài kiểm soát những chi tiết phức tạp của mọi tạo vật, những bí ẩn mà Gióp chỉ có thể hiểu một cách lờ mờ. Và vì vậy, Gióp phải tin cậy Đức Chúa Trời để sắp xếp các chi tiết của cuộc đời ông mặc dù ông không thể hiểu hết đường lối của Ngài.

Đức Chúa Trời thấy không thích hợp để giải thích với con người lý do trong mọi việc Ngài làm. Nhưng sách Gióp cho thấy một Đức Chúa Trời vĩ đại đến mức những câu giải đáp trở nên không cần thiết nữa. Cuối cùng, Gióp đã trưởng thành trong mối quan hệ của ông với Đức Chúa Trời vì ông học cách sống với những câu hỏi chưa được giải đáp. Sự bí ẩn về đường lối của Đức Chúa Trời không phải là trở ngại cho đức tin của Gióp.

 

Bài Học Từ Sách Gióp

Sách Gióp dạy một số bài học quan trọng về Đức Chúa Trời và sự hiện diện của sự ác. Thứ nhất, từ kinh nghiệm của Gióp, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời có quyền tể trị tuyệt đối trên điều thiện và điều ác. Gióp nói với vợ: “Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai-họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” phản ánh đức tin của Gióp vào nguyên tắc cơ bản này. Những phước lành mà Gióp được hưởng và những bi kịch xảy đến với ông không phải do ngẫu nhiên hay tình cờ. Cả hai đều nằm trong kế hoạch của Đức Chúa Trời (xin xem Truyền Đạo 7:14).

Thứ hai, Đức Chúa Trời không đứng sau điều thiện và điều ác theo cùng một cách. Sa-tan đã nói lên sự thật khi hắn nói với Chúa về Gióp: “Chúa đã ban phước cho công-việc của tay người, và làm cho của-cải người thêm nhiều trên đất.” (1:10).

 

Sau đó, chúng ta đọc rằng “Đức Giê-hô-va bèn đem người ra khỏi cảnh khốn người, và ban lại cho Gióp gấp bằng hai các tài sản mà người đã có trước” (42:10). Mặt khác, điều ác mà Gióp gặp là qua Sa-tan. Chúng ta đọc rằng “Sa-tan bèn lui ra khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va, hành-hại Gióp một bịnh ung độc” trên toàn thân ông (2:7). Sa-tan, chứ không phải Chúa, là tác nhân tích cực trong việc mang lại bi kịch và đau khổ trên cuộc sống của Gióp. Như D.A. Carson nhận xét, “Hẳn Đức Chúa Trời đứng đằng sau cái thiện và cái ác theo những cách khác nhau; nghĩa là Ngài đứng đằng sau điều thiện và điều ác một cách không cân đối. Nói một cách thẳng thắn, Đức Chúa Trời đứng đằng sau điều ác theo cách mà ngay cả điều ác cũng không xảy ra bên ngoài sự tể trị của Ngài, nhưng điều ác không thuộc trách nhiệm đạo đức của Ngài; nó luôn luôn bị quy trách nhiệm cho các tác nhân thứ hai, cho các nguyên nhân thứ hai,”12 trong Kinh Thánh, không bao giờ Đức Chúa Trời được bày tỏ như một đồng phạm của điều ác giống như cách Ngài là Đấng ủng hộ điều thiện.

Thứ ba, từ sách Gióp, chúng ta thấy rằng điều ác xảy ra là do Đức Chúa Trời cho phép. Sa-tan phải nhận được sự cho phép của Đức Chúa Trời để gây chiến với Gióp. Đức Chúa Trời ban cho Sa-tan quyền hủy phá của cải và lấy đi mạng sống của con cái ông, nhưng Ngài không cho phép Sa-tan làm hại ông (1:12). Sau đó, Đức Chúa Trời ban cho Sa-tan thêm quyền hành đối với Gióp, “Kìa, người ở trong tay ngươi; nhưng chỉ hãy giữ mạng sống người.” (2: 6). Ở đây chúng ta thấy rằng Sa-tan không có tự do hoàn toàn trước điều ác. Hắn chỉ hoạt động bởi Đức Chúa Trời cho phép và trong những giới hạn nhất định.

Thứ tư, có một sự bí ẩn về sự đau khổ. Gióp không bao giờ biết lý do dẫn đến sự đau khổ của mình, và điều này cũng thường đúng đối với các thánh đồ chịu khổ ngày nay. Có thể có những nỗi đau trong cuộc sống của bạn hoặc của tôi mà không thể giải thích được. Chúng ta tự hỏi, “Tại sao?” nhưng không nhận được câu trả lời nào. Trong những tình huống này, chúng ta phải nhớ rằng Chúa nắm quyền kiểm soát và chúng ta không cần biết “tại sao?” nếu chúng ta biết Chúa. Đức Chúa Trời – Đấng tể trị thấy không thích hợp để cho chúng ta biết lý do cho mọi việc Ngài làm. Nhưng sách Gióp nêu ra một Đức Chúa Trời vĩ đại đến mức Ngài không cần trả lời! Hy vọng của chúng ta không nằm trong hoàn cảnh được cải thiện hoặc câu trả lời rõ ràng hơn cho các câu hỏi “tại sao” của chúng ta. Niềm hy vọng của chúng ta là ở nơi một mình Chúa.

 

NHỮNG PHẦN KINH THÁNH KHÓ HIỂU VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ ĐIỀU ÁC

 

Kinh thánh nói rõ ràng rằng Đức Chúa Trời hoàn toàn chống lại tất cả những gì xấu xa. Các tiên tri của Chúa đã được sai đến với những người thờ thần tượng của Giu-đa với thông điệp: “Sự gớm-ghiếc mà ta ghét đó thì đừng phạm đến.” (Giê. 44:4). Xa-cha-ri tuyên bố: “Chớ toan sự dữ trong lòng nghịch cùng kẻ lân-cận; và chớ ưa sự thề dối, vì ấy đó là những điều mà ta ghét, Đức Giê-hô-va phán vậy.” (Xa-cha-ri 8:17). Châm ngôn 6:16-19 liệt kê bảy hành động gian ác mà Đức Giê-hô-va ghét. “Kính sợ Chúa,” khi ở giữa những điều khác, có nghĩa là giống Đức Chúa Trời ở thái độ đối với tội lỗi, ghét tội lỗi như Ngài ghét nó (8:13). Gia-cơ nhắc nhở độc giả của mình rằng họ không thể đổ lỗi cho Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời không phải là Đấng cám dỗ hoặc xúi giục điều ác (Gia-cơ 1:13).

 

Bất chấp những tuyên bố rõ ràng trên về ác cảm với tội lỗi và điều ác của Đức Chúa Trời, một số câu trong Kinh Thánh dường như liên kết Đức Chúa Trời trực tiếp với điều ác. Làm thế nào những câu Kinh Thánh này phù hợp với sự hình thành tín lý Đức Chúa Trời và điều ác của chúng ta?

 

Sa-mu-ên 16:14

Khi Thần của Đức Chúa Trời ra khỏi vị vua bất tuân Sau-lơ, thì “một ác thần khuấy khuất người.” (16:14). Một điều tương tự được ghi lại trong Sa-mu-ên 18:10, khi chúng ta đọc rằng “ác thần bởi Đức Chúa Trời” khiến nhập vào Sau-lơ (xin xem thêm Các Quan Xét 9:23, 1 Sa-mu-ên 19:9). Những câu này không gợi ý rằng Đức Chúa Trời gây ra điều ác sao?

“Ác thần” trong Sa-mu-ên 16:14 được hiểu theo nhiều cách khác nhau: (1) bị ma quỷ nhập như sự trừng phạt của Chúa, (2) sự tấn công hoặc ảnh hưởng của ma quỷ, (3) tinh thần bất mãn do Đức Chúa Trời tạo ra trong lòng Sau-lơ. Vì Sau-lơ có vẻ là một người tin Chúa (10:6,9) nên không chắc rằng ông đã bị quỷ ám. Sự tương phản giữa “Thần của CHÚA. Và “ác thần” từ Chúa, sẽ loại trừ quan điểm “tinh thần bất mãn”. Thứ nhất Sa-mu-ên 16:14 có lẽ có nghĩa là Đức Chúa Trời đã chỉ định một cách toàn quyền một con quỷ, một trong những sứ giả của Sa-tan (Ma-thi-ơ 12:24), để hành hạ Sau-lơ.

 

Điều này có thể là do Đức Chúa Trời định ý khiến Sau-lơ quỳ gối và khuyến khích ông quay trở lại với Ngài. Bài học chính từ phần Kinh Thánh này là Đức Chúa Trời tể trị trên tất cả các thẩm quyền thuộc linh — kể cả Sa-tan và những tay chân hắn. Và Đức Chúa Trời có thể sử dụng ngay cả ma quỷ cho các mục đích thiêng liêng của Ngài. Như trong trường hợp của Gióp, điều ác đến trên Sau-lơ đến từ một nhân tố thứ hai là ma quỷ chứ không phải trực tiếp từ tay Đức Chúa Trời.

 

1 Các Vua 21:21

Khi rao truyền lời Chúa, Ê-li-sê tuyên bố với Vua A-háp gian ác: “Ta sẽ giáng họa, ‘sự dữ’ (raa) NASB.] trên ngươi” (1Các Vua 21:21). Trong một chỗ khác nổi bật tương tự, Đức Chúa Trời hứa sẽ mang “tai họa” (raa) đến trên nhà của vị vua thờ hình tượng Giê-rô-bô-am (14:10). Từ ‘raa’ trong tiếng Do Thái có nhiều nghĩa. Từ này có thể đề cập đến điều xấu, sự đau khổ, buồn thảm, tai họa, thảm họa, hoặc điều ác. Từ này cũng có thể được sử dụng cho điều ác về đạo đức. Mặc dù Đức Chúa Trời không thể là kẻ chủ mưu của điều ác về mặt đạo đức, nhưng Ngài đoán phạt những kẻ gian ác bằng tai họa và đau khổ như là sự kỷ luật cho tội lỗi của họ (Châm 3:11-12; Hê-bơ-rơ 12:5-11). Tai họa mà Đức Chúa Trời giáng trên A-háp và Giê-rô-bô-am là sự đoán phạt về tội không ăn năn.

 

Châm Ngôn 16:4

Câu châm ngôn này có nội dung: “Đức Giê-hô-va đã dựng nên muôn vật để dùng cho Ngài; Đến đỗi kẻ ác cũng vậy, để dành cho ngày tai họa.” Phần đầu của câu này nêu bật sự thật rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa và Đấng điều khiển có quyền tối thượng của vũ trụ. Không có gì trong cả thế giới này là kết quả của sự tình cờ hoặc ngẫu nhiên. Tất cả mà chúng ta thấy phù hợp với sự thiết kế thiên thượng của Đức Chúa Trời. Phần thứ hai của câu này nhấn mạnh quyền tể trị của Đức Chúa Trời bằng cách tuyên bố rằng ngay cả những kẻ thủ ác cũng không thoát khỏi uy quyền và quyền hạn của Ngài.

Câu châm ngôn này không nói rằng Đức Chúa Trời đã lập kế hoạch để con người trở nên gian ác. Ngược lại, Sa-lô-môn viết, “Đức Chúa Trời đã dựng nên người ngay-thẳng; song loài người có tìm kiếm ra lắm mưu kế.” (Truyền 7:29). Kẻ ác chịu trách nhiệm về những quyết định, hành động và phải khai trình cho sự gian ác của mình. Và trong quyền tể trị của Ngài, Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch cho một ngày mà họ sẽ nhận sự xét đoán mà họ xứng đáng (xem Khải Huyền 20:11-15). Đức Chúa Trời có quyền kiểm soát đối với kẻ ác, nhưng họ không thoát khỏi chịu trách nhiệm về hành động của mình.

Sa-lô-môn nhấn mạnh rằng tất cả các sự kiện trong cuộc sống đều nằm trong kế hoạch của Chúa. “Phàm sự gì có thì tiết.” (Truyền-đạo 3:1) Ý tưởng ở đây là có một thời điểm được Chúa chỉ định cho tất cả những kinh nghiệm trong cuộc sống (xem Ê-phê-sô 1:11). Danh sách trong Truyền đạo 3:2-8 bao gồm những điều phiền não như “kỳ để chết;” “kỳ để giết”, “kỳ để ghét” và “kỳ đánh giặc.” Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời là nguyên nhân của chiến tranh, chết chóc và hận thù chăng?

 

Không. Phần Kinh Thánh này không đề cập đến vấn đề nguyên nhân trực tiếp của những sự kiện này. Trong khi Đức Chúa Trời có quyền tối cao đối với tất cả các trải nghiệm của cuộc sống, và không có bi kịch nào xảy ra ngoài sự cho phép của Đức Chúa Trời, thì không có điều nào trong phần Kinh Thánh trên cho thấy rằng Đức Chúa Trời là nguyên nhân của những trải nghiệm đáng buồn và đau đớn này, và do đó phải chịu trách nhiệm về chúng.

 

Truyền Đạo 7:14

Sa-lô-môn đưa ra sự khôn ngoan sâu sắc để đối mặt với những tình huống trong cuộc sống, ông tuyên bố: “Trong ngày thới thạnh hãy vui mừng, trong ngày tai nạn hãy coi chừng; vì Đức Chúa Trời đặt ngày nầy đối với ngày kia, hầu cho người đời chẳng thấy trước đặng điều sẽ xảy ra sau mình.” (7:14). Một lần nữa câu này nhấn mạnh sự thật rằng không có gì xảy ra một cách tình cờ. Trong ngày thới thạnh, thật dễ dàng để vui mừng và cảm tạ Chúa. Nhưng khi những khó khăn xảy đến— những bi kịch gia đình, sự tan vỡ và mất mát cá nhân — Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngai! Cuộc sống không nằm ngoài tầm kiểm soát. Chúng ta có thể có niềm tin rằng Đức Chúa Trời đang thực hiện kế hoạch toàn diện, khôn ngoan và trong tầm kiểm soát của Ngài ngay cả khi kế hoạch chi tiết bao gồm nghịch cảnh và hoạn nạn.

 

A-mốt 3: 6

Khi loan báo về sự đoán phạt hầu đến của Đức Chúa Trời trên Y-sơ-ra-ên, A-mốt đã tuyên bố: “Sự tai-vạ (raa) há có xảy ra cho một thành kia nếu mà Đức Giê-hô-va chẳng làm? (A-mốt 3:6) Như trong 1Các Vua 14:10 và 21: 21, từ raa có thể được sử dụng để phán xét xứng đáng về tội lỗi không ăn năn. Tai họa được nói đến trong lời tiên tri của A-mốt là sự hủy diệt của Sa-ma-ri bởi người A-si-ri vào năm 722 SC, một bản án xứng đáng dành cho dân Y-sơ-ra-ên gian ác (xin xem 2Các Vua 17:7-17). Đức Chúa Trời muốn dân sự Ngài biết rằng tai họa này không xảy ra một cách ngẫu nhiên, nó được Đức Chúa Trời xác định là do tội lỗi của Y-sơ-ra-ên.

 

Ê-sai 45:7

Để nhấn mạnh quyền tể trị của Đức Chúa Trời đối với sự thăng trầm của các quốc gia, Ê-sai đã truyền ra lời tuyên bố của Đức Chúa Trời: “Ấy chính ta là Đấng gây nên sự sáng và dựng nên sự tối tăm, làm ra sự bình an và dựng nên sự tai vạ (raa); chính ta là Đức Giê-hô-va, làm mọi sự đó” (Ê-sai 45:7). Từ ‘raa’ được sử dụng trong Kinh Thánh chỉ về thương tích, thảm họa, đau khổ, và cụ thể hơn là hoạt động phi đạo đức”). Vì Đức Chúa Trời hoàn toàn chống lại điều ác và liên tục kêu gọi mọi người quay lưng lại với điều ác, nên thuật ngữ ‘raa’ phải được hiểu trong ngữ cảnh này là không đề cập đến điều ác về mặt đạo đức mà là về thảm họa thiên nhiên hoặc sự đoán phạt đáng có. Trong bối cảnh của lời tiên tri này (45:1-7), Đức Chúa Trời đã phán rằng cuộc chinh phục của vua Si-ru đối với các nước ngoại bang là do sự can thiệp thiên thượng của Ngài (45:1-2).

 

Giê-rê-mi 25:29

Đức Chúa Trời đã tuyên bố qua Giê-rê-mi: “Vả, nầy, ấy là thành kia là thành được xưng bằng danh ta, mà ta bắt đầu xuống tai-vạ.” (Giê-rê-mi 25:29) Trong câu này và những câu tương tự khác (31:28; Mi-chê 4:6; Xa. 8:14), Đức Chúa Trời là chủ ngữ của động từ ritie, “làm điều ác, làm tổn thương, hoặc mang lại tai họa.” Trong những bối cảnh này, việc gây ra nỗi đau hoặc tai họa không phải do một số sai trật về đạo đức trong đặc tánh của Đức Chúa Trời mà là sự phán xét công bằng đối với những tội nhân không đáp lại lời kêu gọi ăn năn của Ngài. Vì sự đoán phạt đối với điều ác không giống như việc gây ra điều ác, Đức Chúa Trời không phạm một hành động trái đạo đức nào hoặc vi phạm sự thánh khiết của Ngài khi Ngài “mang tai họa” đến trên kẻ ác.

 

DUY TRÌ SỰ CÂN BẰNG

Trở thành một nhà thần học cẩn trọng cũng giống như đi xe đạp. Bạn phải duy trì sự cân bằng của mình. Nếu bạn không làm như vậy, bạn sẽ ngã. Trong quá trình nghiên cứu về Đức Chúa Trời và sự hiện diện của điều ác, chúng tôi đã khám phá ra rằng các học thuyết về quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người là phù hợp với nhau. Để duy trì sự cân bằng trong Kinh Thánh, chúng ta không thể nghiêng nhiều về học thuyết này hơn học thuyết kia. Cả hai đều phù hợp với Kinh Thánh và phải được suy xét cùng lúc.

Dù tôi đồng ý với nhận xét của Millard Erickson rằng “một giải pháp tổng thể cho vấn đề điều ác nằm ngoài khả năng của con người”, “chúng ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Chúng ta đã khám phá ra rằng trong khi Chúa tể trị cả điều thiện và điều ác, thì Ngài đứng đằng sau hai điều đó theo những cách khác nhau. Đức Chúa Trời không cho phép điều ác thoát khỏi giới hạn quyền tể trị của Ngài. Dù Ngài cho phép điều ác, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ được coi là điều ác. Tuy nhiên, qua việc phép điều ác, điều luôn luôn thuộc trách nhiệm của các tác nhân thứ cấp, thì điều ác cũng đã được đưa vào sắc lệnh của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, các trước giả Kinh Thánh không nói rằng Đức Chúa Trời chỉ cho phép điều thiện. Đúng hơn, Đức Chúa Trời đứng sau điều thiện theo cách mà điều đó không chỉ hiện hữu như một phần trong sắc lệnh của Ngài, mà còn luôn đến từ Ngài.

 

Cuối cùng, chúng ta phải kết luận rằng trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, Đức Chúa Trời đã công nhận rằng danh Ngài sẽ được vinh hiển hơn qua việc cho phép điều ác chứ không phải hoàn toàn không cho phép. Và vì vậy, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy tội lỗi, nơi có đau đớn, bệnh tật và chết chóc. Tin lành cho Cơ Đốc Nhân là những kinh nghiệm của chúng ta trên đất này chỉ là một phần nhỏ của cõi vĩnh hằng. Một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ phán xét mọi điều ác và xóa bỏ lời nguyền của tội lỗi. Sẽ không có “sự chết, cũng không có than-khóc, kêu-ca, hay là đau-đớn nữa” (Khải huyền 21:4) trong vương quốc đời đời của Đức Chúa Trời. Phao-lô viết, “Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (2Cô. 4:17-18). Một cái nhìn đời đời về những điều ác mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống sẽ giúp các tín hữu đạt được chiến thắng qua Đấng Christ.

Chúng ta có nhớ Brian và Haley mà tôi đã giới thiệu ở đầu chương này chứ? Họ đã phản ứng như thế nào trước thảm kịch đã làm thay đổi cuộc đời họ một cách sâu sắc? Bất chấp những khó khăn, Haley vẫn trân trọng những bài học mà cô đang học. “Cuộc sống còn nhiều điều hơn là đẹp trai hay đẹp gái hay làm được mọi thứ bạn muốn”, cô nói. Brian cũng vậy, anh duy trì một thái độ tích cực. “Mọi người đều sẽ có những khó khăn,” anh nói. “Tôi nghĩ mình như một công cụ. Chúa đang sử dụng tôi để chạm đến cuộc đời một số người nào đó.”

Có lẽ Đức Chúa Trời đang cho phép một số điều ác trong cuộc sống của bạn để xây dựng tính cách Cơ Đốc trong bạn qua những đau khổ (Rô-ma 5:3-4). Có lẽ Đức Chúa Trời sẽ sử dụng điều ác mà Ngài đã cho phép trong cuộc sống của bạn để thu hút người khác và đem lại sự vinh hiển cho Ngài. Có lẽ qua những khó khăn của bạn, “những việc của Đức Chúa Trời” (Giăng 9:3) sẽ được tỏ ra.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

13

KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI CHO MỌI THỜI ĐẠI

VIỆC GIẢNG DẠY TẠI CHỦNG VIỆN giúp tôi tiếp xúc với nhiều sinh viên. Khi tôi gặp và làm quen với các sinh viên tại văn phòng hay tại các bữa ăn trưa, tôi thường đặt ra một câu hỏi cho các sinh viên về kế hoạch của họ trong tương lai. Tôi hỏi “Bạn muốn làm gì sau khi hoàn thành việc học ở chủng viện?” Hoặc tôi hỏi, “Bạn thử hình dung mình đang làm gì trong 4 hoặc 5 năm tới?”

Với chương trình học dày đặc, nhiều sinh viên đã gặp khó khăn trong việc dự định cho cuộc sống của họ sau khi tốt nghiệp! Nhưng nếu tôi cho họ thời gian, họ thường biết khá rõ lý do tại sao họ đến học tại chủng viện và cách họ muốn phục vụ Chúa trong tương lai. Tôi thấy rằng việc tìm hiểu các kế hoạch của họ sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về họ.

Tôi tin rằng nguyên tắc này cũng áp dụng khi chúng ta đang tìm cách hiểu biết về  Đức Chúa Trời nhiều hơn. Tôi thật là ngạc nhiên khi một số Cơ đốc nhân không biết gì về kế hoạch của Ngài. Thực tế là chúng ta quan tâm đến kế hoạch của chính mình hơn là kế hoạch của Ngài! Nhưng chúng ta cần phải quan tâm theo cách ngược lại. Là những Cơ đốc nhân, chúng ta sống là để mang lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời (1 Côr. 10:31). Rất khó để làm được điều này nếu chúng ta không biết các kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chương này thảo luận về kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại, để chúng ta có thể biết Ngài rõ hơn.

Nhiều Cơ đốc nhân mắc phải cái mà Richard Foster gọi là “cận thị trong Kinh Thánh.”1 Họ biết rất nhiều các sự kiện trong Kinh Thánh, nhưng thiếu một thế giới quan – một tầm nhìn về tổng thể. Nhiều Cơ đốc nhân chưa bao giờ nhìn biết được bức tranh về kế hoạch toàn diện của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại. Kết quả là, họ khó nhìn thấy mọi điều mà Đức Chúa Trời đang thực hiện phù hợp với nhau như thế nào.

Khi chúng ta nhìn xem “bức tranh lớn” — kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại như được tiết lộ trong Sáng-thế Ký trải dài đến Khải Huyền — chúng ta sẽ không dừng lại ở mỗi cột mốc trên chặng đường đi, nhưng chúng ta sẽ chú ý đến các chỗ giao nhau và những điểm quan trọng.

Biết được kế hoạch tổng thể của Đức Chúa Trời có thể giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về quyền tể trị của Ngài. Và điều này cho chúng ta cảm nhận rõ hơn về quan điểm của Ngài khi chúng ta gặp phải một số khó khăn không thể tránh khỏi trong cuộc sống. Khi con cái đau bệnh, khi người thân yêu qua đời, khi mất việc, chúng ta có thể tin tưởng, yên tâm rằng Chúa biết tương lai của chúng ta và nắm quyền tể trị trên mọi điều đó.

 

VƯƠNG QUỐC ĐỜI ĐỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời có thẩm quyền tuyệt đối và nắm giữ các quy luật như một vị Vua. Trước giả Thi-thiên tuyên bố, “Đức Giê-hô-va làm Vua đến đời đời vô cùng!” (Thi 10:16). Giê-rê-mi cũng tuyên bố, “Nhưng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật; Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, là Vua đời đời” (Giê-rê-mi 10:10). Đa-vít đã công bố trong Thi-thiên 103:19, “Đức Giê-hô-va đã lập ngôi Ngài trên các từng trời, Nước Ngài cai trị trên muôn vật.” Với tư cách là Vua, Đức Chúa Trời có thẩm quyền (“ngai vàng”), vương quốc (“các tầng trời”) và thần dân (“muôn vật”).

Vương quốc của Đức Chúa Trời là đời đời. Là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời luôn sở hữu quyền tể trị tuyệt đối. Vương quốc của Ngài cũng mang tính phổ quát; Quyền tể trị của Đức Chúa Trời không bị giới hạn về phạm vi. Ngài thi hành quyền cai trị của Ngài trên tất cả các tạo vật của Ngài.

Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trên đất thường được giao cho các nhà cầm quyền là những người được chọn ra để điều hành tất cả các tạo vật của Ngài. Như Nê-bu-cát-nết-sa đã  nhận biết rằng, “Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người; Ngài muốn ban cho ai tùy ý, và lập kẻ rất hèn hạ trong loài người lên đó” (Đa. 4: 17).

 

VƯƠNG QUỐC GIẢ MẠO CỦA SA-TAN 

Trong thời xưa, vương quốc phổ quát và đời đời của Đức Chúa Trời bị thách thức bởi một thiên sứ – một tạo vật được gọi là Sa-tan hoặc ma quỷ. Kinh Thánh cho biết rất ít về sự sa ngã của Sa-tan, nhưng tội lỗi của nó đã tạo ra một hành động phản nghịch chống lại quyền tối thượng của Đức Chúa Trời (1 Tim. 3:6; Khải. 12:4).

Vào lúc sa ngã, Sa-tan đã thiết lập một vương quốc giả mạo song song với vương quốc của Đức Chúa Trời và thách thức quyền lực của Ngài. Sa-tan là kẻ soán ngôi, tuyên bố vương quyền và tìm cách thực thi quyền lực của mình trên đất. Phao-lô gọi nó là “chúa đời này” (2 Cô. 4: 4) và “vua cầm quyền chốn không trung” (Ê-phê-sô 2:2). Trong thời đại hiện nay, Sa-tan thực hiện quyền lực giới hạn của mình trên các tạo vật bị xa cách với Đức Chúa Trời bởi tội lỗi.

Để làm đầy vương quốc của mình cùng với những người theo nó, Sa-tan đã dỗ dành cặp vợ chồng đầu tiên của loài người – A-đam và Ê-va – tham gia vào việc chống nghịch Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã phán dặn rất rõ ràng. “Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết” (Sáng. 2:17). Nhưng Sa-tan đã thực hiện thành công kế hoạch của mình là khiến cho con người sa ngã.

Hậu quả của tội lỗi dành cho A-đam và Ê-va là ngay lập tức và mang tính quyết định. Lần đầu tiên, mối tương giao với Đức Chúa Trời bị phá vỡ và họ bị chia cắt khỏi Đức Chúa Trời bởi tội lỗi của họ. Điều này đã tạo ra sự chết thuộc linh. Ngoài ra, họ và thế hệ con cháu của họ cũng phải trải qua sự chết thuộc thể. Phao-lô tóm tắt hậu quả của tội lỗi trong Rô-ma 5:12: “Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội.”

Vì tội lỗi của con người, Đức Chúa Trời đã rủa sả đất, vì vậy mà đất đai chỉ có thể sinh hoa kết trái sau khi làm việc khó nhọc (Sáng. 3:17-18). Những cây gai và cây tật lê khiến con người phải làm việc vất vả hơn. Tất cả muôn vật hiện nay đang phải vật lộn dưới sự rủa sả vì tội lỗi của A-đam (Rô-ma 8:22).

KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Đức Chúa Trời đã tạo ra một thế giới mà Ngài gọi là “rất tốt lành.” Nhưng bây giờ vương quốc của Đức Chúa Trời đã bị Sa-tan thách thức; con người đã rơi vào tội lỗi; và thế giới, dưới sự thống trị của Sa-tan, đang công khai chống nghịch lại Đức Chúa Trời. Thật là một mớ hỗn độn! Trước tình trạng đó, Đức Chúa Trời đã bắt đầu một chương trình để đưa tạo vật bị tội lỗi trở lại với những phước hạnh dưới sự ngự trị vinh quang của Ngài.

Như một viên ngọc quý có nhiều mặt, chương trình của Đức Chúa Trời cũng có nhiều khía cạnh — sự cứu chuộc, quyền cai trị vương quốc và sự phán xét. Đức Chúa Trời nhân từ quyết tâm khôi phục nhân loại, thiết lập lại vương quốc của Ngài và giải quyết tội lỗi một cách công bằng. Tất cả những điều này cuối cùng được tạo ra nhằm tôn cao và làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Hầu hết lịch sử kinh thánh và thần học có thể được xem như là một công việc phụ của một trong những khía cạnh này trong chương trình thần thượng của Đức Chúa Trời. (a) Cứu chuộc loài người. Bởi vì ân điển vô hạn và tình yêu hy sinh của Ngài, Ngài đã chọn cách đưa ra một giải pháp nhằm giải thoát chúng ta khỏi số phận của sự chết thuộc linh. Chúng ta gọi đây là chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời — một chương trình cứu chuộc nhân loại bị sa ngã. (b) Giành lại vương quốc của Ngài. Đức Chúa Trời tối cao không thể để cho các thế lực chống đối thành công khi thách thức vương quyền của Ngài. Nếu vương quyền của Ngài bị thách thức, và ma quỉ thành công khi làm như vậy, thì cho thấy rằng Ngài không thực sự có quyền. Vì vậy, Đức Chúa Trời sẽ lấy lại vương quốc của Ngài và xác nhận lại quyền tối cao của Ngài trên đất này — phạm vi đã bị thách thức. (c) Thực thi quyền phán xét. Vì Đức Chúa Trời là thánh khiết, Ngài không thể thờ ơ chấp nhận tội lỗi và sự chống nghịch. Ngài phải thi hành sự phán xét trên Sa-tan và những người theo nó để thanh tẩy thế gian khỏi hậu quả của tội lỗi.

 

CÔNG VIỆC CỨC CHUỘC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Vì tình yêu thương và ân điển vô hạn của Ngài, Đức Chúa Trời đã đưa ra một phương cách cứu rỗi cho tất cả những ai tin vào Chúa Giê-su Christ.

 

Giao Ước Nô-ê

Lời hứa của Đức Chúa Trời với Nô-ê sau cơn Đại hồng thủy cung cấp một nền tảng quan trọng cho công việc cứu chuộc của Ngài. Đức Chúa Trời đã hứa với Nô-ê sẽ không bao giờ hủy diệt mọi loài sống trên đất nữa bằng cơn Đại hồng thủy (Sáng 8: 21-22; 9: 8-17). Mặc dù các thế hệ gian ác sẽ nổi lên sau thời Nô-ê, Đức Chúa Trời vẫn sẽ không dùng nước lụt để đoán phạt cho đến khi tội lỗi được giải quyết hoàn toàn và triệt để — tại thập tự giá của Đấng Christ. Giao ước Nô-ê đã cung cấp một thời gian cần thiết để Đức Chúa Trời thực hiện kế hoạch cứu chuộc của Ngài.

 

Sự Cứu Chuộc Được Minh Họa

Những sinh tế trong Cựu Ước (Xuất 12 và Lê-vi 1-7, 16) minh họa cho sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời, theo đó một nạn nhân vô tội chết thay cho kẻ có tội. Chúng ta gọi những sinh tế hy sinh này là “hình bóng” bởi vì chúng chỉ ra một sự thật lớn lao. Chúng báo trước về sự đến của một Người thay thế (Chúa Giê-xu Christ), Đấng sẽ giải quyết tội lỗi một cách hoàn toàn và triệt để.

Huyết của con sinh tế không thể cất tội lỗi đi được (Hê-bơ-rơ 10: 4). Những sinh tế chỉ đơn giản là sự báo trước về những gì Đấng Christ sẽ hoàn thành. Như Phao-lô đã viết, “trong buổi Ngài [Đức Chúa Trời] nhịn nhục, Ngài đã bỏ qua các tội phạm trước kia” (Rô-ma 3:25) cho đến khi huyết của Đấng Christ có thể thỏa mãn cơn thịnh nộ thánh khiết của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi.

 

Kế Hoạch của Đức Chúa Trời Được Thực Hiện

Việc Đức Chúa Trời ban sự cứu rỗi cho con người cho mọi thời đại là bởi ân điển, qua đức tin nơi lời hứa của Ngài, dựa trên huyết của Đấng Christ. Phao-lô đã trình bày lẽ thật này trong Ê-phê-sô chương 2. Trong câu 8, ông viết, “ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu.” Sau đó, trong câu 13, ông nói thêm rằng người Ê-phê-sô là những người ngày trước cách xa Đức Chúa Trời “đã nhờ huyết Đấng Christ mà được gần rồi.”

Thuật ngữ “nhờ ân điển” có nghĩa là sự cứu rỗi là một món quà thiêng thượng, miễn phí và không ai xứng đáng được nhận. Điều này ngăn chặn sự khoe mình của con người, nghĩa là chỉ Đức Chúa Trời được vinh hiển, thay vì con người (2: 8-9).

Thuật ngữ “bởi đức tin” chỉ ra rằng ân điển cứu rỗi thiêng thượng có được chỉ bởi đức tin cá nhân. Đức tin (“niềm tin” hay “sự tin cậy”) liên quan đến sự tin cậy hoàn toàn vào sự ban cho của Đức Chúa Trời qua sự chuộc tội của Đấng Christ.

“Huyết” nhắc nhở chúng ta rằng vì Đức Chúa Trời thánh khiết nên Ngài phải đoán phạt chúng ta bởi vì tội lỗi. Nhưng bởi vì Ngài nhân từ, nên Ngài đã ban một người thay thế để chết thay cho kẻ có tội (Lê-vi Ký 17:11; Hê-bơ-rơ 9:22). Bản thân các sinh tế trong Cựu Ước không thể chuộc tội (10: 4). Vì vậy, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị một sinh tế tối thượng — Con của Ngài — để làm Chiên Con sinh tế, Đấng sẽ cất tội lỗi của thế gian đi (Giăng 1:29; Công Vụ 2:23).

 

Sự Chuộc Tội của Đấng Christ Được Ban Cho

Đấng Christ đã hiến mạng sống của Ngài trên thập tự giá để thỏa mãn cơn thịnh nộ thánh khiết của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi (Rô-ma 3:25; 1 Giăng 2: 1-2). Khoảnh khắc quan trọng nhất trong lịch sử cứu chuộc là khi Chúa Giê-su mang lấy những tội lỗi mà những sinh tế thời Giao ước Cũ chỉ che đậy. Khi Ngài mang lấy tội lỗi của mọi người trong quá khứ, hiện tại và tương lai, thì Ngài đã trở thành “tội lỗi thay cho chúng ta” (2 Cô 5:21, NASB). Trong giây phút đau đớn tột cùng của Ngài, Chúa Giê-su đã kêu lên: “Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46). Giống như thể Đức Chúa Cha đã quay lưng lại với chính Con Ngài khi Chúa Giê-su gánh lấy tội lỗi của loài người. Sau đó, Chúa Giê-su tuyên bố: “Mọi việc đã được trọn” (Giăng 19:30). Việc ban cho sự cứu chuộc đã hoàn tất.

 

Giao Ước Mới Được Thiết lập

Sự chết của Đấng Christ vì tội lỗi có nghĩa là sự kết thúc Giao ước Cũ và sự thiết lập Giao ước Mới (Giê 31: 31-34; Êxê. 36: 24-28; Hê 8: 6-13). Giao ước Mới cung ứng sự tái sinh và sự tha tội nhờ đức tin nơi Đấng Christ qua sự chuộc tội hy sinh của Ngài (1 Cô 11:25; Hê 7:22; 8: 6-13; 10: 15-22). Hầu như tất cả các phước hạnh mà chúng ta có được trong Đấng Christ đều dựa vào sự ban cho thuộc linh trong Giao ước Mới.

 

CÔNG VIỆC CỦA VƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Kể từ khi quyền cai trị tối cao của Đức Chúa Trời trên vũ trụ bị Sa-tan thách thức, Đức Chúa Trời đã hành động để khẳng định lại quyền tể trị của Ngài trong phạm vi mà nó bị thách thức. Chương trình cho vương quốc Đức Chúa Trời gồm có một vị Vua cai trị, một dân tộc được cai trị và một phạm vi nơi sự cai trị được công nhận. Graeme Goldsworthy đã tuyên bố một cách ngắn gọn rằng: “Vương quốc của Đức Chúa Trời bao gồm: (a) con dân của Đức Chúa Trời (b) phạm vi cai trị của Đức Chúa Trời (c) dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời.”2

Công việc của vương quốc Đức Chúa Trời gồm có việc chứng minh và công nhận thẩm quyền thiêng thượng của Ngài trên đất này, nơi mà quyền cai trị của Ngài đã bị thách thức. Chính trong khía cạnh này về kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại mà nhiều lời tiên tri trong Ê-xê-chi-ên được chú trọng. Sự hiện thấy về đền thờ của Đấng Mê-si-a (Ê-xê 40-48) mà Đức Chúa Trời tỏ cho Ê-xê-chi-ên sẽ xuất hiện trong vương quốc thiên niên kỷ trong tương lai. Sự phát triển của vương quốc Đức Chúa Trời được chép lại trong một số đoạn Kinh thánh quan trọng.

 

Vương Quốc Được Hứa Ban (Sáng 12: 1-3)

Về việc Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham, Ngài bắt đầu khởi sự một số bày tỏ quan trọng trong việc tái lập thẩm quyền vương quốc của Ngài trên đất. Những sự bày tỏ này tập trung vào những lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham trong Sáng-thế Ký 12: 1-3. Những lời hứa vô điều kiện này bảo đảm cho Áp-ra-ham và con cháu của ông về ba điều: một nước, một dân tộc và một nguồn phước.

Đầu tiên, con cháu của Áp-ra-ham nhận được một xứ — nước Y-sơ-ra-ên. Diện tích của xứ được nói đến trong Sáng-thế Ký 15:18 và Giô-suê 1: 4. Lời hứa về nước Y-sơ-ra-ên được cho biết thêm trong Phục truyền 30: 1-10. Thứ hai, con cháu của Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân lớn. Những lời hứa về một dân tộc được bày tỏ trong Giao ước Đa-vít (2 Sa-mu-ên 7: 12-16). Thứ ba, con cháu của Áp-ra-ham được ban phước và là nguồn phước cho những dân tộc khác. Những lời hứa về phước lành được nhắc đến trong Giao ước Mới (Giê-rê-mi 31: 31-34).

Giao ước Áp-ra-ham góp phần một cách đáng kể vào việc thực hiện chương trình vương quốc của Đức Chúa Trời. Nó bảo đảm cho Y-sơ-ra-ên là một quốc gia tồn tại vĩnh viễn, một danh hiệu mãi mãi cho nước Y-sơ-ra-ên, các phước lành về thuộc thể lẫn thuộc linh (qua Chúa Giê-su Christ), và các dân ngoại được chia sẻ những phước lành mà Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên (Ga-la-ti 3: 8-14).

 

Vương Quốc Được Báo Trước (2 Sa-mu-ên 7: 12-16)

Trong triều đại của Đa-vít, một sự bày tỏ quan trọng khác trong chương trình vương quốc của Đức Chúa Trời đã xảy ra. 2 Sa-mu-ên 7: 12-16 ghi lại rằng Đức Chúa Trời đã thiết lập một giao ước đời đời, vô điều kiện với Đa-vít, bảo đảm rằng vương quốc thần quyền thuộc dòng dõi của ông sẽ trở thành hiện thực và một trong những con cháu của Đa-vít sẽ trị vì vương quốc đời đời.

Về bản chất, Đức Chúa Trời đã hứa với Đa-vít rằng nhà, ngai vàng và vương quốc của ông sẽ được vững bền đời đời (7:16). Điều này có nghĩa là (a) dòng dõi hoặc triều đại của Đa-vít sẽ luôn là dòng dõi hoàng gia, (b) quyền cai trị sẽ luôn thuộc về con cháu của Đa-vít, và (c) quyền của vương quốc theo nghĩa đen sẽ không bao giờ bị tước đoạt khỏi hậu thế của Đa-vít.

Vương Quốc Được Bày Tỏ (Mat 4:17)

Khi thiên sứ Gáp-ri-ên phán với Mary rằng bà sẽ là mẹ của Đấng Mê-si-a, Thiên sứ đã liên kết sự giáng sinh của Chúa Giê-su với lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít trong 2 Sa-mu-ên 7: 12-16 (Lu-ca 1: 31-33). Thiên sứ Gáp-ri-ên nói rõ rằng ngôi Đa-vít được định sẵn cho Chúa Giê-su, Ngài sẽ trị vì nhà Gia-cốp đời đời, và cai trị một vương quốc đến mãi mãi – tất cả đều được ứng nghiệm trong 2 Sa-mu-ên 7: 12-16.

Chúa Giê-su đã bày tỏ vương quốc đã được nói tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên khi Ngài tuyên bố, “Các người hãy ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần” (Mat 4:17). Đây là lời mời gọi những người Do Thái trong thời của Ngài chấp nhận Ngài là Vua và bước vào vương quốc của Ngài. Chúa Giê-su đã xác nhận lời mời gọi của Ngài về vương quốc bằng các phép lạ, điều này cho thấy các đặc điểm về quyền cai trị của Đức Chúa Trời sẽ như thế nào khi nó được bày tỏ cách hoàn toàn (Ê-sai 35: 5-6; Ma-thi-ơ 12:28).

 

Vương Quốc Bị Từ Chối (Ma-thi-ơ 12: 22-32)

Những người Do Thái sống ở thế kỷ thứ nhất đã đoán trước được sự ứng nghiệm theo nghĩa đen về những lời hứa vương quốc đã được nói bởi các nhà tiên tri. Tuy nhiên, họ khó chấp nhận thân vị của Đấng Christ. Việc mong đợi một người giải cứu về quân sự đầy quyền lực, đã khiến họ từ chối Đấng Cứu Rỗi khiêm nhường.

Bước ngoặt quan trọng nhất trong chức vụ của Đấng Christ là sự từ chối Ngài bởi tổ chức tôn giáo Do Thái. Các nhà lãnh đạo Do Thái cáo buộc Chúa Giê-su đã dùng quyền năng của Sa-tan để trừ quỷ (Mat 12: 22-24). Thực tế là họ từ chối các phép lạ của Ngài và cho rằng những công việc quyền năng này là bởi Sa-tan thay vì bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời, thông qua Đấng Christ, Đấng đã làm các phép lạ. Quyết định của các nhà lãnh đạo Do Thái đã khiến dân chúng chống lại Chúa Giê-su và khiến dân tộc họ phải từ chối Đấng Mê-si-a của họ. Vì những hậu quả khủng khiếp bởi quyết định của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giê-su gọi tội lỗi của họ là tội lỗi “sẽ chẳng được tha” (12: 31-32).

 

Vương Quốc Bị Trì Hoãn (Lu-ca 19: 11-27)

Vì vương quốc được xây dựng dựa trên những lời hứa giao ước vô điều kiện, nên nó không thể bị hủy bỏ, ngay cả khi không được tin. Vì vậy, quyền cai trị của Đấng Christ trên nước Y-sơ-ra-ên bị trì hoãn cho đến một thời điểm vì sẽ có một thế hệ thích hợp hơn.

Trong dụ ngôn về mười nén bạc (Lu-ca 19: 11-27), Chúa Giê-su cho biết rằng vì dân Y-sơ-ra-ên không chấp nhận Vua của mình, nên vương quốc sẽ bị trì hoãn và thế hệ khước từ này sẽ bị xử phạt (xem 19:14, 27).

 

Vương Quốc Được Hiện Thực Hóa (Khải 20: 4-6)

Khải Huyền 11:15 chỉ ra rằng những lời hứa về vương quốc sẽ được thực hiện sau những sự kiện vẫn còn trong tương lai về khoảng thời gian bảy năm được gọi là Thời kỳ Đại nạn. Vào lần trở lại thứ hai của Đấng Christ, dân Do Thái sẽ chấp nhận Ngài là Đấng Mê-si-a của họ (Xa-cha-ri 12: 10 -13: 1). Sau đó, Chúa Giê-su sẽ thiết lập một sự trị vì ngàn năm và Ngài sẽ cai trị thế giới trong một ngàn năm (Khải huyền 20: 4-6). Đây là thời kỳ mà Ê-xê-chi-ên đã nói tiên tri về đền thờ sẽ là trung tâm thờ phượng của toàn thế giới!

 

Vương Quốc Của Đức Chúa Trời Trong Thời Đại Hiện Tại

Một số nhà thần học, đánh đồng Hội thánh với vương quốc, phủ nhận sự tồn tại của một vương quốc trong tương lai. Những người khác thì phủ nhận bất kỳ mối quan hệ nào giữa Hội thánh và vương quốc, họ tin rằng vương quốc là hoàn toàn trong tương lai. Chúng ta có bằng chứng trong Kinh thánh cho cả hai quan điểm này. Vương quốc của Đức Chúa Trời vừa ở hiện tại vừa ở tương lai.

Theo cách giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen, thì không thể phủ nhận một vương quốc trong tương lai (Mat 26:29; Lu-ca 19:11; 22:30). Tuy nhiên, dường như cũng có một vương quốc đang diễn ra trong thời đại hiện nay (Giăng 3: 3; Cô-lô-se 1:13; 4:11). Mặc dù bản thân Hội thánh không phải là vương quốc, nhưng nó là một khía cạnh quan trọng trong sự cai trị của Đức Chúa Trời. Có lẽ chúng ta có thể nói rằng Hội thánh là khía cạnh quan trọng và dễ thấy nhất của vương quốc Đức Chúa Trời khi nó đang phát triển trong thời đại hiện nay.

Sau khi ký thuật lại lời tuyên bố của Chúa Giê-su “Nước Đức Chúa Trời đã đến gần” (Mác 1:15; Mat 4:17), Mác đã ghi lại một loạt các phép lạ của Chúa Giê-su. Các phép lạ, phản ánh các đặc điểm của vương quốc (Ê-sai 35: 5-6), nhằm xác nhận cho lời tuyên bố của Ngài. Các phép lạ của Chúa Giê-su chứng tỏ rằng tương lai đã đột nhiên thành hiện tại. Khi Chúa Giê-su khiến người mù được thấy, chữa lành người bệnh, khiến người què được đi, làm sạch người phung và giải cứu những người bị quỉ ám, Ngài đang cung cấp một bức tranh về vương quốc của Đức Chúa Trời.

Vương quốc của Đức Chúa Trời gồm có con dân của Đức Chúa Trời, tại nơi cai trị của Đức Chúa Trời, và dưới sự cai trị của Ngài. Ngày nay, con dân của Đức Chúa Trời là những người tin vào Đấng Christ (dù là người Do Thái hay người ngoại bang). “Nơi cai trị” của Đức Chúa Trời là thân thể của Đấng Christ, tức là Hội thánh. Sự cai trị của Đức Chúa Trời trên dân sự của Ngài được thực hiện thông qua Đấng Christ và những người chăn (các trưởng lão trong Hội thánh).

Hình thức cai trị hiện nay của Đức Chúa Trời là trong Hội thánh. Nhưng sự cai trị của Đấng Christ với tư cách là Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên đang trong thời gian chờ đợi thời kỳ Thiên hy niên khi Ngài sẽ trị vì trên ngôi Đa-vít trong một vương quốc theo nghĩa đen trên đất. Trong thời đại của vương quốc tương lai đó, Giê-ru-sa-lem sẽ là trung tâm thờ phượng của thế giới (Ê-sai 2: 2-4, Mi-chê 4: 1-2).

 

SỰ PHÁN XÉT

 

Sự phán xét của Đức Chúa Trời vừa ở hiện tại vừa ở tương lai. Nó đang diễn ra hiện nay (Giăng 3: 18-19) và cũng sẽ diễn ta vào thời điểm trong tương lai theo như lời tiên tri.

 

Sự Phán Xét Trên Sa-tan Và Những Quỉ Sứ Nó

Chúa Giê-su nói về “lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó” (Mat 25:41). Sự phán xét thực sự đối với Sa-tan bắt đầu tại thập tự giá (Giăng 12:31). Phạm vi hoạt động của nó sẽ bị giới hạn nhiều hơn trong thời kỳ Đại nạn (Khải 12: 9) và thời kỳ Thiên hy niên (20: 2). Vào cuối thời kỳ ngàn năm của vương quốc Đấng Mê-si-a, Sa-tan sẽ bị quăng xuống hồ lửa là nơi ở đời đời của nó (20:10).

 

Sự Phán Xét Dành Cho Những Ai Theo Sa-Tan

Khải Huyền 20: 11-15 tiết lộ rằng sau vương quốc của Đấng Mê-sia-a, những người chết ngoài Chúa sẽ sống lại và bị phán xét. “Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa” (20:15).

 

Thanh Tẩy Trái đất

2 Phi-e-rơ 3:10 cho biết rằng trái đất hiện tại này — phạm vi phản nghịch của Sa-tan chống lại Đức Chúa Trời — sẽ bị thanh tẩy bằng lửa để chuẩn bị cho trời mới và đất mới (Khải 21: 1; Ê-sai 65: 17-25). Sự thanh tẩy này sẽ loại bỏ tất cả các hậu quả của tội lỗi và sự sa ngã. Sau đó, những lời của Giăng trong Khải Huyền 22: 3 sẽ được ứng nghiệm, “chẳng còn có sự nguyền rủa nữa.”

Kinh thánh bắt đầu với một lời nguyền rủa vì tội lỗi và cũng kết thúc với việc xóa bỏ hậu quả của tội lỗi và chấm dứt lời nguyền rủa đó. Tóm lại, đây là kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại – để đảo ngược lời nguyền rủa.

 

KẾT LUẬN

 

Những người tin Chúa ngày nay đang sống giữa sự đến thứ nhất và thứ hai của Đấng Christ dưới luật pháp của Giao ước Mới. Họ đang tham gia vào vương quốc Đức Chúa Trời, nhưng vẫn đang chờ đợi sự đến hoàn toàn của vương quốc Ngài khi Đấng Christ sẽ thiết lập sự cai trị của Ngài trên đất.

Hiểu biết về kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại giúp chúng ta biết Đức Chúa Trời nhiều hơn. Chúng ta cũng được khích lệ khi biết rằng Đức Chúa Trời có một kế hoạch! Ngài biết sự kết thúc ngay từ lúc khởi đầu (Ê-sai 46: 9-10). Tất cả về lịch sử và sự tồn tại của con người đều nằm dưới sự cai trị và sự thiết lập của Ngài. Khi đối mặt với điều không chắc chắn và bất hạnh, Cơ đốc nhân có thể tin chắn rằng Đức Chúa Trời đang kiểm soát! Khi Ngài tể trị trên mọi việc của các quốc gia, thì Ngài cũng tể trị trên mọi việc trong cuộc đời chúng ta — theo ý muốn quyền năng của Ngài.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

14

Là Bạn Của Đức Chúa Trời

TÌNH BẠN của tôi với Gary Classen bắt đầu khoảng mười năm trước khi chúng tôi phát hiện ra rằng chúng tôi có chung sở thích chạy bộ. Kể từ năm 1988, Gary và tôi đã chạy khoảng một chục cuộc chạy ma-ra-tông cùng nhau. Chúng tôi đã cùng nhau tham gia sáu cuộc đua “Hood to Coast” dài tổng cộng 195 dặm. Chúng tôi đã ăn vô số bữa ăn cùng nhau. Tôi đã ngủ ở nhà Gary và tự tay làm món ngũ cốc từ tủ bếp của anh ấy vào lúc nửa đêm.

Ngoài mẹ tôi, thì Gary là người duy nhất tôi biết đã từng đọc cuốn sách tôi đã viết. Gary cầu nguyện cho tôi và động viên tôi. Nếu Gary đến gặp tôi và hỏi mượn một nghìn đô la, tôi sẽ trả lời ngay lập tức, “Tôi có thể ký séc, hay đưa ngay tiền mặt?” Đó là ý nghĩa của việc chia sẻ tình bạn.

Chỉ một vài tuần sau khi gia đình chúng tôi chuyển đến Dallas, Texas, để bắt đầu học tại Chủng viện Thần học Dallas, tôi bắt đầu nhận ra ý nghĩa của việc không có một người bạn. Nancy, vợ tôi, mới bắt đầu làm thư ký cho các huấn luyện viên bóng đá tại Đại học Southern Methodist. Ngay trước khi cô ấy đi làm, tôi đi chuẩn bị xe cho cô ấy. Nhưng khi tôi đề máy, động cơ không nổ. Bình đề đã hết điện! Sẽ không có vấn đề gì nếu điều này xảy ra khi sống ở quê nhà Portland. Tôi biết nhiều người bạn ở đó sẵn sàng rời khỏi giường ngay lập tức để giúp tôi khởi động xe. Nhưng tôi mới đến Dallas và chưa kết bạn với ai. Không có ai mà tôi quen biết để nhờ giúp đỡ!

Tôi bắt đầu hoang mang. Nancy phải đến nơi làm việc trong vài phút nữa. Tôi sẽ làm gì bây giờ? Đúng vào thời điểm đó, có một thanh niên trẻ đi từ căn hộ đối diện đến. Ngay lập tức tôi gặp anh ta, giải thích tình huống của chúng tôi. May mắn thay, anh ấy rất ân cần chạy chiếc xe của mình vòng qua nhà tôi, và đã sử dụng dây cáp nối bình điện để khởi động xe của tôi.

Khi Nancy lái xe đi làm vào sáng hôm đó rồi, tôi xác định rằng tôi sẽ tìm cách phát triển một số tình bạn ở Dallas. Tôi sẽ làm quen với một số người ở đó, những người bạn sẵn sàng và tận tâm chia sẻ lẫn nhau. Trong ba năm của chúng tôi tại Dallas, một số tình bạn sâu sắc và lâu bền đã phát triển. Có Roger Raymer, người bạn chạy bộ của tôi, và Jim Amandus, một bạn học và hàng xóm. Tôi rất thích tình bạn với Duane Lindsey, người lo việc hồ sơ đăng ký ở chủng viện. Tôi không thể đếm được số buổi tối mà Nancy và tôi đã đến chơi ở nhà anh ấy. Chúng tôi đã gặp Walter và Jean Mack tại nhà thờ và dự phần vào một số Lễ Tạ ơn tại nhà của họ. Những người này đã trở thành bạn của tôi ở Dallas. Và mặc dù hiện tại chúng tôi đã phân tán đến các tiểu bang khác nhau, nhưng họ vẫn là bạn của tôi.

 

ĐỊNH NGHĨA VỀ “BẠN”

Tân Ước sử dụng từ “bạn” (philos) theo hai cách. Cách sử dụng thông thường của từ này được minh họa trong câu chuyện về người con trai hoang đàng. Người con trai cả đã phàn nàn với cha mình rằng: “Nhưng nó thưa cha rằng: Nầy, tôi giúp việc cha đã bấy nhiêu năm, chưa từng trái phép, mà cha chẳng hề cho tôi một con dê con đặng ăn chơi với bạn hữu tôi.” (Lu. 15:29). Từ bạn được dùng ở đây với nghĩa thông thường là những người bạn đồng hành đặc biệt hoặc đáng tin cậy.

Ngoài ra, một cách sử dụng kỹ thuật của từ philos cũng quen thuộc với những người sống trong thế giới La Mã vào thế kỷ thứ nhất. Cách sử dụng này được tìm thấy trong Giăng 19:12, khi người Do Thái kêu lên với Phi-lát rằng: “Ví bằng quan tha người nầy, thì quan không phải là bạn của của Sê-sa.” (If you let this man go, you are no friend of Caesar. NIV) Làm “bạn của Sê-sa” là danh hiệu cao nhất và là danh hiệu cao quý có thể được vui hưởng trong mối quan hệ với chính quyền La Mã. Hàm ý của lời tuyên bố của người Do Thái là Phi-lát vẫn là bạn của Sê-sa, nhưng mối quan hệ này sẽ bị đe dọa nếu ông thả Chúa Giêsu.

Trở thành “bạn của Sê-sa” nghĩa là có bốn điều. Đầu tiên, điều đó có nghĩa là người đó biết rõ hoàng đế, “Những người bạn của Sê-sa” sẽ thực sự được nhận thư và tiếp tục trong mối quan hệ thư tín với ông. Họ biết rõ ông ta. Thứ hai, có nghĩa là người bạn này sẵn sàng đi bất cứ nơi nào mà hoàng đế sai đi. “Những người bạn của Sê-sa” thường được sai đến các tỉnh để thực hiện nhiệm vụ cho hoàng đế. Ở đó, họ sẽ đại diện và tiến hành các công việc của hoàng đế. Thứ ba, “bạn của Sê-sa” thì vẫn giữ được tước vị ngay cả khi hoàng đế qua đời. “Một người bạn của Sê-sa” thì vẫn là bạn của Đế chế La Mã. Thứ tư, nếu người bạn phản bội hoàng đế, ông ta sẽ mất địa vị đặc quyền và điều này đồng nghĩa là sự nghiệp chính trị của ông ta kết thúc.

 

 

SỰ MINH HỌA THUẬT NGỮ “BẠN”

Mối quan hệ “bạn của Sê-sa” này thực sự hoạt động như thế nào? May mắn thay, chúng tôi có một số minh họa về việc sử dụng thuật ngữ này.

 

Vua Hê-rốt

Sự cai trị của Vua Hê-rốt, được mọi người gọi là “Hê-rốt Đại đế”, có thể được chia thành ba thời kỳ chính. Từ năm 37 đến 25 TCN, Hê-rốt chiến đấu với kẻ thù và củng cố vương quốc của mình. Từ năm 25 đến 14 TCN. ông tham gia vào một loạt các dự án xây dựng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ Giê-ru-sa-lem. Hê-rốt đã dành mười năm cuối đời (14-4 TCN) để giải quyết những rắc rối trong nước và tìm kiếm người kế vị xứng đáng. Trong thời kỳ thứ ba này, Hê-rốt gặp một số rắc rối với một số kẻ thù ngoại bang, và với hoàng đế La Mã Sê-sa Au-gút-tơ!

Nhà sử học Do Thái Josephus đã ghi lại câu chuyện trong The Antiquities of the Jews (16.271-91). Theo Josephus, Hê-rốt cho người Ả Rập mượn sáu mươi lạng bạc, nhưng họ không trả. Vì Syllaeus, người trị vì thay thế vua Ả Rập, từ chối thanh toán, nên Hê-rốt đã dùng vũ lực xâm lược Ả Rập để lấy lại tiền. Trong khi đó, Syllaeus đã đi công tác ở Rô-ma. Khi nhận được tin báo về cuộc tấn công trừng phạt của Hê-rốt, thì Syllaeus đã đến thẳng Sê-sa Au-gút-tơ. Ông ta vừa khóc và vừa vu cáo cho Hê-rốt một cách gian dối, đưa cho hoàng đế một bản tường trình rất xuyên tạc về sự việc. Bị Syllaeus thuyết phục rằng Hê-rốt là người đáng trách phạt, Sê-sa Au-gút-tơ đã giận dữ viết cho Hê-rốt một bức thư đại ý rằng: “Mặc dù trước đây vua xem Hê-rốt như một người bạn, thì nay vua xem Hê-rốt như một thần dân” (16.290). Sau đó, Hê-rốt cử đại diện đến Rô-ma để giải thích tình hình với Sê-sa Au-gút-tơ. Sau một số gay go, Sê-sa Au-gút-tơ đã được thuyết phục và Hê-rốt lấy lại được tư cách là “bạn”.

 

Bôn-xơ Phi-lát

Có vẻ như Bôn-xơ Phi-lát đã được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng của Judea (26-36 SCN) bởi Lucius Aelius Sejanus, người chỉ huy của đội cận vệ Praetorian. Praetorian Guard là một nhóm tinh nhuệ gồm chín ngàn binh lính bảo vệ cung điện hoàng gia ở Rô-ma. Rốt cuộc họ lại trở thành một thế lực hùng mạnh, và các hoàng đế phải lệ thuộc họ để được tại vị. Khi vua Tiberius kiệt sức vì công việc triều chính, thì tạm nghỉ ẩn ở đảo Capri, thì Sejanus hầu như nắm quyền kiểm soát toàn bộ chính quyền.

Theo Philo, Sejanus muốn hủy diệt dân tộc Do Thái (Philo, De Legatione ad Gaium 159-61). Rõ ràng Phi-lát đã thực hiện chính sách chống Do Thái của Sejanus ở Giu-đê. Gần như ngay sau khi đến Giu-đê, Phi-lát đã được giới thiệu tại Giê-ru-sa-lem như hình ảnh của một hoàng đế với các tiêu chuẩn của quân đội. Điều này đã làm phẫn nộ những người Do Thái bị luật cấm tạo hình tượng (Josephus, Cổ Vật của Người Do Thái 18.55). Sự coi thường của Phi-lát đối với người Do Thái cũng được thể hiện qua việc ông chiếm đoạt tiền từ ngân khố đền thờ để xây dựng một công trình dẫn nước ở Giê-ru-sa-lem (Josephus, Những Cuộc Chiến Do Thái 2.175-77). Bằng chứng Kinh Thánh về sự thù địch của Phi-lát chống lại người Do Thái được tìm thấy trong Lu-ca 13:1, chỗ Lu-ca nói đến là “Phi-lát giết mấy người Ga-li-lê, lấy huyết trộn lộn với của lễ họ.”

Người ta tự hỏi làm thế nào mà một vị tỉnh trưởng sỉ nhục người Do Thái lại có thể tại vị mà không bị người Do Thái phản đối và điều tra bởi Rô-ma. Điều này sẽ không khó hiểu vì miễn là Sejanus người chống Do Thái vẫn còn nắm quyền kiểm soát chính phủ ở Rô-ma. Mọi khiếu nại của người Do Thái gửi đến vua Tiberius đều sẽ bị Sejanus chặn lại!

Vào năm 29 SCN, Thượng viện đã bỏ phiếu cho sinh nhật của Sejanus phải được cử hành công khai. Ông đã trở nên có ảnh hưởng lớn đến mức các thượng nghị sĩ và các quan chức cấp cao khác xem ông thực sự như là hoàng đế. Cuối cùng thì vua Tiberius cũng nhận biết chuyện gì đang xảy ra. Sejanus đã bị lừa xuất hiện trước Thượng viện, tin rằng Tiberius sẽ trao cho ông quyền tối cao đối với các vấn đề dân sự của La Mã. Thay vào đó, thì một bức thư từ vua Tiberius tố cáo Sejanus là kẻ tiếm quyền. Ngay lập tức Sejanus bị đưa khỏi Thượng viện và bị xử tử vào ngày 18 tháng 10 năm 31 SCN.

Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao Phi-lát đáp ứng theo yêu cầu khi những người Do Thái tại phiên tòa của Chúa Giê-su kêu lên rằng ông không phải là bạn của Sê-sa nếu tha cho Giê-su (Giăng 19:12). Trước khi Sejanus bị hành quyết, Phi-lát có thể làm theo ý mình đối với người Do Thái, vì tin rằng các báo cáo về sự thù địch của ông sẽ không bao giờ đến tai hoàng đế. Nhưng bây giờ mọi thứ đã khác. Phi-lát không còn có người bảo vệ mình ở Rô-ma. Ông không thể gặp rắc rối với vua Tiberius. Lo sợ bị buộc tội không trung thành và hậu quả là kết tội chính trị, Phi-lát đã rửa tay về vụ việc và để cho người Do Thái làm theo ý họ. Mặc dù biết rằng Chúa Giê-su không làm gì đáng chết, nhưng Phi-lát không muốn xúc phạm người Do Thái và có nguy cơ đánh mất địa vị “bạn của Sê-sa”.

ÁP DỤNG THUẬT NGỮ “BẠN”

Tất cả bối cảnh lịch sử này có liên quan gì đến việc trở thành “bạn” của Đức Chúa Trời? Rõ ràng thuật ngữ “bạn” có một nền tảng lịch sử và văn hóa phong phú. Trở thành một người bạn thuộc giai đoạn kinh thánh thường có ý nghĩa hơn là trở thành “bạn bè” bình thường của ai đó. Để trở thành người bạn với ai đó theo nghĩa kỹ thuật thì bao hàm một mối quan hệ được đánh dấu bằng sự hiểu biết, sự vâng lời và sự kết ước. Cũng vậy, bạn của Đức Chúa Trời là người biết Ngài một cách mật thiết và sẵn lòng vâng lời Ngài.

Gương Mẫu của Áp-ra-ham

Áp-ra-ham là người duy nhất trong Kinh Thánh được gọi là “bạn của Đức Chúa Trời.” Trước cuộc xâm chiếm xứ Giu-đa của người Mô-áp và Am-môn, Giô-sa-phát đã cầu nguyện: “Hỡi Ðức Chúa Trời chúng tôi! Ngài há chẳng phải đã đuổi dân ở xứ này khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, mà ban xứ ấy cho dòng dõi Áp-ra-ham, là bạn hữu Chúa, làm sản nghiệp đời đời sao?” (2 Sử. 20:7). Chính Đức Chúa Trời đã tuyên bố tình bạn của Ngài với Áp-ra-ham khi Ngài gọi dân Y-sơ-ra-ên là “con cháu của Áp-ra-ham bạn ta” (Êsai. 41: 8). Trong sự luận giải của mình về mối quan hệ của đức tin và công việc. Gia-cơ đã trích dẫn Sáng Thế Ký 15:6, “Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và điều đó kể là công bình cho người.” Sau đó Gia-cơ nói thêm, Áp-ra-ham được gọi là bạn của Đức Chúa Trời” (Gia. 2:23).

Chúng ta biết gì về mối quan hệ của Áp-ra-ham với Đức Chúa Trời? Đầu tiên, ông sẵn lòng vâng lời Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời truyền lịnh đem Y-sác—con trai duy nhất của ông, con trai của lời hứa—và dâng Y-sác như của lễ thiêu, Áp-ra-ham không phản đối hoặc đề xuất bất kỳ lựa chọn thay thế nào. Ông đã dậy sớm, đem theo Y-sác và bắt đầu cuộc hành trình đến nơi Đức Chúa Trời đã chỉ dặn (Sáng 22:3). Sự vâng lời của ông là một gương mẫu.

Thứ hai, Áp-ra-ham biết Đức Chúa Trời một cách mật thiết. Áp-ra-ham đã biết quyền năng của Đức Chúa Trời có thể thực hiện và giữ những lời hứa vĩ đại. Đức Chúa Trời đã hứa rằng dòng dõi của Áp-ra-ham sẽ đông như sao trên trời (15:5). Tại sao bây giờ Đức Chúa Trời ra lệnh cho ông phải dâng Y-sác? Mặc dù Áp-ra-ham không biết bằng cách nào Đức Chúa Trời sẽ làm được phép lạ này, nhưng bởi đức tin, ông nói với các tôi tớ của mình rằng: “Hãy ở lại đây với con lừa; ta cùng đứa trẻ sẽ đi đến chốn kia đặng thờ phượng, rồi sẽ trở lại với hai ngươi” (22:5). Áp-ra-ham biết rằng Đức Chúa Trời, Đấng có thể mang lại sự sống trong tử cung cằn cỗi của Sa-ra, thì nếu cần, Ngài có thể làm cho Y-sác sống lại từ cõi chết! Điều này rõ ràng qua lời nhận xét của tác giả Hê-bơ-rơ, “Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng Y-sác trong khi bị thử thách: người là kẻ đã nhận lãnh lời hứa, dâng con một mình, là về con đó mà Ðức Chúa Trời có phán rằng: Ấy bởi trong Y-sác mà ngươi sẽ có một dòng dõi lấy tên ngươi mà kêu. Người tự nghĩ rằng Ðức Chúa Trời cũng có quyền khiến kẻ chết sống lại; cũng giống như từ trong kẻ chết mà người lại được con mình” (Hê. 11:17-19).

Gương của Áp-ra-ham đem đến cho những người tin Chúa một khuôn mẫu để nhận biết Đức Chúa Trời một cách mật thiết và sẵn lòng vâng lời Đức Chúa Trời. Tôi tin rằng mệnh lệnh này là quan trọng. Bạn ít có xu hướng phục tùng người mà bạn không quen biết. Nhưng nếu bạn biết người ra lệnh cho bạn là ai và bạn tin tưởng vào sức mạnh, trí tuệ và sự quan tâm yêu thương của họ, thì bạn sẽ sẵn sàng tuân theo những yêu cầu khó khăn nhất của người đó.

 

Tiềm Năng Cho Người Tin

Vào đêm cuối cùng Ngài ở với các môn đồ trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su đã chỉ dạy họ về nhiều chủ đề quan trọng. Bài giảng nơi Phòng Cao của Ngài (Giăng 13-16) chứa đựng sự giảng dạy về cầu nguyện, thiên đàng, Đức Thánh Linh, bình an, sự bắt bớ và làm chứng. Nhưng một trong những bài học quan trọng nhất của bài giảng luận này là về chủ đề tình bạn.

Trong Giăng 15:14–15 Chúa Giê-su gọi các môn đồ là “bạn” của Ngài: “Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta. Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm nhưng ta đã gọi các ngươi là bạn hữu ta, vì ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều ta đã nghe nơi Cha ta.” Tôi tin rằng chúng ta tìm thấy trong đoạn văn này cách sử dụng kỹ thuật của thuật ngữ “bạn” (philos). Như vậy, chúng ta thấy hai điều đó đặc trưng cho một “người bạn” của Đấng Christ.

Sẵn lòng vâng lời Chúa. Trước tiên, bạn của Đấng Christ là người sẵn lòng vâng lời Ngài. Như Chúa Giê-su đã nói, chúng ta là bạn của Ngài nếu chúng ta tuân theo mệnh lệnh của Ngài (Giăng 15:14). Tình bạn mà Chúa Giê-su nói đến không chỉ đơn thuần là một mối quan hệ bình thường, “bạn bè”. Mối quan hệ mà Ngài đang đề cập liên quan đến sự cam kết và sự vâng lời. Chúa Giê-su đưa ra điều kiện, “nếu các ngươi làm theo điều ta truyền.” Sự thử nghiệm về tình bạn thực sự của một môn đồ với Đấng Christ là sự tuân theo các mệnh lệnh của Chúa Giê-su.

Điều thú vị là nhiều Cơ đốc nhân tìm ra lý do để không vâng lời Đấng Christ. Chúng ta biện luận rằng, “Điều đó thì thuộc về văn hóa và không áp dụng cho tôi.” Chúng ta lại nói, “Điều răn đó không có ý nghĩa đối với tôi, vì vậy tôi không cần phải tuân theo điều đó.” Một Cơ đốc nhân suy ngẫm về việc vi phạm rõ ràng Lời của Đức Chúa Trời đã phát biểu, “Tôi biết rõ Kinh Thánh dạy gì, nhưng tôi tin chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho tôi.” Các Cơ đốc nhân khác thì không quá trắng trợn như vậy trong việc không vâng lời. Họ chỉ đơn giản là bỏ bê trách nhiệm của một môn đồ vì họ quá bận rộn với những việc khác trong cuộc sống.

Nhưng đối với những người muốn trở thành bạn của Đức Chúa Trời, sự vâng lời sẽ tạo nên sự khác biệt. Sự vâng lời là đặc điểm phân biệt của những người có sự chia sẻ tình bạn với Đấng Christ. Chúa Giê-su cũng nói rằng tình yêu thương của chúng ta dành cho Ngài được đo bằng sự vâng lời của chúng ta đối với Lời Ngài. “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta” (Giăng 14:15). Thì hiện tại được dùng trong cả hai động từ và có thể được cho là “Nếu các ngươi cứ yêu Ta, thì các ngươi sẽ cứ vâng giữ các điều răn Ta.” Tình yêu thương liên tục dành cho Đấng Christ đóng vai trò như một sự ngăn ngừa chống lại sự bất tuân và đảm bảo một tình bạn liên tục với Ngài.

Sứ đồ Phao-lô đủ tiêu chuẩn là “bạn” của Đấng Christ. Vào cuối đời, ông đã có thể nói rằng: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin” (2 Ti. 4:7). Phao-lô đã vâng theo đức tin và tôn vinh Đức Chúa Trời. Tôi tin rằng có hai điều đã giúp Phao-lô vâng lời. Trước tiên, ông có tình yêu sâu đậm và bền chặt đối với Đấng Christ (Giăng 14:15; Phil. 1:21). Thứ hai, ông có thái độ khiêm tốn đối với bản thân (Công vụ 20:24). Phao-lô không coi cuộc sống của mình là của riêng mình, không theo đuổi mục tiêu và làm việc cho cá nhân mình. Đúng hơn, Phao-lô thấy mình là người có thể hy sinh—cuộc đời để phục vụ và sống cho Đức Chúa Trời. Giống như Giăng Báp-tít, Phao-lô xem mình không phải là nhân vật trung tâm mà là một người đầy tớ khiêm tốn được giao nhiệm vụ rao truyền phúc âm của ân điển.

Garcia luiguez là một nhà yêu nước Cuba và một nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất, người đã phải chịu đựng những vết thương, tù đày và xa cách gia đình trong cuộc đấu tranh ba mươi năm giành độc lập của Cuba từ Tây Ban Nha (1868–1898). Trong khi Garcia đang lẩn trốn trong rừng rậm Cuba, việc liên lạc với các thủ lĩnh phiến quân hoạt động công khai là điều cấp thiết đối với ông. Vấn đề là họ không biết Garcia đang ở đâu hoặc làm cách nào để liên lạc với ông.

Ba người lính dày dạn kinh nghiệm được chọn làm ứng cử viên để đưa thông điệp đến Garcia. Họ đã được phỏng vấn cá nhân và riêng tư về thể lực cho nhiệm vụ. Sau đó, mỗi người được hỏi câu hỏi, “Bạn đã sẵn sàng chuyển tin cho Garcia chưa?”

Người lính đầu tiên trả lời anh ta đã sẵn sàng nhưng cần thời gian để lập kế hoạch và chuẩn bị cho nhiệm vụ. Người lính thứ hai cho biết anh ta đã sẵn sàng, nhưng cần tuyển thêm người khác để hỗ trợ nhiệm vụ. Khi người lính thứ ba được hỏi, “Anh đã sẵn sàng chuyển thông điệp cho Garcia chưa?”, Anh ta hít một hơi thật sâu, dừng lại và sau đó trả lời, “Tôi đã sẵn sàng.” Sự sẵn sàng phục vụ và vâng lời này thực sự làm vui lòng Đức Chúa Trời!

Biết Đức Chúa Trời cách thân mật. Biết Đức Chúa Trời cách thân mật là đặc điểm thứ hai của người bạn Đấng Christ. Như chúng ta đã được biết trong Giăng 15:15, Chúa Giê-su gọi chúng ta là bạn vì chúng ta không còn là tôi tớ nữa. Mối quan hệ của nô lệ với chủ của mình bao gồm nghĩa vụ và trách nhiệm. Nhưng đây không phải là tình bạn, vì nô lệ phải tuân theo chủ của mình ngay cả khi không hiểu hoặc không đồng ý với mệnh lệnh. Trái ngược với cách cư xử của một người với các tôi tớ, Chúa Giê-su đã chia sẻ sự thân mật với bạn của Ngài. Ngài không giấu họ điều gì họ có thể nhận biết được (16:12). Ngài đã bày tỏ cho các môn đồ “mọi điều” mà Chúa Cha đã cho Ngài biết.

Trở thành bạn của Đấng Christ không chỉ đơn giản là biết một số sự kiện nhất định về Ngài. Bạn có thể biết các thuộc tính của Đức Chúa Trời nhưng không biết Ngài một cách cá nhân. Nhưng trở thành bạn của Đấng Christ có nghĩa là bạn có một mối quan hệ đang phát triển, sống động và năng động, được vun đắp bằng việc học Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện.

Tôi tin rằng hầu hết mọi người đều giống như Ma-thê trong câu chuyện được chép ở Lu-ca 10:38-42. Trong khi đi ngang qua xứ Giu-đê, Chúa Giê-su và các môn đồ đã đến thăm nhà của Ma-ri và Ma-thê ở Bê-tha-ni. Ma-thê ra đón Chúa Giê-su và ngay lập tức bắt tay vào chuẩn bị bữa ăn cho mọi người. Trái lại, Ma-ri ngồi dưới chân Chúa Giê-su, sốt sắng lắng nghe từng lời của Ngài. Có rất nhiều việc phải làm, nhưng Mary không phụ giúp, liền sau đó Ma-thê đã tự trở nên bực bội. Cô ta ngắt lời Chúa Giê-su để nói: “Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi!” (10:40).

Chúa Giê-su đáp: “Hỡi Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được” (10:41-42). Ma-thê tập trung vào việc chuẩn bị một bữa ăn, một nhu cầu quan trọng nhưng mang tính tạm thời. Ngược lại, Ma-ri thì nhận ra rằng việc ưu tiên là phát triển sự hiểu biết về người Thầy. Cô ấy nhận thức mối quan hệ với Đức Chúa Trời đôi khi quan trọng hơn cả việc phục vụ dân sự của Ngài.

Nhiều người trong chúng ta rất giống Ma-thê. Chúng ta bận rộn với các mục vụ. Dạy trường Chúa nhật, phục vụ các ban trong nhà thờ, và cố vấn cho thanh niên. Chúng ta không bao giờ bỏ lỡ một ngày phục vụ tại nhà thờ, một buổi nhóm cầu nguyện, hoặc một buổi sinh hoạt nào. Chúng ta đang dạy con cái về Chúa, đang viết thư cho các giáo sĩ và đang ủng hộ hết lòng các mục vụ của hội thánh. Chúng ta quá mệt mỏi với chức vụ đến nỗi không còn sức lực để đầu tư vào sự trưởng thành và phát triển thuộc linh của chính mình. Và Chúa Giê-su thì luôn luôn nói rằng, “Ta luôn sẵn sàng, con của Ta. Ta rất muốn con ngồi lại với Ta để thăm hỏi nhau một chút. Sẽ thật tuyệt vời nếu chúng ta có được một chút thời gian riêng tư với nhau. Ta muốn con hiểu rõ hơn về Ta.”

Phao-lô là một tín đồ trưởng thành, một thánh đồ dày dạn kinh nghiệm, Từ nhà tù La Mã Phao-lô đã viết thư muốn biết rõ hơn về Chúa Giê-su Christ. “Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Ðức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Ðấng Christ…. cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài” (Phi-líp 3: 8, 10). Khi Phao-lô viết những lời này, ông biết rất nhiều về Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn ao ước biết Ngài rõ hơn!

Là một người cha, một trong những mong muốn lớn nhất của tôi trong cuộc đời là phát triển mối quan hệ cá nhân sâu sắc với các con của mình—John, Elisabeth, Laura và David. Tôi muốn biết về những mong muốn, mơ ước và khát khao của chúng. Và tôi cũng muốn chúng biết về tôi. Tôi muốn chúng biết động cơ thúc đẩy tôi, điều gì thách thức tôi, điều gì liên quan đến tôi. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời cũng có mong muốn tương tự đối với dân sự của Ngài. Ngài biết họ, là một người chăn chiên Ngài biết rõ bày chiên mình (Giăng 10:14). Và Ngài muốn họ biết Ngài.

 

BẠN LÀ BẠN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI?

Trong chương này, chúng ta đã khám phá ra rằng một người bạn của Đức Chúa Trời là một người biết Ngài một cách mật thiết và sẵn lòng vâng lời Ngài. Một người bạn của Đức Chúa Trời có đặc trưng là vâng lời không thỏa hiệp vì cớ Đấng Christ và có sự hiểu biết ngày càng tăng về Đấng Christ.

Bạn là người quen của Đức Chúa Trời, hay là bạn của Ngài?

 

 

 

 

 

 

15

 

TIN ĐỨC CHÚA TRỜI

 

 

“TIN” ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ NGHĨA LÀ GÌ? Đây là một câu hỏi cực kỳ quan trọng. Khi viên quản ngục Phi-líp đặt câu hỏi, “Các chúa ơi, tôi phải làm chi cho được cứu rỗi?” Phao-lô và Si-la đáp: “Hãy tin Đức Chúa Giê-su, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Công-vụ các sứ đồ 16:31). Việc tin vào Chúa Giê-su đem đến sự cứu rỗi cá nhân cho một người. Ngược lại, việc không tin khiến người đó không được cứu và chịu sự phán xét của Đức Chúa Trời (Giăng 3:18, 36; 5:24). Vì “tin” hay “không tin” quyết định số phận đời đời của một người, nên bắt buộc chúng ta phải biết Kinh Thánh có ý gì khi mời gọi mọi người “tin” vào Đức Chúa Trời.

Tôi nhớ lại một cách sống động về lần tiếp cận đầu tiên với khái niệm và tầm quan trọng của niềm tin. Đó là vào một buổi sáng Chúa nhật Phục sinh tại Hội Thánh Báp-tít ở Eugene, Oregon. Tôi đang ngồi ở ban công với bố mẹ và em trai sáu tuổi. Lúc đó tôi mới mười tuổi, nhưng tôi đã đủ lớn để có thể ngồi nghe chăm chú bài giảng và nhận được những ích lợi từ nó. Tiến sĩ Vance Webster đang giảng về sự phục sinh của Chúa Giê-su và nhấn mạnh rằng mọi người cần nhận được ích lợi từ sự chết của Ngài vì tội lỗi của mình.

Mặc dù tôi không phạm bất kỳ tội nào cách trắng trợn, nhưng tôi biết rằng việc quấy rầy người giữ trẻ và nói dối em trai đủ để đưa tôi xuống địa ngục. Tiến sĩ Webster nhấn mạnh rằng chỉ có một cách cứu rỗi và đó là thông qua Chúa Giê-su Christ. Ngay lúc đó tôi cảm nhận rằng tôi phải trở thành một Cơ Đốc nhân. Tôi đã “tin” vào Chúa Giê-su, nhưng tôi muốn chắc chắn rằng tôi đang đi đúng đường. Tôi nói chuyện với mẹ tôi sau buổi nhóm ở nhà thờ, và bà đã hướng dẫn tôi đến gặp mục sư. Tôi đã tuyên xưng đức tin của mình nơi Đấng Christ đang khi ngồi trong văn phòng của vị mục sư đó. Tôi không nhớ chi tiết cuộc trò chuyện của chúng tôi, nhưng Tiến sĩ Webster vui mừng vì tôi là một “tín đồ” thật sự và ông ấy đã làm báp-têm cho tôi vào một Chúa nhật sau đó vài tuần. Hơn bốn mươi năm trôi qua kể từ khi tôi làm báp-têm, tôi vẫn đang tìm hiểu về ý nghĩa của việc “tin”.

 

NIỀM TIN TRONG CỰU ƯỚC

 

Khái niệm đức tin trong Cựu Ước được tiết lộ trong động từ aman theo tiếng Hê-bơ-rơ, có nghĩa là “xác nhận, hỗ trợ hoặc tán thành.” Ý tưởng cơ bản của động từ này là sự kiên quyết hoặc chắc chắn. Một hình thức của aman cho thấy một sự thật không thể thay đổi mà các thế hệ tương lai có thể dựa vào, bất chấp những hoàn cảnh trái ngược hoặc bất hạnh. Dạng động từ này được dùng cho “Đức Chúa Trời thành tín” (Phục-truyền Luật-lệ Ký 7:9). Ở hình thái nguyên nhân, động từ này có nghĩa là “khiến trở nên chắc chắn” hoặc “trở nên chắc chắn về.” Điều này được dịch trong Kinh Thánh tiếng Anh của chúng ta là từ “tin.” Nền tảng của từ này chỉ ra rằng đức tin trong Kinh Thánh liên quan đến “một sự chắc chắn, trái ngược với các khái niệm hiện đại về đức tin như một cái gì đó có thể, hy vọng là đúng, nhưng không chắc chắn.”1 Lần đầu tiên trong Cựu Ước từ này xuất hiện trong Sáng-thế ký 15:6, trong đó ghi, “Áp-ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người.” Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, một người đàn ông lớn tuổi cùng với một người vợ son sẻ, rằng dòng dõi của ông sẽ đông như sao trên trời. Bất chấp những trở ngại về thuộc thể đối với việc thực hiện lời hứa này, Áp-ra-ham tin cậy Đức Chúa Trời. Ông coi lời của Đức Chúa Trời là đáng tin cậy và chắc chắn, “và vì niềm tin đó, Đức Chúa Trời đã kể ông là công bình.”2 Bởi vì Áp-ra-ham công nhận lời Đức Chúa Trời là chân thật và đáng tin cậy, Đức Chúa Trời tuyên bố ông là công bình. Việc Phao-lô sử dụng Sáng-thế ký 15:6 trong Rô-ma 4:3, 9, 22 và Ga-la-ti 3:6 chứng minh rằng câu Kinh Thánh Cựu Ước này là nền tảng để chúng ta hiểu ý nghĩa của việc “tin” Đức Chúa Trời.

Thuật ngữ aman được sử dụng trong Xuất Ê-díp-tô Ký 14:31, khi Môi-se tường thuật rằng nhờ việc vượt qua Biển Đỏ một cách kỳ diệu, nên dân Y-sơ-ra-ên “tin Ngài và Môi-se, là tôi tớ Ngài.” Phép lạ đã xác nhận một sự thật rằng Chúa là Đấng đáng được tin cậy trong việc bảo vệ và giải cứu dân sự của Ngài. Và bởi đức tin, dân Y-sơ-ra-ên đã theo Môi-se, vị lãnh đạo của họ, vào sa mạc Si-na-i. Nhưng đức tin của họ thay đổi. Kết quả là họ từ chối theo Ca-lép và Giô-suê vào Đất Hứa, Đức Chúa Trời đã phán hỏi Môi-se, “Dân nầy khinh ta và không tin ta cho đến chừng nào, mặc dầu các phép lạ ta làm giữa chúng nó?” (Dân-số Ký 14:11). Đức Chúa Trời đã bày tỏ quyền năng giải cứu của Ngài, nhưng dân sự đã không bước theo với đức tin và sự vâng lời.

Trong Sách các Thi-thiên, chúng ta thấy rằng dân Y-sơ-ra-ên bị quở trách vì “chúng nó không tin Đức Chúa Trời, cũng chẳng nhờ cậy sự cứu rỗi của Ngài” (Thi 78:22). Thuật ngữ được dịch là “tin cậy” từ tiếng Hê-bơ-rơ batah, thể hiện cảm giác của sự hạnh phúc và an toàn có được nhờ vào việc nương dựa vào một ai đó. Nó được sử dụng ở đây như một từ đồng nghĩa gần với thuật ngữ “tin”. Trong Thi-thiên 106, tác giả Thi-thiên đã kể lại lịch sử về cuộc nổi loạn của dân Y-sơ-ra-ên chống lại Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên “khinh bỉ xứ tốt đẹp, không tin lời của Chúa” (106:24). Thay vào đó, họ “nói lằm bằm trong trại mình, không nghe tiếng Đức Giê-hô-va” (106:25). Vấn đề ở đây là họ đã không làm theo những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ.

Thuật ngữ aman lại xuất hiện trong Ê-sai 43:10, nói lên trách nhiệm của dân Y-sơ-ra-ên với tư cách là nhân chứng cho các dân tộc khác. Đức Chúa Trời đã tuyên bố mục đích của nhiệm vụ này là để các thế hệ tương lai “có thể biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa!” Chữ “niềm tin” ở đây được liên kết với khái niệm biết Đức Chúa Trời và công nhận Ngài là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất. Giô-na 3:5 tường thuật rằng dân thành Ni-ni-ve “tin Đức Chúa Trời.” Điều đáng chú ý là niềm tin của họ đi kèm với những hành động phản ánh sự ăn năn. Họ kêu gọi mọi người kiêng ăn, mặc bao gai, kêu cầu cùng Chúa, và thúc giục những người khác từ bỏ đường lối xấu xa và việc hung dữ của mình (3:5-8).

Rõ ràng “niềm tin” trong Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ bao hàm nhiều điều hơn là sự mơ tưởng. Đức tin theo Kinh Thánh là một thái độ chắc chắn phản ánh sự tin tưởng nơi Đức Chúa Trời và Lời của Ngài. Trong Cựu Ước, những người có đức tin biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng đáng tin cậy, và họ đã hành động dựa trên thực tế không thể thấy được đó.

 

NIỀM TIN TRONG TÂN ƯỚC

 

Trong khi Cựu Ước cung cấp nền tảng cho sự hiểu biết về ý nghĩa của việc “tin” vào Đức Chúa Trời, thì Tân Ước đưa khái niệm này vào trọng tâm rõ ràng hơn. Từ khóa trong tiếng Hy Lạp là pisteuo nghĩa là “tin” hoặc “tin chắc vào điều gì đó.” Trong bối cảnh tôn giáo, thuật ngữ này được dùng để chỉ “đức tin” hoặc “tin cậy” vào Chúa. Người tin cậy Đức Chúa Trời tin chắc về sự thực hữu của Ngài, những điều Ngài mặc khải là thật, và Ngài có năng quyền để cứu giúp trong lúc cần thiết. Chúa Giê-su Christ là đối tượng của loại đức tin theo Kinh Thánh này.

Thuật ngữ pisteuo xuất hiện trong các sách Tin Lành Cộng Quan hai mươi tám lần. Trước khi làm sáng mắt cho những người mù ở Giê-ri-cô, Chúa Giê-su hỏi họ, “Các ngươi tin ta làm được điều hai ngươi ao ước sao?” (Mat. 9:28). Để đáp lại câu trả lời khẳng định của họ, Chúa Giê-su rờ vào mắt họ và nói, “Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy” (9:29). Việc rao báo về vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần, Chúa Giê-su bảo những người nghe “hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành” (Mác 1:15). Khi Giai-ru được thông báo rằng con gái của ông đã chết, Chúa Giê-su nói, “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi [theo nghĩa đen, ‘hãy cứ tin’]” (5:36). Xa-cha-ri bị đoán phạt vì ông “không tin” lời thông báo của Gáp-ri-ên về sự ra đời của Giăng Báp-tít là con trai của ông (Lu-ca 1:20).

Phúc âm Giăng chứa chín mươi tám lần xuất hiện thuật ngữ pisteuo và đưa ra cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa của việc tin. Mục đích của việc làm chứng của Giăng Báp-tít là “hầu cho bởi người ai nấy đều tin” (Giăng 1:7). Trong chương 1:12 những người “đã tiếp nhận Ngài” được cho là những người “tin vào danh Ngài.” Việc tin vào Chúa Giê-su có nghĩa là “tiếp nhận” Ngài hoặc mời Ngài vào cuộc đời của mình. Trong chương 3:36 ai “tin Con thì được sự sống đời đời” là một lẽ thật. Nhưng ai “không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu.” Không tin vào Đấng Christ là không vâng lời Ngài. Và theo một cách hợp lý, tin vào Đấng Christ là vâng lời Ngài. Như tôi đã lưu ý ở chỗ khác, “Câu này chỉ rõ rằng niềm tin không phải là vấn đề của quan điểm ​​thụ động, mà là hành động dứt khoát và vâng lời.”3

Bản chất của niềm tin theo Kinh Thánh được nhấn mạnh trong Phúc âm Giăng bằng cách sử dụng phân từ hiện tại pisteuon (“đang tin”), được sử dụng trong nhiều đoạn Kinh Thánh liên quan đến niềm tin (3:15-16, 18, 36; 6:35, 47, v.v.). Thì hiện tại tiếp diễn trong tiếng Anh nhấn mạnh tính chất đang diễn ra của hành động. Trong mỗi câu này, sự cứu rỗi là kết quả từ việc “đang tin”, không chỉ từ việc “tin.” Sứ đồ Giăng quan tâm đến việc tin liên tục, đang diễn ra. Có nhiều khả năng là Giăng đưa ra câu hỏi, “Bạn có đang tin không?” chứ không phải là “Bạn có tin không?” Khi Chúa Giê-su nói với các môn đồ đang bối rối và lo lắng, Ngài đã sử dụng lối mệnh lệnh ở hiện tại, “Hãy tiếp tục tin Đức Chúa Trời; cũng hãy tiếp tục tin ta nữa” (14:1).4

Sách Công-vụ nói rõ rằng niềm tin vào Chúa Giê-su Christ, Con Đức Chúa Trời, là phương tiện cứu rỗi (Công 8:37; 16:31). Phao-lô viết trong thư Rô-ma rằng sự công bình của Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi Chúa Giê-su Christ “dành cho mọi người tin” mà không có sự phân biệt (Rô-ma 3:22). Những ai tin sẽ nhận được sự công bình của Đức Chúa Trời và sự cứu khỏi tội (10:9-10), và tin vào danh Con Đức Chúa Trời dẫn đến “sự sống đời đời” (1 Giăng 5:13).

Trong Tân Ước, niềm tin không bao giờ đề cập đến sự đồng ý đơn thuần của trí tuệ đối với một lời đề nghị. Pisteuo luôn liên quan đến một sự đáp ứng của cá nhân. Tin vào Đấng Christ có nghĩa là chúng ta thừa nhận Ngài là Con của Đức Chúa Trời và là Đấng Mê-si, đồng thời tin cậy vào thân vị và công tác của Ngài trong việc bảo đảm sự cứu rỗi cá nhân của chúng ta. Tin vào Đấng Christ có nghĩa là chúng ta chỉ dựa vào Chúa Giê-su, Đấng đưa chúng ta vào thiên đàng một cách an toàn khi đi qua cuộc đời nầy.

Minh họa yêu thích của tôi về ý nghĩa của việc tin là câu chuyện có thật về Ann Seward, một cư dân ở Portland, Oregon. Cô được yêu cầu diễn chung với nghệ sĩ biểu diễn trên dây Philippe Petit tại buổi khai trương Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Portland. Bị hấp dẫn bởi cơ hội này, cô đáp lại, “Tôi muốn gặp người đàn ông này và xem liệu tôi có tin tưởng anh ta hay không.” Sân khấu của cô ấy sẽ nằm trên một sợi dây dài 80 bộ (khoảng 24 mét) giữa tòa nhà hát mới và Phòng hòa nhạc Arlene Schnitzer. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1987, Seward nặng 90 pao (khoảng 40kg) đã đặt mạng sống của mình vào tay người nghệ sĩ biểu diễn trên dây và được anh ta cõng trên lưng khi anh ta biểu diễn ở trên cao.5 Cô nói rằng sự biểu diễn của cô đã để lại một bài học cho những ai đã chứng kiến ​​nó. “Tôi nghĩ rằng một trong những điều tuyệt vời nhất của buổi biểu diễn là cần rất nhiều sự tin tưởng — tin tưởng tuyệt đối — để làm được điều đó,” cô nói. “Tôi nghĩ trên thế giới đó là một vấn đề rất sâu sắc … Nó nằm ở đây – tôi đang đặt cuộc đời mình vào tay một người khác và tin tưởng cả đám đông sẽ không làm bất cứ điều gì khiến anh ta phân tâm.”

Nhiều người trong số những người chứng kiến ​​màn trình diễn đã “tin” rằng Petit có thể hoàn thành xuất sắc màn trình diễn với người trên lưng. Nhưng niềm tin của họ chỉ là trí tuệ và không có sự tin tưởng tuyệt đối và cam kết hoàn toàn như Ann Seward đã thể hiện. Cô thể hiện niềm tin của mình bằng cách đặt chính sự sống của mình vào tay người nghệ sĩ. Đây là loại “niềm tin” được nói đến trong những lời của Phao-lô, “Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Công-vụ16:31). Niềm tin này không chỉ đơn thuần là kiến ​​thức; đó là sự đáp lại của một tấm lòng đối với Đấng Christ rằng: “Tôi tin cậy vào công tác cứu chuộc của Ngài để giải cứu tôi khỏi tội và đem tôi vào thiên đàng một cách an toàn.”

 

SỰ TIẾN TRIỂN CỦA NIỀM TIN

 

Tân Ước, đặc biệt là Phúc Âm Giăng, đưa ra bằng chứng thuyết phục cho bản chất tiến triển của niềm tin. Điều này được thấy ở một nhà quý tộc tại thành Ca-bê-na-um, người đã kêu cầu sự chữa lành cho con trai mình dựa vào những gì ông đã nghe về các phép lạ của Đấng Christ. Ông đã tin lời của Chúa Giê-su (Giăng 4:50), và niềm tin đó đã được xác nhận và củng cố bởi phép lạ khiến ông đặt niềm tin của mình vào Đấng Christ (4:53). Sự tiến triển của niềm tin được nhìn thấy nơi người mù được chữa lành, người đã tin rằng Chúa Giê-su là “một đấng tiên tri” (9:17), “đến từ Đức Chúa Trời” (9:33), và là “Con Người” (9:35).

Bằng chứng rõ ràng nhất về sự tiến triển của niềm tin được nhìn thấy nơi các môn đồ. Na-tha-na-ên tin Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời và Vua của Y-sơ-ra-ên khi Đấng Christ bày tỏ sự toàn tri của Ngài trước mặt ông (1:50). Các môn đồ được cho là đã tin vào Đấng Christ sau khi Chúa Giê-su làm phép lạ ở Ca-na (2:11). Sau khi Chúa Giê-su sống lại, các môn đồ tin Kinh Thánh và những lời của Đấng Christ liên quan đến sự chết của Ngài (2:22). Niềm tin của họ, tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể, được thấy trong Giăng 6:69; 16:30; và 17:8. Đấng Christ đã cho phép La-xa-rơ chết để các môn đồ có thể “tin” (11:15). Sau khi Chúa sống lại, Giăng bước vào ngôi mộ trống và “tin” (20:8).

Niềm tin giữa vòng các môn đồ được khởi đầu bởi lời chứng của Giăng (1:35-41). Niềm tin đó đã được xác nhận khi họ nhìn thấy những phép lạ – dấu hiệu về thần tính của Ngài (2:11; 6:69). Niềm tin của các môn đồ đã được trọn vẹn qua sự phục sinh và sự hiện ra của Đấng Christ (2:22; 20:8, 25-29). Merrill Tenney tóm tắt khái niệm về sự tiến triển của niềm tin trong Phúc âm Giăng:

 

“Do đó, sự lớn lên của niềm tin được mô tả trong Phúc âm Giăng đi từ sự chấp nhận ban đầu bởi lời chứng của người khác đến sự hiểu biết cá nhân được đánh dấu bằng lòng trung thành, sự phục vụ và sự tôn thờ; từ giả định về tính lịch sử và tính chính trực của Chúa Giê-su đến sự tin tưởng cá nhân vào Ngài; từ một lời tuyên bố tin theo bên ngoài đến một thực tại đức tin bên trong; từ việc chú tâm vào những lời dạy của Ngài đến việc thừa nhận uy quyền Ngài trên cuộc đời. Niềm tin trọn vẹn có thể không đạt được ngay lập tức, nhưng không được xem thường niềm tin mới bắt đầu và còn do dự. Sự thăm dò của Ni-cô-đem, sự tiếp cận cách đăm chiêu của người phụ nữ Sa-ma-ri, sự tha thiết khôn lường của người mù, những lời cam kết thất thường của Phi-e-rơ, sự ngờ vực thẳng thừng nhưng với lòng trung thành thẳng thắn của Thô-ma, đã được Đấng Christ định hình lại thành một đức tin sống động bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời.”6

 

Bản chất tiến triển của niềm tin được chứng minh trong Hê-bơ-rơ 11:6, “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” Bước đầu tiên của niềm tin được nhìn thấy trong cụm từ “tin rằng có Đức Chúa Trời.” Điều này liên quan đến niềm tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Người ta có thể đi đến giai đoạn đức tin này qua lời chứng của sự sáng tạo. Phao-lô chỉ ra rằng Đức Chúa Trời đã làm cho nhân loại biết đến sự tồn tại của Ngài qua công trình sáng tạo của Ngài. “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô-ma 1:20). Cọt-nây đã ở trong giai đoạn đầu tiên này của niềm tin trước khi Phi-e-rơ đến thăm ông (Công-vụ 10:1-2). Trước đó Cọt-nây đã tin vào Đức Chúa Trời. Ông thậm chí là một người cầu nguyện và sùng đạo, nhưng ông không phải là một người tin vào Đấng Christ (11:13-14).

Niềm tin vào Đức Chúa Trời rất quan trọng, nhưng đó chỉ là bước đầu tiên. Nhiều người tin vào Đức Chúa Trời nhưng chưa thực hiện bước thứ hai là tiếp nhận Chúa Giê-su Christ làm Cứu Chúa của họ. Giai đoạn thứ hai của đức tin được phản ánh trong Hê-bơ-rơ 11:6, “Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” Khi con người đáp lại sự mặc khải về sự thực hữu của Đức Chúa Trời và tìm kiếm Ngài bởi đức tin, Ngài ban cho sự mặc khải đặc biệt qua Lời Ngài và bởi Thánh Linh để con người có thể tin nơi Chúa Giê-su Christ. Cọt-nây tiến đến giai đoạn tiếp theo của niềm tin là kết quả từ sứ điệp của Phi-e-rơ liên quan đến Chúa Giê-su (Công 11:24-28). Vì vậy, đức tin theo Kinh thánh là sự tin cậy vào Đức Chúa Trời và Con Ngài cách sống động, và ngày càng được lớn lên.

 

CÓ TIN CŨNG VÔ ÍCH

 

Trong sự tiến triển của đức tin Cơ đốc, có một giai đoạn mà thiếu đi niềm tin thật để nhận được sự cứu rỗi. Điều này được thấy lần đầu tiên trong Giăng 2:23, khi có nhiều người trong Lễ Vượt Qua “tin” dựa vào các phép lạ của Đấng Christ, nhưng Ngài chẳng “tin” (tin tưởng) họ (2:23-25). Chúa Giê-su nhận thấy rằng đức tin của họ là hời hợt, chỉ dựa trên những phép lạ họ đã thấy. Sau đó trong Lễ Lều Tạm, nhiều người “tin Ngài” nhưng dường như không phải tin Ngài là Đấng Mê-si (7:31). Chúa Giê-su nói với những người Giu-đa là “những người đã tin Ngài” (8:31) và buộc tội họ vì tìm cách giết Ngài (8:40). Sau đó, Ngài kết tội những người Giu-đa đó là vô tín (8:45-46).

Một ví dụ nổi bật về tin nhưng bị xem là vô ích trong Sách Công-vụ là trường hợp của Si-môn, một người làm nghề phù phép ở thành phố Sa-ma-ri (Công-vụ 8:9-10). Si-môn “đã tin” và đã chịu phép báp-têm (8:13), nhưng lời tường thuật sau đó làm dấy lên sự nghi ngờ nghiêm trọng về tính chân thật trong đức tin của ông. Khi Si-môn thấy việc các môn đồ nhận được Đức Thánh Linh qua việc đặt tay của các sứ đồ, thì ông đã dâng tiền để mua quyền phép mà các sứ đồ đã có (8:18-19). Phi-e-rơ đã quở trách ông với những lời lẽ rất nặng, “Tiền bạc ngươi hãy hư mất với ngươi, vì ngươi tưởng lấy tiền bạc mua được sự ban cho của Đức Chúa Trời! Ngươi chẳng có phần hoặc số trong việc nầy; vì lòng ngươi chẳng ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời. Vậy, hãy ăn năn điều ác mình, và cầu nguyện Chúa, hầu cho ý tưởng của lòng ngươi đó họa may được tha cho. Vì ta thấy ngươi đang ở trong mật đắng và trong xiềng tội ác” (Công 8:20-23).

Việc không có bất kỳ bằng chứng nào về sự ăn năn hoặc sẵn sàng cầu nguyện khiến tôi nghi ngờ rằng Si-môn tin vào Chúa Giê-su và trải qua nghi lễ của phép báp-têm, nhưng niềm tin của ông không phải là một niềm tin cứu rỗi thực sự. Si-môn dường như vẫn là một người chưa ăn năn và chưa được tái sanh mặc cho phản ứng ban đầu và hành vi tôn giáo của ông.

Tenney đề cập đến loại niềm tin mà thiếu đức tin thật là “nông cạn.”7 Morris gọi nó là “niềm tin nhất thời” không phải là đức tin cứu rỗi.8 Nó chỉ đơn thuần dựa trên lời tuyên xưng bên ngoài. Vấn đề cần được quan tâm ở đây là đối tượng của niềm tin. Niềm tin này dường như chủ yếu dựa trên các phép lạ và không bắt nguồn từ sự hiểu biết rõ ràng về thân vị của Đấng Christ là Đấng Mê-si và là Con của Đức Chúa Trời. Nhiều người có khuynh hướng tin điều gì đó về Chúa Giê-su nhưng không sẵn lòng trung thành với Ngài, tin Ngài như là một Đấng Mang Tội của cá nhân họ.

Chúng ta thấy điều này ngày hôm nay, phải không? Người bạn Hồi giáo của tôi tin vào Chúa Giê-su theo nghĩa anh ta tin rằng Chúa Giê-su là một nhà tiên tri. Nhưng anh bạn đó nói rằng đấng tiên tri vĩ đại hơn là Muhammed là người đã nhận được sự mặc khải cuối cùng của Đức Chúa Trời được chép trong kinh Cô-ran. Người bạn Mormon của tôi tin vào Chúa Giê-su theo nghĩa anh ta tin rằng Chúa Giê-su là một người đã trở thành thần, và chúng ta cũng có khả năng làm điều tương tự. Đức tin của anh bạn này dựa vào Sách Mormon và các tác phẩm khác của Mormon. Những người theo đạo Baha’i tin vào Chúa Giê-su theo nghĩa họ tin rằng Chúa Giê-su là một trong nhiều con đường dẫn đến Đức Chúa Trời. Họ tin rằng những truyền thống tôn giáo khác nhau, được những người chân thành thực hành, sẽ dẫn họ đến với Đức Chúa Trời.

Thảm hại là nhiều người tin rằng điều bạn tin không thực sự quan trọng, miễn là bạn chân thành. Điều này làm tôi nhớ đến một bộ phim hoạt hình Peanuts, khi Charlie Brown trở về sau một trận đấu bóng chày kịch liệt, người dẫn chương trình nói, “tỉ số chẳng là gì! Làm sao chúng ta có thể thua khi chúng ta thi đấu chân thành như vậy?” Thực tế là, Charlie Brown cần nhiều hơn sự chân thành để chiến thắng trận bóng chày. Nhiều người chân thành về niềm tin của họ, nhưng họ đặt sự chân thành sai chỗ!

 

TIN CHÚA GIÊ-SU

 

Chìa khóa của một đức tin theo Kinh Thánh là nội dung của nó. Chúng ta nên tin điều gì về Chúa Giê-su? Câu trả lời được tìm thấy trong Giăng 20:30-31, “Đức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.”

Giăng viết sách Phúc âm nhằm khuyến khích độc giả tin. Nhưng ông muốn bảo đảm rằng họ tin điều đúng! Trước tiên, ông muốn họ tin rằng Chúa Giê-su là “Đấng Christ.” Thuật ngữ Christos, được dịch đúng là “Đấng được xức dầu”, là một danh hiệu, không phải tên riêng. Nó đề cập đến “Đấng Mê-si” đã hứa bởi Đức Chúa Trời và được các nhà tiên tri trong Cựu Ước tiên đoán (Ê-sai 7:14; 9:6-7; Mi-chê 5:2). Ngài là Đấng đã mang tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá, đã chết như một người phạm tội và đã sống lại. Các phép lạ trong Phúc âm Giăng được ghi lại nhằm bày tỏ Chúa Giê-su thực sự là Đấng Mê-si — Đấng được Đức Chúa Trời hứa ban đồng thời làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Cựu Ước.

Thứ hai, Giăng muốn độc giả tin rằng Chúa Giê-su là “Con Đức Chúa Trời.” Cụm từ này nhấn mạnh đến thần tính của Ngài. Trong Phúc âm Giăng, Chúa Giê-su gọi Đức Chúa Trời là Cha hơn một trăm lần, và Ngài đã cầu xin các phép lạ từ Cha để chứng minh cho lời tuyên bố này (Giăng 5:36; 10:25, 38; 14:11). Ngay cả những kẻ thù của Đấng Christ cũng hiểu được lời tuyên bố về thần tính của Ngài (5:18), mặc dù họ từ chối Ngài.

Việc tin vào Chúa Giê-su liên quan đến việc tin cậy cách cá nhân nơi Ngài, Đấng Mê-si của Đức Chúa Trời, mời Ngài vào cuộc đời bạn và nương dựa vào công tác cứu chuộc của Ngài. Những người thực sự tin vào Chúa Giê-su không chỉ đơn thuần đứng xung quanh bày tỏ sự đồng ý rằng Chúa Giê-su có thể cứu họ. Giống như Ann Seward tin tưởng vào nghệ sĩ biểu diễn trên dây, họ phải đặt mình vào sự chăm sóc của Đấng Cứu Rỗi, tin rằng Ngài sẽ mang họ qua một cách an toàn từ thế giới này đến thiên đàng. Họ không lắp đặt lưới an toàn “trong trường hợp có sự cố.” Họ không bám vào hệ thống bảo hộ nếu Chúa Giê-su thất bại. Thay vào đó, họ đáp lại bằng đức tin vâng lời, bước đi trên sợi dây sự sống mà không có gì ngăn cản họ khỏi sự hủy diệt đời đời ngoại trừ Chúa Giê-su Christ.

Những ai trải qua giai đoạn đức tin này sẽ kinh nghiệm sự tái sinh thuộc linh (Giăng 3:5-8), được bước vào gia đình của Đức Chúa Trời và trở thành con cái yêu dấu của Ngài (1:12). Tội lỗi của họ được tha thứ và họ được đổi mới từ lối sống cũ (Tít 3:5; 1 Giăng 2:12). Dựa trên đức tin của mình, họ được “xưng công bình” hoặc được tuyên bố là công bình (Rô-ma 5:1) và có thể được gọi một cách chính đáng là “các thánh đồ” (2 Cô-rinh-tô 1:1). Tên của họ được viết trong sách sự sống của Chiên Con (Khải-huyền 21:27) và sự sống đời đời của họ được bảo đảm nơi Đấng Christ (Giăng 10:28). Thật phước hạnh khi chúng ta ở trong Đấng Christ, món quà ân điển được ban tặng cho tất cả những ai đơn giản nhận nó bởi đức tin!

 

 

 

 

 

 

 

17

Giải Quyết Những Nghi Ngờ Của Bạn

 

CƠ ĐỐC NHÂN thường xấu hổ khi thừa nhận rằng họ nghi ngờ về những gì họ tin. Không ai muốn được biết đến như một “Thô-ma đa nghi.” Nhưng các Cơ đốc nhân có một số thắc mắc, do dự và thậm chí là nghi ngờ là điều tự nhiên. Rốt cuộc, họ được kêu gọi chấp nhận rất nhiều điều bởi đức tin. Các nhà toán học làm việc trên cơ sở các công thức đã được chứng minh của họ. Các nhà vật lý làm việc trên cơ sở các quy luật tự nhiên nhất định của khoa học. Nhưng các Cơ đốc nhân được kêu gọi tin vào một Đức Chúa Trời vô hình và chấp nhận một cuốn sách cổ là Lời được soi dẫn của Ngài. Và số phận vĩnh viễn của họ phụ thuộc vào việc điều này có đúng hay không.

Bạn đã bao giờ nghi ngờ sự tồn tại của Chúa chưa? Bạn đã bao giờ tự hỏi liệu lời cầu nguyện của mình có thực sự được lắng nghe? Cuộc sống có gì khác đối với bạn nếu bạn không phải là một Cơ đốc nhân? Bạn đã bao giờ tự hỏi liệu có thiên đường bên ngoài nấm mồ hay liệu cái chết có phải là dấu chấm hết cho tất cả?

Nếu bạn chưa bao giờ có những câu hỏi như vậy, dù chỉ là thoáng qua, thì có thể bạn chưa bao giờ gặp phải một cuộc kiểm tra khiến bạn đứt lìa xương bánh chè và khiến bạn tự hỏi, “Phía sau tất cả những thứ này là điều gì?” Hoặc có thể là bạn đã có một số nghi ngờ, nhưng quá sợ hãi để thừa nhận chúng. Bạn có thể đã tự nghĩ: “Mọi người sẽ nói gì nếu họ biết rằng tôi có một số nghi ngờ về đức tin của mình? Họ thậm chí có thể nghĩ rằng tôi không phải là một Cơ đốc nhân!”

Vâng, tôi phải thừa nhận rằng tôi đã nghi ngờ. Tôi là một Cơ đốc nhân khoảng bốn mươi năm. Tôi đã dành bảy năm để học về Đức Chúa Trời trong chủng viện. Tôi làm mục sư nhà thờ và giảng dạy hàng trăm bài giảng. Là một giáo sư chủng viện, tôi đã nhiều lần giảng dạy qua cả Kinh thánh, từ Sáng thế ký đến Khải huyền. Mặc dù đã trải qua quá trình đào tạo và trải nghiệm Cơ đốc này, nhưng đôi khi tôi tự hỏi liệu mình có mắc phải một sai lầm lớn nào không. Những suy nghĩ này thường len lỏi trong tâm trí tôi khi tôi mệt mỏi với chức vụ, đối phó với một vấn đề rắc rối, hoặc gặp phải một bi kịch không thể giải thích trong cuộc sống của người khác.

Thay vì bối rối trước những nghi ngờ của mình, chúng ta có thể được khuyến khích khi biết rằng chúng ta đang hợp tác với nhau tốt. Khi mười một môn đồ gặp Chúa Giê-su ở Ga-li-lê sau khi Ngài phục sinh, một số người trong nhóm nổi tiếng đó không chắc đó là “có thật”. Sau này, sứ đồ Ma-thi-ơ, một người chứng kiến cuộc gặp gỡ, đã viết: “Khi thấy Ngài, họ thờ lạy Ngài; nhưng một số người còn nghi ngờ” (Mat 28:17, NASB). Ở đây đề cập đến một số sứ đồ—là những người đã ở với Chúa Giê-su trong ba năm và đã chứng kiến các phép lạ của Ngài và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, một số sứ đồ này đã nghi ngờ!

Nếu bạn đã từng vật lộn với những nghi ngờ do những vấn đề rắc rối trong cuộc sống đặt ra, thì chương này đặc biệt dành cho bạn. Tôi muốn giúp bạn học cách thành thật đối mặt với những nghi ngờ của mình và tìm kiếm câu trả lời của Đức Chúa Trời.

 

ĐỊNH NGHĨA NGHI NGỜ

Trải nghiệm hay cảm xúc này được gọi là nghi nghờ là gì? Thông thường, chúng ta nghĩ về sự nghi ngờ là sự đối lập của đức tin, như thể hai mặt đối nhau của một đồng tiền. Nhưng phản nghĩa của đức tin là sự không tin. Người đang trải qua sự nghi ngờ thì đang ở đâu đó giữa niềm tin và sự không tin tưởng. Người nghi ngờ muốn tin nhưng đang đấu tranh với cơ sở hợp lý cho niềm tin này.

Os Guinness chỉ ra rằng sự nghi ngờ từ tiếng Anh của chúng ta có thể xuất phát từ gốc từ Aryan có nghĩa là “hai” (Từ Aryan bắt nguồn từ các ngôn ngữ cổ của Iran và Ấn Độ). Vì vậy, tin là “ở trong một tâm trí” luôn chấp nhận điều gì đó là sự thật; không tin là “ở trong một tâm trí” luôn từ chối nó. Nghi ngờ là dao động giữa hai cái này, tin và không tin cùng một lúc “ở trong hai tâm trí”. Gary Habermas, tác giả của một trong những nghiên cứu kỹ lưỡng nhất về chủ đề này, đã định nghĩa sự nghi ngờ của Cơ đốc nhân là sự thiếu chắc chắn liên quan đến những lời dạy của Cơ đốc giáo hoặc mối quan hệ cá nhân của một người với những lời dạy đó.2

Mặc dù sự nghi ngờ luôn liên quan đến sự dao động giữa hai ý kiến, nhưng không phải tất cả sự nghi ngờ đều giống nhau. Những nghi ngờ về thực tế thường nảy sinh từ những câu hỏi liên quan đến nền tảng đức tin của một người. Kinh thánh có đúng không? Chúa Giê-su có thực sự sống lại từ kẻ chết không? Có cơ sở Kinh thánh về thiên đàng không? Những nghi ngờ về cảm xúc thường là kết quả của các tình trạng tâm lý như lo lắng hoặc trầm cảm. Đôi khi những tình trạng này là kết quả của các vấn đề y tế, trải nghiệm thời thơ ấu hoặc thiếu dinh dưỡng và nghỉ ngơi hợp lý. Những nghi ngờ mang tính thường xuyên xảy ra khi một Cơ đốc nhân muốn phát triển trong đức tin của mình nhưng lại gặp phải sự trải nghiệm không chắc chắn vì nhiều lần thất bại. Một số kết quả không chắc chắn hoặc nghi ngờ từ nhiều lần cố gắng lập đi lập lại nhưng không thành công trong việc thực hành các nguyên tắc của Cơ đốc giáo.

Nghi ngờ không phải là điều duy nhất đối với kinh nghiệm của Cơ đốc nhân. Một người leo núi có thể nghi ngờ về độ an toàn của dây và các cái móc được sử dụng để leo lên một vách đá thẳng đứng. Một người nhảy dù lượn trên không có thể có một số nghi ngờ trước khi nhảy vào không trung chỉ với một chiếc dù để bảo vệ. Cha mẹ có thể giải quyết một số lo lắng hoặc nghi ngờ nào đó trước khi gửi đứa con đầu tiên của họ vào đại học. Rõ ràng sự nghi ngờ là vấn đề của con người, không chỉ là vấn đề của Cơ đốc nhân. Nhận xét cá nhân của C.S. Lewis có tính hướng dẫn về vấn đề này. “Hiện tại tôi là một Cơ đốc nhân, tôi thực sự có tâm trạng là toàn bộ mọi thứ trông có vẻ rất không chắc chắn; nhưng trước đây khi tôi là một người theo chủ nghĩa vô thần, tôi cũng có những tâm trạng về Cơ đốc giáo trông có vẻ chắc hẳn là rất tệ.” Sự nghi ngờ là điều phổ biến đối với kinh nghiệm của con người—giữa những người tin cũng như những người không tin.

 

HA-BA-CÚC, NHÀ TIÊN TRI GÂY BỐI RỐI

Nếu bạn đã từng vật lộn với sự nghi ngờ, bạn sẽ có thể xác định được với Ha-ba-cúc, nhà tiên tri bối rối. Cuốn sách mang tên ông có sức hấp dẫn đối với những người nghi ngờ thực sự. Không giống như các sách tiên tri khác, Ha-ba-cúc không đề cập đến Y-sơ-ra-ên, Giu-đa hay kẻ thù của họ. Thay vào đó, nó có ghi lại sự bối rối cá nhân và lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc. Sách tiên tri của Ha-ba-cúc được ghi chép dưới hình thức đối thoại giữa nhà tiên tri và Đức Chúa Trời. Ở đây chúng ta tìm hiểu cách một nhà tiên tri thuộc linh sâu sắc đối mặt với những nghi ngờ của mình và đưa chúng đến trước mặt Đức Chúa Trời của mình.

Ha-ba-cúc sống và phục vụ ở Vương quốc Giu-đa ở miền Nam vào khoảng năm 600 B.C. suốt một trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử Y-sơ-ra-ên. Ba-bi-lôn trước đó không lâu đã thoát khỏi ách thống trị của người A-si-ri và đang trở thành một đế chế hùng mạnh, muốn thống trị cả vùng Cận Đông. Với hy vọng duy trì sự cân bằng quyền lực ở khu vực đó của thế giới, Nê-cô, vua của Ai Cập, đã hành quân về phía bắc để giúp A-si-ri kìm hãm bước tiến của người Babylon. Giô-si-a, vua của Giu-đa đã tính toán rằng bất kỳ quốc gia nào muốn giúp A-si-ri đều là kẻ thù của ông. Vì vậy, ông đã cố gắng ngăn chặn bước tiến của Vua Nê-cô tại Mê-ghi-đô, nhưng đã bị giết trong nỗ lực này (2 Vua. 23:29). Sau cái chết của Giô-si-a, tình trạng thuộc linh trong Giu-đa nhanh chóng suy giảm. Sự gian ác, bất công và hoàn toàn coi thường Luật Pháp (Luật Môi-se) đã từng là đặc trưng cho thái độ và hành động đạo đức của dân sự.

 

Sự Bối Rối Trước Tội Lỗi Không Bị Trừng Phạt của Giu-đa (Ha. 1:2-4)

Điều đầu tiên khiến Ha-ba-cúc bị băn khoăn là việc Giu-đa không bị trừng phạt. Ha-ba-cúc tự hỏi, “Tại sao cái ác lại thắng? Tại sao Đức Chúa Trời không can thiệp?” Ông thắc mắc “Tại sao Ngài bắt tôi nhìn thấy sự bất công? Tại sao Ngài lại dung thứ cho điều sai trái? Sự hủy diệt và bạo lực đang ở trước mặt tôi; sự xung đột và tranh cải tràn lan” (1:3). Dường như đối với Ha-ba-cúc, Đức Chúa Trời hoàn toàn thờ ơ trước sự gian ác, bạo lực và xung đột của Giu-đa. Ông tự hỏi Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết sao có thể nhìn vào tội lỗi này với vẻ tự mãn như vậy. Ha-ba-cúc chỉ ra với Đức Chúa Trời rằng do hậu quả của tội lỗi (“Do đó”), “luật pháp bị tê liệt” (1:4). Tiếng Hê-bơ-rơ được dịch là “tê liệt” có nghĩa đen là “bị làm lạnh” đến mức tê cóng. Vào thời Ha-ba-cúc, công lý hoặc là “không bao giờ được tôn trọng” hoặc bị coi là “đồi trụy.”

Ngoài sự thờ ơ của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi dai dẳng của dân sự Ngài, Ha-ba-cúc còn gặp bối rối bởi lời cầu nguyện không được đáp lại. Ông đã cầu nguyện rằng xin Đức Chúa Trời hãy giải quyết tội lỗi của đất nước, nhưng không có kết quả. “Hỡi CHÚA! Tôi kêu van mà Ngài không nghe tôi cho đến chừng nào? Tôi vì “sự bạo ngược” kêu van cùng Ngài, mà Ngài chẳng khứng giải cứu tôi!” (1:2). Những từ “Bao lâu” cho thấy Ha-ba-cúc đã kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của Đức Chúa Trời, nhưng không đến.

 

 

Đức Chúa Trời Trả Lời: Sự Phán Xét Của Người Canh-đê (Ha. 1:5-11)

Đến thời điểm, Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc và giải tỏa sự bối rối của ông. Không quan tâm đến tình trạng tội lỗi của Giu-đa, Đức Chúa Trời đang dấy lên một dân tộc để phục vụ như là người đại diện cho sự phán xét của Ngài. Một thảm họa không thể tin sắp sửa xảy ra! Đức Chúa Trời đã tiết lộ cho Ha-ba-cúc rằng: “Hãy nhìn các nước và quan sát—và sẽ vô cùng kinh ngạc. Vì Ta sẽ làm điều gì đó trong thời kỳ của người mà ngươi không thể tin nỗi, ngay cả khi ngươi đã được báo trước. Ta đang dấy lên dân Ba-by-lôn, là những người tàn nhẫn và hung ác, càn quét khắp trên đất “(1:5-6). Sự phản nghịch đầy tội lỗi của Giu-đa không hề bị chú ý. Sự chậm trễ trong việc phán xét không phải là dấu hiệu cho thấy tội lỗi không quan trọng. Sự phán xét đã đến trên Giu-đa!

 

Sự Bối Rối Trước Việc Đức Chúa Trời Sử Dụng Công Cụ Ác Độc (Ha. 1:12-17)

Câu trả lời của Đức Chúa Trời cho câu hỏi đầu tiên của Ha-ba-cúc chắc chắn được đánh giá rất cao, nhưng nó dẫn đến sự bối rối hơn nữa! Giờ đây, Ha-ba-cúc bối rối trước việc Đức Chúa Trời sử dụng một công cụ độc ác như vậy để phán xét dân sự của Ngài. Ha-ba-cúc hỏi: “Hỡi CHÚA, Ngài chẳng phải từ đời đời vô cùng sao?” (1:12). Người Ba-by-lôn coi thường Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Sự thờ thần tượng, vô đạo đức và những hành động tàn ác chống ngịch các dân tộc bị trị là một sự sỉ nhục đối với sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Người Canh-đê độc ác đã làm cho người Giu-đa tỏ ra công bình bằng cách so sánh! Vậy thì làm thế nào một Đức Chúa Trời thánh khiết lại có thể dung thứ cho việc sử dụng một quốc gia độc ác như vậy? Nó dường như không phù hợp với sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Ha-ba-cúc nói, “Mắt Chúa thánh sạch chẳng nhìn sự dữ, chẳng có thể nhìn được sự trái ngược. Sao Ngài nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ nuốt người công bình hơn nó, sao Ngài nín lặng đi? “(1:13). Dường như đối với Ha-ba-cúc cho rằng việc Đức Chúa Trời sử dụng những người Canh-đê cho thấy Ngài đã chấp nhận đường lối tội lỗi của họ.

 

 

Giải Pháp Của Đức Chúa Trời: Nguyên Tắc Đền Bù / Thưởng Phạt Thiêng Liêng (Ha. 2:2-4)

Ha-ba-cúc đã đưa ra một câu hỏi nghiêm túc liên quan đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Những nghi ngờ của ông là có thật. Nếu Đức Chúa Trời sử dụng những người Canh-đê độc ác, có lẽ Ngài không thánh khiết như Ha-ba-cúc đã suy nghĩ trước đây. Nhưng Ha-ba-cúc là một người nghi ngờ khiêm nhường và lắng nghe, và ông đã trình dâng mối quan tâm của mình lên cho Đức Chúa Trời. Ông nói, “Ta sẽ đứng nơi vọng canh, chôn chơn nơi đồn lũy, rình xem Ngài bảo ta điều gì” (2:1).

Đến thời điểm Đức Chúa Trời đáp lại lời cầu nguyện của Ha-ba-cúc và giải quyết tình trạng bối rối của ông. Câu trả lời của Đức Chúa Trời dành cho Ha-ba-cúc được tìm thấy trong nguyên tắc được tiết lộ trong 2:4, “Nầy, lòng người kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng trong nó; song người công bình thì sống bởi đức tin mình.” Người “kiêu ngạo” ám chỉ những người Canh-đê là người ngạo mạn mà Ha-ba-cúc đã nói đến (1:10-11). Những người công chính ở Y-sơ-ra-ên hiện nay trái ngược với những người Canh-đê kiêu ngạo. Đức Chúa Trời đang nói với Ha-ba-cúc rằng người ngay thẳng (“người công chính”) sống trông cậy vào Đức Chúa Trời sẽ được bảo toàn (“sẽ được sống”), trong khi kẻ kiêu ngạo và gian ác sẽ bị diệt vong. Bằng cách áp dụng, những người Canh-đê độc ác sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Họ có thể đã được vui hưởng sự lợi thế / thăng tiến tạm thời, nhưng họ sẽ bị phán xét vì những hành động của họ. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đã không bị tổn hại bởi việc sử dụng một công cụ gian ác như vậy, bởi vì công cụ gian ác thực sự phải chịu trách nhiệm (xem Xa. 2:8).

 

BÀI HỌC TỪ HA-BA-CÚC

Gương của tiên tri Ha-ba-cúc khuyến khích chúng ta bằng cách cho thấy rằng không có gì sai khi nghi ngờ Đức Chúa Trời và đường lối của Ngài. Nhiều Cơ đốc nhân tốt đã trải qua một giai đoạn nghi ngờ. Phi-e-rơ cảm thấy nghi ngờ khi ông đang đi về phía Chúa Giê-su trên Biển Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 14: 30-31). Thô-ma đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa Giê-su (Giăng 20: 24-25). Những người ẩn danh khác trong số các sứ đồ cũng nghi ngờ (Ma-thi-ơ 28:17). Các Cơ đốc nhân không nên cho đó là tội lỗi, xấu hổ hoặc mặc cảm đối với người khác khi bản thân rơi vào sự nghi ngờ.

Việc làm của Ha-ba-cúc chứng tỏ rằng không có gì sai khi bày tỏ sự nghi ngờ của chúng ta với Chúa trong lời cầu nguyện. Ha-ba-cúc đưa ra câu hỏi, “Làm thế nào một Đức Chúa Trời công bình có thể cho phép điều ác chiến thắng mà không có sự can thiệp hoặc phán xét của Ngài?” (xem Ha-ba-cúc 1:2-4). Ông cũng tự hỏi: “Làm sao một Đức Chúa Trời thánh khiết lại có thể sử dụng một đại diện gian ác như người Canh-đê?” (xem 1:12-13). Đằng sau những câu hỏi của Ha-ba-cúc là những nghi ngờ nghiêm trọng: “Có lẽ nào Đức Chúa Trời không công bình. Có lẽ nào Đức Chúa không thể làm gì được điều ác. Có lẽ nào Chúa không thánh khiết như tôi nghĩ?”.

Tiên tri Ha-ba-cúc cũng minh họa cách bày tỏ sự nghi ngờ của chúng ta một cách khiêm tốn. Trong lúc bối rối và nghi ngờ, Ha-ba-cúc không quay lưng lại với Đức Chúa Trời. Thay vào đó, ông hướng về Chúa trong lời cầu nguyện, và chờ đợi Ngài trả lời (2:1). Ha-ba-cúc biết phải quay đầu đi đâu khi đối mặt với sự nghi ngờ. Một số người mắc sai lầm khi đem sự nghi ngờ của họ cho những người khác đang nghi ngờ hoặc đã phủ nhận Chúa. Điều này thường dẫn đến sự nhầm lẫn nhiều hơn là sự rõ ràng về các vấn đề đức tin. Giống như Vua Ê-xê-chia, khi đối mặt với những lời đe dọa của San-chê-ríp, chúng ta phải trải lòng mình ra trước mặt Chúa (2 Các vua. 19:14).

Ngoài ra, chúng ta học được từ Ha-ba-cúc là chúng ta phải sẵn sàng lắng nghe khi Đức Chúa Trời phán. Ha-ba-cúc viết: “Sau đó, Chúa đã trả lời” (Ha. 2:2). Những nghi ngờ của nhà tiên tri đã được giải quyết nhờ sự mặc khải trực tiếp từ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã trả lời các câu hỏi của Ha-ba-cúc bằng cách xác nhận rằng Ngài thực sự thánh khiết, có quyền tể trị tối thượng và công bình. Vì sự nghi ngờ của Ha-ba-cúc đã được xoa dịu thông qua sự mặc khải của Đức Chúa Trời, nên những nghi ngờ của nhiều Cơ đốc nhân đã được giải quyết bằng cách đọc Lời Ngài. Kinh thánh đối mặt và bác bỏ những nghi ngờ của chúng ta với sự sống của Đức Chúa Trời—lẽ thật thay đổi.

 

NHỮNG ĐỀ XUẤT ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI SỰ NGHI NGỜ

 

Khả năng đối phó với những nghi ngờ của một người có thể tạo ra sự khác biệt giữa thành công và thất bại khi đối mặt với những thử thách trong cuộc sống. Khi Gô-li-át đến gần trại quân của người Y-sơ-ra-ên, những người lính đều nghĩ. “Hắn lớn như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ giết được hắn!” Khi David nhìn thấy người khổng lồ, anh ta nghĩ, “Ông ta thật to lớn. Tôi không thể bỏ lỡ!” Khả năng đối phó với những nghi ngờ của chúng ta cung cấp cho các Cơ đốc nhân những cơ hội thú vị để hoàn thành những việc lớn lao cho Đức Chúa Trời. Dưới đây là chín gợi ý thực tế dựa trên Kinh thánh để giải quyết những nghi ngờ của bạn.

 

  • Nhận ra rằng trong nhiều tình huống, nghi ngờ có thể là một đức tính tích cực.

Châm ngôn lên án người ngây thơ hoặc cả tin “tin bất cứ điều gì” (Châm. 14:15). Tư duy phản biện là điều cần thiết để tránh sai lầm và giả dối, ngay cả khi chúng ta đang suy nghĩ về Đức Chúa Trời. Sa-tan chuyên lừa dối (Khải huyền 12:9), và Phao-lô nhận ra khả năng ngay cả Cơ đốc nhân cũng có thể bị lừa (Rô. 16:18; Ga. 6:7). Trong một số tình huống, có thể có lý do chính đáng để nghi ngờ. Một người khôn ngoan sẽ nhận ra những lý do hợp lệ để nghi ngờ và tránh bị lừa dối. Nghi ngờ thường là động cơ để tìm kiếm sự thật. Vào khoảng năm 1600, một nhà thiên văn học người Ý tên là Galileo đã giải thích một số nghi ngờ về một tín lý nhà thờ đã được thiết lập cho rằng trái đất là trung tâm của hệ mặt trời. Ông nghi ngờ, và cuối cùng chứng minh rằng trái đất quay quanh mặt trời, không phải ngược lại. Sự nghi ngờ của Galileo giúp ông ta tránh được một lỗi thường mắc phải và dẫn đến việc khám phá ra sự thật mới.

  • Nhận ra rằng yếu tố đức tin có thể được đưa đến sự nghi ngờ chánh đáng.

Gamaliel Bailey (1807-1859), một nhà báo người Mỹ, đã viết, “Người không bao giờ nghi ngờ, thì cũng không bao giờ nửa tin nửa ngờ.”6 Nghi ngờ không phải là không tin. Đúng hơn, nghi ngờ là cuộc tranh đấu của một người “nửa tin nửa ngờ,” nhưng có những câu hỏi liên quan đến giá trị của niềm tin đó. Yếu tố tích cực này của niềm tin trong thời gian nghi ngờ của chúng ta phải được công nhận và đánh giá cao. Nghiên cứu và nghiên cứu cẩn thận sẽ giúp người nghi ngờ phân biệt được lý do nghi ngờ hợp lệ và không hợp lệ. Điều này có thể dẫn đến cơ sở vững chắc hơn cho đức tin của một người nghĩa là từ bỏ sự giả dối và sai lầm.

 

  • Nhận ra rằng những nghi ngờ đôi khi là do những cảm xúc quá đà có thể là hệ quả của sự mệt mỏi về thể chất, tinh thần hoặc tâm linh.

Ê-li trải qua một làn sóng nghi ngờ ngay sau cuộc gặp gỡ với các tiên tri của Ba-anh ở trên Núi Cạt-mên. Mặc dù ông đã góp phần vào chiến thắng thuộc linh được ghi lại trong 1 Các Vua 18, trong chương tiếp theo chúng ta sẽ thấy có một lần Ê-li can đảm chạy khỏi Giê-sa-bên! Ở ngoài đồng vắng dưới một cây giếng giêng, Ê-li-sê cầu nguyện với Chúa, “Hãy lấy mạng tôi; vì tôi không hơn gì các tổ phụ mình” (1 Các vua. 19:4). Ê-li không tin rằng ông sẽ thành công trong việc loại bỏ sự thờ phượng Ba-anh hơn các tiên tri trước ông. Điều mà Ê-li cần lúc đó là thức ăn và chỗ nghỉ ngơi. Và đó chính xác là những gì Chúa đã cung cấp cho ông trong đồng vắng (19:5-7). Sau một thời gian nghỉ ngơi và sảng khoái, Ê-li đã tìm lại được đức tin và lòng can đảm để tiếp tục thánh chức của mình.

  • Hãy thành thật đem những nghi ngờ của bạn đến trước mặt Chúa.

Là một người cha, tôi hài lòng khi các con tôi chia sẻ mối quan tâm của chúng với tôi. Tôi khuyến khích chúng tin tưởng tôi với những gì đang đè nặng trong lòng chúng nó. Tôi rất vui được giúp mang gánh nặng của chúng và đem mối quan tâm của chúng đến trước mặt Chúa trong lời cầu nguyện. Tương tự như vậy, Đức Chúa Trời hài lòng khi con cái Ngài giao phó cho Ngài chăm sóc họ. Phi-e-rơ khuyến khích các tín đồ trút bỏ mọi lo lắng cho Ngài, “vì Ngài săn sóc chúng ta” (1 Phi. 5:7).

 

  • Không đưa ra quyết định quan trọng trong khi chiến đấu với sự nghi ngờ.

Gia-cơ chỉ ra rằng người bị nghi ngờ là người “phân tâm” và “không ổn định trong tất cả những gì anh ta làm” (Gia-cơ 1:8). Người như vậy không có điều kiện để đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào. Đừng bỏ chức vụ, đừng rời bỏ hội thánh hoặc từ chối đức tin của bạn trong khi đang dao động giữa niềm tin và sự không tin. Hãy duy trì hành trình của bạn và trì hoãn bất kỳ thay đổi nào trong cuộc sống trong khi bạn đang đối mặt với sự nghi ngờ.

 

  • Tìm kiếm các giải pháp từ Lời của Đức Chúa Trời.

Mặc dù bạn có thể không cảm thấy thích đọc Lời Đức Chúa Trời khi đang tranh đấu với những nghi ngờ, nhưng đó là một trong những điều tốt nhất bạn có thể làm. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải duy trì kỷ luật của việc tĩnh nguyện thường xuyên và đọc Kinh Thánh ngay cả khi đời sống tâm linh của bạn bị nguội lạnh. Người viết Thi thiên đã viết, “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi và là ánh sáng cho con đường lối tôi” (Thi. 119:105). Khi chúng ta đọc và nghiên cứu Lời Chúa, ánh sáng của Lời Chúa sẽ xua tan bóng tối. Qua Lời của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ phán với lòng bạn, giải đáp thắc mắc của bạn và xua tan những nghi ngờ của bạn. Tôi biết điều này là đúng, bởi vì tôi đã thường xuyên trải nghiệm điều đó trong đời sống của chính mình. Ngoài Lời của Đức Chúa Trời, đây là một số cuốn sách có thể giúp bạn đối phó với sự nghi ngờ: Robert Davidson, Can đảm để Nghi ngờ (London: SCM Press, 1983); Os Guinness, Trong Hai Tâm Trí: Tình trạng khó xử của sự nghi ngờ và cách giải quyết. (Downers Grove, Ill: Intervarsity Press, 1976): Gary R. Habermas, Đối phó với Nghi ngờ (Chicago: Moody Press, 1990); và Alister E. McGrath, Mặt sáng của sự nghi ngời! (Grand Rapids, NXB Zondervan, 1990). Những cuốn sách khác đề cập đến một số lĩnh vực nghi ngờ cụ thể, chẳng hạn như sự phục sinh của Chúa Giê-su hoặc sự linh hứng của Kinh thánh.

 

  • Tập chú vào chính Chúa hơn là nghi ngờ và bối rối của bạn.

Khi Chúa Giê-su mời Phi-e-rơ đến với Ngài trên mặt Biển Ga-li-lê, Phi-e-rơ đã bước ra khỏi thuyền bởi đức tin (Ma. 14:29). Trước sự ngạc nhiên của các môn đồ khác, Phi-e-rơ đi trên mặt nước về phía Chúa Giê-su. Nhưng rồi một điều gì đó đã xảy ra. “Khi thấy sóng gió, ông sợ hãi” (14:30) Vấn đề của Phi-e-rơ là ông bị phân tâm bởi vùng nước tối đen đang phủ xuống chân mình và không rời mắt khỏi Chúa Giê-su. Peter đột nhiên nhận thức được tình huống nguy hiểm của mình. Ông tập trung vào các vấn đề của mình hơn là vào con người của Đấng Christ, và sự nghi ngờ của ông đã chế ngự được đức tin của ông ấy. Bắt đầu chìm xuống, Ông kêu lên rằng: “Lạy Chúa, xin cứu con!” Phi-e-rơ biết phải quay đầu ở đâu trong lúc cần thiết, và ông hướng mắt về Chúa Giê-su, nơi họ thuộc về. Hê-bơ-rơ 12:1-2 khuyến khích những người tin Chúa trong cuộc đua của sự sống tập chú vào Chúa Giê-su, “tác giả và đấng hoàn hảo của đức tin chúng ta”. Sự tập chú như vậy giúp ổn định đức tin đang dao động, giúp các tín đồ có thể “kiên trì chạy”, cuộc chạy đua của đời sống Cơ đốc nhân (12: 1).

  • Hãy sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận câu trả lời của Đức Chúa Trời cho những nghi ngờ của bạn.

Tôi ấn tượng với gương của Ha-ba-cúc về sự sẵn sàng đáp lại Đức Chúa Trời (Ha. 2:1). Và khi câu trả lời đến, Ha-ba-cúc đã ôm lấy nó. Không nghi ngờ gì nữa, thật là lo lắng khi biết rằng Đức Chúa Trời sẽ phán xét Giu-đa qua cuộc tấn công của người Canh-đê. Ông đã quen thuộc với sự khủng khiếp của chiến tranh vây hãm và biết rằng sự đau khổ lớn lao đang chờ đợi người dân Giu-đa. Nhưng ông đã chấp nhận câu trả lời của Đức Chúa Trời và thực sự vui mừng trong Chúa (3:18). Nhờ đức tin, ông biết Đức Chúa Trời sẽ không dẫn dân Ngài vào một thử thách mà không cung ứng năng lực thiêng liêng để chịu đựng nó (3:19).

 

  • Giữ quan điểm về các vấn đề trọng tâm của đức tin chúng ta.

Không phải mọi nghi ngờ đều sẽ được giải quyết ở bên này của thiên đường. Như Richard Wolff đã nhận xét, “Cả Cơ đốc giáo và sự mặc khải của Đức Chúa Trời đều không được thiết kế để loại bỏ mọi sự mơ hồ khỏi hoàn cảnh của con người.” Sống bằng đức tin có nghĩa là sống với những câu hỏi chưa được giải đáp. Nhưng có một nền tảng vững chắc của chân lý trọng yếu để cuộc sống có thể được xây dựng trên đó. Khi vật lộn với các vấn đề về đức tin của chúng ta với tư cách là Cơ đốc nhân, điều quan trọng cần nhớ là thần học Kinh thánh có thể được đúc kết thành một lẽ thật trọng yếu. Người viết bài hát đã nói rất hay khi anh ấy viết, “Chúa Giêsu yêu tôi, điều này tôi biết, vì Kinh thánh đã nói với tôi như vậy.” Nếu bạn có thể ôm lấy điều đó bằng cả trái tim, thì bạn là một người tin tưởng, không phải là người nghi ngờ. Nếu bạn ở trong Lời và giao thông với Ngài qua lời cầu nguyện, Đức Chúa Trời sẽ đưa bạn vượt qua những giai đoạn nghi ngờ và củng cố đức tin của bạn.

 

 

ĐỪNG NÁN LẠI LÂU ĐÀI NGHI NGỜ

Trong câu chuyện ngụ ngôn kinh điển của John Bunyan, Thiên Lộ Lịch Trình, chúng ta đã đọc về cách Cơ đốc nhân và người bạn đồng hành của anh ấy là Hy vọng rời khỏi Xa lộ của Vua và bị bắt bởi Gã khổng lồ Tuyệt vọng. Cáo buộc họ đã xâm phạm vùng đất của mình, Gã khổng lồ Tuyệt vọng đưa họ đến pháo đài đá ác nghiệt có tên là Lâu đài Nghi ngờ. Tại đó, hắn buộc họ vào trong một ngục tối hôi hám.

Sáng hôm sau, gã khổng lồ vào ngục tối và bắt đầu hành hạ các tù nhân. Gã đánh các tù nhân cho đến khi họ gần như bất tỉnh. Cả ngày lẫn đêm Cơ đốc nhân và Hy vọng rên rỉ trong đau đớn. Sáng hôm sau, gã khổng lồ lại đến thăm ngục tối và báo cho các tù nhân biết rằng họ sẽ không bao giờ trốn thoát được, họ nên tự kết liễu cuộc đời mình bằng cách tự đâm, tự treo cổ, tự đầu độc mình.

Sau đó gã khổng lồ bỏ đi, Cơ đốc nhân trở nên chán nản đến mức anh ta suy nghĩ rằng họ cũng nên tuân theo người khổng lồ và chấm dứt tình trạng khốn khổ của họ. Tuy nhiên, Hy vọng đã chỉ ra rằng việc tự sát sẽ tương đương với việc phạm tội giết người, một hành vi bị cấm bởi Hoàng tử của họ. Ngoài ra, anh ta còn nói, chúng ta có thể vẫn chưa thoát.

Ngày hôm sau, Gã khổng lồ Tuyệt vọng đưa những người hành hương đến sân sau cung điện và cho họ xem bộ xương của những người hành hương trước đây mà anh ta đã giết. Sau khi buộc họ phải nhìn những bộ hài cốt ghê rợn này, gã khổng lồ đã đưa họ trở lại ngục tối, vừa đi vừa đánh đập họ. Đêm đó các tù nhân không ngủ được. Vào lúc nửa đêm, họ bắt đầu cầu nguyện và tiếp tục với thái độ này cho đến khi bình minh. Rồi Cơ đốc nhân đột nhiên kêu lên, “Tôi thật là ngu ngốc! Trong suốt thời gian qua, tôi đã có phương tiện để trốn thoát ngay tại đây!” Anh đút tay vào túi áo khoác và lôi ra một vật sáng. Đó là chìa khóa của lời hứa!

“Hãy thử ngay bây giờ,” Hy vọng đã đề nghị một cách háo hức.

Với trái tim đang đập, những người hành hương tiến gần đến cánh cửa của ngục tối và thử chiếc chìa khóa sáng chói trong ổ khóa. Nó mở ra một cách dễ dàng. Họ đẩy cửa hé hé và bước ra. Họ rón rén lên cầu thang ra cửa ngoài và thử chìa khóa lần nữa. Rồi một lần nữa, nó trở nên nhẹ nhàng. Ngay sau đó họ đã chạy khỏi Lâu đài Nghi ngờ và giành lại sự an toàn trên Xa lộ của Nhà vua.

Có hy vọng cho những người nghi ngờ không? Đúng! Niềm hy vọng của chúng ta được đặt vững chắc vào đặc tính của Đức Chúa Trời đang nắm giữ lời hứa của chúng ta! Chúng ta có thể tìm thấy những lời hứa nào khi đối mặt với những giai đoạn nghi ngờ?

“Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê. 13:5)

Không có gì “có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương đó là Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta” (Rô. 8:39)

“Ðức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển của Ngài trong Ðức Chúa Jêsus Christ” (Phi. 4:19)

“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33)

Niềm hy vọng của chúng ta với tư cách là những người tin cậy đặt nơi Đức Chúa Trời, Đấng luôn thành tín và luôn giữ lời hứa của Ngài. Chúng ta không cần ở lâu trong ngục tối của sự tuyệt vọng. Hãy nắm lấy lời hứa của Vua anh minh và tiếp tục hành trình về thiên quốc.

 

 

 

 

 

 

 

 

– 18 –

Hiểu Biết Ý Muốn Đức Chúa Trời

 

Một khía cạnh quan trọng của việc hiểu biết Đức Chúa Trời nhiều hơn là tìm biết ý muốn của Ngài cho cuộc đời bạn. Nếu Chúa yêu bạn và có một kế hoạch tuyệt vời cho đời sống bạn, thì làm thế nào để bạn khám phá ra kế hoạch đó? Bạn có nên nhìn vào những dấu hiệu, hoàn cảnh hoặc một số chỉ dẫn bên trong bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời không?

Vào mùa xuân năm 1977, tôi có một quyết định quan trọng về sự nghiệp của mình. Tôi đang hoàn thành chương trình học tiến sĩ tại Dallas Seminary và dự kiến sẽ bảo vệ luận án vào một thời điểm nào đó trong mùa hè. Sau bảy năm học ở chủng viện, tôi có thể tự do bắt đầu chức vụ trọn thời gian vào mùa thu. Nhưng đó sẽ là chức vụ gì?

Tôi đã liên hệ với Chủng viện Western một vị trí giảng dạy về văn học kinh thánh. Đây là một khả năng thú vị vì tôi đã theo học bằng thạc sĩ tại Western và đã quen biết với trường. Western cũng nằm ở Portland, Oregon, là quê hương của vợ tôi, Nancy. Cô ấy thích được ở gần với gia đình. Nhưng trong khi chờ đợi tin tức từ Western, tôi được tiếp xúc với một nhà thờ ở Texas đang tìm kiếm mục sư. Tôi thì thích giảng, vì vậy tôi tự hỏi liệu đây có phải là lựa chọn tốt hơn cho tôi không.

Tôi đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Hai cơ hội tuyệt vời đang ở trước mắt tôi, và tôi không biết phải chọn cái nào. Trước khi chia sẻ với các bạn cách tôi đưa ra quyết định của mình, tôi muốn đặt chủ đề là ý muốn của Đức Chúa Trời theo quan điểm Kinh thánh. Làm thế nào để dân sự Đức Chúa Trời biết ý muốn Ngài? Có những nguyên tắc kinh thánh nào để hướng dẫn chúng ta khi chúng ta tìm cách đưa ra quyết định khôn ngoan cho đời sống mình?

 

 

Ý ĐỊNH VÀ DẤU HIỆU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Một người bạn đang phải vật lộn với những nan đề trong hôn nhân và băn khoăn không biết phải làm sao. Trong lúc hoang mang, một đêm nọ, ông đi dạo và cầu xin Chúa một dấu hiệu—một ngôi sao rơi xuống để nhận biết ý muốn của Chúa. Anh ta cầu nguyện, “Chúa ơi, nếu con nên ly hôn với cô ấy, hãy cho con một dấu hiệu là ngôi sao băng.” Anh ta đợi mãi. Nhưng không thấy có ngôi sao nào rơi xuống. Sau đó, anh cầu nguyện tiếp, “Chúa ơi, nếu ngài muốn con tiếp tục sống với cô ấy, xin hãy cho con thấy một ngôi sao băng.” Một lần nữa, không có ngôi sao nào rơi xuống. Cuối cùng, anh ta nói, “Chà, con đoán điều này có nghĩa là Chúa muốn con giữ nguyên tình trạng này trong một thời gian.” Sau đó, thật tuyệt vời, một ngôi sao băng rực rỡ chiếu sáng bầu trời.

Tôi vui mừng thông báo rằng cuộc hôn nhân đó đã vượt qua khủng hoảng và vẫn bền chặt cho đến ngày nay. Nhưng còn dấu hiệu? Đức Chúa Trời có bày tỏ ý muốn của Ngài qua ngôi sao băng không?

Nhiều Cơ đốc nhân dựa trên câu chuyện Ghê-đê-ôn đã sử dụng bộ lông chiên để tìm kiếm dấu hiệu như một dấu chỉ về ý muốn của Đức Chúa Trời để nhằm biện minh cho hành động của họ. Gần đây có một sinh viên đã nói với tôi rằng anh ta đã “dùng bộ lông chiên” để xác định ý muốn của Đức Chúa Trời có cho anh ta đi học ở chủng viện hay không.

Câu chuyện về Ghê-đê-ôn với bối cảnh vào thời kỳ của các quan xét khi không có vua ở Y-sơ-ra-ên và “mọi người đều làm theo ý mình cho là phải” (Quan xét 21:25). Trong thời kỳ thờ hình tượng và bội đạo tràn lan đó, Đức Chúa Trời đã dấy lên những kẻ ngoại bang áp bức để kỷ luật dân sự hầu đem họ trở lại với chính Ngài. Một trong những kẻ áp bức này là người Ma-đi-an, một dân tộc du mục trên sa mạc ở phía đông Y-sơ-ra-ên. Vào thời Ghê-đê-ôn, những người Ma-đi-an đã đột kích các khu định cư của người Y-sơ-ra-ên và cướp lấy ngũ cốc và đàn gia súc của họ. Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên tỉnh thức, họ ăn năn kêu cầu Chúa và Chúa đã dấy lên Ghê-đê-ôn để giải cứu dân sự Ngài khỏi sự đe dọa của người Ma-đi-an.

Các Quan Xét 6:14 ghi lại sứ mệnh mà Đức Chúa Trời ban cho Ghê-đê-ôn: “Hãy dùng sức của ngươi vẫn có mà đi giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng sai ngươi đi sao?” Khi Ghê-đê-ôn đặt câu hỏi về khả năng và viện dẫn sự thiếu kinh nghiệm của mình, Đức Chúa Trời đã ban cho Ghê-đê-ôn một lời hứa rõ ràng, “Ta sẽ ở cùng ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy” (6:16). Điều đó nghe có vẻ quá tốt khi trở thành sự thật. Ghê-đê-ôn muốn chắc chắn rằng mình không bị con người hay thần linh nào đó lừa dối. Vì vậy, ông đã cầu xin Chúa cho một dấu hiệu. “Nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin ban cho tôi một dấu rằng chính Chúa phán cùng tôi” (6:17). Để đáp lại yêu cầu của Ghê-đê-ôn, Đức Chúa Trời đã khiến lửa bốc lên từ tảng đá, thiêu hủy thịt và bánh mà Gideon đã dâng. Phép lạ này đã xác nhận chính Chúa đã nói chuyện với Ghê-đê-ôn và nó đã xác chứng lời kêu gọi của Ngài.

Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho Ghê-đê-ôn đi, hứa ban chiến thắng cho ông, và Ngài đã xác chứng sứ mệnh của Ngài bằng một dấu lạ. Nhưng Ghê-đê-ôn không chắc lắm. Và do đó ông đã cầu xin Chúa cho một phép lạ khác, dấu hiệu của bộ lông chiên. Ghê-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời: “Ghê-đê-ôn thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Nếu Chúa muốn dùng tay tôi giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như lời Chúa đã phán, thì tôi sẽ để một lốt chiên trong sân đạp lúa; nếu sương chỉ đóng trên lốt chiên, còn đất lại khô ráo, thì tôi sẽ nhận biết Chúa dùng tay tôi giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Chúa đã hứa vậy”(6:36-37).

Đức Chúa Trời đã ân cần đáp lời và ban cho Ghê-đê-ôn dấu hiệu mà ông yêu cầu. Sáng hôm sau, bộ lông chiên ướt đẫm sương, nhưng mặt đất xung quanh thì khô ráo. Điều đáng chú ý là, phép lạ này đã xảy ra ở thung lũng Jezreel (7:1), là khu vực được biết đến là có sương dày đặc. Việc lông chiên bị ướt và mặt đất chung quanh khô thì thực sự không bình thường—một dấu hiệu rõ ràng từ Đức Chúa Trời.

Vẫn đang tranh chiến với những nghi ngờ, Ghê-đê-ôn cầu xin Chúa cho thêm một dấu hiệu khác. “Xin cơn thạnh nộ Chúa chớ nổi phừng cùng tôi, tôi chỉ sẽ nói lần nầy thôi. Xin Chúa để tôi làm thử với lốt chiên chỉ một lần nầy thôi: Xin cho một mình lốt chiên phải khô, còn sương lại đóng khắp trên đất” (6:39). Một lần nữa, Đức Chúa Trời ban cho Ghê-đê-ôn dấu hiệu mà ông đã cầu xin. Buổi sáng hôm sau lông cừu khô nhưng mặt đất ướt đầy sương.

Nhiều người đã bắt chước cách Ghê-đê-ôn cũng sử dụng bộ lông chiên. Ví dụ, “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn con đi học ở chủng viện vào học kỳ tới, xin hãy để tiền vào hộp thư trong khuôn viên trường của con vào cuối tuần sau”. Chúng ta phải xác định xem cách của Ghê-đê-ôn có đem đến điều hợp lý cho người tin để nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời hay không. Mặc dù, Kinh Thánh không lên án cách Ghê-đê-ôn đã làm. Tuy nhiên, một số nghi vấn có thể được đặt ra là sự phù hợp về các hành động của Ghê-đê-ôn. Đầu tiên, chỉ thị của Đức Chúa Trời đã được ban ra (6:14). Thứ hai, chiến thắng trước người Ma-đi-an đã được hứa ban (6:16). Thứ ba, Ghê-đê-ôn đã không giữ lời. Khi Chúa đã ban cho dấu lạ, ông không tin, nhưng lại cầu xin thêm một phép lạ nữa (6:37, 39). Chúa đã hứa cho Ghê-đê-ôn chiến thắng người Ma-đi-an. Nhưng Ghê-đê-ôn đang thử Đức Chúa Trời để nhận biết xem đây có thực sự là ý muốn của Ngài hay không.

Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại chấp nhận những yêu cầu lặp đi lặp lại của Ghê-đê-ôn mặc dù mệnh lệnh đã được đưa ra và chiến thắng đã hứa ban? Tôi chỉ có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời đáp ứng phù hợp đối với tình trạng của chúng ta. Vì đức tin của Ghê-đê-ôn yếu ớt, và Đức Chúa Trời đã ân cần đáp ứng yêu cầu của ông. Nhưng tôi tự hỏi rằng có phải Đức Chúa Trời đã định Ghê-đê-ôn làm gương cho chúng ta noi theo khi tìm hiểu ý muốn của Ngài. Trong khi ý muốn của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ rõ ràng cho Ghê-đê-ôn; vấn đề là Ghê-đê-ôn đã không tin điều đó. Ngoài vấn đề không tin, Ghê-đê-ôn còn đưa ra những yêu cầu không phù hợp với đòi hỏi Đức Chúa Trời. Ông nói, “Đức Chúa Trời ơi, hãy làm điều này cho tôi và làm theo cách cụ thể thế này.” Tạo vật có nên đòi hỏi như vậy đối với Đấng Tạo hóa không? Điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Chúa Trời muốn cung ứng cho việc học của sinh viên thông qua một chi phiếu thay vì một món quà dấu tên? Chúng ta là ai mà đòi hỏi Đức Chúa Trời, yêu cầu một dấu hiệu cụ thể về ý muốn của Ngài? Hành động như vậy tương đương với việc thử Đức Chúa Trời (Phục. 6:16) và không nên có trong đời sống của một tín nhân.

 

Ý MUỐN ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ CÁC MỆNH LỆNH TRONG KINH THÁNH

Thông thường khi nghĩ đến ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình, chúng ta thường nghĩ đến những câu hỏi như: Đức Chúa Trời muốn tôi trở thành người như thế nào? Chúa có muốn tôi kết hôn không? Nếu có, vậy là ai? Chúa muốn tôi phục vụ ở đâu? Tôi nghĩ rằng điều khá thú vị và có ý nghĩa quan trọng là khi Kinh Thánh đề cập đến chủ đề ý muốn của Đức Chúa Trời, thì không liên quan đến những vấn đề này trong cuộc sống. Có vẻ như Đức Chúa Trời quan tâm đến tư cách cá nhân, sự thánh khiết và lối sống của chúng ta hơn là việc kết hôn với ai, chúng ta học đại học nơi nào và nên theo đuổi ơn kêu gọi nào. Không có nghĩa là những vấn đề này không quan trọng. Nhưng theo quan điểm của Đức Chúa Trời, các vấn đề về tư cách và đạo đức được ưu tiên trên hết.

Vậy, ý muốn của Đức Chúa Trời cho cuộc đời bạn là gì? Mạng lịnh của Ngài cho chúng ta biết điều đó. Phao-lô viết: “Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào” (Êph. 5:17). Giăng bày tỏ số phận của những người thực hiện mạng lịnh đó: “Người nào làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì được sống đời đời” (1 Giăng 2:17). Chúng ta hãy tìm hiểu một số ví dụ cụ thể về ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ đối với đời sống chúng ta.

 

Sự Nên Thánh Cá Nhân (1 Tê. 4:3)

Phao-lô viết cho các tín đồ Tê-sa-lô-ni-ca rằng: “Vì ý muốn Ðức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: tức là phải lánh sự ô uế tình dục” (1 Tê. 4:3). Ý muốn Đức Chúa Trời được bày tỏ cho chúng ta là sự nên thánh cá nhân. Đây là một ưu tiên được thực tế chứng minh Đức Chúa Trời đề cập đến vấn đề này một cách cụ thể, nhưng trong Lời Ngài thì không nói về đại học hay nghề nghiệp. Tôi tin rằng Chúa đang nói, “sự nên thánh cá nhân của bạn được ưu tiên hơn tất cả các vấn đề quan trọng khác trong đời sống bạn.” Chúng ta không thể phát triển mối liên hệ với Đức Chúa Trời trừ khi chúng ta coi trọng vấn đề này.

“thánh hóa” có nghĩa là “biệt riêng.” Bối cảnh của đoạn văn chỉ ra rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta tách khỏi tội lỗi và biệt riêng cho Đấng Cứu Thế. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống đời sống thánh khiết. Trong những câu tiếp theo (4:3-7), Phao-lô đã làm sáng tỏ ý nghĩa của sự nên thánh về phương diện đạo đức trong sạch. Ông cho biết tín nhân nên “tránh tình dục vô đạo đức”, “kiểm soát thân thể mình cách thánh khiết và xứng đáng”, không làm điều “sai trái với anh em mình.” Liên quan đến việc kiểm soát thân thể của chính mình có thể đề cập đến sự trong sạch trước hôn nhân trong quá trình quen nhau và kết hôn. Lừa gạt anh em mình trong trường hợp như vậy là để thỏa mãn đặc quyền về tình dục được dành cho người khác. Tất cả những hướng dẫn này được thiết kế để hướng chúng ta khỏi sự ô uế (4:7) để chúng ta có thể sống đời sống nên thánh và thánh khiết.

Bạn có tự hỏi liệu có phải ý Chúa muốn bạn quan hệ tình dục với vị hôn thê trước khi kết hôn không? Những câu này cho chúng ta biết rõ ràng hành vi như vậy là trái với ý muốn của Đức Chúa Trời. Thật kỳ lạ khi những người dính líu đến tình dục vô luân lại dành thời gian cố gắng xác định ý muốn của Đức Chúa Trời cho sự nghiệp của họ. Nếu Đức Chúa Trời trả lời bằng lời nói, có lẽ Ngài sẽ nói, “Sự nghiệp? Hãy chọn bất kỳ nghề nghiệp nào! Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng đối với Ta là ngươi hãy sống một đời sống thánh khiết! Ý muốn của Ta đối với ngươi là sự nên thánh cá nhân. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu. “

 

Tạ Ơn, Vui Mừng, và Cầu Nguyện (1 Tê. 5:16-18)

Trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:16-18 Phao-lô đã tuyên bố rõ ràng hơn về ý muốn của Đức Chúa Trời. “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” Đại từ “đây là” ám chỉ bộ ba trách nhiệm vừa được đưa đến độc giả. Các mệnh lệnh hiện tại cho thấy rằng các tín nhân phải “tiếp tục vui mừng,” “tiếp tục cầu nguyện,” và “tiếp tục tạ ơn.” Đây rõ ràng là ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ.

Có phải ý muốn của Đức Chúa Trời đối với các Cơ Đốc nhân là không cầu nguyện mà lầm bầm, than phiền hoàn cảnh của họ không? Tuyệt đối không! Biết được lẽ thật này sẽ tạo ra sự khác biệt trong đời sống của bạn. Tôi có một người quen là Cơ Đốc nhân, người đã biến việc phàn nàn trở thành một loại hình nghệ thuật. Tôi không bao giờ tiếp xúc với người này quá vài phút trước khi anh ta bắt đầu phàn nàn, nào là về công việc, sức khỏe, tiền lương, và nhà thờ. Nếu bạn là người hay phàn nàn, đang tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời cho một quyết định cuộc đời, thì thông điệp của Đức Chúa Trời trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:16-18 là hãy trở lại với mục tiêu. Ý muốn của Ngài là bạn tiếp tục vui mừng, tiếp tục cầu nguyện, và tiếp tục cảm tạ, bất kể hoàn cảnh rắc rối thế nào.

 

Vâng Phục Những Người Có Thẩm Quyền (1 Phi. 2:13-15)

Thành ngữ, “ý muốn của Đức Chúa Trời,” lại xuất hiện trong 1 Phi-e-rơ 2:15. Trong sự luận giải về việc vâng phục đối với chính quyền dân sự, Phi-e-rơ đã viết, “Vậy, anh em hãy bền chí như thể thắt lưng, hãy tiết độ, lấy sự trông cậy trọn vẹn đợi chờ ơn sẽ ban cho mình trong khi Ðức Chúa Jêsus Christ hiện ra. Anh em đã nên như con cái hay vâng lời, thì chớ có làm theo sự dâm dục, là sự cai trị trong anh em ngày trước, về lúc anh em còn mê muội. Nhưng, như Ðấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình” (2:13-15). Ý muốn Đức Chúa Trời là chúng ta phải vâng phục chính quyền dân sự. Từ “vâng phục” (hypotasso) là một thuật ngữ quân sự có nghĩa là “xếp thành hàng dưới quyền hoặc đặt dưới sự phục tùng.” Trong hình thức xuất hiện ở đây, động từ này có nghĩa là “đầu phục chính mình” Các tín đồ phải đặt mình dưới quyền của chính quyền dân sự của họ. Phi-e-rơ không nói gì về một số loại hình chính phủ. Lời dạy của ông áp dụng cho cả các nền dân chủ và các chế độ độc tài, những nhà cai trị cao trọng và thế tục như nhau. Trên thực tế, Phi-e-rơ đã viết chỉ dẫn này cho những người sống dưới chế độ độc tài của hoàng đế độc ác Nê-rô!

Một Cơ Đốc nhân có nên khai man một ít chi phí khi báo cáo để kiếm lợi từ thuế không? Đầu tiên Phi-e-rơ 2:13-15 đưa ra cơ sở kinh thánh để trả lời là không. Từ chối nộp thuế đến hạn sẽ không cho thấy thái độ phục tùng chính phủ của một người. Một Cơ Đốc nhân có nên vượt quá giới hạn tốc độ để đến nhà thờ đúng giờ không? Một lần nữa, 1 Phi-e-rơ 2:13-15 trưng ra cơ sở Kinh Thánh để trả lời là không. Vi phạm luật giao thông không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ rõ ràng là chúng ta phải vâng phục chính quyền dân sự.

 

Các Mạnh Lịnh Trong Kinh Thánh

Những mệnh lệnh (mạng lịnh) trong Kinh Thánh cũng bày tỏ ý muốn của Đức Chúa Trời cho dân sự Ngài. Ý muốn của Đức Chúa Trời không bao giờ là muốn chúng ta nói dối (Êph. 4:25), trộm cắp (4:28), hoặc đắm chìm trong cay đắng, giận dữ, hoặc vu khống (4:31). Ý muốn của Đức Chúa Trời là chúng ta luôn nhân từ và tha thứ cho nhau (4:32). Có phải Ngài muốn chúng ta nói chuyện tục tỉu không? Chúa nói không (5:4). Có phải ý Chúa muốn chúng ta say rượu không? Chúa nói không (5:18). Có phải Đức Chúa Trời muốn chúng ta ngược đãi vợ chồng hoặc con cái của mình không? Đức Chúa Trời nói, “Hoàn toàn không” (5:28; 6:4).

Tôi không nghĩ rằng mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời nên được thu gọn vào một danh sách “những điều nên làm và không nên làm”. Đây chắc chắn không phải là tinh thần của Cơ Đốc giáo. Kinh Thánh dạy rằng chúng ta được cứu bởi ân điển, nhờ đức tin, không phải bởi bất kỳ việc lành nào. Tuy nhiên, đối với những người có mối liên hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời thông qua đức tin, thì các mệnh lệnh của Kinh Thánh ban ra là nguồn đáng tin cậy để khám phá ý muốn của Ngài đã được bày tỏ rõ ràng. Không có cách nào tốt hơn để Cơ Đốc nhân biết được ý muốn của Đức Chúa Trời là qua Lời hằng sống của Ngài. Thật là dại dột khi một Cơ Đốc nhân tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời cho sự nghiệp và bỏ qua ý muốn của Ngài đã được bày tỏ rõ ràng về đời sống cá nhân của họ.

 

 

Ý MUỐN ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ VÙNG “XÁM”

Một số vấn đề khó quyết định hơn. Làm thế nào để chúng ta đưa ra quyết định về những vấn đề mà Kinh Thánh không tán thành hoặc lên án cách cụ thể? Ý muốn của Đức Chúa Trời liên quan đến những vấn đề như can thiệp vào yếu tố di truyền, mang thai hộ và thụ tinh trong ống nghiệm là gì?

Câu hỏi lớn mà các Cơ Đốc nhân phải đối diện vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên là có nên ăn thịt cúng thần tượng không (1 Cô 8:1). Nếu là thịt cúng tế cá nhân, thì thịt cúng này có thể được phục vụ trong bữa đại tiệc hoặc tiệc gia đình. Nếu là thịt cúng tế cộng đồng, thì thịt đã cúng có thể được bán ở ngoài chợ—thường là với giá chiết khấu! Một Cơ đốc nhân có nên mua và ăn thịt đã được cúng cho các vị thần ngoại giáo không? Khi được mời đến nhà một người bạn, Cơ Đốc nhân có nên ăn thịt đã được cúng cho thần tượng không?

Những câu hỏi mà các Cơ Đốc nhân phải đối diện ngày nay tuy khác nhưng không kém phần nghiêm trọng. Mặc dù các quam điểm có thể khác nhau về nhiều vấn đề không được Kinh Thánh đề cập cụ thể, nhưng Đức Chúa Trời đã không bỏ mặc chúng ta mà không hướng dẫn để xác định ý muốn của Ngài thường được gọi là vùng xám. Và những nguyên tắc này cũng có thể áp dụng cho các quan tâm ngày nay cũng như đối với các vấn đề của thế kỷ thứ nhất. Những câu hỏi sau đây được đặt ra để giúp Cơ đốc nhân đưa ra những quyết định mang tính đạo đức và tôn kính Đức Chúa Trời về các vấn đề có thể được hỏi.

  • Hoạt động này có bị cấm trong Lời Chúa không? Trong Thi Thiên 119:9 chúng ta đọc, “Ngươi trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa.” Đừng để bị lừa trong suy nghĩ cho rằng một số hoạt động là có vấn đề với lý do là hoàn cảnh hoặc tình huống phức tạp. Ví dụ, trộm cắp và giết người luôn luôn là sai trái. Việc xem nhẹ các mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đã bày tỏ trong kinh thánh sẽ dẫn đến tội lỗi và thảm họa thuộc linh.
  • Hoạt động này có bị cấm bởi các cơ quan dân sự không? Chính quyền dân sự là một cơ quan có thẩm quyền được Đức Chúa Trời chỉ định nên các Cơ Đốc nhân phải vâng phục (Rô. 13:1-2; 1 Phi 2:13-14). Cơ Đốc nhân phải tuân theo luật dân sự như tuân theo các điều răn của Đấng Christ. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là luật dân sự trái với mạng lịnh của Đức Chúa Trời (Công. 5:29).
  • Hoạt động này có bề ngoài tốt không? Phi-e-rơ nói với các tín đồ rằng họ nên sống “tốt giữa những người ngoại” (1 Phi 2:12). Nếu hoạt động làm cho tín đồ dường như đang thỏa hiệp với các tiêu chuẩn của mình, thì tốt hơn là nên không làm. Nó cũng giống như việc quyết định xem một chiếc áo sơ mi có nên đi giặt hay không. Nếu nghi ngờ, thì có lẽ nó đã bị dơ rồi. Điều này thường đúng với các hoạt động được cho là nằm trong “vùng xám”.
  • Hoạt động này có được lương tâm của tôi khen ngợi không? Phao-lô chỉ ra trong Rô-ma 2:14–15 rằng ngay cả những người không tin cũng có lương tâm đạo đức phản ánh luật pháp của Đức Chúa Trời ghi trong lòng họ. Phao-lô đã phục vụ Đức Chúa Trời “với lương tâm trong sáng”(2 Ti. 1:3) và khuyên các tín đồ cũng làm như vậy (Rô. 14:23; 1 Ti. 1:19; 3:9). Các Cơ Đốc nhân nên tránh những hoạt động mà họ không thể tham gia với lương tâm trong sáng.
  • Hoạt động này có lợi ích hay hữu ích không? Một số tín đồ ở Cô-rinh-tô dường như đang cố gắng sử dụng quyền tự do Cơ Đốc nhân để biện minh cho việc họ tham gia vào các hoạt động không minh bạch. Phao-lô trả lời: “‘Mọi sự tôi có phép làm’ nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích” (1 Cô. 6:12). Vì nó không bị cấm thì không có nghĩa nó là một mục tiêu theo đuổi xứng đáng. Trước khi dành một buổi tối trước tivi, hãy tự hỏi: “Hoạt động này có nâng cao đời sống và kinh nghiệm Cơ Đốc của tôi không?”
  • Hoạt động này sẽ nô lệ hóa hay kiểm soát tôi không? Phao-lô đã đưa ra một hướng dẫn khác cho người Cô-rinh-tô trong 1 Cô-rinh-tô 6:12: “‘Mọi sự tôi có phép làm’ nhưng chẳng để sự gì bắt phục được tôi.” Một số hoạt động có vẻ khá ngây ngô có lẽ được hình thành từ thói quen. Trước khi tham gia, hãy tự hỏi bản thân, “Hoạt động này có thể trở thành một thói quen không?” Các Cơ Đốc nhân nên tránh xa bất cứ điều gì có thể trở ngại hoặc cản trở “cuộc đua” mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt trước cho chúng ta (Hê. 12:1).
  • Hoạt động này có gây hại cho thân thể tôi không? Phao-lô viết: “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao?” (1 Cô. 6:19). Thân thể vật lý của chúng ta là một đền thờ Thánh Linh ngự! Đức Chúa Trời đã bày tỏ hàm ý của lẽ thật này trong câu 20. “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Ðức Chúa Trời.” Ý muốn của Đức Chúa Trời có điều gì gây hại cho thân thể tôi? Nếu gây hại cho thân thể tôi, thì điều đó sẽ cản trở khả năng tôn vinh Đức Chúa Trời của tôi. Vì vậy, nên tránh bất cứ điều gì gây hại cho thân thể chúng ta.
  • Hoạt động này có khiến Cơ Đốc nhân khác vấp phạm không? Trong 1 Cô-rinh-tô 8:13 Phao-lô đưa ra một hướng dẫn hữu ích khác cho những người tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời. “Cho nên, nếu đồ ăn xui anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn thịt, hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho anh em tôi.” Phao-lô coi đó là trách nhiệm thiêng liêng khi thực hiện sự quan tâm yêu thương đối với những người ít trưởng thành hơn mình. Ông không muốn làm bất cứ điều gì cản trở đức tin hoặc sự phát triển tâm linh của người khác. Khiến cho Cơ Đốc nhân khác ăn một thức ăn trong khi người đó nghi ngờ không biết có nên không là chẳng khác nào khiến anh ta vấp phạm (Rô. 14:23). Phao-lô khẳng định quyền tự do của Cơ Đốc nhân (Ga. 5:1), nhưng quyền tự do đó phải được chi phối bởi tình yêu thương và sự tiết chế. Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là để chúng ta làm bất cứ điều gì khiến anh em mình trở nên yếu đuối phạm tội.
  • Hoạt động này có tôn vinh Đức Chúa Trời không? Phao-lô đưa ra từng quyết định và hoạt động cho câu hỏi về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ông khuyến khích người Cô-rinh-tô cũng làm như vậy. “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Ðức Chúa Trời mà làm” (1 Cô 10:31). Khi tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời về một vấn đề nào đó, các tín nhân nên hỏi, “Việc tôi tham gia vào hoạt động này có bày tỏ sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống của tôi hầu tôn cao danh Ngài trước mặt người khác không?”
  • Đây có phải là điều tôi muốn khi Đấng Christ trở lại thấy tôi đang làm không? Việc dự đoán về sự trở lại của Đấng Christ cho hội thánh là một động cơ để thực hiện hành vi đúng đắn: “Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” (1 Giăng 3:3). Chúng ta hãy trở nên đẹp nhất có thể khi Chúa Giê-su trở lại. Hãy giữ suy nghĩ này trước khi điều đó có thể giúp chúng ta quyết định xem một số hoạt động “vùng xám” có phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời hay không.

Thật khích lệ khi biết rằng ngay cả khi Đức Chúa Trời không bày tỏ ý muốn của Ngài qua mệnh lệnh trong kinh thánh, thì Ngài đã ban cho chúng ta nhiều nguyên tắc trong kinh thánh, đủ để giúp chúng ta xác định ý muốn Ngài của các lĩnh vực thắc mắc trong cuộc sống.

 

QUYẾT ĐỊNH KHÔN NGOAN

Bruce Waltke đã chỉ ra một cách đúng đắn rằng Tân Ước không đưa ra mạnh lịnh nào để “tìm thấy ý muốn của Đức Chúa Trời.” Tân Ước cũng không đưa ra bất kỳ chỉ dẫn hay công thức cụ thể nào giúp tìm thấy ý muốn của Ngài. Thay vào đó, qua Lời được soi dẫn của Ngài, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những mạnh lịnh cụ thể bày tỏ ý muốn của Ngài đối với đời sống của chúng ta. Ngoài ra, Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta sống khôn ngoan và có những quyết định làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Garry Friesen gọi phương pháp đưa ra quyết định này là “con đường của sự khôn ngoan.” Trong những lĩnh vực mà Kinh Thánh không đưa ra mạng lịnh hoặc nguyên tắc nào, các tín nhân có trách nhiệm quyết định quá trình hành động. Khi quyết định một cách khôn ngoan, thì chúng ta làm vui lòng Đức Chúa Trời và nghĩa là đang làm theo ý muốn của Ngài.

Đức Chúa Trời sử dụng những yếu tố nào để giúp dân sự Ngài đưa ra quyết định khôn ngoan và tôn cao Đức Chúa Trời về các lĩnh vực cá nhân của đời sống? Tôi đã cân nhắc những yếu tố nào khi quyết định gia nhập giảng dạy ở Chủng viện Western?

 

Những Hoàn Cảnh

Đức Chúa Trời thường dùng những hoàn cảnh trong cuộc sống để mở ra những cánh cửa cơ hội cho dân sự Ngài. Hoàn cảnh trong tù của Giô-sép đã cho ông cơ hội là giải thích giấc mơ của vị quan tửu chánh (Sáng. 40:9-19). Sau đó, quan tửu chánh, người đã được phục hồi chức vụ trong triều đình, đã nói với Pha-ra-ôn về khả năng của Giô-sép. Kết quả của những hoàn cảnh này, Giô-sép được phép ra khỏi tù để phục vụ trong cung vua của Pha-ra-ôn. Điểm mấu chốt ở đây là Đức Chúa Trời thường sử dụng những hoàn cảnh trong cuộc sống của chúng ta để đem lại cơ hội phục vụ. Trong trường hợp cá nhân tôi, Chúa đã sử dụng hoàn cảnh về quá trình học tập trước đây của tôi tại Chủng viện Western và sự quen biết của tôi với vị đứng đầu chủng viện đã mở ra cơ hội phục vụ tại nơi đó.

Nhưng các cơ hội không nhất thiết phải quy thành sự kêu gọi từ Chúa. Trong khi Phao-lô trải qua vùng Ga-la-ti trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai, ông thấy có cơ hội để thực hiện chức vụ tại Á Châu và Bi-thi-ni, nhưng bị Đức Chúa Trời cấm không được đến đó. Chúng ta phải khôn ngoan và sáng suốt, đừng bao giờ đặt hoàn cảnh lên trên Lời Đức Chúa Trời. Hoàn cảnh có thể mở ra những cánh cửa mà chúng ta không nên bước vào. Mặt khác, Đức Chúa Trời có thể sử dụng hoàn cảnh để đưa chúng ta đi theo con đường tốt lành và khôn ngoan.

 

Nhận Thức Chung

Đức Chúa Trời đã ban cho mỗi người một cơ quan tốt đẹp, bí ẩn và phức tạp—chính là bộ não con người. Bộ não cho phép chúng ta đưa ra quyết định về những việc như chúng ta ăn gì, đi đâu, làm gì với thời gian, cách sử dụng tiền và chúng ta sẽ trở nên người như thế nào. Đức Chúa Trời đã ban cho mỗi chúng ta khả năng quyết định. Và tôi tin rằng Ngài mong muốn chúng ta sử dụng bộ não của mình để đưa ra quyết định. Như Waltke đã viết, “Chúa mong muốn chúng ta sử dụng khả năng đưa ra quyết định của mình để lựa chọn.” Phao-lô ghi nhớ nguyên tắc này khi viết: “Vậy, hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan” (Êph. 5:15). Tương tự như vậy, Phao-lô viết thư Cô-rinh-tô: “Hỡi Anh em, về sự khôn sáng, chớ nên như trẻ con; nhưng về sự gian ác, thật hãy nên như trẻ con vậy. Còn về sự khôn sáng, hãy nên như kẻ thành nhơn” (1 Cô. 14:20). Sự chỉ dẫn này được ban ra trong bối cảnh khi đưa ra những quyết định khôn ngoan về việc sử dụng những ân tứ thuộc linh của mỗi người.

Khi sử dụng nhận thức thông thường trong việc ra quyết định, sẽ rất hữu ích nếu bạn thấy được “ưu điểm” và “nhược điểm” của mỗi quá trình hành động. Đôi khi tôi sẽ sử dụng một mảnh giấy gấp lại làm đôi để suy ngẫm về những thuận lợi và khó khăn của một quyết định. Tôi đã sử dụng thủ tục này khi cố gắng quyết định xem có nên theo đuổi cơ hội làm mục sư hay trở lại Portland để giảng dạy. Cả hai cơ hội đều có một danh sách dài các ưu điểm. Nhưng tôi nhận thấy ít khuyết điểm hơn trong mục giảng dạy. Dựa trên nhận thức thông thường và việc sử dụng lý luận của tôi, thì việc giảng dạy ở chủng viện dường như là lựa chọn tốt hơn.

 

Tư Vấn Khôn Ngoan

Kinh Thánh nhiều lần khen ngợi sự khôn ngoan khi tìm kiếm lời khuyên khôn ngoan. “Kẻ khôn sẽ nghe và thêm lên sự học vấn, Người thông sáng sẽ được rộng mưu trí” (Châm. 1:5). “Ðường lối của kẻ ngu muội vốn ngay thẳng theo mắt nó; Còn người khôn ngoan nghe lời khuyên dạy” (12:15) “Ðâu không có nghị luận, đó mưu đành phải phế; Nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành” (15:22). “Hay nghe lời khuyên dạy, và tiếp nhận sự giáo hối, Ðể con được khôn ngoan trong lúc cuối cùng” (19:20). “Vì con phải nhờ mưu khôn mà đánh giặc; Ðâu có nhiều mưu sĩ thì đặng toàn thắng” (24:6).

Tôi thường nhận được ích lợi từ những lời khuyên khôn ngoan khi đưa ra những quyết định quan trọng. Trên thực tế, tôi không bao giờ đưa ra một quyết định quan trọng nào trong đời mà không nhận được lời khuyên. Đôi khi, lời khuyên khôn ngoan của vợ tôi, Nancy, đã giúp tôi tránh đưa ra quyết định hấp tấp hoặc dại dột. Tôi thích hỏi ý kiến bố tôi, một doanh nhân dày dạn kinh nghiệm, khi đưa ra các quyết định về tài chính. Đối với các quyết định thuộc linh, thì tôi tìm đến một người bạn đáng tin cậy, mục sư hoặc đồng nghiệp trong khoa. Thông thường, một người cố vấn sẽ giúp tôi xem các vấn đề có thể đã bị bỏ sót do liên quan đến cảm xúc của tôi đối với vấn đề hiện tại. Trước khi đưa ra quyết định chuyển đến Portland, tôi đã hỏi ý kiến mục sư của mình tại nhà thờ Tưởng niệm Scofield. Tiến sĩ Neil Ashcraft đã ân cần dành một giờ với tôi và giúp tôi xem một số vấn đề mà tôi đã bỏ qua. Với lời khuyên của ông ấy, tôi đã có thể đi đến một quyết định sáng suốt liên quan đến tương lai trước mắt của mình.

Mong Muốn Cá Nhân

Một số người đưa ra điều phức tạp như trên khi ra quyết định. Họ sợ rằng họ sẽ “bỏ lỡ ý muốn của Đức Chúa Trời.” Nỗi sợ hãi của tôi trong quá trình đưa ra quyết định đã được tạm dừng khi khám phá ra rằng Đức Chúa Trời làm việc theo ý muốn của Ngài qua ý muốn của tôi. Trong Thi Thiên 37:3-4 Đa-vít đã tuyên bố rằng: “Hãy tin cậy Ðức Giê-hô-va, và làm điều lành…. Cũng hãy khoái lạc nơi Ðức Giê-hô-va, Thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước.”

Biết rằng mong muốn của chúng ta có thể bị sai lệch bởi tội lỗi, Đa-vít đã đề cập đến một số điều kiện tiên quyết cần thiết trước khi dựa vào mong muốn của lòng bạn. Trước tiên, chúng ta phải là những người có đức tin “tin cậy nơi CHÚA.” Thứ hai, chúng ta phải tuân theo các điều răn của Đức Chúa Trời (“làm điều lành”). Thứ ba, chúng ta phải “vui sướng” trong Đức Chúa Trời và phát triển mối quan hệ với Ngài. Nếu bạn đang sống một đời sống tiếp xúc với Đức Chúa Trời bởi Thánh Linh và thông qua Lời Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ đặt những mong muốn của Ngài trong lòng bạn. Vì vậy, khi Ngài ban cho bạn những mong muốn trong tấm lòng bạn, thì những mong muốn đó chính là những mong muốn của Ngài dành cho bạn!

Kinh Thánh bao gồm những ví dụ về việc Đức Chúa Trời làm việc qua mong muốn của những người tốt và tin kính (2 Sa. 23:5; Rô. 1:11; 15:20). Waltke chỉ ra một số điều cần ghi nhớ khi suy nghĩ về mong muốn trong lòng mình. Trước tiên, những mong muốn của bạn có tương quan với Kinh thánh không? Nếu mong muốn của bạn trái ngược với những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ, thì mong muốn đó là tội lỗi và nên bị xem thường. Thứ hai, mong muốn của bạn có liên quan đến việc dâng thân thể mình như một của lễ sống không? Nếu không, mong muốn của bạn có thể là cá nhân và ích kỷ. Thứ ba, mong muốn của bạn có tương quan với đức tin không? Nghĩa là, bạn sẽ thực hiện mong muốn này như là một biểu hiện của đức tin nơi Đức Chúa Trời không? “Bất cứ điều gì không bởi đức tin đều là tội lỗi” (Rô. 14:23, NASB). Thứ tư, mong muốn của bạn có tương quan với sự cầu nguyện không? Khi chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời qua lời cầu nguyện, chia sẻ tấm lòng với Ngài, thì Ngài sẽ uốn nắn tính cách và mong muốn của chúng ta để phù hợp hơn với ý muốn của Ngài.

Khi tôi cố gắng quyết định xem mình muốn làm gì sau khi tốt nghiệp chủng viện, thì Chúa đã chỉ dẫn tôi qua những mong muốn của mình. Điều tôi thực sự muốn là trở lại Northwest, nơi cha mẹ chúng tôi đang sống, và dạy Kinh Thánh tại Chủng viện Western. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi ước muốn này hầu cho tôi được vui sướng trong Ngài và tôn vinh Ngài qua sự vâng lời và trung tín trong đời sống tôi.

Lệ Thuộc Vào Chúa

Một trong những mối nguy hiểm của việc ra quyết định là để Đức Chúa Trời bên ngoài tiến trình. Trong khi Đức Chúa Trời mong muốn chúng ta đưa ra quyết định, nhưng phải luôn được thực hiện với thái độ phục tùng và lệ thuộc vào Ngài. Gia-cơ, người anh em cùng cha khác mẹ với Chúa, đã đề cập đến vấn đề này trong thư tín của mình. Ông viết, “Hỡi anh em, là kẻ nói rằng: ‘Hôm nay hoặc ngày mai, ta sẽ đi đến thành kia, ở đó một năm, buôn bán và phát tài’, song ngày mai sẽ ra thế nao, anh em chẳng biết! Vì sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay. Anh em phải nói trái lại: ‘Ví bằng Chúa muốn, và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ việc kia’” (Gia. 4:13-15).

Gia-cơ không lên án việc lập kế hoạch và ra quyết định thông minh. Đúng hơn, ông đang quở trách kế hoạch ngạo mạn coi thường Đức Chúa Trời. Chúng ta phải cầu nguyện khi đưa ra quyết định của mình với thái độ phục tùng ý muốn của Ngài. Điều này được minh chứng qua sứ đồ Phao-lô trong kế hoạch hành trình của mình. Trước khi rời Ê-phê-sô, ông nói, “Tôi sẽ trở lại nếu đó là ý muốn của Đức Chúa Trời” (Công. 18:21). Ông viết cho người Cô-rinh-tô rằng: “Nhưng nếu Chúa khứng cho, thì chẳng bao lâu tôi sẽ tới cùng anh em” (1 Cô. 4:19). Có vẻ như Phao-lô đã để lại khoảng trống trong quá trình ra quyết định để Đức Chúa Trời can thiệp và định hướng ông qua hoàn cảnh, lời khuyên khôn ngoan hoặc sự dẫn dắt của Thánh Linh (xin xem Công. 16:6-7; Rô. 1:10; 15:32; 1 Cô. 16:7).

Châm Ngôn 3:5-6 thường được trích dẫn như một văn bản chứng minh cho sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. “Hãy hết lòng tin cậy Ðức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con; Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.” Những câu này không liên quan nhiều đến sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời vì chúng lệ thuộc vào Chúa. Khi đưa ra quyết định, chúng ta phải dựa vào Chúa và những gì Ngài đã bày tỏ trong Lời của Ngài hơn là sự hiểu biết còn thiếu sót của chúng ta. Những ai thực sự tin cậy nơi Đức Chúa Trời sẽ không đi ra ngoài giới hạn của ý muốn Ngài. Khi chúng ta hiểu biết Ngài hơn, thì sẽ đặt để đời sống chúng ta dưới quyền của Ngài và sống theo sự khôn ngoan của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ xóa tan những chướng ngại, giúp chúng ta đạt được mục tiêu trên con đường thẳng tắp mượt mà.

Chúng ta cần phải dâng trình kế hoạch của mình cho Chúa, để nếu cần, Ngài sẽ can thiệp, điều chỉnh hoặc định hướng cho chúng ta. Lệ thuộc vào Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải mở lòng tiếp nhận sự dẫn dắt của Ngài. Chúng ta nên xác định tâm tình của những người bạn đồng hành của Phao-lô, họ nói: “Xin cho ý muốn của Chúa được nên” (Công. 21:14).

 

 

 

 

 

 

19

 

TƯƠNG GIAO VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI

 

 

MỘT MỐI QUAN HỆ không thể duy trì trong một thời gian dài nếu không có sự giao tiếp. Việc cách xa mà không giao tiếp có xu hướng để lại một tình bạn khá lạnh nhạt và nghèo nàn. Khi bạn bè không duy trì được việc trao đổi tin tức và thông tin thường xuyên, thì sự quan tâm và yêu mến trở nên phai nhạt. Đáng buồn thay, một số người tôi gần gũi nhất trong thời sinh viên đã trở nên xa cách. Tất nhiên, đó là điều dễ hiểu. Chúng tôi đều bận rộn và cách xa nhau hàng ngàn dặm. Gia đình và chức vụ của chúng tôi đã chiếm quá nhiều thời gian, khiến tình bạn của những năm tháng trước đây trở thành một danh sách các thiệp Giáng sinh được gửi đi.

Ngay cả việc xa cách con cái hoặc vợ/ chồng cũng làm giảm thân mật trong mối quan hệ theo thời gian nếu mối quan hệ không được nuôi dưỡng bằng cách giao tiếp thường xuyên. Vài năm trước, tôi đã tham gia một mục vụ ở nước ngoài, và phải xa gia đình trong sáu tuần. Mặc dù tôi đã viết bưu thiếp và thư cho gia đình, nhưng tôi không nhận được một hồi âm nào. Trong sự cô đơn và mệt mỏi vì chức vụ, tôi hơi bực bội vì gia đình đã không liên lạc với tôi. Mối quan hệ gia đình của chúng tôi đã bị suy yếu do thiếu giao tiếp. Khi tôi trở về nhà, tôi biết rằng gia đình tôi thực sự đã viết thư cho tôi. Nhưng những lá thư đó không đến được vì tôi di chuyển hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng những lá thư đó cũng đã đến tay tôi — khi chúng được trả lại nhà tôi!

Nếu giao tiếp là quan trọng đối với việc duy trì tình bạn và mối quan hệ gia đình, thì điều đó cũng phải quan trọng trong việc phát triển mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Làm sao chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời rõ hơn nếu chúng ta không nói chuyện với Ngài và lắng nghe khi Ngài nói với chúng ta? Giao tiếp với Đức Chúa Trời là chìa khoá quan trọng để duy trì mối quan hệ lành mạnh và sống còn với Đức Chúa Trời.

ĐỨC CHÚA TRỜI GIAO TIẾP THÔNG QUA LỜI CỦA NGÀI

 

Kinh Thánh là một cuốn sách độc đáo. Nó được viết trong khoảng thời gian 1500 năm bởi khoảng bốn mươi tác giả. Thể loại văn học của Kinh Thánh bao gồm lịch sử, luật pháp, tiên tri, châm ngôn, dụ ngôn, bài hát, lời tôn vinh và thư tín. Kinh Thánh cho biết lịch sử của nhân loại và kế hoạch tương lai của Đức Chúa Trời đối với cõi sáng tạo của Ngài. Nó cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời và tiết lộ cách chúng ta có thể biết Ngài rõ hơn. Kinh Thánh tiết lộ kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời, chương trình vương quốc của Ngài, sự phán xét tội lỗi và Sa-tan trong tương lai. Qua Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đã giao tiếp với con người, tiết lộ những điều chúng ta cần biết để nhận được một đời sống sung mãn mãi mãi.

Ai đó đã ví Kinh Thánh như một bức thư tình. Khi tôi và Nancy đã đính hôn, cô ấy phải đi công tác xa với tư cách là người đại diện cho hội nữ sinh của mình. Điều này có nghĩa là chúng tôi phải cách xa nhau trong chín tháng và đồng thời chuẩn bị cho đám cưới của chúng tôi. Trong thời gian đó, chúng tôi nói chuyện với nhau mỗi tuần một lần qua điện thoại và viết thư cho nhau. Vâng, đó là những bức thư tình. Tôi đã nói với Nancy về những gì đã diễn ra trong cuộc đời tôi khi còn là một sinh viên tại chủng viện. Tôi cũng nói với cô ấy về tình yêu của tôi dành cho cô ấy và về những dự định trong tương lai của chúng tôi. Bất cứ khi nào tôi nhận được thư từ Nancy, tôi mang nó đến phòng ở ký túc xá và dành thời gian đọc bức thư đó một mình.

Tôi đã không đọc thư của Nancy và sau đó ném nó vào thùng rác. Nhưng tôi đã đọc đi đọc lại bức thư đó. Sau đó tôi cất nó vào ngăn bàn để có thể đọc lại. Tôi muốn ngẫm nghĩ về mọi lời nói, biểu hiện, và sắc thái. Khi tôi đọc đi đọc lại những bức thư của Nancy, tôi cảm thấy mình được gần bên cô ấy mặc dù cô ấy ở rất xa. Những kỷ niệm của tôi về cô ấy đã được khơi dậy và làm mới lại qua những bức thư đó.

Chúng ta nên đọc Kinh Thánh như bức thư của Đức Chúa Trời, bày tỏ tình yêu thương, sự quan tâm và kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta. Nếu bạn muốn biết Chúa rõ hơn, bạn không thể để lá thư của Ngài trong hộp thư chưa mở và chưa đọc. Bạn phải đọc đi đọc lại và nghiên cứu nó.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI GIAO TIẾP NHƯ THẾ NÀO

 

Một số điều chúng ta biết về bức thư tình của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh là gì? Đầu tiên, nó là lẽ thật. Chúa Giê-su phán, “lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật” (Giăng 17:17). “Lẽ thật” mà Chúa Giê-su đề cập chính là “lời” hoặc sự mặc khải mà Ngài đã nhận được từ Cha và được bày tỏ cho các môn đồ (17:8, 14). Mặc dù Chúa Giê-su không đề cập đến chính Kinh Thánh, nhưng lời tuyên bố của Ngài, “lời Cha tức là lẽ thật,” phản ánh sự nhìn nhận của Ngài về tính toàn vẹn của sự mặc khải từ Đức Chúa Trời. Kinh Thánh được ban cho chúng ta từ Đức Chúa Trời “Đấng không thể nói dối” (Tít 1:2; xem thêm Hê-bơ-rơ 6:18). Lời Đức Chúa Trời mang bản chất của lẽ thật thần thượng.

Thứ hai, Kinh Thánh được thần cảm. Phao-lô viết cho Ti-mô-thê rằng: “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình” (2 Ti 3:16). Thuật ngữ “Đức Chúa Trời soi dẫn” trong tiếng Hy-lạp là theopneustos gồm hai từ, theos (“Đức Chúa Trời”) và pneo (“soi dẫn”). Điều này có nghĩa là Kinh Thánh là nguồn thông điệp của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Thuật ngữ này được áp dụng cho tất cả Kinh Thánh, không chỉ một phần của Kinh Thánh. Tất cả Kinh Thánh, trong các bản viết tay gốc, đều có chung phẩm chất siêu nhiên này là được thần cảm.

Thứ ba, bởi vì Lời Đức Chúa Trời được thần cảm, nên Lời ấy là không sai lạc và vô ngộ. Thuật ngữ không sai lạc đề cập đến tính chính xác của việc ghi chép Kinh Thánh. Là một quyển sách được thần cảm, nó không thể sai hay nhầm lẫn. Trong nhiều năm là một giáo viên dạy Kinh Thánh, tôi rất thích nghiên cứu những đoạn Kinh Thánh mà các nhà phê bình đã trích dẫn làm ví dụ liên quan đến “những sai sót” trong Kinh Thánh. Và hầu hết những “sai sót” hoặc “mâu thuẫn rõ ràng” đã được giải quyết thông qua việc nghiên cứu cẩn thận. Những sai sót khác thì đang được giải quyết trong việc chờ đợi kết quả từ việc khám phá khảo cổ học trong tương lai và nghiên cứu Kinh Thánh. Thuật ngữ vô ngộ ám chỉ sự đáng tin cậy của Kinh Thánh như một hướng dẫn. Bức thư tình của Đức Chúa Trời gửi cho nhân loại sẽ không lừa dối chúng ta hay dẫn chúng ta đi sai lạc. Nếu chúng ta làm theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, chúng ta sẽ bước đi với Đức Chúa Trời và được Đấng Christ tiếp đón tại cổng thiên đàng.

Thứ tư, Kinh Thánh là một cuốn sách sống động. Tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết, “Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hê-bơ-rơ 4:12). Mặc dù đã hơn hai nghìn năm, nhưng Lời Đức Chúa Trời không hề chứa đựng những lời “chết chóc” của quá khứ. Kinh Thánh chứa đựng những lời “sự sống” (Công vụ 7:38). Đó là “lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1 Phi-e-rơ 1:23) bởi vì khi gieo vào lòng người, Kinh Thánh sinh ra sự sống đời đời! Kinh Thánh linh nghiệm ở chỗ nó hoàn thành mục đích mà nó đã được nói đến (Ê-sai 55:11). Những lời tiên tri của Đức Chúa Trời luôn được hiện thực hóa. Lời của Ngài không bao giờ bị lãng quên.

Thứ năm, Lời Đức Chúa Trời là đầy đủ. Sau khi mô tả Kinh Thánh là “Lời được Đức Chúa Trời soi dẫn,” Phao-lô nói rằng Kinh Thánh “có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn [theo nghĩa đen, ‘thông thạo’ và ‘đầy đủ’] để làm mọi việc lành” (2 Ti 3:16-17). Khi được áp dụng cẩn thận, Lời Đức Chúa Trời làm cho chúng ta trở nên thông thạo trong cuộc sống và được trang bị cho chức vụ. Kinh Thánh tiết lộ tất cả những gì chúng ta cần để biết Đức Chúa Trời và sống đời sống Cơ Đốc. Trong thời xưa, Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài “nhiều lần và theo nhiều cách” (Hêb 1:1). Nhưng trái ngược với sự mặc khải trước đây, vốn là từng phần và từng chút một, “những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài” (1:2). Sự mặc khải cuối cùng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là qua Con Ngài, Chúa Giê-su Christ, như đã được ghi lại trong Tân Ước.

Mặc dù Kinh Thánh vẫn là cuốn sách bán chạy nhất trong số các sách tôn giáo, nhưng nó thường là cuốn trên kệ bám nhiều bụi nhất. Nhưng đối với những ai muốn biết Đức Chúa Trời rõ hơn, thì Kinh Thánh là một cuốn sách được nâng niu và yêu thích. Đây là một cuốn sách được đọc và nghiên cứu, bởi vì nó là thông điệp riêng của Đức Chúa Trời nói với chúng ta những gì Ngài muốn chúng ta biết và làm.

 

SỰ TRUYỀN ĐẠT MÀ KHÔNG ĐẾN TỪ ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Có hai lĩnh vực tôi quan tâm liên quan đến chủ đề giao tiếp của Đức Chúa Trời. Đầu tiên, tôi quan tâm đến những người nói, “Chúa đã nói với tôi điều này” hoặc “Chúa bảo tôi làm điều kia,” khi những “sự mặc khải” này không được tìm thấy trong Kinh Thánh. Tôi đọc một bài làm chứng của một mục sư lỗi lạc viết rằng Chúa đã nói với ông rằng một cuộc phục hưng thuộc linh lớn sẽ diễn ra ở Mỹ, và ông đã tiến hành các cuộc họp đêm trên khắp đất nước để bắt đầu cuộc phục hưng này. Chúa thậm chí còn cho ông biết tên cụ thể sẽ được sử dụng cho chiến dịch này. Bây giờ tôi tin rằng người mục sư này là chân thành và có ý định tốt. Nhưng làm sao tôi biết được ông ấy có tưởng tượng ra những điều này hoặc mong ước chúng thành sự thật không?

Lịch sử Giáo hội đầy những minh họa về những người từng tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã nói với họ những điều nào đó. Vào năm 1981, Bill Maupin, người sáng lập một nhóm Cơ Đốc giáo theo trào lưu chính thống, tin chắc rằng Chúa đã tiết lộ cho ông rằng Hội Thánh sẽ được cất lên vào Chủ nhật ngày 28 tháng 6 năm 1981.2 Bill và một nhóm nhỏ những người theo ông đã bán tất cả tài sản của mình, nghỉ việc, chào tạm biệt bạn bè của họ, và tập trung tại nhà thờ để chờ đợi Chúa cất họ lên thiên đàng. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với Bill và những người theo ông kể từ ngày 28 tháng 6 năm 1981, nhưng Hội Thánh của Chúa vẫn đang chờ đợi để được cất lên vào một ngày nào đó. Rõ ràng là Chúa không nói với Bill như những gì ông nghĩ là Ngài đã nói.

Một sự kiện tương tự đã xảy ra ở Portland, Oregon, vài năm trước. John Gunter, một tín đồ Cơ Đốc tự xưng, đã tin rằng một trận động đất thảm khốc sẽ xảy ra ở Portland vào ngày 3 tháng 5 năm 1993. Theo lời chứng của chính ông, Chúa đã ban cho ông một “dấu hiệu” rằng một trận động đất sắp xảy ra.3 Vì thế mà ông đã cảnh báo những người khác, John đã viết một bức thư dự đoán một “trận động đất thảm khốc và kinh hoàng” sẽ hủy phá toàn bộ trung tâm thành phố Portland. Nhưng ngày 3 tháng 5 đến và đi không có điều gì xảy ra ngoài một cơn chấn động nhẹ ở thành phố Portland.

Có rất nhiều tiên tri giả trong dân Y-sơ-ra-ên thời cổ đại, tuyên xưng mình là người nói thay cho Đức Chúa Trời. Nhiều người có thiện ý và thật thà đã bị lừa dối và bị dẫn dụ bởi những tưởng tượng viển vông của các tiên tri giả. Hầu hết dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay cũng hãy cẩn thận. Nếu ai đó nói, “Đức Chúa Trời đã nói với tôi” điều này hoặc điều kia, tôi hỏi, “Bạn tìm thấy điều đó ở đâu trong Lời của Ngài?”

Một lĩnh vực mà tôi quan tâm thứ hai là về những người sử dụng Kinh Thánh như một cuốn sách ảo thuật để nhận được những tiết lộ hoặc chỉ dẫn được cá nhân hóa từ Đức Chúa Trời. Điều này thường là kết quả của việc áp dụng sai các câu chuyện và nguyên tắc trong Kinh Thánh. Gần đây, tôi đọc được lời chứng của một nhà lãnh đạo Cơ Đốc có con gái bị bệnh ung thư. Trong khi đau khổ trước tình cảnh khó khăn này, ông đã đọc lời của Chúa Giê-su trong Giăng 11:4, “Bệnh này không đến chết đâu, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” Trên nền tảng của câu Kinh Thánh này, ông kết luận rằng Chúa sẽ chữa lành bệnh ung thư cho con gái ông.4 Tất nhiên, qua việc tra xem ngắn gọn Giăng 11 cho thấy Chúa Giê-su đang ám chỉ trong câu 4 là về La-xa-rơ người đã chết, nhưng cái chết không phải là kết quả cuối cùng của bệnh tật đối với người đó. Câu này áp dụng cho một hoàn cảnh lịch sử rất cụ thể. Thật là một sự lạm dụng Kinh Thánh khi áp dụng một câu như vậy cho một trường hợp bệnh tật cá nhân ngày nay. Mặc dù Kinh Thánh là dành cho chúng ta, nhưng không phải tất cả Kinh Thánh đều được dùng để giải quyết mọi điều theo cách áp dụng trực tiếp hoặc lời hứa. Nguyên tắc của Giăng 11:4, được áp dụng xuyên thời gian cho mọi tình huống, đó là thử thách, giống như bệnh tật, có thể mang lại vinh hiển cho Đức Chúa Trời khi chúng ta đáp ứng lại bằng đức tin và sự tin cậy nơi Ngài trước những khó khăn trong cuộc sống của mình.

 

 

CON DÂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÁP ỨNG LẠI QUA SỰ CẦU NGUYỆN

 

Một trong những đặc ân lớn nhất mà Đức Chúa Trời ban cho con dân Ngài là cơ hội được tương giao với Ngài qua sự cầu nguyện. Trong khi bạn cần một cuộc hẹn để nói chuyện với một người quan trọng, như thị trưởng thành phố hoặc tổng thống Hoa Kỳ, thì Chúa lại luôn dành cơ hội cho tất cả mọi người. Bất kể vị trí hay địa vị xã hội của bạn là gì, bạn có thể đến với Đấng Tạo Hóa của vũ trụ thông qua lời cầu nguyện bất cứ lúc nào, không cần chờ đợi và không cần người trung gian. Bạn sẽ không bao giờ nhận được tín hiệu bận hoặc máy trả lời tự động thông báo rằng “Chúa đi ra ngoài vào buổi tối; vui lòng để lại tin nhắn.” Và tin nhắn bạn gửi sẽ không bao giờ bị trì hoãn hoặc bị lạc mất.

Cầu nguyện là gì? Câu trả lời hay nhất là câu trả lời tôi đã học được ở trường đại học thông qua mục vụ Chinh phục Sinh viên cho Đấng Christ. Những người mới tin đã được các nhân viên của mục vụ này hướng dẫn rằng cầu nguyện chỉ đơn giản là “nói chuyện với Chúa.” Định nghĩa hữu ích này gợi ý rằng cầu nguyện không cần phải cứng nhắc hoặc trang trọng. Chúng ta cũng không cần phải sử dụng thuật ngữ “Thee’s” và “Thou’s” theo kiểu lễ nghi như trong bản Tiếng Anh King James. Chúng ta không cần những cuốn sách đặc biệt về sự cầu nguyện hay những lời cầu nguyện được viết sẵn. Cameron V. Thompson, trước đây là giám đốc của Liên đoàn Di chúc Liên Mỹ, đã viết, “Cầu nguyện là bày tỏ sự bất lực của chúng ta và của những người khác trong danh Chúa Giê-su Christ trước ánh mắt yêu thương của một người Cha biết, hiểu, quan tâm và giải đáp.”5

Qua lời cầu nguyện và Lời Chúa, dân sự của Đức Chúa Trời có được đặc ân bước vào “cuộc trò chuyện với Đức Chúa Trời.” Nhưng cuộc trò chuyện bao gồm sự giao tiếp hai chiều. Bạn đã bao giờ quan sát một cuộc trò chuyện mà trong đó hai người đang nói chuyện với nhau nhưng không thực sự lắng nghe hoặc đáp lại những gì người kia đang nói? Người vợ nói, “Anh yêu, em thật sự quan tâm đến mẹ anh.” Người chồng đáp lại, “Thật tuyệt. Hôm nay thị trường chứng khoán ra sao?” Hoặc là cha mẹ viết thư cho con trai của họ, cậu con trai là một sinh viên đại học năm nhất, hỏi xem cậu ta đã quen biết được Cơ Đốc nhân nào chưa và tình trạng thuộc linh của cậu ta như thế nào. Cậu con trai viết thư lại rằng cậu ta đã tham gia vào một hội nam sinh đại học và cần thêm tiền. Có gì đó không ổn ở đây. Những người này không thực sự giao tiếp với nhau.

Thật không may, đây là điều thường xảy ra với các Cơ Đốc nhân khi họ giao tiếp với Đức Chúa Trời. Qua Kinh Thánh, Đức Chúa Trời bày tỏ mối quan tâm sâu sắc của Ngài về đời sống thuộc linh của chúng ta. Chúng ta đáp lại bằng cách cầu nguyện, “Xin giúp dì Mabel vượt qua căn bệnh gút; xin đừng để trời mưa vào thứ Bảy tuần này vì Hội Thánh có chương trình dã ngoại; và xin giúp con thực hiện kế hoạch mua chiếc xe mới đó.” Việc giao tiếp của chúng ta với Chúa sẽ được cải thiện biết bao nếu chúng ta để Ngài dẫn dắt cuộc trò chuyện và đáp lời các vấn đề được nêu ra trong Lời của Ngài.

 

Lời mở đầu trong sự cầu nguyện của Đa-ni-ên

Có thể tìm thấy một ví dụ điển hình về khuôn mẫu cầu nguyện trong Sách Đa-ni-ên. Tình hình lịch sử đó là sự lưu đày ở Ba-by-lôn. Vào năm 605 T.C, Đa-ni-ên và một số thanh niên thuộc hoàng gia đã bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn bắt giữ. Tám năm sau, mười ngàn người Do Thái đã bị trục xuất sang Ba-by-lôn. Cuối cùng, vào năm 586 T.C, Giê-ru-sa-lem bị phá hủy và phần lớn dân Giu-đa bị đày sang Ba-by-lôn.

Việc dân Do Thái bị lưu đày không phải là ngẫu nhiên trong chương trình của Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài. Sự phán xét này là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối với việc Y-sơ-ra-ên không tuân theo Giao ước Môi-se. Trong Phục-truyền 28:41 Đức Chúa Trời đã cảnh báo dân Y-sơ-ra-ên rằng việc không vâng lời sẽ dẫn đến việc bị lưu đày — tản lạc khỏi vùng đất của mình. Tuy nhiên, với lời hứa về sự phán xét đó là một lời hứa về sự phục hồi. Đức Chúa Trời hứa sẽ đáp lại sự ăn năn của dân sự bằng cách khôi phục dân tộc này khỏi sự lưu đày và đưa họ trở về vùng đất của mình (30:1-4).

Giê-rê-mi, một nhà tiên tri ở Giu-đa cùng thời với Đa-ni-ên, đã tiên tri về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Giu-đa và cảnh báo rằng dân sự sẽ ở tại Ba-by-lôn trong bảy mươi năm (Giê 25:11). Rồi sau bảy mươi năm, Ba-by-lôn sẽ bị tiêu diệt và dân Giu-đa trở về vùng đất của họ (29:10).

Khi Đa-ni-ên đang đọc các tác phẩm của Giê-rê-mi, ông biết được Đức Chúa Trời đã phán về số năm mà người Giu-đa bị lưu đày là “bảy mươi năm” (Đa 9:2). Đa-ni-ên nhận ra rằng thời kỳ bị lưu đày đã gần hoàn tất; thời gian trở về của những người bị lưu đày đã đến gần! Không nghi ngờ gì nữa, Đa-ni-ên đã tìm hiểu chi tiết về chương trình của Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài trong tương lai. Đức Chúa Trời sẽ khôi phục như thế nào và điều gì sẽ xảy ra sau đó?

Đa-ni-ên là con người của sự cầu nguyện. Ông đã chứng minh điều này khi ông thà dành một đêm với sư tử hơn là bỏ lỡ một ngày cầu nguyện! Ông biết Đức Chúa Trời sẽ mang dân tộc của ông trở về, nhưng ông nhận ra sự cần thiết của đức tin và sự cầu nguyện để đáp lại chương trình được mặc khải của Đức Chúa Trời. Điểm mấu chốt ở đây là Lời Đức Chúa Trời đã khiến Đa-ni-ên cầu nguyện và đem đến cho ông chủ đề của việc cầu nguyện. Việc học Lời Chúa là bước đầu cho việc cầu nguyện của Đa-ni-ên. Đa-ni-ên chuẩn bị cho việc cầu nguyện bằng cách học Lời Đức Chúa Trời. Sau đó, ông cầu nguyện theo những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ. Ông cầu nguyện cho sự hoàn thành kế hoạch của Đức Chúa Trời.

Việc học Lời Đức Chúa Trời trước khi cầu nguyện giúp bạn đáp ứng lại với chính Ngài và giúp bạn biết mình nên cầu nguyện điều gì. Nếu bạn là người mới bắt đầu tập tành trong việc cầu nguyện, thì việc học Lời Đức Chúa Trời trước sẽ giúp bạn biết phải nói chuyện với Đức Chúa Trời về vấn đề gì.

Trong lời cầu nguyện của mình, Đa-ni-ên không yêu cầu những điều kiện tốt hơn cho những người bị lưu đày tại Ba-by-lôn. Ông không cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ trẻ em Do Thái khỏi những ảnh hưởng ngoại giáo của Ba-by-lôn. Ông không yêu cầu Chúa dẹp bỏ đi hang sư tử. Đa-ni-ên cầu nguyện về những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ qua việc đọc Lời Đức Chúa Trời. Ông để Chúa đặt chủ đề cho cuộc trò chuyện và sau đó bám chặt vào chủ đề đó.

 

Khuôn mẫu của lời cầu nguyện của Đa-ni-ên

Lời cầu nguyện của Đa-ni-ên là một trong những lời cầu nguyện kinh điển trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể học được nhiều điều về cách giao tiếp với Đức Chúa Trời từ khuôn mẫu cầu nguyện mà Đa-ni-ên đã làm gương.

 

  • Tôn thờ (Đa 9:4). Biết rằng mình đang nói chuyện với Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Tạo Hóa của vũ trụ, Đa-ni-ên bắt đầu lời cầu nguyện với sự tôn thờ. Ông nói, “Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhơn từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài” (9:4). Đa-ni-ên đã nhận ra cùng với tác giả Thi-thiên, “Đức Giê-hô-va là lớn, rất đáng được ngợi khen” (Thi 48:1). Đa-ni-ên cũng nhận biết rằng Đức Chúa Trời là đáng kính, và đáng được vâng phục trong vòng những người thực sự biết Ngài (Truyền 12:13). Đa-ni-ên cũng nhận biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng trung thành hay thành tín. Ngài giữ lời giao ước và thành tín với những ai biết và yêu mến Ngài. Lời hứa Ngài là đáng nương dựa, và Lời Ngài là chắc chắn.

 

Đa-ni-ên bắt đầu lời cầu nguyện của mình bằng cách ca ngợi sự cao cả và tốt lành của Đức Chúa Trời. Thật là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Đã bao nhiêu lần chúng ta bắt đầu lời cầu nguyện mà hầu như không hề suy nghĩ về Đấng tuyệt vời mà chúng ta đang nói đến? Tôi chưa bao giờ gặp bất kỳ ai có địa vị chính trị cao hoặc nổi tiếng quốc tế. Nhưng nếu tôi được gặp, chắc chắn là tôi sẽ tôn trọng người đó và bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Vậy, tại sao khi cầu nguyện, chúng ta lại cư xử với Đức Chúa Trời một cách thiếu tôn trọng và bất kính? Những lời cầu nguyện của chúng ta không cần phải trang trọng hay nghiêm nghị khi chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sự cảm kích sâu sắc với Đức Chúa Trời tuyệt vời, cao cả của chúng ta.

 

Xưng tội (Đa 9:5-15). Sau khi thừa nhận sự vĩ đại và tốt lành của Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên ngay lập tức xưng nhận tội lỗi mình. Điều này có thể gây ngạc nhiên vì Đa-ni-ên được biết đến là một người chính trực và không có bất kỳ tội lỗi nào mang tính cá nhân trắng trợn. Tuy nhiên, ở đây, ông đã xác nhận mình với dân tộc của ông khi xưng nhận tội lỗi của cả dân tộc. Đa-ni-ên nói, “Chúng tôi đã phạm tội,” chứ không phải “Họ đã phạm tội.” Ông nhận ra rằng việc thành thật xưng nhận tội lỗi là bước đầu tiên dẫn tới việc tái lập mối thông công đã bị rạn nứt và dân tộc của ông được trở về vùng đất của họ.

Đa-ni-ên bắt đầu, “chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và lệ luật của Ngài” (9:5). Ở đây, chúng ta thấy một cường độ ngày càng tăng khi Đa-ni-ên sử dụng các cách diễn đạt theo hướng nghiêm trọng hơn chỉ về tội lỗi của dân sự. Sau đó Đa-ni-ên nhớ lại cách người Giu-đa coi thường các tiên tri mà Đức Chúa Trời đã sai đến để khiển trách dân sự nhằm khiến họ trở lại với Ngài (9:6). Ông nói rõ hơn về sự xấu hổ của tội lỗi và hậu quả của nó trong đời sống của dân sự Đức Chúa Trời (9:7-15). Đối với Đa-ni-ên, việc xưng nhận tội lỗi không phải là một vấn đề nhỏ.

Việc nhận biết tội lỗi của mình là điều cần thiết tuyệt đối khi gặp Đức Chúa Trời hằng sống, thánh khiết. Khi Ê-sai nhận được khải tượng về Đức Chúa Trời thánh khiết ngồi trên ngôi cao sang vinh hiển, vị tiên tri này đã không thể không xưng nhận tội lỗi của mình. Ông nói, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giê-hô-va vạn quân” (Ê-sai 6:5). Xưng nhận tội lỗi là một phần quan trọng trong sự cầu nguyện của Cơ Đốc nhân. “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (I Giăng 1:9).

 

  • Sự khẩn nài (Đa 9:16-19). Phần cuối cùng trong lời cầu nguyện của Đa-ni-ên là sự khẩn nài hoặc thỉnh cầu của ông. Ngược lại, đây là điều mà hầu hết chúng ta bắt đầu trong khi cầu nguyện. “Lạy Chúa, xin ban phước và giúp đỡ cho chúng con để hôm nay là một ngày tốt lành.” Mặc dù không có gì sai đối với một sự kêu cầu giúp đỡ ngắn gọn như thế (xem Ma-thi-ơ 14:30), nhưng lời cầu nguyện của Đa-ni-ên đã cho chúng ta một khuôn mẫu tốt.

 

Khi nghiên cứu lời khẩn nài của Đa-ni-ên, chúng ta khám phá ra một lẽ thật quan trọng. Đó là đối với mỗi lời thỉnh cầu Đa-ni-ên dựa trên một thuộc tính của Đức Chúa Trời. Ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời về những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ về chính Ngài. Lời thỉnh cầu đầu tiên của Đa-ni-ên dựa trên sự công bình của Đức Chúa Trời. Ông nói, “Hỡi Chúa, tôi cầu xin Chúa cứ mọi sự công bình Ngài khiến cơn giận và thạnh nộ của Ngài xây khỏi thành Giê-ru-sa-lem Ngài, tức là núi thánh Ngài” (Đa 9:16). Đa-ni-ên biết rằng Đức Chúa Trời là công bình, Ngài luôn làm điều đúng và công bình. Dựa vào thuộc tính này, Đa-ni-ên cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ biến cơn thịnh nộ của Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem, khôi phục dân Ngài và đền thờ của họ.

Lời thỉnh cầu thứ hai của Đa-ni-ên dựa trên lòng thương xót của Đức Chúa Trời. “Hỡi Đức Chúa Trời tôi, xin ghé tai và nghe. Xin mở mắt nhìn xem những nơi hoang vu của chúng tôi, và thành đã được xưng bởi danh Ngài! Không phải cậy những sự công bình mình mà chúng tôi nài xin Ngài, nhưng cậy những sự thương xót cả thể của Ngài” (9:18). Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng thương xót. Đây là điều đầu tiên mà Ngài nói về chính Ngài trong sự tự mặc khải của Ngài cho Môi-se (Xuất 34:6). Thuật ngữ thương xót có nguồn gốc từ thuật ngữ chỉ về tử cung của người mẹ, biểu thị tình cảm và sự quan tâm dịu dàng của người mẹ dành cho con mình. Dựa trên lòng thương xót của Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời cầu nguyện của ông và đáp ứng nhu cầu của ông. Richard C. Trench, cố tổng giám mục ở Dublin, nói, “Sự cầu nguyện không phải để thuyết phục sự miễn cưỡng của Đức Chúa Trời, mà là để nắm lấy sự sẵn lòng của ngài.” Trong lời cầu nguyện của mình, Đa-ni-ên đã nắm lấy sự sẵn lòng của Đức Chúa Trời, dựa trên thuộc tính thương xót của Ngài.

Lời khẩn nài thứ ba của Đa-ni-ên dựa trên danh của Đức Chúa Trời. Ông nói, “Hỡi Chúa! hãy dủ nghe; hỡi Chúa! hãy tha thứ; hỡi Chúa! hãy để ý và làm đi. Hỡi Đức Chúa Trời tôi! vì cớ chính Ngài, xin chớ trì hoãn; vì thành Ngài và dân Ngài đã được xưng bằng danh Ngài” (Đa 9:19). Vào thời Kinh Thánh, một người thường được đặt tên hoặc đổi tên dựa trên một số đặc điểm tính cách đáng chú ý. Tên của một người biểu thị danh tiếng của người đó. “Danh xưng” của Đức Chúa Trời là sự mặc khải về bản thể của Ngài, đặc tính và danh tiếng của Ngài. Đức Chúa Trời được nổi danh trong vòng dân Y-sơ-ra-ên và ngay cả trong dân ngoại. Đa-ni-ên cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ giang rộng tình yêu của Ngài cho dân sự Ngài và thay họ hành động dựa trên sự nỗi danh đầy vinh hiển của Ngài.

Chúng ta không nên ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Đa-ni-ên. Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ Gáp-ri-ên, một sứ giả, để đáp lời khẩn cầu của Đa-ni-ên (9:20-22). Gáp-ri-ên giải thích rằng người Do Thái sẽ được trở về sau khi bị lưu đày tại Ba-by-lôn, nhưng Ngài cũng phán với Đa-ni-ên về chương trình của Đức Chúa Trời theo như lời tiên tri dành cho dân Y-sơ-ra-ên (9:24-27). Đức Chúa Trời không chỉ nhậm lời cầu nguyện của Đa-ni-ên; Ngài còn ban cho ông thậm chí nhiều hơn những gì ông khẩn cầu!

Lời cầu nguyện của Đa-ni-ên đã cho chúng ta một khuôn mẫu tuyệt vời để tương giao với Đức Chúa Trời — tôn thờ, xưng tội, khẩn nài. Khi Đức Chúa Trời phán với chúng ta qua Lời của Ngài, chúng ta được khuyến khích đáp lại Ngài trong sự cầu nguyện và cảm ơn Ngài trước về những gì Ngài sẽ làm. Như Phao-lô đã viết, “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phi-líp 4:6).

 

NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA SỰ CẦU NGUYỆN

 

Ngoài những nguyên tắc được nêu trong lời cầu nguyện của Đa-ni-ên, tôi muốn đề xuất một số các chỉ dẫn đã giúp tôi phát triển mối tương giao với Đức Chúa Trời.

 

Cầu Nguyện Trong Danh Chúa Giê-su

Chúa Giê-su nói với các môn đồ của Ngài, “Các ngươi nhân danh ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con. Nếu các ngươi nhân danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho” (Giăng 14:13-14). Cầu nguyện trong danh Chúa Giê-su có nghĩa là gì? Đây không phải là một công thức ma thuật, và nó không chỉ là một kết luận cho những lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện trong danh Chúa Giê-su là trình dâng một lời cầu nguyện mà Ngài vui lòng để cầu thay cho chúng ta. Nó giống như việc ký tên của Chúa Giê-su vào lời cầu nguyện của chúng ta, là lời nói có hiệu lực rằng, “Tôi nghĩ đây là điều Chúa Giê-su muốn.”

 

Cầu Nguyện Cách Kiên Trì

Chúa Giê-su nói, “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho” (Mat 7:7). Các mệnh lệnh trong câu này ở thì hiện tại, biểu thị hoạt động liên tục. “Cứ tiếp tục xin, cứ tiếp tục tìm kiếm; cứ tiếp tục gõ cửa.” Kiên trì trong sự cầu nguyện không phải là một phương tiện bắt buộc Đức Chúa Trời hành động: thay vào đó nó thể hiện sự nghiêm túc đối với những khẩn cầu của chúng ta. Và kiên trì trong sự cầu nguyện khác với sự nài nỉ. Chúng ta không nên đòi hỏi Chúa phải trả lời theo cách và thời điểm của chúng ta, nhưng chúng ta nên tiếp tục bày tỏ cho Ngài biết những thỉnh cầu của chúng ta.

 

Cầu Nguyện với Lòng Tin Kính Thật

Chúa Giê-su khiển trách những người Pha-ri-si dùng lời cầu nguyện như một phương tiện thu hút sự chú ý và thể hiện lòng mộ đạo của họ. Họ cầu nguyện trong các nhà hội và ở các góc đường “để được người ta nhìn thấy” (Mat 6:5).

 

Cầu Nguyện với Sự Chân Thành

Chúa Giê-su chỉ ra lỗi của những người ngoại vì họ nghĩ rằng nói nhiều sẽ khiến lời cầu nguyện của họ hiệu quả hơn (Mat 6:7). Lỗi của họ là việc lặp đi lặp lại cách vô nghĩa. Những lời cầu nguyện của chúng ta phải là sự thể hiện của một tấm lòng chân thành, không phải là một sự trả bài thuộc lòng của trí nhớ.

 

Cầu Nguyện với Đức Tin

Chúa Giê-su hứa, “Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả” (Mat 21:22). Đức Chúa Trời được tôn cao khi chúng ta đưa ra lời khẩn cầu, và tin rằng Ngài có thể đáp lại và nhậm lời.

 

Cầu Nguyện với Một Tấm Lòng Trong Sạch

Kinh Thánh dạy rằng tội lỗi trong đời sống của chúng ta là một trở ngại cho việc cầu nguyện. Ê-sai cảnh báo, “Nhưng ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi, đến nỗi Ngài không nghe các ngươi nữa” (Ê-sai 59:2). Tác giả Thi thiên đã viết, “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, Ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi 66:18). Tương tự như vậy, Phi-e-rơ đã khuyên các ông chồng phải tôn trọng vợ mình, đối xử với họ một cách kính nể, “hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu nguyện của anh em” (1 Phi 3:7). Đa-vít đã viết rằng để bước vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, thì tấm lòng chúng ta phải trong sạch (Thi 24:3-4).

 

Cầu Nguyện với Bất Cứ Điều Gì ở Trong Lòng Bạn

Không có điều nào là không đáng để cầu nguyện. Phao-lô viết, “trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phi 4:6). Nếu điều đó ở trong lòng bạn, thì đó là một vấn đề chính đáng cho việc cầu nguyện. Hãy đem tất cả những điều bạn quan tâm đến trước mặt Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương bạn, quan tâm bạn, lắng nghe bạn, và nhậm lời bạn. “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phi 5:7).

 

CẢI THIỆN MỐI TƯƠNG GIAO

 

Giao tiếp là một trong những thách thức lớn nhất trong cuộc sống. Tôi muốn trở thành một người giao tiếp tốt hơn. Tôi muốn cải thiện sự giao tiếp của tôi với vợ, các con, các đồng nghiệp, và các học sinh của tôi. Nhưng trên hết, tôi muốn cải thiện mối tương giao của mình với Đức Chúa Trời. Tôi khao khát được trải nghiệm điều gì đó mà Môi-se đã có được khi Đức Chúa Trời nói chuyện với ông “mặt đối mặt, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình” (Xuất 33:11). Vì sự tương giao là chìa khóa để phát triển và cải thiện các mối quan hệ, nên mọi tín đồ nên tìm kiếm để cải thiện mối tương giao của mình với Đức Chúa Trời.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

20

 

Trả Lời Những Câu Hỏi Khó về Đức Chúa Trời

 

Là giáo sư của một chủng viện tôi được nghe nhiều câu hỏi về Kinh thánh, thần học, và đời sống Cơ Đốc nhân. Nhưng những câu hỏi mà tôi nhận thấy đầy thách thức và thú vị là những câu hỏi về Đức Chúa Trời. Những thách thức nằm ở thực tế rằng những tạo vật giới hạn như con người luôn tìm kiếm để hiểu biết sự mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa vô hạn. Sự khích lệ đến qua việc cố gắng giãi bày những gì Kinh thánh đã bày tỏ mà không sửa đổi lẽ thật.

Thật tự phụ khi cho rằng chúng ta hoàn toàn có thể hiểu bản tánh của Đấng Toàn Năng. Nhưng Đức Chúa Trời đã bày tỏ một số điều nhất định về Ngài mà chúng ta có thể nắm giữ, quả quyết và công bố. Chương sách này được phác thảo nhằm cung cấp những câu trả lời ngắn gọn cho những câu hỏi thường gặp nhất về Đức Chúa Trời.2 Trong khi một số những câu trả lời này tóm tắt tài liệu đã nêu ra trong những chương trước, tất cả đều tìm cách đưa ra những câu trả lời cô đọng cho những câu hỏi thường gặp.

Làm sao tôi có thể tin vào Đức Chúa Trời? Nếu có một Đức Chúa Trời, tại sao Ngài đã để cho quá nhiều người bị chết trong Chiến Tranh Việt Nam?

Câu hỏi này đã được nêu ra bởi một người vô thần người đã từng lên kế hoạch trở thành mục sư Baptist cho đến khi anh ta phục vụ với vai trò một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm y tế trong Chiến tranh Việt Nam. Vấn đề về sự nhân từ và công bình của Đức Chúa Trời trong một thế giới tàn nhẫn và bất công là một trong nhiều sự chống đối nổi lên nghịch cùng sự hiện diện của Đức Chúa Trời. “Nếu có Đức Chúa Trời, tại sao Ngài để cho con người gặp phải các bi kịch?” Ngụ ý của loại câu hỏi này là nếu tất cả những sự chống đối về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời được trả lời thì mọi người chắc hẳn sẽ tin vào Ngài. Nhưng bất luận có bao nhiêu sự chống đối được trả lời, luôn luôn có nhiều câu hỏi như vậy có thể được nêu ra (1 Cor. 1:18). Cuối cùng, tin Chúa đòi hỏi một bước đi bởi đức tin.

Những bằng chứng, lời biện hộ và triết học Cơ đốc có thể mang lại sự trấn an cho những người đang xem xét những tuyên bố của Cơ đốc giáo. Nhưng điều này giống như một người nhảy dù kiểm tra xem anh ta đã mang chắc chiếc dù của mình như thế nào khi anh ta đang đứng tại ngưỡng cửa của máy bay. Bất luận anh ta kiểm tra chiếc dù của mình đến bao nhiêu lần, anh ta sẽ vẫn cần thực hành đức tin khi nhảy ra bên ngoài. Tương tự như vậy trong quyết định tin Đức Chúa Trời và tin cậy Đấng Christ. Điều này đòi hỏi một bước đi bằng đức tin. Chỉ khi chúng ta đã thực hiện bước đi trước tiên này, chúng ta mới bắt đầu hiểu được một điều gì đó về thuộc tánh của Đức Chúa Trời và tại sao Ngài để cho những bi kịch xảy ra, như trong chiến tranh tại Việt Nam.

Trong Hê-bơ-rơ 11:6 có chép, “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” Niềm tin vào Đức Chúa Trời đến thông qua sự nhận biết về sự hiện hữu của Ngài như đã được tỏ ra thông qua sự sáng tạo và được bày tỏ bởi Lời Ngài. Niềm tin không phải là điều gì đó mà người ta có thể đến với nó chỉ nhờ vào suy luận hợp lô-gíc. Đức Chúa Trời phải làm việc trong lòng của cá nhân đó để kéo người ấy đến với chính Ngài. Chúa Giê-su phán rằng, “Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt.” (Giăng 6:44; xem Ma-thi-ơ. 11:27). Nhiều người thực hiện bước đầu tiên của đức tin như người đàn ông có đứa con trai bị quỷ ám đã kêu lên, “Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi” (Mác 9:24). Nhưng Đức Chúa Trời tán dương bước đi ngập ngừng đó của đức tin và khuyến khích nó phát triển như hạt cải nhỏ thành một đức tin mạnh mẽ và kiên định.

Chỉ khi đó, từ thái độ của đức tin, chúng ta mới có thể bắt đầu hiểu điều gì có vẻ khó hiểu trong các thuộc tánh của Đức Chúa Trời và chấp nhận lẽ thật mà Lời Đức Chúa Trời bày tỏ (Hê 11: 3).

Nếu Đức Chúa Trời là tốt lành, tại sao Ngài cho phép điều ác xâm nhập vào thế gian?

Câu hỏi này có liên quan đến câu hỏi về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và sự hiện diện của cái ác. Đối với những người đã khẳng định đức tin của họ vào Đức Chúa Trời, vẫn còn câu hỏi tại sao Ngài lại để cho những tệ nạn như chiến tranh, nạn đói và giết người hàng loạt xảy ra trên trái đất này. Chương 12 chú trọng vấn đề này một cách sâu xa, nhưng một bản tóm tắt sẽ được cung cấp ở đây.

Trước tiên, Kinh Thánh nói rõ rằng Đức Chúa Trời là tốt lành (Na-hum 1:7) và Ngài chống lại điều ác (Giê-rê-mi 44: 4; Xa-cha-ri 8:17; Gia-cơ 1:13). Điều ác đến thế gian do tội lỗi và sự sa ngã của A-đam (Rô-ma 5:12). Tệ nạn giết người, lạm dụng ma túy và sự khiêu dâm tồn tại bởi vì con người đã quay lưng lại với Đức Chúa Trời và theo đuổi những thú vui ích kỷ thay vì những phước lành được ban tặng qua đức tin nơi Đấng Christ. Chúng ta không nên đổ lỗi những điều này cho Đức Chúa Trời mà lỗi này là do chính chúng ta và nhân loại sa ngã (Rô-ma 3:10-18).

Tuy nhiên, Đức Chúa Trời tể trị điều ác cũng như Ngài tể trị điều thiện. Chúa có thể can thiệp để ngăn chặn những thảm kịch của con người. Nhiều lần Ngài làm như vậy. Tất cả chúng ta đều có thể nghĩ đến những trường hợp có thể dẫn đến sự chết nếu Đức Chúa Trời không quan phòng và nhân từ giải cứu chúng ta. Nhưng khi Ngài chọn cho phép chúng ta gặp điều ác hơn là điều lành, thì Ngài không đáng bị oán trách. Đức Chúa Trời không bao giờ được gán cho sự ác. Ngay cả trong kế hoạch thần hựu của Đức Chúa Trời, có thể bao gồm các hành động tội lỗi, nhưng con người phải chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình (Công vụ 2:23; Gia-cơ 1:13).

Nếu Đức Chúa Trời có thể ngăn chặn sự đau khổ, tại sao Ngài cho phép điều đó xảy ra?

Kinh thánh dạy rằng “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định” (Rô-ma 8:28). Thật yên tâm biết rằng khi Đức Chúa Trời cho phép đau khổ, Ngài đang hoàn thành một điều gì đó tốt đẹp. Những điều tốt này bao gồm xây dựng sự bền bỉ và kiên trì trong cuộc sống của chúng ta (Rô-ma 5:3; Gia-cơ 1:3), giúp chúng ta trưởng thành khi bước theo Đấng Christ (1:4), chứng tỏ tính cách tin kính của chúng ta (Rô-ma 5:4), phát triển tánh hạnh giống Đấng Christ (8:28-29), giúp chúng ta trưởng thành trong sự thánh khiết cá nhân (Hê-bơ-rơ 12:10), và đem lại cho chúng ta sự bảo đảm rằng chúng ta là con cái của Ngài (12:7-8). Chúng ta có thể không thấy điều tốt đẹp mà Đức Chúa Trời đang hoàn thành, nhưng chúng ta có thể tin chắc rằng các mục đích đời đời của Ngài đang được hoàn thành qua những thử thách chúng ta trải qua. Đôi khi những sợi chỉ đen tối cũng cần thiết như những sợi vàng và bạc theo khuôn mẫu mà Đức Chúa Trời đã định sẵn. Nhưng một ngày nào đó Ngài sẽ vén tấm thảm của cuộc đời chúng ta ra, và chúng ta sẽ thấy công việc tuyệt vời mà Đức Chúa Trời đã hoàn thành thông qua sự đau khổ. Điều quan trọng là phải hướng đến cõi đời đời khi trải qua các sự đau đớn. Phao-lô đã viết, “Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (2 Cô-rinh-tô 4:17-18).

Đức Chúa Trời nhận thấy rằng đôi khi sự vinh hiển lớn hơn sẽ đến cho danh Ngài bằng cách cho phép điều ác xảy ra hơn là không cho phép gì cả. Từ góc độ con người và thế gian, thật khó hiểu tại sao đôi khi Đức Chúa Trời để cho con người đau khổ vì mục đích mang lại vinh hiển lớn hơn cho chính Ngài. Nhưng nếu mục đích của cuộc đời chúng ta là tôn vinh Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 10:31), lúc đó chúng ta sẽ vui lòng chấp nhận đau khổ để bày tỏ cách đầy đủ hơn sự vĩ đại của Đức Chúa Trời chúng ta.

Nếu Đức Chúa Trời không có thân thể hữu hình, thì Ngài có ý gì khi Ngài phán, “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta” (Sáng thế ý 1:26)?
Mặc dù Sáng thế ký cho biết rằng con người được tạo dựng theo “hình ảnh” của Đức Chúa Trời, nhưng không nơi nào trong Kinh thánh giải thích tỏ tường điều này. Do đó có rất nhiều tranh luận về chủ đề này. Các nhà thần học đồng ý rằng sự giống nhau với Đức Chúa Trời khiến loài người trở nên độc nhất trong những tạo vật của Ngài. Không con vật nào được cho là được tạo ra theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Các nhà thần học cũng đồng ý rằng sự tương đồng này với Đức Chúa Trời không phải là về thể chất, vì “Đức Chúa Trời là thần linh” (Giăng 4:24) và không có thân thể hữu hình.
Thông thường, “hình ảnh của Chúa” được giải thích theo các khía cạnh phi vật chất mà chúng ta được dự phần với Ngài — trí tuệ, cảm xúc và ý chí của chúng ta. Một số ý kiến khác cho rằng “hình ảnh” này đề cập cụ thể hơn đến những phẩm chất thiêng liêng được Đức Chúa Trời chia sẻ cho loài người. Một quan điểm khác cho rằng được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời có nghĩa là con người phải lấp đầy, chinh phục và quản trị trái đất (Sáng 1:28). Nhân loại được tạo ra để thực hiện quyền lãnh chúa và quyền thống trị đối với tạo vật với tư cách là hình ảnh và đại diện hữu hình của Đức Chúa Trời.3 Đa-vít đã công bố trong Thi-thiên 8:5-6 rằng đây là một sự kêu gọi cao quý và vinh dự. Mặc dù khả năng lấp đầy, chinh phục và quản trị của chúng ta đã bị thay đổi từ khi tội lỗi xâm nhập vào thế gian, nhưng Kinh thánh cho biết rằng loài người vẫn giữ hình ảnh thiêng liêng của Đức Chúa Trời (9:6; 1 Cô-rinh-tô 11:7). (Để biết thêm, hãy xem Robert A. Pyne, Nhân loại và Tội lỗi, trong tập sách này.)

Phải chăng Đức Chúa Trời là “Đàn Ông”?
Trong Tuần Thánh, một tuần trước Lễ Phục sinh, một bức tượng bị đóng đinh trên thập hình đại diện cho Chúa Cứu Thế là một người nữ được trưng bày phía sau bàn thờ tại thánh đường Episcopal ở New York. Tác phẩm bằng đồng, do nhà điêu khắc Edwina Sandys làm ra, được gọi là “Christa.” Có lần tôi nghe thấy một nữ mục sư bắt đầu lời cầu nguyện của mình, “Lạy Chúa là Cha và cũng là Mẹ của chúng con.” Điều này đặt ra một câu hỏi thú vị cho một sự sinh thực nhận biết về giới tính. Chúa là nam hay nữ? Hay Ngài thuộc giới tính trung lập?
Rõ ràng trong Kinh thánh cho biết rằng Chúa Giê-su Christ là một người nam. Thiên sứ Gáp-ri-ên nói cùng Ma-ri rằng người sẽ “sanh một con trai” (Lu-ca 1:31, NASB). Lu-ca có chép rằng Ma-ri “sanh con trai đầu lòng” (2:7, NASB). Theo Kinh thánh và lịch sử, ý tưởng về một nữ Chúa Cứu Thế là không có cơ sở. Trong sự nhập thể của Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-su, ngôi thứ hai của Thiên Chúa Ba Ngôi, rõ ràng là nam.
Nhưng còn ngôi thứ nhất của Chúa Ba Ngôi thì sao? Nói về công việc của Đức Chúa Trời trong giữa dân sự Y-sơ-ra-ên, Môi-se nói: “Ngài há chẳng phải là Cha ngươi, Đấng đã dựng nên ngươi chăng?” (Phục truyền. 32:6). Các đấng tiên tri thường gọi Đức Chúa Trời là “Cha” (Ê-sai 63:16; 64:8; Giê-rê-mi 3:4, 19; 31:9; Ma-la-chi 1:6; 2:10). Chúa Giê-su luôn gọi Đức Chúa Trời là “Cha” của Ngài (Ma-thi-ơ 5:16, 45; 6:1, 4, 6, 8). Ngài dạy các môn đồ của Ngài cầu nguyện với “Cha” của họ ở trên trời (6:9). Phao-lô khẳng định rằng “có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha” (1 Cô-rinh-tô 8:6), và ông đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời là “Cha” (Ê-phê-sô 3:14). Trong Kinh Thánh, chúng ta nhận ra rằng ngôn ngữ mang thuộc tính nam tính thường được dùng để mô tả Đức Chúa Trời.
Đương nhiên ở đây có một số điều cần lưu ý. Trước tiên, chúng ta phải nhận biết rằng “Đức Chúa Trời là thần linh” (Giăng 4:24), và do đó ngôn ngữ nam tính không thể ám chỉ con người thể chất của Đức Chúa Trời. Chúa không có thân thể đàn ông. Thứ hai, việc Kinh Thánh mô tả Đức Chúa Trời là nam tính không loại trừ khía cạnh nữ tính trong bản chất của Ngài. Thật vậy, điều đầu tiên Đức Chúa Trời tự nói về mình trong sự mặc khải cho Môi-se rằng Ngài là Đấng có “lòng trắc ẩn,” một từ dựa trên từ gốc tiếng Do Thái nói về “dạ con”. Tình yêu thương và lòng trắc ẩn của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta giống như tình yêu thương của người mẹ dành cho con mình. Đức Chúa Trời có tình yêu thương của một người mẹ dành cho những gì thuộc về Ngài.
Rõ ràng là Đức Chúa Trời hằng sống vượt qua ranh giới giới tính cho nên các phạm trù nam nữ không thể áp dụng đối với Ngài. Đức Chúa Trời được trình bày trong Kinh Thánh là “ông”, nhưng từ này không đòi hỏi tính chính xác như khi được sử dụng đối với con người. Một số người đã gợi ý rằng chúng ta nên thay đổi những điều có nền tảng Kinh thánh liên quan đến Đức Chúa Trời là Cha là một từ chỉ nam tính sang một danh nghĩa không cụ thể về giới tính. Nhưng tôi tin rằng điều này là sai. Đức Chúa Trời đã chọn bày tỏ chính Ngài trong Kinh Thánh là nam tính. Tuy nhiên, theo quan điểm về bản chất thiêng liêng của Đức Chúa Trời, chúng ta phải cẩn thận không giải thích thuật ngữ chỉ về nam tính là phản ánh bản chất thiêng liêng của Ngài. (Để biết thêm, xin xem Donald G. Bloesch, Is the Bible Sexist? [Westchester, Ill.: Cross-way, 1982), 61-82; and The Battle for the Trinity [Ann Arbor, Mich.: Servant, 1985], 29-41.)

Phải chăng một trong những thuộc tính của Đức Chúa Trời nổi bật hơn những thuộc tính khác?

Các nhà thần học tranh luận để biết tình yêu của Đức Chúa Trời hay sự thánh khiết của Ngài là thuộc tính lớn nhất hay nổi bật nhất của Ngài. Phần lớn, tôi thấy các thuộc tính của Chúa giống như các mặt của một viên kim cương quý giá. Mỗi mặt phản chiếu và hiển thị ánh sáng tỏa ra từ viên đá quý. Viên kim cương cần từng mặt để thể hiện đầy đủ độ sáng của nó. Cả tình yêu của Đức Chúa Trời và sự thánh khiết của Ngài đều là những thuộc tính cơ bản của Đức Chúa Trời, và sẽ là sai lầm nếu nhấn mạnh điều này hơn điều kia.

Tuy nhiên, có một thuộc tính hàng đầu trong danh sách những điều mà Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong sự tự mặc khải với Môi-se (Xuất Ê-díp-tô ký 34:6-7). Điều đầu tiên ai đó nói về bản thân họ thường khá quan trọng. Đây có thể là trường hợp của Chúa. Tôi tin rằng điều quan trọng là thuộc tính đầu tiên mà Đức Chúa Trời đề cập đến với Môi-se là lòng trắc ẩn của Ngài. “Ngài đi ngang qua mặt người, hô rằng: Giê-hô-va! Giê-hô-va! Là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực” (34:6). Vì được đề cập đầu tiên trong sự tự mặc khải của Đức Chúa Trời, nên “lòng trắc ẩn” có thể là thuộc tính cá nhân ưu việt của Đức Chúa Trời. Như đã lưu ý trước đó, từ “lòng trắc ẩn” dựa trên tiếng Do Thái có nghĩa là “dạ con”. Giống như một người mẹ yêu thương, Đức Chúa Trời có lòng quan tâm trắc ẩn đối với dân sự của Ngài.

Mặt khác, khi Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát một bài hát kỷ niệm chiến thắng của họ trước người Ai Cập, họ chúc tụng rằng Đức Chúa Trời là “uy nghi trong quyền năng” và “uy nghi trong sự thánh khiết” (15:6, 11). Vậy, có khả năng một trong những thuộc tính này là nổi bật nhất không? Tozer tin rằng sự thánh khiết là thuộc tính chính yếu của Đức Chúa Trời. Ông viết, “Vì Ngài là thánh, tất cả các thuộc tính của Ngài đều là thánh; nghĩa là, bất cứ điều gì chúng ta nghĩ là thuộc về Chúa phải được coi là thánh.” Liệu tình yêu của Đức Chúa Trời có quan trọng hơn các thuộc tính khác của Ngài hay không? Liệu tình yêu của Đức Chúa Trời có quan trọng hơn các thuộc tính khác của Ngài hay không có thể bị đem ra bàn cãi. Nhưng sự nổi bật trong mô tả của Đức Chúa Trời về chính Ngài và điều đó dường như là nền tảng cho mối quan hệ của chúng ta với Ngài. (Để nghiên cứu thêm, hãy xem chương 5, “Sự tự mặc khải của Đức Chúa Trời.”)

Phải chăng Đức Chúa Trời tìm cách bày tỏ vinh quang của Ngài thông qua sự đau khổ của con người là điều sai trật?

Khi Chúa Giê-su hay tin La-xa-rơ bị bệnh và sắp chết, Ngài nói cùng các môn đồ rằng, “Bịnh nầy không đến chết đâu, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu cho Con Đức Chúa Trời bởi đó được sáng danh” (Giăng 11:4). Một số người đã tự hỏi liệu Đức Chúa Trời tìm cách tôn cao danh Ngài thông qua sự đau khổ của con người phải chăng là điều tự phụ và sai trái. Nhưng làm sao có thể đúng khi Đức Chúa Trời tự tôn vinh Ngài trong khi Kinh Thánh không khuyến khích việc tự tôn vinh bản thân (Thi thiên 115:1; 1 Cô-rinh-tô 1:27-29; 10:31; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:6)?

Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được Kinh Thánh đề cập đến danh cao quý của Ngài như được biết đến và hiển thị qua các thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Trời được tôn vinh khi danh Ngài được tôn cao trước mặt người khác qua hành động của những người vâng phục. Chúa Giê-su Christ đã tôn vinh Đức Chúa Trời là Cha qua đời sống vâng phục và làm trọn công việc Ngài (Giăng 17:4). Người tin Chúa cũng có thể bày tỏ sự lớn lao về ân điển của Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 10:31).

Là Đấng Tạo Hóa của vũ trụ hữu hình và muôn vật trong đó, việc Đức Chúa Trời tìm cách bày tỏ danh vinh hiển Ngài là điều thích đáng (Thi thiên 29:1; 96:8). Là Đức Chúa Trời, Ngài xứng đáng với sự bày tỏ này. Khi tìm cách tôn vinh chính Ngài, Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những gì thuộc về Ngài một cách chính đáng mà không thuộc về ai khác. Ngài phán: “Ta là Đức Giê-hô-va: ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng ta cho những tượng chạm” (Ê-sai 42:8).

Mặt khác, tự tôn vinh mình là một hình thức kiêu ngạo làm giảm bớt sự tôn vinh của Đức Chúa Trời. Điều này là ích kỷ và kiêu ngạo, bởi vì chúng ta có làm nên sự gì, thì ấy là sự ban cho bởi ân điển Đức Chúa Trời (1 Cô-rinh-tô 1:4; 4:7; 2 Cô-rinh-tô 9:11; Ê-phê-sô 1:3).

Kinh thánh có ý gì khi nói, “Đức Chúa Trời đã thay đổi ý định của Ngài” (Xuất Ê-díp-tô ký 32:14)?

Khi dân Y-sơ-ra-ên xoay khỏi Chúa sang thờ con bò vàng trên núi Si-nai, Đức Chúa Trời đã cảnh cáo Môi-se, “Bây giờ hãy để mặc ta làm, hầu cho cơn thạnh nộ ta nổi lên cùng chúng nó, diệt chúng nó đi” (Xuất Ê-díp-tô ký 32:10). Nhưng Môi-se đã cầu thay cho dân sự mà rằng, “Cầu xin Chúa hãy nguôi cơn giận và bỏ qua điều tai họa mà Ngài muốn giáng cho dân Ngài” (32:12). Bấy giờ Đức Chúa Trời bèn nguôi giận và “đổi ý không giáng tai hoạ trên dân của Ngài như Ngài đã đe dọa” (32:14). Câu này phù hợp với lời dạy trong Kinh thánh về sự không thay đổi của Đức Chúa Trời như thế nào? Tiên tri Ma-la-chi đã chép lời Đức Chúa Trời phán rằng: “Vì ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi” (Ma-la-chi 3:6). Gia-cơ chép rằng Đức Chúa Trời “chẳng có bóng của sự biến cải nào” (Gia-cơ 1:17; 1 Sa-mu-ên. 15:29; Thi thiên 110:4). Đức Chúa Trời có thay đổi chăng?

Sự không thay đổi của Đức Chúa Trời có nghĩa là không có sự biến đổi về số lượng hoặc chất lượng trong đặc tính hoặc thuộc tính của Ngài. “Bản chất của Đức Chúa Trời không thay đổi. Vì vậy, Đức Chúa Trời không thay đổi ý định, kế hoạch hoặc hành động của Ngài, vì những điều này dựa vào bản chất của Ngài, vốn không thay đổi.” Thật khích lệ khi biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng đáng tin cậy. Ngài sẽ không hề thay đổi theo thời gian.

Khi nói đến bản chất của Đức Chúa Trời, các lời hứa của Ngài, hoặc các luật lệ cụ thể của Ngài, Đức Chúa Trời không thay đổi. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có thể và thường rút lại các cáo thị dựa trên sự ăn năn của con người hoặc sự thay đổi trong hành vi họ. Việc Giô-na tuyên bố phán xét trên Ni-ni-ve như một lời kêu gọi dân chúng ăn năn. Khi dân thành Ni-ni-ve đã ăn năn, “Bấy giờ Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình; Đức Chúa Trời bèn ăn năn sự họa mà Ngài đã phán sẽ giáng trên họ, và Ngài không làm sự đó” (Giô-na 3:10). Trong bài viết của mình, “Đức Chúa Trời có thay đổi ý định chăng?” Robert Chisholm kết luận rằng, “Nếu Đức Chúa Trời chưa ban sắc lệnh cho một hành động, thì Ngài rất có thể rút lại một tuyên bố về phước lành hay phán xét?” Trong tình huống này, không phải Đức Chúa Trời thay đổi, mà là con người đã thay đổi.

Thông báo về sự phán xét được phụ thuộc vào việc ăn năn. Nếu người ta ăn năn, Đức Chúa Trời sẽ không phán xét vì lòng trắc ẩn và ân điển của Ngài không hề thay đổi, “không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2 Phi-e-rơ 3:9). )

 

Tại sao Đức Chúa Trời đã chọn một số người để cứu rỗi và bỏ qua những người khác? Điều này có công bằng không?

Giáo lý tuyển chọn trong Kinh thánh có thể được định nghĩa là hành động của Đức Chúa Trời chọn một số người thông qua đức tin cá nhân của họ để họ được cứu. Lẽ thật này đã được Phao-lô bày tỏ trong Ê-phê-sô 1:4, “trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời.” Trong tiếng Hy Lạp từ “eklego” có nghĩa là “lựa ra, hay tuyển chọn”. Hình thái động từ trong câu này có nghĩa là “chọn một ai đó cho chính mình.” Điều quan trọng cần nhớ là sự lựa chọn của Đức Chúa Trời không bao giờ hủy bỏ hoặc loại trừ đức tin cá nhân. Mặc dù Đức Chúa Trời lựa chọn con người để họ được cứu, nhưng nếu không tin vào Chúa Giê-su, thì họ sẽ không được cứu. Người ta có thể tự hỏi, “Nếu Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, tại sao Ngài chỉ chọn một số người để được cứu rỗi?” Có vẻ như tín lý về sự tuyển chọn mâu thuẫn với tình yêu phổ quát của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời có một tình yêu vô hạn đối với tội nhân và mong muốn kéo họ đến với Ngài. Lý do duy nhất mà bất cứ ai được chọn để được cứu là vì tình yêu và lòng thương xót cả thể của Ngài (1 Giăng 4:8-10). Nhưng tại sao Đức Chúa Trời không ban bố một cuộc tuyển chọn phổ quát cùng với một sự ban cho sự cứu rỗi phổ quát? Bởi vì điều này sẽ làm xói mòn tự do của con người. Ngoài ra, khi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta (hoàn toàn không dựa vào bất kỳ công trạng nào của chúng ta) đem lại cho chúng ta sự cảm kích sâu sấc hơn về ân điển vô hạn của Đức Chúa Trời. Tín lý về sự tuyển chọn này có mâu thuẫn với sự công bình của Đức Chúa Trời chăng? Phao-lô trả lời trong Rô-ma 9:14-29 về cáo buộc rằng sự lựa chọn là bất công. Ông đã chứng tỏ từ cách Đức Chúa Trời đối xử với Ê-sau và Gia-cốp rằng sự lựa chọn của Đức Chúa Trời không phải là độc đoán cũng không bất công.

Trước tiên, Phao-lô viện dẫn lịch sử (9:15-18), nhắc nhở độc giả về trải nghiệm của Y-sơ-ra-ên với Pha-ra-ôn. Thực hiện quyền tể trị của Ngài, Đức Chúa Trời ban lòng thương xót theo ý muốn Ngài và khiến Pha-ra-ôn cứng lòng theo ý muốn của Ngài. Thứ nhì, Phao-lô viện dẫn đến lô-gích (9:19-24). Ông cho rằng vì người thợ gốm có toàn quyền đối với đất sét của mình, nên Đức Chúa Trời có quyền tối cao trên tạo vật của Ngài. Thứ ba, Phao-lô viện dẫn đến các tiên tri trong Cựu Ước (9:25-29). Ông trích dẫn một số đoạn từ các tiên tri (Ô-sê 2:23; 1:10; Ê-sai 10:22-23) để chứng tỏ rằng sự lựa chọn là nhất quán với Cựu Ước.

Quan điểm chính của Phao-lô trong Rô-ma 9:14-29 là không ai nên oán trách rằng các ý định lựa chọn của Đức Chúa Trời là bất công. Sự lựa chọn nhất quán với công việc của Đức Chúa Trời trong lịch sử, với quyền tể trị của Ngài, và với sự dạy dỗ của Cựu Ước. Từ cách suy nghĩ giới hạn của con người, sự lựa chọn có vẻ không công bằng. Nhưng khi có thắc mắc về sự công bằng của Đức Chúa Trời, chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời là thánh khiết, công bình và chánh trực. Ngài sẽ không làm bất kỳ điều gì trái với những thuộc tính cơ bản này.

 

Phải chăng Đức Chúa Trời đã định trước cho một số người phải chịu phán xét đời đời giống như cách Ngài đã định trước cho một số người để được cứu?

Như đã lưu ý, Kinh Thánh dạy rằng khi thực hiện quyền tể trị của Ngài, Đức Chúa Trời đã chọn một số cá nhân nhất định để khiến họ tin và được cứu. Khi chọn một số người để khiến họ tin, có phải Ngài đã định trước để những người khác không tin và bị phán xét chăng? Điều này có vẻ không công bình và trái ngược với lòng thương xót của Chúa. Câu hỏi cuối cùng đối với học viên Kinh thánh là liệu giáo lý này có nền tảng Kinh thánh hay không.

Như một thợ gốm có quyền trên đất sét của mình, Đức Chúa Trời có toàn quyền trên các tạo vật của Ngài (Rô-ma 9:19-24). Từ cùng một đống đất sét, Ngài có quyền làm ra “hạng bình để dùng việc sang trọng” và “hạng khác để dùng việc hèn hạ sao.” Một số là “đối tượng của cơn thạnh nộ Ngài—sắm sẵn cho sự hủy diệt,” còn những kẻ khác thành “đối tượng của lòng thương xót Ngài, là những kẻ định sẵn cho sự vinh hiển” (9:21-23). Hình thái động từ ‘đầu phục’ được dịch sang tiếng Anh “sắm sửa” có thể được phên dịch thành “sắm sửa họ,” ngụ ý đến sự tham gia lâu dài và trách nhiệm khai trình. Hay nói một cách khác, động từ này có thể được hiểu là chỉ về hành động của Đức Chúa Trời định sẵn cho một số người phải bị hủy diệt. Trong phép so sánh tương tự của Phao-lô khi nói đến người thợ gốm, những người này không quyết định số phận của mình.

Nhiều phân đoạn Kinh thánh dường như ủng hộ quan điểm thứ hai: Xuất Ê-díp-tô ký 4:21; Châm ngôn 16:4; Ê-sa 6:9-10; 1 Phi-e-rơ 2:8; và Giu-đe 4. Nhưng ở đây chúng ta phải thận trọng. Trong khi Đức Chúa Trời đứng đằng sau vận mệnh của cả những người được chọn và những người không được chọn, Ngài có thể không làm theo cùng một cách. Khi Phao-lô sử dụng katartizt (“sắm sẵn”) trong Rô-ma 9:22 để nói về những người không được chọn, ông đã không đề cập cụ thể đến Chúa như là chủ thể như khi ông viết về số phận của những người được chọn trong 9:23. Sự khác biệt là tinh tế nhưng đầy ý nghĩa. Trong khi Đức Chúa Trời có quyền tối cao đối với vận mệnh của cả những người được chọn và không được chọn, Ngài không đứng sau số phận của những người không được chọn giống như cách mà Ngài đứng sau những người được chọn. Vấn đề nằm ở chỗ “tiền định kép” là nó đưa ra ý tưởng rằng hai tiền định có tính chất ngang nhau, trong khi thật ra thì không phải vậy. Sự khác biệt quan trọng này được xác nhận trong Rô-ma 6:23 nơi hình phạt được coi là “tiền công” kiếm được trong khi sự sống đời đời được coi là “sự ban cho nhưng không.” Đức Chúa Trời chọn một số người để họ được cứu (sự tuyển chọn), nhưng Ngài bỏ qua những người khác, vì tội lỗi của họ, phải trả tiền công cho tội lỗi do đó phải chịu “định sẵn cho sự hủy diệt.”

 

Nếu Đức Chúa Trời đã chọn người được chọn để được cứu, tại sao cần phải rao giảng phúc âm?

Chìa khóa để trả lời câu hỏi này là phải hiểu rằng quyền tể trị của Đức Chúa Trời đối với sự cứu rỗi không hủy bỏ trách nhiệm của con người đối với đức tin khi họ đã đáp ứng với phúc âm. Và đáp ứng đó không thể xảy ra nếu phúc âm không được rao giảng. Như Phao-lô đã viết, “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?” (Rô-ma 10:14).

Trong khi sự cứu rỗi của chúng ta được ấn định và đảm bảo bởi sự lựa chọn, một số phương diện của sắc lệnh Đức Chúa Trời được thực hiện bởi con người, như Paul Enns đã lưu ý. Sắc lệnh của Đức Chúa Trời liên quan đến phương tiện cũng như sự kết thúc. Phao-lô đã khẳng định tín lý về sự tuyển chọn (Rô-ma 1:1; 8:30; 9:11), nhưng với lòng nhiệt thành không kém, ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc rao giảng phúc âm để mọi người sẽ được cứu (Công vụ 16:31; Rô-ma 10:14-15; 1 Cô-rinh-tô 9:16).

Thay vì làm ngã lòng việc truyền bá phúc âm, tín lý về sự lựa chọn là một động lực to lớn để truyền bá Phúc âm. Thật đáng khích lệ khi biết rằng có những người được chọn trên thế giới vẫn chưa được nghe thông điệp về sự cứu rỗi. Họ là những con chiên được chọn chưa nghe tiếng của Người chăn nhân lành. Nhưng khi họ nghe thấy tiếng của Ngài qua việc rao giảng phúc âm, họ sẽ đáp ứng tích cực với thông điệp (Giăng 10:16). Khi chúng ta trình bày phúc âm cho những người thế gian chưa tái sanh, tín lý tuyển chọn đảm bảo với chúng ta rằng những người mà Đức Chúa Trời đã chọn sẽ tin!

 

Tại sao một Đức Chúa Trời nhân từ lại kết tội những người ngu dốt, không tin cho họ sa vào địa ngục đời đời? Lẽ nào hình phạt như vậy sẽ không mâu thuẫn với bất kỳ tiêu chuẩn phải lẽ nào về sự công lý và lòng thương xót?

Mọi linh hồn đều sẽ đến nơi ở đời đời của nó tại một nơi nào đó — hoặc với Đấng Christ trên thiên đàng (Giăng 14: 3) hoặc với ma quỷ trong hồ lửa (Khải huyền 20:10, 15). Tuy nhiên, có một số người đã đặt câu hỏi về quan điểm truyền thống rằng những người đã từ chối Chúa Giê-su Christ sẽ phải chịu những đau đớn nơi địa ngục rực lửa đời đời.

Hai bản văn Kinh thánh cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng địa ngục liên quan đến hình phạt đời đời. Chúa Giê-su nói ngắn gọn sự phán xét đối với chiên và dê bằng những lời sau, “Rồi những kẻ nầy sẽ vào hình phạt đời đời, còn những người công bình sẽ vào sự sống đời đời” (Ma-thi-ơ 25:46). Đáng chú ý là cùng một từ aionion (“đời đời”) được sử dụng để mô tả hình phạt đối với kẻ ác và sự ban phước đối với người công bình. Vì “sự sống” được ban cho những người tin Chúa là đời đời (Giăng 10:28), nên hình phạt dành cho những người không tin cũng phải đời đời. Trong văn bản thứ nhì, Khải Huyền 20:10, Giăng mô tả những người trong “hồ lửa” phải “chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời.” Kế đến, khi kết thúc cuộc luận bàn về phán quyết của Ngai Trắng và Lớn, Giăng chép rằng, “Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa” (20:15).

   Thật là khủng khiếp khi nghĩ về một ai đó phải chịu sự đau khổ đời đời trong một địa ngục rực lửa. Dẫu kẻ ấy là một tội phạm xấu xa nhất, tôi cũng không thể mong muốn điều đó xảy đến trên hắn. Huống chi là đối với những người bạn tốt và những người thân đã sống đàng hoàng nhưng chưa tin nhận Đấng Christ mà phải chịu hình phạt dường ấy. Làm thể nào Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương và nhân từ vô hạn, lại có thể để những người đàng hoàng, đạo đức, nhân từ vào phải sa vào cõi đời đời nơi lửa hừng chỉ vì họ đã từ chối lời đề nghị cứu rỗi của Ngài trong Đấng Christ? Có lẽ một số người thậm chí đến chết mà vẫn chưa bao giờ được nghe nói rõ về phúc âm.

Tôi chia sẻ mối quan tâm về vấn đề rắc rối này. Tuy nhiên, tôi không sẵn lòng để lòng trắc ẩn cá nhân đối với những người chịu phán xét hoặc ý tưởng về người hư mất ngăn cản sự chấp nhận của tôi đối với một tín lý thấu đáo có nền tảng Kinh thánh. Tôi tìm cách quân bình lẽ thật về hình phạt đời đời với lẽ thật về lòng nhân từ, công bình và sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn để bất kỳ ai sa xuống địa ngục. Điều Ngài mong muốn là cho tội nhân ăn năn và được cứu (2 Phi-e-rơ 3:9). Tất cả tạo vật đều làm chứng cho sự tồn tại của một Đức Chúa Trời yêu thương và quan tâm đến loài người sa ngã (Thi thiên 19:1-6; Rô-ma 1:18-21). Những người đáp ứng tích cực với sự làm chứng này đều được ban cho sự hiểu biết đủ để hưởng ứng lẽ thật của Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 1 1:6). Và những ai tin cậy nơi Ngài sẽ được cứu (Giăng 5:24; 6:37).

Vì Đức Chúa Trời là thánh khiết và công bình, nên Ngài phải phán xét những kẻ đã kết hiệp với Sa-tan để chống lại Đấng Tạo Hóa của mình. Tuy nhiên, Ngài không lấy làm vui khi tuyên một bản án đời đời cho bất kỳ tội nhân gian ác nào. Qua tiên tri Ê-sai, Đức Chúa Trời phán rằng, “Ta đã dang tay ra trọn ngày hướng về một dân bội nghịch, là những kẻ đi trong đường không tốt, theo ý riêng mình, là một dân kia hằng chọc giận ta trước mặt ta” (Ê-sai 65:2-3; xem Rô-ma 10:21). Đức Chúa Trời rất kiên nhẫn với tội nhân, kêu gọi họ ăn năn để được cứu. Nhưng việc lựa chọn đời sống không có Chúa họ cũng tự quyết định số phận đáng buồn của mình. Nếu có bất cứ điều gì làm buồn lòng Đức Chúa Trời, tôi tin rằng đó là thực tế nghiêm trọng mà những kẻ tội lỗi liên tục phản nghịch và không tin rằng họ sẽ bị giam cầm trong địa ngục đời đời.

Làm thế nào để chúng ta dung hòa sự công bình của sự phán xét của Đức Chúa Trời với tình yêu thương của Ngài?

Câu hỏi này có liên quan mật thiết đến câu hỏi trước đó về hình phạt đời đời. Ở đây, câu hỏi đặt ra là liệu các thuộc tính của Đức Chúa Trời có triệt tiêu lẫn nhau hay không. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời là thánh (Lê-vi ký 11:44-45; 1 Phi-e-rơ 1:16), và thuộc tính này đòi hỏi Ngài phải phản ứng bằng sự phán xét cách thạnh nộ khi đối mặt với tội lỗi và sự không vâng lời. Sự phán xét mà Ngài thi hành để đáp lại cùng tội lỗi là công bình và đúng đắn. Nó không bao giờ chỉ dựa trên những hành động bề ngoài hoặc sự nông cạn, mà dựa trên tình trạng và thái độ bên trong của tấm lòng con người (Ê-sai 11:3; Giăng 8: 15-16).

Nhưng ngoài việc là Đức Chúa Trời thánh khiết vô hạn, Đấng phải trút cơn thịnh nộ của Ngài lên tội lỗi và sự bất tuân, Ngài còn có lòng thương xót và tình yêu thương vô hạn (Ca thương 3:22; Giăng 4: 8-9). Tình yêu của Ngài dành cho cả những kẻ xấu xa và tội lỗi nhất được minh họa bằng câu chuyện đầy bi kịch của tiên tri Ô-sê và vợ người là Gô-me. Bất chấp sự không chung thủy và ngoại tình của người vợ, Ô-sê vẫn yêu bà. “như Đức Giê-hô-va vẫn yêu con cái Y-sơ-ra-ên, dầu chúng nó xây về các thần khác” (Ô-sê 3:1). Vì tình yêu dành cho nhân loại, Đức Chúa Trời không muốn một ai phải bị hư mất (2 Phi-e-rơ 3:9).

Vậy làm thế nào sự công bình của Đức Chúa Trời có thể dung hòa được với tình yêu của Ngài? Làm thế nào Đức Chúa Trời có thể gìn giữ sự công bình chính đáng và vẫn nhân từ đối với tội nhân? Phao-lô đã trả lời những câu hỏi này trong Rô-ma 3:23-26. Tất cả mọi người đều không đạt được tiêu chuẩn công bình của Đức Chúa Trời và là đối tượng của sự phán xét phẫn nộ của Ngài. Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đối với tội nhân thật đáng sợ và thích đáng. Nếu không hiểu sự công bình của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu rõ được chiều sâu của tình yêu thương Ngài. Khi người ta tin cậy Đấng Christ để được cứu, Đức Chúa Trời xưng họ là người công bình. Họ được “nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-su Christ” (3:24). Thay vì sự phán xét đã đến trên họ thì chúa Giê-su đã nhận lấy, Ngài đã thế chỗ cho tội nhân bằng cách chịu lấy cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời mà họ đáng phải chịu (3:25). Đức Chúa Trời thành tín với các tiêu chuẩn công bình của Ngài ở chỗ những yêu cầu thánh khiết của Ngài được thoả mãn. Nhưng Ngài cũng thành tín với thuộc tính yêu thương của Ngài bằng cách ban đến một Sự thay thế cho tội lỗi của chúng ta, Chiên Con của Đức Chúa Trời. Trong điều này, Đức Chúa Trời đã chứng minh rằng Ngài có thể “tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Giê-su” (3:26). Và vì vậy trong chương trình cứu chuộc kỳ diệu, sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và tình yêu thương của Ngài đều không bị tổn hại.

Đức Chúa Trời có hài hước không?

Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào ý nghĩa của “khiếu hài hước”. Nếu điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời thích đùa hay phải chăng Ngài là đối tượng của một trò đùa, câu trả lời là không. Đức Chúa Trời vô cùng thánh khiết và đáng sợ, Ngài không thể bị xem thường như một diễn viên hài của các chương trình giải trí hay Ngài không thể đem ra làm trò cười. Những câu chuyện cười về Đức Chúa Trời là bất kính, vô lễ và nhạt nhẽo.

Mặt khác, có bằng chứng trong Kinh Thánh cho thấy Đức Chúa Trời lấy làm vui khi khiến tạo vật của Ngài ngạc nhiên bởi sự lạ lùng và bất ngờ. Điều này nằm ở cốt lõi của sự hài hước. Những lời nói đùa đem lại sự vui cười vì cái kết bất ngờ hoặc sự đổi hướng bất ngờ. Việc một con lừa nói chuyện với Ba-la-am là điều không bình thường. Nhưng việc Ba-la-am nói lại với nó thì thật là khôi hài (Dân số Ký 22:29)! Và thực tế là con lừa nhìn thấy thiên sứ chặn đường (22:27) trong khi “người tiên kiến” là kẻ mù trong câu chuyện.

Câu chuyện về Giô-na có nhiều bài học thần học tuyệt vời. Nhưng những điều này được trình bày thông qua phương tiện của một câu chuyện hài hước. Chúng ta ngạc nhiên bởi sự thật rằng con cá vâng lời Chúa hơn nhà tiên tri, vì khi Đức Chúa Trời truyền lệnh cho Giô-na, ông đã bỏ trốn. Nhưng khi Đức Chúa Trời truyền lệnh cho con cá, nó tuân theo! Cũng có một điều hài hước là các thủy thủ ngoại giáo tôn trọng mạng sống con người hơn Giô-na. Ông muốn mình được ném xuống biển, nhưng họ từ chối và cố gắng cứu con tàu (Giô-na 1:12-13). Cũng vậy lời cầu xin cái chết của Giô-na thật sự là điều hài hước. “Về phần tôi, chết còn hơn sống” (4:8). Bạn có thấy như thế không?

Tôi thấy hài hước ở chỗ, dường như Phao-lô không thể nhớ lại được ông đã làm báp têm cho bao nhiêu người tại Cô-rinh-tô và ông luôn tự điều chỉnh để đảm bảo rằng mình không mắc lỗi (1 Cô-rinh-tô 1: 14-17). Ngay cả một tâm hồn điềm tĩnh nhất cũng mỉm cười khi đọc lời bình luận của Phao-lô rằng những người ủng hộ việc cắt bì nên “tự chặt mình là hơn!” (Ga-la-ti 5:12).

Trong khi Đức Chúa Trời dường như có khiếu hài hước ở chỗ Ngài thích làm chúng ta ngạc nhiên với điều gì đó không lường trước được, thì chính Ngài cũng không thể trở thành một trò tiêu khiển được. Điều này là do Đức Chúa Trời không bao giờ ngạc nhiên. Ngài biết sự cuối cùng ngay từ lúc khởi đầu. Ngài biết điểm mấu chốt trước khi một câu chuyện được kể.

Đức Chúa Trời liên quan đến kinh nghiệm hàng ngày của đời sống Cơ đốc nhân chúng ta ở mức độ nào?

Hầu hết các Cơ đốc nhân đều đồng ý rằng Đức Chúa Trời có can dự vào cuộc sống của chúng ta ở một mức độ nào đó. Một số coi Chúa là Đấng khá xa vời. Họ tin rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên thế giới và kế đến, bên cạnh những chuyến viếng thăm và bày tỏ không thường xuyên, Ngài cho phép nó tự vận hành. Những gì xảy ra trong cuộc sống của chúng ta, phụ thuộc vào chúng ta. Những người khác thấy Đức Chúa Trời tham gia tích cực hơn, quan phòng dẫn dắt mọi người đi theo con đường sự sống mà Ngài đã xác định một cách thần hựu.

Kinh Thánh khẳng định rằng Đức Chúa Trời chủ động can dự vào đời sống chúng ta, thông qua việc thực thi quyền tể trị để hoàn thành các mục đích của Ngài qua. Phao-lô viết, “Ấy cũng là trong Ngài mà chúng ta đã nên kẻ dự phần kế nghiệp, như đã định trước cho chúng ta được điều đó, theo mạng của Đấng làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán” (Ê-phê-sô 1:11). Từ “định trước” có nghĩa là Đức Chúa Trời đã “vạch ranh giới” cho cuộc đời chúng ta. Cụm từ “mọi sự” cho thấy rằng Đức Chúa Trời quyết định trong sự quan phòng tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống của chúng ta. Không có gì dành chỗ cho cơ hội và hoàn cảnh. Đức Chúa Trời là Đấng “liên kết chặt chẽ/điều khiển” lịch sử. Ngài làm việc thông qua các phương tiện tự nhiên, thông qua con người để hoàn thành các mục đích của Ngài.

Sự can dự của Đức Chúa Trời vào đời sống con người được thể hiện rõ qua Truyền đạo 3:1, “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định.” Các câu 2-8 chỉ ra rằng có kỳ định theo ý Chúa cho tất cả các sự kiện của cuộc sống. Phao-lô đã viết, “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định” (Rô-ma 8:28). Một lần nữa, hãy lưu ý cụm từ “mọi sự.” Đức Chúa Trời can dự vào kinh nghiệm của chúng ta ở mức độ nào? Dựa vào Kinh thánh, chúng ta có thể biết rằng Đức Chúa Trời can dự vào đời sống chúng ta cách hoàn toàn. Không có điều gì trong đời sống chúng ta mà không được quyết định bởi nghị định thần hựu của Đức Chúa Trời.

Sự khẳng định về giáo lý này đặt ra một câu hỏi khác: Nếu Đức Chúa Trời có quyền tể trị tuyệt đối trên chúng ta, thì Ngài chẳng phải Ngài chịu trách nhiệm về tội lỗi và sai lầm của chúng ta sao? Không, vì quyền tể trị của Đức Chúa Trời không bao giờ phủ nhận trách nhiệm mà con người phải gánh chịu cho những việc làm của họ. Một ví dụ điển hình về điều này được thấy trong sự kiện Đấng Christ bị đóng đinh. Phi-e-rơ nói rằng Chúa Giê-su bị phản bội và bị đóng đinh bởi “mục đích đã định của Đức Chúa Trời” (Công vụ 2:23; xem Lu-ca 22:22; Công vụ 4:28). Nhưng Ngài cũng khiển trách những người bất kính bởi những hành động của họ mà Ngài đã bị đưa đến thập tự giá “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham … đã làm vinh hiển đầy tớ Ngài là Đức Chúa Giê-su, là Đấng mà các ngươi đã bắt nộp và chối bỏ trước mặt Phi-lát, trong khi người có ý tha Ngài ra” (3:13-14).

Những lời dạy trong Kinh thánh về quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của con người phải được quân bình cách thận trọng. Trong quyền tể trị tuyệt đối của Ngài, Đức Chúa Trời đã định trước tất cả những gì xảy ra. Nhưng quyền tể trị của Đức Chúa Trời không loại bỏ trách nhiệm của con người đối với việc làm của họ. Tội lỗi và sai lầm diễn ra trong cuộc sống của chúng ta là do chính chúng ta lựa chọn. Đức Chúa Trời, Đấng toàn hảo và thánh khiết, không đáng trách.
Nếu Đức Chúa Trời là toàn năng và luôn yêu thương, tại sao Ngài không nhậm lời cầu nguyện của tôi?

Một số người xem việc tin Chúa như một phương kế để có được mọi thứ theo ý muốn của họ. Họ cho rằng tin Chúa để tránh những hậu quả xấu và gìn giữ hạnh phúc bản thân. Khi Đức Chúa Trời dường như không đem đến những gì họ mong muốn này, họ đâm ra thất vọng và vỡ mộng. Vấn đề chính ở đây là những người như vậy có cái nhìn chưa trưởng thành về sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một phương tiện để tương giao với Đức Chúa Trời, bày tỏ tình yêu của chúng ta thông qua việc kính mến, xưng tội và tạ ơn. Quả thật, sự cầu xin có một vị trí trong lời cầu nguyện. Nhưng những lời cầu nguyện trọng đại trong Kinh Thánh tập trung nhiều hơn vào sự phát triển các phẩm chất thiêng liêng hơn là những lợi ích vật chất của cá nhân.

Tuy nhiên, Chúa có thể và thực sự đáp lời sự cầu nguyện. Trong đời sống Cơ đốc nhân của mình, tôi đã thấy Đức Chúa Trời trả lời nhiều sự cầu xin của tôi theo những cách mà Ngài bày tỏ qua sự can thiệp siêu nhiên. Cách đây vài năm, tôi đã đánh mất chiếc nhẫn cưới trong một chuyến leo núi. Khi tôi phát hiện ra rằng nó đã bị mất, tôi đã tìm kiếm nó trong xe hơi người bạn, quần áo và các thiết bị của tôi, cầu mong rằng món đồ nhỏ này sẽ được tìm thấy. Sau vài ngày, tôi gọi cho Timberline Lodge, nơi chúng tôi đậu xe ở Mount Hood, để xem liệu ai đó có thể đã tìm thấy chiếc nhẫn của tôi hay không. Tôi lấy làm ngạc nhiên, họ có tìm thấy một chiếc nhẫn và nó khớp với mô tả mà tôi đưa ra! Vài ngày sau, chiếc nhẫn được gửi đến qua đường bưu điện, tôi tạ ơn Chúa đã đáp lời cầu nguyện tôi!

Nhưng nếu Đức Chúa Trời có thể đáp ứng mọi lời cầu nguyện của chúng ta, tại sao Ngài không làm như vậy? Sau đây là năm lý do tại sao lời cầu nguyện của chúng ta đôi khi dường như thất bại.

Thứ nhất, đôi khi Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của chúng ta vì đức tin của chúng ta chưa đủ. Khi các môn đồ hỏi tại sao họ không thể giải cứu một cậu bé khỏi sự trói buộc của ma quỷ, Chúa Giê-su giải thích rằng đó là vì họ có quá ít đức tin. “Ấy là tại các ngươi ít đức tin: Vì ta nói thật cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin bằng một hột cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó liền dời qua, và không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được” (Ma-thi-ơ 17:20).

Thứ nhì, đôi khi vì tội lỗi trong cuộc sống chúng ta khiến lời cầu nguyện của chúng ta không Đức Chúa Trời không nhậm. Trước giả Thi thiên có viết, “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, Ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi thiên 66:18). Sẽ chẳng ích gì khi tìm kiếm sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời nếu chúng ta không muốn thừa nhận tội lỗi mà mình đã nhận biết.

Thứ ba, Đức Chúa Trời có thể không nhậm lời cầu nguyện của chúng ta vì những mối quan hệ giữa người với người bị đổ vỡ, không thể hàn gắn. Phi-e-rơ chỉ bảo những người nam Cơ đốc sống với vợ theo cách hiểu biết, trao cho họ sự tôn trọng với tư cách là người thừa kế ân sủng sự sống “hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu nguyện của anh em” (1 Phi-e-rơ 3:7).

Thứ tư, đôi khi Đức Chúa Trời trì hoãn sự đáp lời cho đến một thời điểm thích hợp hơn. Trong một số trường hợp, không phải Đức Chúa Trời không đáp lời lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng sự đáp lời sẽ được đưa ra sau đó, phù hợp với thời điểm của Ngài.

Thứ năm, những mục đích lớn lao hơn của Đức Chúa Trời đôi khi được hoàn thành nhờ lời cầu nguyện không được nhậm. Phao-lô đã cầu nguyện ba lần hầu cho Đức Chúa Trời sẽ giải cứu ông khỏi “một cái giằm xóc vào thịt” (2 Cô-rinh-tô 12:7-8). Nhưng Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của Phao-lô. Thay vào đó, Chúa đã dạy cho ông ta một bài học quan trọng: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cô-rinh-tô 12:9). Lời cầu nguyện chưa được nhậm có thể giúp chúng ta biết về sự trọn vẹn của Đấng Christ trong một tình huống khó khăn.

Đôi khi không có lý do rõ ràng nào khiến Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của chúng ta. Tuy nhiên, khi không có sự đáp lời, chúng ta có cơ hội chứng tỏ đức tin kiên nhẫn, bền bỉ và đức tin không dời đổi vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.

(hết phần 2)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập bình luận!
Vui lòng nhập tên